Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Giá trị độ tin cậy của thang đo độ trầm cảm của vị thành niên và thành niên huyện Chí Linh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.6 KB, 9 trang )

| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2010, Số 16 (16) 33
Trầm cảm là một trong những vấn đề về sức khoẻ tâm thần của vò thành niên và thanh niên có tác
động nhiều tới các hành vi nguy cơ đối với sức khỏe. Trước những tác động tiêu cực do trầm cảm gây
ra, các nhà nghiên cứu trong lónh vực sức khỏe tâm thần nhận thấy cần phải thực hiện các nghiên
cứu cộng đồng liên quan tới sức khỏe tâm thần nói chung và trầm cảm nói riêng của vò thành niên
và thanh niên. Cho đến nay chỉ có một nghiên cứu công bố kết quả kiểm đònh giá trò và độ tin cậy
của công cụ đo lường trầm cảm của học sinh tại huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Mục tiêu nghiên
cứu này nhằm: (1) Xây dựng và bước đầu đánh giá giá trò và độ tin cậy của thang đo trầm cảm của
thanh niên và vò thành niên tại 7 xã/thò trấn huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương; (2) Tìm hiểu mối liên
quan giữa một số yếu tố dân số xã hội và mức độ trầm cảm của những đối tượng trên. Thang đo trầm
cảm được chúng tôi dòch dựa trên thang đo trầm cảm của Trung tâm nghiên cứu dòch tễ học (CES-
D), Mỹ và xây dựng theo qui trình cụ thể, sau đó được kiểm đònh với 12.447 vò thành niên và thanh
niên huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Kết quả phân tích thành tố thăm dò (EFA) cho thấy thang đo
trầm cảm bao gồm 16 mục phân thành 02 nhóm thành tố rõ ràng có mối liên quan tương đối cao
(>0.3) trong mỗi thành tố. Thang đo có độ tin cậy cao về sự nhất quán bên trong: thành tố 1 với
Cronbach's Alpha=0.91; thành tố 2 với Cronbach's Alpha=0.75. Tham số Cronbach's Alpha chung
cho cả thang đo sự trầm cảm là 0.82, cho thấy 16 biến số liên quan chặt chẽ với nhau. Công cụ này
đảm bảo chất lượng, và có thể sử dụng trong các nghiên cứu cộng đồng với đối tượng vò thành niên
và thanh niên huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương nói riêng và Việt Nam nói chung. Các yếu tố như tuổi,
giới, tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn và khu vực sống đều có mối liên quan với điểm trung
bình đo lường sự trầm cảm.
Từ khóa: Trầm cảm, giá trò, độ tin cậy, vò thành niên và thanh niên, Chililab.
Validity and reliability of the depression scale
for the youth and adolescent and related factors
in Chi Linh district, Hai Duong province
Nguyen Duc Thanh (*), Le Cu Linh (**)
Depression is one of the mental health problems among youths and adolescents, which has great
impacts on health risk behaviors. Regarding the negative consequences caused by depression,
Giá trò, độ tin cậy của thang đo trầm cảm
của vò thành niên và thanh niên và một số


yếu tố liên quan tại huyện Chí Linh,
Hải Dương năm 2006
Nguyễn Đức Thành (*), Lê Cự Linh (**)
34 Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2010, Số 16 (16)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
researchers in this field perceive the importance of conducting community-based studies on mental
health in general and depression in particular among youths and adolescents. There has been so far
only one study publishing the results of construct validity and internal consistency reliability of the
scale measuring depression of the youth and adolescent in Chi Linh district, Hai Duong province.
This study' s objectives are (1) to develop and measure the validity and internal consistency reliability
of the depression scale in seven district towns/communes of Chi Linh district, Hai Duong province,
and (2) to identify the relationship between the socio demographic variables and the mean score of
depression measuring scale variable. The depression scale was translated from the scale of the
Centre for Epidemiological Studies - Depression Scale (CES-D) in the United States and adapted in
the Chi Linh district context. The revised scale was then applied to 12,447 youths and adolescents.
The result from exploratory factor analysis shows that the depression scale of sixteen items was
divided into two separate components. The items in each component are relatively correlated (r
>0.3). Components one and two have high internal consistency reliability, with Cronbach's
Alpha=0.91 and 0.75 respectively. Cronbach's Alpha which measures the internal consistency
reliability among 16 items is 0.82. All tested socio demographic variables are related to the total
mean score of depression measuring scale variable. This scale could be used in the community-based
studies for the youth and adolescent in Chi Linh district, Hai Duong province and Viet Nam as well.
Key words: Depression, validity, reliability, adolescent, Chililab.
Tác giả
(*) ThS. Nguyễn Đức Thành: Bộ môn Quản lí bệnh viện - Khoa Quản lí y tế- Trường Đại học Y tế công cộng.
Điện thoại: 04-62662328. E.mail:
(**) PGS.TS. Lê Cự Linh: Trưởng Bộ môn Dân số - Trường Đại học Y tế công cộng.
Điện thoại: 04-62662331, email:
1. Đặt vấn đề
Trầm cảm là một trong những vấn đề thuộc sức

