Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Việc phổ cập tri thức khoa học công nghệ đã phần nào được thể hiện bằng việc đưa các bộ môn Tự nhiên-xã hội và Công nghệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.54 KB, 27 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368


Lời nói đầu

Cách đây khoảng 20,30 năm,nếu hỏi một người nào đó về tri thức
khoa học công nghệ, sẽ chẳng ngạc nhiên khi câu trả lời nhận được
là một cái lắc đầu.Còn hiện nay,mỗi người trong chúng ta chắc
chẳng còn lạ lẫm gì nữa với khái niệm này vì chúng ta có thể bắt
gặp nó từng ngày,từng giờ trên các phương tiện thông tin đại chúng
và ngay cả trong cuộc sống thường ngày. Quả thực vai trò của tri
thức khoa học công nghệ ngày càng trở nên to lớn.Nó đang có
những bước phát triển chóng mặt. Tri thức khoa học công nghệ
ngày nay đã và đang trở thành nguồn lực chủ yếu của sản xuất hiện
đại. Một đất nước có thể xem là phát triển hay không không chỉ dựa
vào tổng sản phẩm quốc dân của họ cao hay thấp mà chủ yếu dựa
vào sức mạnh công nghệ tương đối của họ.Việc xây dựng một cơ
cấu kinh tế theo hướng mở cửa và một nền sản xuất công nghiệp
hiện đại dựa trên sự phát triển của khoa học công nghệ là con đường
ngắn nhất,hiệu quả nhất quyết định thành công của quy trình phát
triển công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Việc phổ cập tri
thức khoa học công nghệ đã phần nào được thể hiện bằng việc đưa
Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac- Lenin
Thái Vĩnh Hà
1
các bộ môn Tự nhiên-xã hội và Công nghệ vào chương trình giáo
dục tiểu học và trung học. Điều đó thể hiện ảnh hưởng của khoa học
công nghệ đã và đang lan rộng trên mọi lĩnh vực của cuộc sống. Đặc
biệt trong lĩnh vực kinh tế khoa học công nghệ có thể nói là đã
mang lại một số thành tựu và có một vai trò cực kì quan trọng.
Trong khuôn khổ bài tiểu luận này, tôi chỉ xin phép đề cập đến


những khía cạnh,những đóng góp nổi bật của tri thức khoa học công
nghệ trong sự phát triển kinh tế





Nội dung
I. Khái niệm tri thức khoa học, tri thức công nghệ và mối
quan hệ giữa tri thức khoa học và tri thức công nghệ.
Tri thức là kết quả của các quá trình nhận thức của con người về
đối tượng được nhận thức, làm tái hiện trong tư tưởng con người
những thuộc tính, những mối quan hệ, những quy luật vận động,
Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac- Lenin
Thái Vĩnh Hà
2
phát triển của đối tượng và được diễn đạt bằng ngôn ngữ hay hệ
thống ký hiệu khác hay nói cách khác Tri thức là sự hiểu biết, sáng
tạo và những khả năng, kĩ năng để ứng dụng nó vào việc tạo ra cái
mới nhằm mục đích phát triển Kinh tế-xã hội.
1. Khái niệm tri thức khoa học
Khoa học là một hệ thống tri thức về tự nhiên, về xã hội, về con
người và về tư duy của con người. Nó nghiên cứu và vạch ra những
mối quan hệ nội tại, bản chất của các sự vật hiện tượng, quá trình, từ
đó chỉ ra những quy luật khách quan của sự vận động và phát triển
của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Tri thức khoa học là những hiểu biết có hệ thống về các đặc
điểm, quy luật khách quan của thế giới (tự nhiên, xã hội và tư duy).
Tri thức khoa học được hình thành trong quá trình nhận thức
của con người từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư

duy trừu tượng đến thực tiễn, dưới dạng khái niệm, phạm trù, quy
luật, lý thuyết…Như vậy, tri thức khoa học không chỉ là sự phản
ánh thế giới hiện thực mà còn được kiểm nghiệm qua thực tiễn.
Tri thức khoa học còn có thể được hình thành nhờ trực giác
hoặc tuân theo những quy luật của logic học.Loại tri thức này xét
Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac- Lenin
Thái Vĩnh Hà
3
cho đến cùng cũng là sự phản ánh thế giới hiện thựcvà được thực
tiễn kiểm nghiệm. Do đó, 1 hệ thống tri thức đựoc coi là tri thức
khoa học phải đảm bảo tính đúng đắn và tính trung thực.
Tri thức khoa học là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài,
liên tục của tư duy nhân loại từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngày
nay nó đang trở thành tài sản chung của xã hội loài người.
2. Khái niệm tri thức công nghệ.
Công nghệ theo nghĩa chung nhất có thể coi đó là tập hợp tất cả
những hiểu biết của con ngưòi vào việc biến đổi cải tạo thế giới
nhằm đáp ứng nhu cầu sống của con ngưòi, sự tồn tại và phát triển
của xã hội.
Công nghệ trong sản xuất là một tập hợp các phương tiện, vật
chất, các phương pháp, các quy tắc, các kĩ năng được con người sử
dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm tạo ra 1 sản phẩm
nào đó cần thiết cho xã hội.Có 3 nghĩa chủ yếu về công nghệ được
sử dụng phổ biến nhất hiện nay:
-Một là : Công nghệ được coi như một bộ môn khoa học ứng
dụng triển khai ( trong tương quan với khoa học cơ bản) trong việc
Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac- Lenin
Thái Vĩnh Hà
4
vận dụng các quy luật tự nhiên và các nguyên lý khoa học nhằm đáp

ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng cao của con người.
- Hai là: Công nghệ được hiểu với tư cách như là các phương
tiện vật chất kĩ thuật , hay đó là sự thể hiện cụ thể của tri thức khoa
học đã được vật thể hoá thành các công cụ, các phương tiện kĩ thuật
cần cho sản xuất và đời sống.
- Ba là: Công nghệ bao gồm các cách thức, các phương pháp,
các thủ thuật, các kĩ năng có được nhờ dựa trên cơ sở tri thức khoa
học và được sử dụng vào sản xuất trong các nghành khác nhau để
tạo ra các sản phẩm.
3. Mối quan hệ giữa tri thức khoa học và tri thức công nghệ.
Khoa học và công nghệ có quan hệ khăng khít bền chặt với nhau.
Ngày nay khi nói đến công nghệ, người ta hiểu ngay trong nó có
khoa học. Trong công nghệ trí tuệ, tri thức khoa học đã trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp. Ngược lại, những tri thức khoa học hiện
đại không thể có đựơc nếu thiếu sự trợ giúp của công nghệ, đặc biệt
là công nghệ thông tin.Trong lịch sử xã hội loài người, khoa học và
công nghệ đã từng độc lập tương đối với nhau. Và chỉ đến ngày nay
thì khoa học và công nghệ mới thực sự đồng điệu và gắn bó chặt
Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac- Lenin
Thái Vĩnh Hà
5
chẽ.Khoa học một mặt đã giải quyết được thành công các nhiệm vụ
do kinh tế và công nghệ đặt ra, mặt khác đã nhanh chóng vật thể hoá
các tri thức khoa học thành các trang thiết bị máy móc và công nghệ
nói chung để đưa vào quá trình sản xuất xã hội. Ngược lại, hoạt
động của kĩ thuật, công nghệ càng ngày càng phải dựa vào cơ sở
khoa học, chẳng hạn như các lý thuyết vật lý học, các thành tựu của
nghành hoá học, vật lý thực nghiệm…
II. Vai trò của tri thức khoa học công nghệ với hoạt động
kinh tế của xã hội.