khoẻ tâm thần được đánh giá là cấu phần quan trọng
trong sức khoẻ của vò thành niên và thanh niên
(VTN&TN). Các chuyên gia cho rằng trầm cảm có
thể gặp ở mọi lứa tuổi của VTN&TN. Theo Viện
sức khoẻ quốc gia Hoa Kỳ năm 1999, kết quả
nghiên cứu chỉ ra rằng cứ 100 vò thành niên thì có 8
đối tượng có thể mắc trầm cảm và cứ trong 100
thanh niên thì có 2 đối tượng mắc chứng này. Trầm
cảm biểu hiện ở những thay đổi về cảm xúc như
VTN&TN cảm thấy buồn, khóc, vô vọng; động cơ
thay đổi: VTN&TN không quan tâm đến những
hoạt động vui chơi, giải trí hay suy giảm các hoạt
động học tập trong trường học; không thấy sự thoải
mái về thể chất: VTN&TN có thể trải qua những
thay đổi về tiêu hoá, ăn không ngon miệng hay thay
đổi về giấc ngủ hoặc có những khó chòu trong cơ thể
một cách mơ hồ; thay đổi trong suy nghó: VTN&TN
nghó rằng họ không thể làm được việc gì đúng hoặc
cảm thấy cuộc sống không có ý nghóa… Những dấu
hiệu của trầm cảm có mối liên quan chặt chẽ với các
hành vi nguy cơ như tự tử, chấn thương, hút thuốc
lá, uống rượu, sử dụng ma tuý. Nghiên cứu SAVY
(2003) cho thấy những VTN&TN có suy nghó tiêu
cực và không có sự lạc quan có xu hướng có hành
vi tự tử cao hơn những VTN&TN có suy nghó tích
cực và có lạc quan về tương lai của mình. Ngoài ra,
việc đã từng cảm thấy thất vọng về tương lai là biến
số tác động nhiều nhất đến hành vi tự tử ở thanh
thiếu niên. Những đối tượng đã từng cảm thấy thất
vọng về tương lai có xu hướng tự tử gấp khoảng 6.5

lần những đối tượng suy nghó lạc quan về tương lai
của mình. Những VTN&TN ở trạng thái trầm cảm
có xu hướng bò chấn thương gấp 2 lần những đối
tượng không ở trạng thái đó [4]. Những VTN&TN
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2010, Số 16 (16) 35
có những dấu hiệu trầm cảm có xu hướng có những
hành vi tình dục không an toàn như không sử dụng
bao cao su khi quan hệ tình dục, có nhiều bạn tình
và quan hệ tình dục sớm [11]. Những VTN&TN có
dấu hiệu trầm cảm có xu hướng hút thuốc, uống
rượu và bò các bệnh mãn tính nhiều hơn các đối
tượng không có dấu hiệu của trạng thái này [8]. Ở
các quốc gia phát triển, các nghiên cứu cho thấy sức
khoẻ tâm thần nói chung và trầm cảm nói riêng vẫn
là vấn đề nổi cộm, chưa được giải quyết và vẫn là
gánh nặng bệnh tật của xã hội [3], [13].
Tỷ lệ VTN&TN có các rối loạn tâm thần, trong
đó có trầm cảm ở các nước đang phát triển là tương
đương với các quốc gia phát triển. Các số liệu
nghiên cứu cho thấy VTN&TN có rối loạn tâm thần
tại Australia và Mỹ khoảng trên 20%. Tại Việt
Nam, kết quả nghiên cứu dọc tại cộng đồng thực
hiện từ 2000 đến 2015 ở 5 tỉnh cho thấy tỷ lệ VTN
8 tuổi có triệu chứng rối loạn hành vi cũng khoảng
20% [15]. Hiện nay, những nghiên cứu về trầm cảm
tại các nước đang phát triển và Việt Nam còn hạn
chế. Một trong những nguyên nhân đối với các nhà
nghiên cứu là phải sử dụng công cụ đo lường trầm
cảm được dòch từ các công cụ trong những nghiên

cứu từ nước ngoài. Những nghiên cứu này được thực
hiện trên những đối tượng VTN&TN có các quan
niệm, giá trò, niềm tin, biểu lộ cảm xúc và hành vi
không hoàn toàn giống với những đối tượng ở các
nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói
riêng. Những sự khác nhau đó là do có sự khác nhau
về hệ thống, hoàn cảnh văn hoá tại đòa bàn sinh
sống của các đối tượng này [17], [8].
Ở Việt Nam, cho đến thời điểm này có ít các
nghiên cứu xây dựng, đánh giá tính giá trò và độ tin
cậy của thang đo trầm cảm của VTN&TN. Nghiên
cứu chất lượng cuộc sống của VTN&TN tại thành
phố Hồ Chí Minh, năm 2005 [8], đánh giá giá trò và
độ tin cậy thang đo chất lượng cuộc sống của
VTN&TN của Trung tâm y học trường đại học tổng
hợp Duke, Mỹ khi áp dụng vào bối cảnh Việt Nam.
Thang đo này gồm nhiều thành tố, trong đó thành
tố trầm cảm có 05 tiểu mục có tính giá trò và độ tin
cậy cao. Nghiên cứu gần đây nhất đánh giá giá trò
và độ tin cậy của thang đo trầm cảm và lo âu được
tiến hành cũng tại đòa bàn Chí Linh, sử dụng thang
đo trầm cảm của trung tâm nghiên cứu dòch tễ
(CES-D), Mỹ [1]. Nghiên cứu cho thấy 04 thành tố
trong thang đo cũng có giá trò và độ tin cậy khi áp
dụng đo lường trầm cảm tại đòa bàn này. CES-D
được sử dụng phổ biến tại các quốc gia phát triển
và đang phát triển [5], [14]. CES-D đánh giá mức
độ trầm cảm trong 1 tuần trước khi điều tra, gồm 20
tiểu mục với 04 lựa chọn trả lời từ không ngày nào
cả (dưới 1 ngày), thỉnh thoảng (1-2 ngày), thường