1. Tiến bộ khoa học công nghệ là động lực của phát triển kinh
tế.
Cuối thế kỉ XVIII, hiện tượng tăng trưởng kinh tế mà chúng ta có
thể định lượng được như ngày nay đã xuất hiện cùng lúc với sự ra
đời của cách mạng công nghiệp.Giai đoạn tăng trưởng kinh tế hiện
đại được đặc trưng bởi mức tăng trưởng của dân số, của sản xuất
tính theo đầu người cũng như tỉ lệ đầu tư cao hơn nhiều so với
những giai đoạn trước đó. Ngoài ra, một đặc trưng khác là việc công
nghệ dưa trên nền tảng khoa học ngày càng đựơc sử dụng rộng
rãi.Khoảng thời gian 100 năm từ giữa thế kỉ XIX, sản phẩm quốc
Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac- Lenin
Thái Vĩnh Hà
6
dân tính theo đầu người đã có mức tăng trưởng 10 lần so với mức
tăng trưởng trong cả một giai đoạn dài từ cuối thời kỳ Trung đại đến
giữa thế kỉ XIX. Mặt khác dân số tăng 4-5 lần.Như vậy mức tăng
tổng sản phẩm tính trên đầu người đã nhanh gấp từ 40-50 lần so với
thời kỳ trước.Và dù đó là thời kì tăng trưởng hay suy thoái thì đều
được lý giải bởi tác động của khoa học công nghệ. Suy thoái là do
tiến bộ kĩ thuật đã cạn kiệt, năng suất của các yếu tố sản xuất đã suy
giảm đến mức không thể cứu vãn được.Sự phục hồi kinh tế thời
gian gần đây lại đưa tiến bộ kĩ thuật trở lại đóng vai trò trung tâm
đối với tăng trưởng kinh tế. Chính tiến bộ kỹ thuật đã tạo điều kiện
tăng năng suất lao động, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Sự phát triển của khoa học diễn ra với tốc độ nhanh và toàn diện
trong tất cả các lĩnh vực về đời sống kinh tế xã hội. Song về nội
dungcó thể nêu ra các hướng phát triển sau:
- Điện tử và tin học.
- Tự động hoá.
- Vật liệu mới.

- Công nghệ sinh học.
- Năng lượng.
Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac- Lenin
Thái Vĩnh Hà
7
Công nghệ là một yếu tố cấu thành cơ sở vật chất tạo nên điều
kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Đặc biệt công nghệ ảnh
hưởng trực tiếp và quyết định tới khả năng sản xuất sản phẩm ngày
càng đa dạng, phong phú để thoả mãn những nhu cầu phát triển của
xã hội. Không có sự phát triển của công nghệ, đặc biệt là những
công nghệ mới, công nghệ có hàm lượng chất xám cao, thì không
thể đa dạng hoá sản xuất và cung cấp cho thị trường nhiều sản phẩm
có ảnh hưởng quyết định tới nền sản xuất và đời sống của xã hội
hiện đại. Nhiều sản phẩm mới chỉ có thể được sản xuất nhờ tiến bộ
công nghệ, đặc biệt những công nghệ cao, mới được thiết kế và đưa
vào sử dụng.
2. Thúc đẩy phân công lao động xã hội
Ngày nay cách mạng khoa học công nghệ bùng nổ làm chuyển
biến về chất của phương thức sản xuất xã hội. Sự chuyển biến này
kéo theo hàng loạt những chuyển biến khác về tính chất lao động
sản xuất của con người, về tổ chức sản xuất và hoạt động kinh tế.
Lao động dần từ chỗ chủ yếu là lao động cơ bắp thủ công với những
trang thiết bị kĩ thuật lạc hậu, thô sơ trong những ngành công nghiệp
đơn giản, sử dụng ít chất xám sang những ngành công nghiệp có
Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac- Lenin
Thái Vĩnh Hà
8
hàm lượng trí tuệ, khoa học, kĩ thuật cao. Chính bởi vậy đòi hỏi phải
có chuyên môn hoá và dẫn đến phân công lao động xã hội phát
triển.