xuyên (3-4 ngày) và hầu hết cả tuần (5-7 ngày).
Mỗi một mức độ tương ứng với một điểm nhất đònh
với số điểm từ 0 đến 4. Tổng điểm của thang đo từ
0 đến 60, điểm càng cao thể hiện triệu chứng trầm
cảm càng nặng [14].
Mục tiêu của nghiên cứu này là (1) Xây dựng
và bước đầu đánh giá giá trò và độ tin cậy của thang
đo trầm cảm của VTN&TN tại 7 xã/thò trấn huyện
Chí Linh, tỉnh Hải Dương năm 2006 và (2) Xác đònh
mối liên quan giữa một số biến dân số xã hội với
thang đo sự trầm cảm của VTN&TN tại 7 xã/thò
trấn huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương năm 2006.
2. Phương pháp nghiên cứu
2. 1. Thiết kế nghiên cứu
Đây là cấu phần trong nghiên cứu dọc về sức
khoẻ VTN&TN bắt đầu từ năm 2006 tại 7 xã/thò
trấn thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương
2. 2. Đối tượng nghiên cứu
60 VTN/TN trong độ tuổi 10-24 tại thời điểm
tháng 7/2006 (bao gồm cả nam, nữ, cả những đối
tượng đã và chưa kết hôn). Những đối tượng nghiên
cứu chỉ là thành viên hộ gia đình đang cư trú, không
đưa vào nghiên cứu các đối tượng đặc biệt như
VTN/TN đang là sinh viên ở nội trú tại các trường
dạy nghề, trường chuyên nghiệp, cơ quan an ninh,
lực lượng vũ trang hay các trại giam, trung tâm lao
động phục hồi nhân phẩm, các trại tâm thần, bệnh
viện đóng trên đòa bàn.
2. 3. Đòa điểm và thời gian nghiên cứu
Bảy xã thò trấn thuộc đòa bàn của hệ thống

Chililab (thò trấn Sao Đỏ, thò trấn Bến Tắm, thò trấn
Phả Lại, xã An Lạc, xã Văn An, xã Lê Lợi, và xã
Hoàng Tiến). Thời gian thu thập số liệu từ tháng
7/2006 - tháng 1/2007. Quá trình rà soát, làm sạch
số liệu từ 1-2/2007, phân tích số liệu và viết báo cáo
từ 6-12/2007.
2. 4. Thu thập số liệu
2. 4.1. Điều tra viên và giám sát viên đảm bảo
kiểm soát chất lượng
36 Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2010, Số 16 (16)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
50 điều tra viên của Chililab được tập huấn về
kỹ năng tiến hành thu thập số liệu trong 2 ngày. Với
tính chất là một bộ câu hỏi phát vấn tự điền, vai trò
của điều tra viên chủ yếu ở khâu giới thiệu, hướng
dẫn và thuyết phục được gia đình đồng ý và đối
tượng tham gia điền phiếu. Các giám sát viên tham
gia hỗ trợ và giám sát quá trình thu thập thông tin.
2.4.2. Qui trình tiến hành thu thập số liệu tại
thực đòa
Điều tra viên tại đòa phương đi từng nhà để tiến
hành phỏng vấn thu thập thông tin của hệ thống
Chililab, trong quá trình này, họ lọc ra những đối
tượng trong độ tuổi 10-24 tính tới tháng 7/2006. Bộ
phiếu hỏi được mã hóa theo mã hộ gia đình và mã
cá nhân, không có tên của đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu được phát tờ thông tin nghiên
cứu và xác nhận việc đồng ý tham gia bằng cách ký
vào bản đồng ý. Đối tượng dưới 18 tuổi được cung
cấp bản đồng ý cho phép tham gia nghiên cứu với

xác nhận của bố mẹ hoặc người bảo trợ.
2. 5. Quản lý, phân tích số liệu
Sau khi các điều tra viên nộp phiếu cho văn
phòng Chililab hàng tuần, nhập liệu viên của
Chililab tiến hành làm sạch phiếu (những thông tin
cơ bản) theo qui trình. Những phiếu được nhập
chuyển về Trường Đại học Y tế công cộng để tiến
hành nhập. Số liệu được quản lý tập trung trên hệ
cơ sở dữ liệu SQL Server đặt tại Trường Đại học Y
tế công cộng. Số liệu được phân tích bằng phương
pháp thống kê cơ bản như tính tần số, điểm trung
bình. Các thang đo xác đònh bằng phân tích nhân tố.
Độ tin cậy bên trong của thang đo được xác đònh
bằng tham số Cronbach's Alpha. Phân tích hồi qui
tuyến tính được sử dụng để xác đònh mối liên quan
giữa các biến số dân số xã hội với mức độ trầm cảm
của VTN/TN.
2. 6. Công cụ đo lường
Nghiên cứu này được thực hiện qua hai bước:
bước đầu tiên bộ công cụ đo lường trầm cảm của
trung tâm nghiên cứu dòch tễ học của Mỹ được chỉnh
sửa cho phù hợp với bối cảnh Việt Nam; bước thứ
hai bộ công cụ chỉnh sửa được đánh giá tính giá trò
và độ tính nhất quán bên trong.
2. 6.1. Bước 1. Chỉnh sửa công cụ phù hợp với
bối cảnh Việt Nam
Bộ câu hỏi
Bộ câu hỏi đo lường trầm cảm của trung tâm
nghiên cứu dòch tễ học (CES-D), Mỹ được sử dụng
rộng rãi trong các nghiên cứu trầm cảm. Đây là

công cụ đo lường trầm cảm ở VTN&TN sử dụng
thang đo với 4 mức độ và là câu hỏi tự điền. Bộ câu
hỏi này đã được đánh giá tính giá trò và độ tin cậy
với các đối tượng VTN&TN người Mỹ và người
châu Âu, thậm chí là các đối tượng người châu Á
[14]. Công cụ này bao gồm 4 yếu tố: (1) Trạng thái
trầm cảm; (2) Trạng thái lạc quan; (3) Các triệu
chứng thuộc cơ thể; (4) Các vấn đề thuộc quan hệ
cá nhân. Tổng điểm của thang đo này là từ 0 đến 60,
VTN&TN có điểm càng cao thì càng có xu hướng
có dấu hiệu trầm cảm [1]
Chỉnh sửa công cụ phù hợp với bối cảnh Việt
Nam
Các nghiên cứu về sức khoẻ VTN&TN sử dụng
những thang đo đã được kiểm đònh tính giá trò và độ
tin cậy trong quá trình chỉnh sửa cho phù hợp với bối
cảnh tại đòa điểm nghiên cứu đều tuân theo một qui
trình nhất đònh [7], [8], [5], [10]. Qui trình chỉnh sửa
công cụ cho phù hợp với bối cảnh tại 7 xã/thò trấn
thuộc huyện Chí Linh được chúng tôi tiến hành qua
4 giai đoạn: dòch xuôi bộ công cụ, dòch ngược bộ
công cụ, thu thập ý kiến đống góp của nhóm chuyên
gia và thử nghiệm bộ câu hỏi.
2.1.2. Bước 2. Xác đònh tính giá trò và độ tin cậy
Tính giá trò. Các tiểu mục trong thang đo trầm
cảm được phân tích thành tố, sử dụng phương pháp
phân tích thành tố chính (PFA) với kó thuật trực giao
quay vòng (Varimax rotation) để xác đònh các thành
tố chính.
Độ tin cậy. Để đánh giá độ tin cậy - sự nhất

quán bên trong - chúng tôi sử dụng tham số
Cronbach's Alpha. Tham số Cronbach's Alpha >=
0,7 chứng tỏ các tiểu mục trong cùng một thang đo
có sự tương quan với nhau cao, cùng đo lường một
sự kiện nhất đònh [12]
3. Kết quả nghiên cứu
3. 1. Công cụ đo lường
Sau khi thử nghiệm bộ câu hỏi đo lường trầm
cảm với 60 VTN&TN, chúng tôi thấy rằng trong 20
tiểu mục có 04 tiểu mục số 11, 16, 17 và 20 nội dung
tương đồng với nội dung ở các tiểu mục khác và làm
cho các đối tượng nghiên cứu phản hồi là đã trả lời
rồi. Do vậy, chúng tôi là lược bỏ 04 tiểu mục này,
và bộ công cụ còn 16 tiểu mục.
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2010, Số 16 (16) 37
3. 2. Tính giá trò của công cụ đo lường
Vò thành niên và thanh niên được yêu cầu trả lời
16 câu hỏi liên quan tới các vấn đề thuộc sức khỏe
tâm thần với 6 mức độ trả lời: (1) Không bao giờ xảy
ra, (2) Hiếm khi xảy ra, (3) Thỉnh thoảng xảy ra, (4)
Thường xuyên xảy ra, (5) Luôn luôn xảy ra và (6)
Không biết/không trả lời. Các biến số không có
thông tin (missing data), hay được trả lời là "Không
biết/không trả lời" được loại bỏ trước khi đưa vào
phân tích thành tố. Những mức độ trả lời có ý nghóa
còn lại được gán điểm từ 1 đến 5, có nghóa là
VTN&TN trả lời là "Không bao giờ xảy ra" sẽ được
1 điểm, hoặc trả lời "Luôn luôn xảy ra" sẽ được 5
điểm. Để xây dựng một biến tổ hợp đo lường sự

trầm cảm của các đối tượng VTN&TN trên, 3 biến
số về sự lạc quan được mã hóa lại như sau: mức độ
1 được mã hóa thành mức độ 5, mức độ 2 được mã
hóa thành mức độ 4, mức độ 3 giữ nguyên, mức độ
4 được mã hóa thành mức độ 2 và mức độ 5 được
mã hóa thành mức độ 1. Sau khi mã hoá, cả 16 biến
số đều đo lường mức độ trầm cảm, với tổng số điểm
từ 16 đến 75. Điểm trung bình càng cao, mức độ
trầm cảm của VTN&TN càng nhiều. Những câu hỏi
này, sau đây được gọi là các "biến số" được phân
tích "yếu tố/thành tố" (PCA: principal components
analyis, tạm dòch: phân tích các yếu tố chính), với
phần mềm SPSS, nhằm tìm hiểu xem 16 biến số về
sức khỏe tâm thần được phân bố vào bao nhiêu yếu
tố đặc trưng giải thích về tình trạng trầm cảm của
VTN/TN tại 7 xã/thò trấn thuộc huyện Chí Linh tại
thời điểm năm 2006. Để có đủ điều kiện thực hiện
phân tích "yếu tố", một số điều kiện được đánh giá.
Qua bảng ma trận tương quan, chúng tôi quan sát
được có nhiều hệ số tương quan # 0,3, chứng tỏ các
biến số trong 16 biến số về sức khỏe tâm thần của
vò thành niên và thanh niên có liên quan với nhau.
Giá trò Kaiser-Meyer-Oklin xác đònh cỡ mẫu đủ lớn
là 0.95, lớn hơn giá trò được y văn khuyến cáo là 0,6
( Kaiser, 1970, 1974) và test Barlett Sphericity
(Barlett, 1954) đạt mức ý nghóa thống kê, hỗ trợ cho
các yếu tố trong ma trận tương quan. Phân tích "yếu
tố" (PCA) cho chúng ta thấy chỉ có 02 yếu tố với hệ
số eigenvalues lớn hơn 1, giải thích 33,2% và 13,1%
sự biến thiên. Đánh giá biểu đồ "Screeplot" (Hình