3. Hạn chế được ảnh hưởng của tự nhiên, cho phép phát
triẻn hoạt động kinh tế ngay cả khi điều kiện tự nhiên không
thuận lợi.
Trong nhiều trường hợp, những điều kiện sản xuất mới đòi hỏi
phải có những công nghệ sản xuất phù hợp. Chẳng hạn trong các
điều kiện đặc biệt độc hại, con người không thể hoạt động được
nhưng lại rất cần tiến hành (làm việc dưới độ sâu lớn, ở những nơi
có cường độ phóng xạ cao, những nơi có độ cao lớn…) cần có
những công nghệ được thiết kế riêng, thích ứng với những đặc điểm
của môi trường hoạt động.Hay nói cách khác chính khoa học kỹ
thuật đã nối dài khí quan cho con người.
4. Tạo nền tảng cho việc hoạch định chính sách kinh tế lâu
dài.
Trong thời kỳ hội nhập quốc tế và nền kinh tế tri thức, vai trò của
con người trí thức với công nghệ hiện đại là yếu tố quyết định cho
sự phát triển của các quốc gia. Các nước có thành tựu kinh tế cao
Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac- Lenin
Thái Vĩnh Hà
9
cũng là những quốc gia sở hữu và thu hút được nhiều nhất lực lượng
trí thức trên thế giới, đồng nghĩa với việc họ giàu có về công nghệ.
Sự giầu có về tri thức đó đang góp phần tạo dựng thương hiệu quốc
gia, đồng thời là cơ sở và cơ hội cho sự phát triển đất nước bền
vững. Điển hình như Mỹ, mọi đánh giá về nền kinh tế của nứoc này
đều thống nhất nhận định rằng từ gần 10 năm qua, kinh tế Mỹ phát
triển tuyệt diệu. Phải chăng Mỹ đã bước vào một thời kỳ mới của
tăng trưởng kinh tế nhờ công nghệ mới mang lại?Các nhà kinh tế tại
Mỹ đặc biệt nhấn mạnh vai trò của công nghệ mới trong cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ ba. Họ khẳng định rằng công nghệ thông
tin và truyên thông sẽ làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế trong kỷ

nguyên tới tương tự như máy hơi nứơc trong thế kỷ XVIII. Trong
giai đoạn 1985-1997, Mỹ đã tạo ra 22 triệu việc làm mới. Giai đoạn
này lại trùng với thời kỳ phát triển mạnh mẽ của nghệ thông tin và
viễn thông, nhưng cũng đồng thời trùng với quá trình cơ cấu lại các
doanh nghiệp Mỹ với những kết quả thu được đầy ấn tượng. Mỹ trở
thành hình mẫu cho các nước công nghiệp lớn khác trên phương
diện chính sách kinh tế, nhất là chính sách khoa học và công
nghệ.Vậy bài học rút ra từ đất Mỹ là gì?Đó là nhiệm vụ của các
Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac- Lenin
Thái Vĩnh Hà
10
chính sách vĩ mô phải làm sao để khoa học thực sự trở thành nền
tảng của công cuộc hiện đại hoá và phát triển đất nước, muốn vậy
thì các quyết sách lớn về phát triển kinh tế xã hội phải được xây
dựng trên căn cứ khoa học.
Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac- Lenin
Thái Vĩnh Hà
11
III.Vai trò của tri thức khoa học công nghệ đối với sự phát
triển kinh tế ở các nước phát triển
Ở tất cả các nước công nghiệp phát triển, sự hình thành và phổ
biến công nghệ mới, từ nhiều năm nay đã trở thành bộ phận quan
trọng nhất trong chính sách công nghiệp, khoa học và công nghệ.
Từ giữa thế kỷ 20, Mỹ đã trở thành quốc gia dẫn đầu thế giới về
tiến bộ khoa học công nghệ . Cho đến những năm 60-70, Liên Xô là
nước cạnh tranh với Mỹ về một số lĩnh vực khoa học công nghệ,
nhưng đến những năm 80 Liên Xô đã mất khả năng cạnh tranh với
Mỹ. Đến giữa những năm 90 mới xuất hiện một số nước (Đức, Anh,
Pháp và Nhật Bản) có khả năng cạnh tranh với Mỹ trên một số thị
trường công nghệ.

Mỹ có được vị thế lãnh đạo thế giới về công nghệ là do nước này
đã có chính sách phát triển dài hạn khoa học công nghệ và với chi
phí cho nghiên cứu và phát riển (R&D) lớn.
Mức chi phí cho R&D của Mỹ và các nước OECD:
Chỉ tiêu
198
9
199
1
199
3
199
5
199
6
199
8
Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac- Lenin
Thái Vĩnh Hà
12
Mức chi phí của
Mỹ cho R&D (tỷ
USD)
143,
8
160,
7
165,
0
179,

1
184,
7
198,
3
Mức chi phí của
27 nước OECD (tỷ
USD)
317,
4
363,
8
382,
2
409,
7
412,
9
445,
2
Tỷ lệ chi phí của
Mỹ trên chi phí của
27 nước OECD (%)
45,3
44,2
43,5
43,6
44,7
44,5


Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac- Lenin
Thái Vĩnh Hà
13
Tỷ trọng chi phí cho R&D so với GDP của một số nước công
nghiệp phát triển (%)
Nước
1990
1997
Mỹ
2,80
2,54
Anh
2,18
2,05
Hà Lan
2,15
2,02
Đức
2,75
2,25
Pháp
2,41
2,34
Italia
1,30
1,13
Canada
1,47
1,59
Nhật Bản

3,04
3,02

Từ những số liệu nêu trên có thể rút ra một số kết luận:
Thứ nhất, chi phí cho R&D của Mỹ ít hơn tổng chi phí của 27
nước thuộc Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) cộng lại,
nhưng số chuyên gia trình độ cao lại nhiều hơn, hoạt động có hiệu
Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac- Lenin
Thái Vĩnh Hà
14
quả cao hơn nhờ tập trung được kinh phí và có cơ chế quản lý thích
hợp hơn.
Thứ hai, Mỹ giữ được vị thế đứng đầu về hiệu quả sử dụng năng
lực thương mại hoá kết quả R&D trên thị trường trong và ngoài
nước Mỹ. Yếu tố này được thể hiện ở các chỉ tiêu: số lượng patent
và licence tăng liên tục, phản ánh hiệu quả hoạt động đổi mới của hệ
thống khoa học - công nghiệp quốc gia, cán cân thanh toán công
nghệ của đất nước, v.v
Theo đánh giá của Cơ quan Thống kê quốc tế, trong những năm
80-90, Mỹ là nước xuất khẩu số một công nghệ cao, là nước ở vị thế
chủ đạo về "chuyển giao công nghệ quốc tế".
Trên thực tế, Mỹ giữ vai trò lãnh đạo thế giới trong các lĩnh vực
kinh tế-kỹ thuật có hàm lượng khoa học cao như: kỹ thuật hàng
không vũ trụ, kỹ thuật điện tử, trang thiết bị kiểm tra và điều khiển,
máy tính điện tử, công nghiệp dược liệu-dược phẩm, chế tạo máy.
Nhóm sản phẩm công nghệ cao trong những năm 90 của Mỹ bao
gồm: vật liệu composit phục vụ công nghệ thế hệ mới, các hệ thống
tên lửa vũ trụ và máy bay; công nghệ gen và các hệ sinh khối; các
hệ thống điện tử; công nghệ thông tin và truyền thông; chế phẩm y
Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac- Lenin

Thái Vĩnh Hà
15
học; sản phẩm nông nghiệp; công nghệ hạt nhân nhiệt hạch; nhiên
liệu và nguyên liệu nhân tạp; công nghệ lade và bán dẫn; các hệ vũ
khí thế hệ mới. Tổng giá trị xuất khẩu các loại sản phẩm này của
Mỹ từ 1990 đến 1996 đạt 615,9 tỷ USD, trong đó sản phẩm kỹ thuật
điện tử, máy bay - thiết bị vũ trụ, công nghệ thông tin và truyền
thông chiếm 91-93%.
Tại châu Âu, cũng giống như ở các khu vực phát triển khác của
thế giới, vai trò của các yếu tố khoa học, công nghệ và đầu tư ngày
càng trở nên quan trọng đối với phát triển kinh tế. Ngay cả đối với
một vài nước, nhịp độ tăng trưởng kinh tế và năng suất lao động có
chậm lại đôi chút, nhưng phần lớn các nước Tây Âu vẫn tăng cường
đầu tư cho R&D. Châu Âu coi việc đầu tư cho R&D là nguồn chính
để phát triển kinh tế và phục lợi xã hội. Trong thập niên cuối cùng
của thế kỷ 20, Tây âu đã đầu tư cho "tri thức", tức là đầu tư cho
R&D, đào tạo đại học, công nghệ thông tin và truyền thông tăng với
nhịp độ cao hơn đầu tư cho sản xuất. Trong giai đoạn 1990-1998,
trong khi tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm của toàn khu vực
công nghiệp của EU là 1,46%, thì tốc độ tăng trưởng của các lĩnh
Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac- Lenin
Thái Vĩnh Hà
16
vực công nghiệp dựa vào tri thức (Knowledge-Based industries) đạt
trên 2%.
Cơ cấu đầu tư cho công nghệ "tri thức" thể hiện rõ ở các nước
EU, phản ánh tính chất chuyên môn hoá trong việc hình thành nền
kinh tế "mới". Các nước áo, Đức, Pháp, Thuỵ Điển đã dành trên
50% tổng chi phí đầu tư cho khoa học công nghệ cho R&D. Định
hưởng cho các lĩnh vực công nghệ "tri thức". Hầu hết các nước châu