1), chúng ta cũng thấy bằng chứng cho sự xuất hiện
của 2 yếu tố trên. Để có thể phiên giải được 02 yếu
tố này, chúng tôi tiến hành phân tích sâu áp dụng kó
thuật thống kê "Varimax rotation", kết quả cho thấy
13 biến số cấu thành một yếu tố và 03 biến số cấu
thành một yếu tố với các hệ số "loadings" mạnh, và
cả hai yếu tố này giải thích tổng số 51,4% sự biến
thiên, trong đó yếu tố 1 đóng góp 33,2%, yếu tố 2
đóng góp 13,1. Như vậy, qua đánh giá hệ số
eigenvalues và biểu đồ "Screeplot", chúng ta thấy
có 02 "yếu tố" chính (yếu tố 1 và 2 với hệ số
eigenvalues tương ứng là 5,5 và 1,9). Các biến số
thuộc yếu tố 1 cho thấy vò thành niên và thanh niên
ở Chí Linh đang đối diện với những vấn đề tâm thần
trong cuộc sống, mang tính chất âm tính, do vậy
dưới đây chúng tôi gọi yếu tố này là "Bi quan về
cuộc sống". Các biến số thuộc yếu tố 2 cho thấy vò
thành niên và thanh niên ở Chí Linh đang lạc quan
về cuộc sống, mang tính chất dương tính, do vậy
dưới đây chúng tôi gọi yếu tố này là "Lạc quan về
cuộc sống".
Hình 1. Biểu đồ Scree
Biến số
Yếu tố 1 Yếu tố 2
Tôi cảm thấy buồn
0,75
Tôi cảm thấy cô đơn
0,73
Tôi thấy suy nhược/trầm cảm
0,68

Tôi cảm thấy mọi người không thích tôi
0,66
Tôi thấy lo sợ
0,65
Tôi cảm thấy mệt mỏi khi làm việc
0,64
Tôi khó tập trung vào công việc
0,64
Tôi ít nói hơn bình thường
0,62
Tôi cảm thấy không thể xua tan sự buồn rầu dù có sự
giúp đỡ của gia đình hoặc bạn bè
0,61
Tôi cảm thấy khó chòu với những việc mà hàng ngày tôi
cho là bình thường
0,59
Mọi người không thân thiện với tôi
0,58
Tôi không muốn ăn, chán ăn
0,57
Tôi nghó rằng cuộc sống của tôi đã thất bại
0,56
Tôi đã hạnh phúc
0,78
Tôi cảm thấy hy vọng vào tương lai
0,75
Tôi cảm thấy tôi cũng tốt như mọi người khác
0,71

Bảng 1. Hai "yếu tố" và factor loading tương ứng

của các biến số đo lường sức khỏe tâm
thần của vò thành niên và thanh niên tại
huyện Chí Linh, Hải Dương, 2006
38 Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2010, Số 16 (16)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
3.3. Độ tin cậy của các yếu tố đo lường sức
khỏe tâm thần của vò thành niên và thanh
niên
Bảng 2 cho thấy các biến số thuộc yếu tố 1 và
2 tương quan và liên kết với nhau chặt chẽ, thể hiện
ở hệ số Cronbach's Alpha cao, yếu tố 1 với hệ số tin
cậy Cronbach's Alpha là 0,91, yếu tố 2 với
Cronbach's Alpha là 0,75. Điều này chứng tỏ các
biến số thuộc yếu tố 1 thực sự đo lường khía cạnh
"Bi quan về cuộc sống" của VTN&TN huyện Chí
Linh tại thời điểm điều tra và các biến số thuộc yếu
tố 2 thực sự đo lường khía cạnh "Lạc quan về cuộc
sống" của những VTN&TN đó.
3. 4. Mối liên quan giữa sự trầm cảm và một
số yếu tố dân số xã hội của thanh niên và vò
thành niên tại 7 xã/thò trấn huyện Chí
Linh, tỉnh Hải Dương năm 2006
Thang đo trầm cảm bao gồm 16 câu hỏi với 5
mức độ trả lời, trong đó có 13 câu cho thấy sự bi
quan của VTN&TN và 3 câu cho thấy sự lạc quan
của VTN&TN tại 7 xã/thò trấn, huyện Chí Linh, tỉnh
Hải Dương. Điểm tổ hợp đo lường sự trầm cảm chạy
từ 16 đến 75 điểm.
Phân tích đơn biến cho thấy có sự khác nhau về
điểm trung bình đo lường mức độ trầm cảm theo

giới, tình trạng hôn nhân, đòa lí, nhóm tuổi và trình
độ học vấn. Nữ giới có điểm trung bình cao hơn so
với nam giới, những VTN&TN chưa kết hôn có
điểm trung bình cao hơn những đối tượng đã kết
hôn, những đối tượng sống ở thò trấn có điểm trung
bình cao hơn những đối tượng sống ở nông thôn,
nhóm tuổi 15-19 có điểm trung bình cao nhất và
những đối tượng với trình độ học vấn càng cao có
điểm trung bình càng cao. Những sự khác biệt này
đều có ý nghóa thống kê với p<0,01 (bảng 3). Khi
phân tích đa biến, kết quả cho thấy giới tính, tình
Yếu tố 1
Cronbach’s Alpha
Tôi cảm thấy buồn
Tôi cảm thấy cô đơn
Tôi thấy suy nhược/trầm cảm
Tôi cảm thấy mọi người không thích tôi
Tôi thấy lo sợ
Tôi cảm thấy mệt mỏi khi làm việc
Tôi khó tập trung vào công việc
Tôi ít nói hơn bình thường
Tôi cảm thấy không thể xua tan sự buồn rầu
dù có sự giúp đỡ của gia đình hoặc bạn bè
Tôi cảm thấy khó chòu với những việc mà
hàng ngày tôi cho là bình thường
Mọi người không thân thiện với tôi
Tôi không muốn ăn, chán ăn
Tôi nghó rằng cuộc sống của tôi đã thất bại
0,91
Yếu tố 2

Cronbach’s Alpha
Tôi đã hạnh phúc
Tôi cảm thấy hy vọng vào tương lai
Tôi cảm thấy tôi cũng tốt như mọi người khác
0,75
* Cronbach’s Alpha cho cả thang đo = 0.82

Bảng 2. Độ tin cậy các biến số thuộc 2 yếu tố sức khỏe
tâm thần của vò thành niên và thanh niên
Các yếu tố liên quan Điểm
trung bình
Ý nghóa
thống kê
Giới tính
Nam
Nữ

29,0
30,7

SD= 7,5
SD= 8,4
t(-7,9), p<0,01
Hôn nhân
Chưa kết hôn
Kết hôn


30,0
28,9


SD= 8,0
SD= 7,5
t(3,3), p=0,001
Đòa lí

Thò trấn

29,4
30,3

SD= 7,9
SD= 8,1
t(3,9), p<0,01
Tuổi
10 - 14
15-19
20-24

28,0
30,9
30,3

SD= 6,8
SD= 8,4
SD= 8,2
F(67,7) p<0,01
Trình độ học vấn
Cấp 1
Cấp II

Cấp III
Trung học dạy nghề
Đại học và trên đại học

27,9
28,9
31,0
30,9
31,3

SD= 7,2
SD= 7,3
SD= 8,6
SD= 8,0
SD= 8,2
F(33,1) p<0,01

Bảng 3. Mối liên quan giữa trầm cảm và một số yếu
tố dân số xã hội của thanh niên và vò thành
niên tại 7 xã/thò trấn huyện Chí Linh, tỉnh
Hải Dương năm 2006
Các yếu tố liên quan Hệ số hồi qui (ââ) Ý nghóa thống kê
Giới tính 0,11 P<0,01
Hôn nhân - 0,10 P<0,01
Đòa lí - 0,04 P<0,01
Tuổi 0,11 P<0,01
Trình độ học vấn 0,06 P<0,01

Bảng 4. Mối liên quan giữa sự trầm cảm và một số yếu
tố dân số xã hội của thanh niên và vò thành

niên tại 7 xã/thò trấn huyện Chí Linh, tỉnh
Hải Dương năm 2006 - Mô hình hồi qui
tuyến tính
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2010, Số 16 (16) 39
trạng hôn nhân và độ tuổi là 3 yếu tố tác động nhiều
nhất đến điểm trung bình đo lường mức độ trầm
cảm của VTN&TN 7 xã/thò trấn huyện Chí Linh,
tỉnh Hải Dương. Tuy nhiên, tất cả 5 yếu tố này chỉ
giải thích 3,8% sự biến thiên về điểm trung bình đo
lường mức độ trầm cảm.
4. Bàn luận
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng công
cụ đo lường trầm cảm của trung tâm nghiên cứu dòch
tễ học, Mỹ. Bộ công cụ này đã được dòch sang tiếng
Việt, chỉnh sửa cho phù hợp với bối cảnh của Việt
Nam, đồng thời cho thấy có tính giá trò và độ tin cậy
với mẫu đại diện là các VTN&TN huyện Chí Linh.
Mặc dù có một số công cụ đo lường trầm cảm
của VTN&TN: công cụ đo lường trầm cảm của tác
giả Beck và cộng sự gồm 21 tiểu mục [2]; công cụ
đo lường trầm cảm gồm 5 tiểu mục trong nghiên cứu
về chất lượng cuộc sống VTN&TN tại thành phố Hồ
Chí Minh [8], nhưng công cụ đo lường trầm cảm của
trung tâm nghiên cứu dòch tễ (CES-D), Mỹ được sử
dụng vì công cụ này được chấp nhận và sử dụng
rộng rãi hơn trong các nghiên cứu về trầm cảm trên
thế giới [13;17]. Chúng tôi tin rằng công cụ này sau
khi được chỉnh sửa và được đánh giá tính giá trò và
độ tin cậy thì sẽ dễ áp dụng trong bối cảnh mới tại

Việt Nam. Việc chỉnh sửa công cụ cho phù hợp với
bối cảnh của Việt Nam được thực hiện qua bốn
bước. Những bước này cũng tương tự như trong một
số nghiên cứu: nghiên cứu về chất lượng cuộc sống
của VTN&TN tại thành phố Hồ Chí Minh [8],
nghiên cứu chất lượng cuộc sống của Tổ chức Y tế
thế giới [16]. Tuy nhiên, có một vài điểm khác biệt:
Giai đoạn dòch xuôi công cụ sang tiếng Việt:
trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ mời một nhà
ngôn ngữ học có kiến thức về y tế công cộng dòch,
trong khi các nghiên cứu khác mời 2 đến 3 nhà ngôn
ngữ học. Giải thích cho sự khác nhau trên là không
có điều kiện để mời nhiều, hơn nữa nhà ngôn ngữ
học trong nghiên cứu này được mời có trình độ Tiến
só về ngoại ngữ và đã công tác lâu năm trong lónh
vực y tế công cộng.
Giai đoạn dòch ngược công cụ sang tiếng Anh:
chúng tôi mời một nhà ngôn ngữ học khác có trình
độ tương đương dòch công cụ ngược lại tiếng Anh,
trong khi các nghiên cứu khác mời 2 hoặc 3. Lí giải
cho sự khác nhau này cũng tương tự như trên.
Thu thập ý kiến đóng góp của nhóm chuyên gia:
cũng giống như các nghiên cứu khác chúng tôi
thành lập một nhóm các chuyên gia đánh giá bộ
công cụ.
Thử nghiệm công cụ đo lường: công cụ đo lường
trầm cảm trước khi được sử dụng trong nghiên cứu
được thử nghiệm với một mẫu gồm 60 VTN&TN,
việc thử nghiệm này cũng giống như nghiên cứu của
Tổ chức Y tế thế giới [16], và nghiên cứu chất lượng