Âu (Tây Âu và Bắc Âu) đều ưu tiên đầu tư phát triển công nghệ
thông tin và truyền thông, trong đó có khâu đảm bảo chương trình.
Xu hướng chung thứ hai trong cơ cấu đầu tư cho khoa học công
nghệ ở châu Âu là chuyển nguồn vốn đầu tư từ khu vực Nhà nước
sang khu vực tư nhân. Trong những năm 90, tỷ trọng nguồn đầu tư
của khu vực tư nhân vào thị trường vốn mạo hiểm đã tăng đáng kể.
Khối lượng vốn đầu tư mạo hiểm của khu vực tư nhân ở 19 nước
OECD và EU đã tăng tương ứng từ 0,05 và 0,03% GDP năm 1995
lên 0,5 và 0,2 năm 2000, riêng ở Mỹ lên tới 0,8% GDP.
Ngoài ra, tại các nước châu Âu còn có những thay đổi quan trọng
trong quá trình xây dựng và thực hiện chính sách khoa học công
nghệ. Đó là vai trò của Nhà nước đối với việc thúc đẩy và điều hoà
Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac- Lenin
Thái Vĩnh Hà
17
hoạt động nghiên cứu thuộc khu vực công. Nhà nước đã không tự
hạn chế mình trong việc nghiên cứu cơ bản, mà còn thực hiện một
số nghiên cứu quản lý Hệ thống khoa học công nghệ quốc gia và
trực tiếp dầu tư cho nghiên cứu một số lĩnh vực nghiên cứu ứng
dụng, điển hình là hỗ trợ các R&D trong lĩnh vực công nghệ thông
tin và truyền thông, hỗ trợ đào tạo nhân lực khoa học công nghệ
trình độ cao, v.v.
IV.Liên hệ vai trò của tri thức khoa học công nghệ với sự
phát triển kinh tế ở Việt Nam.
1. Quan điểm của Đảng ta về vai trò của tri thức khoa học
công nghệ trong hoạt động kinh tế.
Ði vào giai đoạn toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng và kinh tế tri
thức đang trở thành xu thế tất yếu của phát triển kinh tế - xã hội,
giáo dục - đào tạo , khoa học và công nghệ với vai trò chủ yếu trong
việc nâng cao chất lượng con người và nguồn nhân lực, càng trở

thành yếu tố quyết định và là lĩnh vực ưu tiên hàng đầu trong chính
sách phát triển của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Hiện nay, không chỉ
các nước đang phát triển, mà chính các nước phát triển lại càng đặc
biệt quan tâm và đầu tư mạnh mẽ vào giáo dục - đào tạo.Nhận thức
Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac- Lenin
Thái Vĩnh Hà
18
được vấn đề này ngay từ khi Cách Mạng Tháng Tám thành công,
Bác Hồ kêu gọi nhân dân ta phải chống giặc dốt như chống giặc đói,
giặc ngoại xâm. Nhờ đẩy mạnh và phát triển giáo dục trong suốt thời
kỳ kháng chiến mà thanh niên ta đã hiểu được nghĩa vụ công dân của
mình, có điều kiện tiếp thu kỹ thuật và sử dụng những vũ khí hiện đại
góp phần đánh thắng quân xâm lược. Trong công cuộc xây dựng đất
nước những năm thực hiện đường lối đổi mới, có được những thành
tựu như ngày nay, cũng phải nói là có sự đóng góp không nhỏ của khoa
học - công nghệ. Nhưng bước vào giai đoạn phát triển mới, trong bối
cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, khoa học - công nghệ
của Việt Nam đã bộc lộ những yếu kém và bất cập trầm trọng
Trên cơ sở kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều
kiện cụ thể của Việt Nam, Ðảng đã có nhận thức kịp thời và sáng
suốt về vai trò của giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ, đặt sự
nghiệp quan trọng này vào trọng trách phục vụ đắc lực công cuộc
CNH, HÐH đất nước. Với Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VII) xác
định giáo dục - đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách
hàng đầu. Nghị quyết Đại hội lần thứ VII, lần thứ IX của Đảng tiếp
Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac- Lenin
Thái Vĩnh Hà
19
tục khẳng định và nhấn mạnh vai trò của khoa học công nghệ trong
quá trình đẩy mạnh và rút ngắn thời kỳ CNH - HĐH đất nước.