cuộc sống VTN&TN tại thành phố Hồ Chí Minh [8].
Việc làm này nhằm hai mục đích: (1) Đảm bảo các
đối tượng nghiên cứu hiểu một cách đầy đủ các câu
hỏi của bộ công cụ; (2) Đảm bảo nội dung các câu
hỏi tương tự như các câu hỏi gốc tiếng Anh
Việc chỉnh sửa công cụ cho phù hợp với bối
cảnh ở Việt Nam tuân theo qui trình 4 bước, chặt
chẽ hơn so với các nghiên cứu khác, chỉ thực hiện 2
bước là dòch xuôi và dòch ngược [5]. Điều này có thể
dẫn tới các đối tượng nghiên cứu sẽ không hiểu đầy
đủ nội dung các câu hỏi.
Bộ công cụ chúng tôi sử dụng không giống với
bộ câu hỏi gốc ở hai điểm. Thứ nhất, sau khi thử
nghiệm, chúng tôi thấy rằng trong 20 tiểu mục có
04 tiểu mục số 11, 16, 17 và 20 nội dung tương đồng
với nội dung ở các tiểu mục khác và làm cho các đối
tượng nghiên cứu phản hồi là đã trả lời rồi. Do vậy,
chúng tôi lược bỏ 04 tiểu mục này, và bộ công cụ
còn 16 tiểu mục. Lí do có sự tương đồng là do quá
trình dòch sang tiếng Việt. Thứ hai, bộ câu hỏi gốc
sử dụng mức độ trả lời với 4 mức [14], trong khi đó
chúng tôi sử dụng tới 6 mức. Sau đó, khi phân tích
chúng tôi có loại bỏ mức thứ 6 (không biết/không
trả lời) để tránh ảnh hưởng tới giá trò của thông tin.
Lí do chúng tôi sử dụng 6 mức là do có những câu
hỏi đối tượng nghiên cứu không biết phải trả lời như
thế nào và để tránh trả lời mà không hiểu câu hỏi
chúng tôi có chia mức độ trả lời chi tiết hơn và tạo
thêm mức độ trả lời thứ 6. Nguyên nhân của việc đối
tượng không biết trả lời như thế nào cũng không khó

hiểu vì cách đặt câu hỏi sử dụng các mức độ trả lời
như trong nghiên cứ này được sử dụng tại Việt Nam
không lâu. Nhiều nghiên cứu sử dụng bộ câu hỏi với
cách đặt câu hỏi như vậy đều gặp khó khăn trong
việc thu thập thông tin. Thêm vào đó, trình độ học
vấn của đối tượng nghiên cứu lứa tuổi 10-24 cũng
có thể là lí do dẫn tới họ thấy khó hiểu khi được hỏi
như vậy. Kết quả phân tích cho thấy có 02 thành tố
chính, một thành tố tạm gọi là: "Bi quan về cuộc
sống" và một thành tố tạm gọi là "Lạc quan về
40 Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2010, Số 16 (16)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
cuộc sống với giá trò Cronbach's Alpha tương ứng
0,91 và 0,75 và giá trò Cronbach's Alpha của cả
thang đo là 0,82. Giá trò Cronbach's Alpha này cũng
tương tự như trong các nghiên cứu khác đánh giá
tính giá trò và độ tin cậy của công cụ đo lường sự
trầm cảm trên thế giới và ở Việt Nam [1;8;11]. Tuy
nhiên, số lượng biến số đã rút gọn còn 16 biến thay
vì 20 biến như so với bộ công cụ gốc và của tác giả
Nguyễn Thanh Hương nghiên cứu về trầm cảm
cũng của VTN/TN trên huyện Chí Linh [1]. Lí do
có sự khác nhau này có thể giải thích là đối tượng
nghiên cứu ở hai quần thể được chọn khác nhau. Với
kết quả chúng tôi thu được, thang đo có thể sử dụng
để đo lường trầm cảm đối với VTN&TN có cùng
đặc điểm tại các đòa bàn khác của Việt Nam.
Tổng điểm thang đo mức độ trầm cảm của
VTN/TN ở đòa bàn nghiên cứu từ 6 đến 75. Điểm
trung bình là 29,9 (độ lệch chuẩn là 8), có thể cho