Khoa học - công nghệ Việt Nam đang đứng trước yêu cầu mới rất
lớn để phục vụ đắc lực cho những mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra
cho năm 2020 và xa hơn nữa. Yêu cầu đối với giáo dục - đào tạo là
phải có bước đột phá, không chỉ để khắc phục những tồn tại trầm
trọng hiện nay, không chỉ để tiến nhanh, tiến mạnh như các nước
khác mà phải tiến lên vượt bậc. Có như thế khoa học - công nghệ
mới góp phần làm cho đất nước không còn tụt hậu so với các nước
trong khu vực, mà từng bước vươn lên ngang tầm với thế giới. Có
thể nói trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước khoa học và công nghệ có trách nhiệm to lớn và nặng
nề hơn bao giờ hết đối với vận mệnh, tương lai của đất nước. Chúng
ta cần làm cho nhận thức về trách nhiệm này được thống nhất cao
trong toàn Ðảng, Nhà nước và xã hội, tạo thành sức mạnh, động lực
để đưa khoa học và công nghệ thật sự là quốc sách hàng đầu, là
động lực chính cho sự phát triển đất nước Việt Nam phồn vinh và
vững mạnh.
Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac- Lenin
Thái Vĩnh Hà
20
2. Vai trò của tri thức khoa học,tri thức công nghệ trong phát
triển kinh tế ở Việt Nam.
Nước ta một nước đang bước vào thời kỳ phát triển mới –
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghị quyết TW 2 của ban
chấp hành TW Đảng cộng sản Việt Nam khóa VIII đã xác định rõ:
“ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải bằng và dựa vào
khoa học và công nghệ”, “ khoa học và công nghệ phải trở thành
nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Chỉ bằng
con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển khoa học và
công nghệ mới co thể đưa nước ta từ nghèo nàn, lạc hậu trở thành
một nước giàu mạnh, văn minh. Qua hơn 22 năm đổi mới nền kinh

tế nước ta đã liên tục tăng trưởng với tốc độ khá cao và tương đối ổn
định. Nếu như tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân hàng
năm của nước ta trong giai đoạn 1986-1990 là 5 năm đầu tiên của
công cuộc đổi mới còn đạt được ở mức thấp 4,4% do nền kinh tế
nước ta vừa bước ra khỏi cuộc khủng hoảng đã kéo dài suốt cả thời
kỳ 10 năm trước khi đổi mới, 1975-1986, thì liên tục từ năm 1991
cho đến nay chúng ta đều duy trì được sự tăng trưởng GDP liên tục
với tốc độ khá cao và tương đối ổn định từ 5,09% năm 1990 đến
Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac- Lenin
Thái Vĩnh Hà
21
8,5% nam 2007.Cũng vì sự liên tục tăng trưởng GDP với tốc độ khá
cao và tương đối ổn định trên đây đã khiến cho nền kinh tế Việt
Nam trở thành nền kinh tế đứng thứ hai khu vực Đông Á và kể cả
trên thế giới, nghĩa là chỉ sau Trung Quốc về thành tựu tốc độ tăng
trưỏng GDP trong suốt hơn hai thập niên vừa qua.
Tăng trưởng kinh tế dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ
cùng với giáo dục đào tạo nguồn nhân lực bước đầu đã dựa vào
năng lực nội sinh và ngày càng làm tăng thêm năng lực nội sinh -
tiền đề vật chất cho đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước:
Thứ nhất. Tạo ra cân đối tích luỹ – tiêu dùng được cải thiện theo
hướng giảm dần tỷ lệ tiêu dùng, tăng khả năng tích lũy để đầu tư
phát triển.
- Giai đoạn 1996-2000, tổng quỹ tích luỹ tăng bình quân hàng
năm là 9,5%, nhưng đến giai đoạn 2001-2005 đã tăng bình quân là
11,3%.
- Tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước so với GDP: năm 1990
đạt 15,2% GDP, năm 1995 đạt 20%, năm 2000 đạt khoảng 17% (do
ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực, năm 2005 đạt
24,4%.

Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac- Lenin
Thái Vĩnh Hà
22
- Thu chi ngân sách có nhiều tiến bộ, mức tăng thu là
19,1%/năm, tỷ lệ huy động GDP bình quân hàng năm giai đoạn
2001-2005 đạt 24,4% (mục tiêu 20-21%), trong đó tỷ trọng thu nội
địa tăng lên (năm 2001 là 50,7%, năm 2005 là 55%). Tổng chi ngân
sách giai đoạn 2001-2005 tăng bình quân 19,4%/năm, trong đó chi
đầu tư phát triển chiếm bình quân 28% (mục tiêu là 25-26%).
-Tỷ lệ tiết kiệm bình quân hàng năm giai đoạn 2001-2005 tăng
9%/năm (kế hoạch là 5,5%). Tỷ lệ vốn đầu tư phát triển trong GDP
tăng nhanh. Năm 1990, vốn đầu tư phát triển trong GDP là 17,3% ,
đến năm 2000 là 28% và năm 2005 là 38,7%.
Thứ hai. Hệ thống kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và hoàn
thiện hơn đã thúc đẩy khả năng phát triển kinh tế và nâng cao mức
sống dân cư. Hiện nay Việt Nam đạt mật độ 0,63 km đường/km2 bề
mặt, ngang bằng với những nước phát triển trong khu vực Đông
Nam Á như Thái Lan. Đến cuối năm 2005, cả nước có khoảng
17.300 km chiều dài quốc lộ và khoảng 3.400 km đường sắt. Đến
năm 2006, tổng công suất nguồn điện vào khoảng 11.440 MW,
trong đó thuỷ điện chiếm 42,5%, nhiệt điện (than, dầu, khí) chiếm
66,5%. Năm 2005, sản lượng điện thương phẩm khoảng gần 46 tỷ
Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac- Lenin
Thái Vĩnh Hà
23
kwh. Hệ thống thủy lợi 5 năm 2001-2005 bảo đảm năng lực tưới
thêm 300 nghìn héc-ta, năng lực tiêu tăng thêm 146 nghìn héc-ta,
năng lực ngăn mặn tăng thêm 226 nghìn héc-ta
Kết cấu hạ tầng nông thôn cấp xã đến cuối năm 2005 đã có nhiều
tiến bộ vượt bậc: Trên 89,7% số xã đã có điện lưới; 94,2% có đường

ôtô đến trung tâm; 100% có điện thoại; 83% có có trạm văn hoá, bưu
điện xã; 99,45% có trạm y tế; 85,1% có lớp mẫu giáo; 100% có
trường tiểu học; 8,4% có trường trung học cơ sở
Thứ ba. Chất lượng nguồn nhân lực ngày càng được nâng cao
hơn. Năm 1996, Việt Nam có 5,8 % lực lượng lao động bị mù chữ
và 26,7% lực lượng lao động chưa tốt nghiệp tiểu học, nhưng đến
năm 2005, các tỷ lệ này giảm xuống còn 4,0% và 11,9%. Tỷ lệ lao
động tốt nghiệp phổ thông trung học tăng từ 13,5% năm 1996 lên
21,2% năm 2005. Năm 1996, Việt Nam mới chỉ có khoảng 4,4 triệu
lao động có chuyên môn kỹ thuật (chiếm tỷ lệ 12,31%) thì đến năm
2005 đã có hơn 10 triệu lao động có chuyên môn kỹ thuật (chiếm tỷ
lệ 24,8%). Năm 1999, cả nước có khoảng 1,2 triệu người có trình độ
cao đẳng, đại học trở lên, đến năm 2005 đội ngũ này đã tăng lên con
Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac- Lenin
Thái Vĩnh Hà
24
số khoảng 2 triệu nguời, trong đó có trên 14 nghìn tiến sĩ và hơn 20
nghìn thạc sĩ.

×