thấy các đối tượng nghiên cứu có xu hướng ở trạng
thái trầm cảm nhẹ. Một số yếu tố dân số xã hội bao
gồm: tuổi, giới, tình trạng hôn nhân, khu vực sống,
và trình độ học vấn đều có liên quan đến mức độ
trầm cảm của đối tượng VTN&TN tại đòa bàn
nghiên cứu. Điểm trung bình mức độ trầm cảm của
nam là 29 và nữ là 30,7, cao hơn nhiều so với nghiên
cứu tại Mỹ khi điểm trung bình của nam và nữ tương
ứng là 11 và 13,9 [11]. Ở nghiên cứu này, mức độ
trầm cảm tỷ lệ thuận với độ tuổi, VTN/TN sống ở
nông thôn, đang còn đi học có xu hướng ít bò trầm
cảm hơn những đối tượng sống ở thành thò, đã đi
làm. Trong khi đó, một nghiên cứu cũng trên đối
tượng VTN/TN tuổi từ 10 -19 tại thành phố Hồ Chí
Minh cho thấy tuổi càng cao mức độ trầm cảm càng
giảm. VTN/TN sống ở nông thôn có xu hướng bò
trầm cảm hơn so với ở thành thò, những đối tượng
đang đi học có xu hướng bò trầm cảm nhiều hơn
những đối tượng đã đi làm [8]. Những yếu tố dân số
xã hội trong nghiên cứu này chỉ giải thích có 3,8%
sự biến thiên của điểm trung bình đo lường mức độ
trầm cảm. Như vậy, sẽ có những yếu tố khác chiếm
tỷ trọng lớn hơn giải thích sự biến thiên này. Các
phân tích trong tương lai cần được tiến hành để phát
hiện những yếu tố này.
Ngoài ra, nghiên cứu này cũng gặp một số hạn
chế khác. Thứ nhất, nghiên cứu này mới chỉ dừng
lại ở kiểm đònh độ tin cậy về sự nhất quán bên trong
chứ chưa kiểm đònh độ tin cậy thử nghiệm lại [8],
[14]. Trong tương lai, với vòng tiếp theo của nghiên

cứu này, việc kiểm đònh tính giá trò về thử nghiệm
lại cần được tiến hành. Thứ hai, nghiên cứu này chỉ
dừng lại với việc tổ hợp 16 tiểu mục để tính phạm
vi điểm của thang đo, không cho phép các nhà
nghiên cứu xác đònh được điểm cắt để nói rằng
VTN&TN bò trầm cảm hay không bò trầm cảm. Việc
xác đònh điểm cắt phù hợp, cần phải có sự hợp tác
với các chuyên gia về tâm thần học để chẩn đoán
xác đònh trạng thái trầm cảm của VTN&TN tại 7
xã/thò trấn huyện Chí Linh.
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2010, Số 16 (16) 41
Tài liệu tham khảo
Tiếng Việt
1. Nguyễn Thanh Hương, Lê Vũ Anh & Dunne, M (2007).
"Giá trò và độ tin cậy của hai thang đo trầm cảm và lo âu sử
dụng trong nghiên cứu cộng đồng với đối tượng vò thành
niên". Tạp chí Y tế công cộng, 7(7): 25-31.
Tiếng Anh
2. Beck, A. T.,et al (1961). "An inventory for measuring
depression". Archives of General Psychiatry, 4: 561-571.
3. Burns1, J. R. & Rapee, R. M. (2006). "Adolescent mental
health literacy: Young people’s knowledge of depression
and help seeking". Journal of Adolescence, 29: 225-239.
4. Chena, G.,et al ( 2005 ). "Psychological symptoms and
nonfatal unintentional injuries among Chinese adolescents:
a prospective study". Journal of Adolescent Health, 37: 460-
466.
5. Cheung, K. C. & Bagley, C. (1998). "Validating an
American Scale in Hong Kong: The Center for

Epidemiological Studies Depression Scale (CES-D)". The
Journal of Psychology, 132(2): 169-186.
6. Grietens, H., Geeraert, L. & Hellinck, W. (2004). "A
scale for home visiting nurses to identify risks of physical
abuse and neglect among mothers with newborn infants".
Child Abuse & Neglect, 28: 321-37.
7. Guillemin, F., Bombardier, C. & Beaton, D. (1993).
"Cross-cultural adaptation of health related quality of life
measures: literature review and proposed guideline".
Journal of Clinical Epidemiology, 46: 1417-1432.
8. Hanh, V. T. X., Guillemin, F., Cong, D. D. & et al.
(2005). "Health related quality of life of adolescents in
Vietnam: cross-cultural adaptation and validation of the
Adolescent Duke Health Profile". Journal of Adolescence,
28:127-146.
9. Irwin, C. E., Burg, S. J. & Cart, C. U. (2002). "Americas
adolescents: Where have we been, where are we go".
Journal of Adolescent Health, 31: 91-121.
10. Kojima, M.,et al (2002). "Cross-cutural validation of the
Beck Depression Inventory-II in Japan". Psychiatry
Research, 110: 291-299.
11. Lehrer, J. A., Shrier, L. A., Gortmaker, S. & Buka, S.
(2006). "Depressive Symptoms as a Longitudinal Predictor
of Sexual Risk Behaviors Among US Middle and High
School Students". Journal of the American Academy of
Pediatrics, 118: 189-200.
12. Pallant, J. (2001). SPSS survival guide: a step by step
guide to data analysis using SPSS. Allen & Unwin. 153-65.
13. Pincus, T., Williams, A. C. d. C., Vogel, S. & Field, A.
(2004). "The development and testing of the depression,

anxiety, and positive outlook scale (DAPOS)". Pain, 109:
181-188.
14. Radloff, L. S. (1977). "The CES-D Scale: A Self-Report
Depression Scale for Research in the General Population".
Applied Psychological Measurement, 1(3): 385-401.
15. Tuan, T., Lan, P. T., Harpham, T. & et al. (2003). Young
Lives Premilinary Country Report: Vietnam, An
International Study of Childhood Poverty. Save the Children
UK.
16. WHO (1994) The development of the World Health
Organization quality of life assessment instrument (the
WHOQOL). In ORLEY, J. & KUYKEN, W. (Eds.) Quality
of Life Assessment: International Perspectives. Berlin:
Springer.
17. Woo, B. S. C., Chang, W. C., Fung, D. S. S. & et al.
(2004). "Development and validation of a depression scale
for Asian adolescents", Journal of Adolecence, 27: 677-689.

×