Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

ĐIỀU CHỈNH HẠN MỨC CHI TRẢ BẢO HIỂM TIỀN GỬI TẠI TỔ CHỨC BẢO HIỂM TIỀN GỬI VIỆT NAM - DIV.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 97 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH





CHU THỊ THANH HƯƠNG










LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ












Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH





CHU THỊ THANH HƯƠNG





Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60340201



LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. LẠI TIẾN DĨNH




Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2013


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan tất cả nội dung chi tiết của bài luận văn này được trình bày
theo kết cấu và dàn ý của tôi với sự nghiên cứu, thu thập, phân tích các tài liệu liên
quan đến bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, đồng thời được sự góp ý hướng dẫn của TS. Lại
Tiến Dĩnh để hoàn tất luận văn.

Tp Hồ Chí Minh, Năm 2013
Tác giả Luận văn



CHU THỊ THANH HƯƠNG





















MỤC LỤC
o0o
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt
Danh mục các bảng, hình vẽ, đồ thị
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HẠN MỨC CHI TRẢ BẢO HIỂM TIỀN GỬI
1.1. Tổng quan về BHTG và vai trò BHTG đối với nền kinh tế 4
1.1.1. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển BHTG 4
1.1.2. Một số khái niệm liên quan đến hoạt động BHTG 7
1.1.3. Bản chất và vai trò của BHTG 9
1.1.3.1.Bản chất của BHTG 9
1.1.3.2.Vai trò của BHTG 10
1.2. Tổng quan về tổ chức BHTG 13
1.2.1. Mô hình tổ chức BHTG 13
1.2.2. Mô hình hoạt động của tổ chức BHTG 14
1.2.3. Căn cứ pháp lý và cơ quan quản lý của tổ chức BHTG 16
1.2.4. Nguồn vốn hoạt động 16
1.2.5. Các nghiệp vụ chính của tổ chức BHTG 17
1.2.5.1.Nghiệp vụ kiểm tra 17
1.2.5.2.Nghiệp vụ giám sát 17
1.2.5.3.Nghiệp vụ thu phí 18
1.2.5.4.Nghiệp vụ hỗ trợ tổ chức tham gia BHTG 20
1.2.5.5.Nghiệp vụ chi trả BHTG và giám sát thanh lý tài sản 20

1.3. Hạn mức chi trả BHTG 20
1.3.1. Khái niệm hạn mức chi trả BHTG 20
1.3.2. Cơ sở xác định hạn mức chi trả BHTG 21
1.3.3. Phương pháp xác định hạn mức chi trả BHTG 22
1.4. Hoạt động BHTG ở một số quốc gia và bài học kinh nghiệm về hạn mức chi trả
BHTG 25
1.4.1. Hoạt động BHTG ở một số quốc gia 25
1.4.1.1.Bảo hiểm tiền gửi mở Mỹ 26
1.4.1.2.Bảo hiểm tiền gửi ở Malaysia 28
1.4.1.3.Bảo hiểm tiền gửi ở Đức 31
1.4.2. Một số kinh nghiệm quốc tế về hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi 34
1.4.2.1.Xác định hạn mức chi trả BHTG trong giai đoạn bình thường 34
1.4.2.2.Điều chỉnh hạn mức chi trả BHTG trong giai đoạn khủng hoảng 35
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HẠN MỨC CHI TRẢ BẢO HIỂM TIỀN GỬI VIỆT
NAM CỦA TỔ CHỨC BHTG VIỆT NAM – DIV
2.1 Giới thiệu sơ lược về BHTGVN – DIV 39
2.1.1. Sự ra đời của DIV và cơ sở pháp lý cho hoạt động BHTG 39
2.1.2. Cơ cấu tổ chức và bộ máy hoạt động của DIV 46
2.1.3. Nhiệm vụ quyền hạn của DIV 49
2.2 Thực trạng hoạt động và tình hình áp dụng hạn mức chi trả BHTG của DIV 49
2.2.1 Quản lý vốn đầu tư 50
2.2.2 Cấp giấy chứng nhận và thu phí BHTG 52
2.2.2.1 Cấp giấy chứng nhận BHTG 52
2.2.2.2 Thu phí BHTG 53
2.2.3 Hoạt động giám sát và kiểm tra tại chỗ 54
2.2.3.1 Hoạt động giám sát 54
2.2.3.2 Hoạt động kiểm tra tại chỗ 55
2.2.4 Chi trả bảo hiểm, thu hồi nợ, thanh lý 57
2.2.5 Thông tin tuyên truyền 58
2.2.6 Tình hình áp dụng hạn mức chi trả BHTG 59

2.3 Đánh giá kết quả hoạt động và tình hình áp dụng hạn mức chi trả BHTG tại DIV 62
2.3.1 Kết quả đạt được 62
2.3.2 Hạn chế, tồn tại 65
2.3.2.1 Hạn chế về hạn mức chi trả BHTG 65
2.3.2.2 Hạn chế và tồn tại trong cơ chế hoạt động của DIV 66
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ĐIỀU CHỈNH HẠN MỨC CHI TRẢ BẢO HIỂM TIỀN GỬI
TẠI TỔ CHỨC BẢO HIỂM TIỀN GỬI VIỆT NAM – DIV
3.1 Chiến lược phát triển BHTG Việt Nam – DIV trong giai đoạn 2010 – 2020 71
3.1.1. Bối cảnh kinh tế xã hội hiện tại 71
3.1.2. Định hướng chiến lược phát triển DIV trong giai đoạn 2010 – 2020 72
3.2 Giải pháp đối với DIV 74
3.2.1. Tăng cường năng lực tài chính của DIV 74
3.2.2. Tăng cường hiệu quả hoạt động nghiệp vụ 75
3.2.2.1.Cấp giấy chứng nhận BHTG và thu phí BHTG…………………………………………75
3.2.2.2.Giám sát từ xa các tổ chức tham gia BHTG 76
3.2.2.3.Về hạn mức chi trả BHTG của DIV 76
3.2.2.4.Hoạt động kiểm tra tại chỗ các tổ chức tham gia BHTG 79
3.2.3. Tích cực thực hiện công tác tuyên truyền 79
3.2.4. Phát triển nguồn nhân lực…………………………………………………………………80
3.3 Kiến nghị đối với Quốc hội, Chính phủ nhằm phát triển hoạt động DIV 81
3.3.1 Bổ sung nguồn vốn hoạt động cho BHTGVN 81
3.3.2 Tạo điều kiện cho BHTGVN phát triển thuận lợi mô hình giảm thiểu rủi ro 81
3.3.3 Chỉnh sửa cơ cấu bộ máy tổ chức BHTGVN 82
3.3.4 Cơ quan quản lý Nhà nước về BHTG 83
3.4 Kiến nghị đối với NHNN 83
3.4.1 Thực hiện sự thay đổi trong Luật phá sản chuyên dành cho TCTD 83
3.4.2 Hợp tác chia sẻ thông tin với DIV 84
3.5 Một số kiến nghị với tổ chức tham gia BHTG 84
3.5.1 Chấp hành nghiêm túc những quy định tính và nộp phí của BHTGVN 84
3.5.2 Hợp tác với DIV khi DIV tiến hành công tác kiểm tra tại chỗ các tổ chức tham gia

BHTG 85
3.5.3 Chấp hành nghiêm túc việc gửi báo cáo theo yêu cầu của DIV 85
KẾT LUẬN 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


























DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


Từ viết tắt Ý nghĩa
BCBS Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng
BIS Ngân hàng thanh toán quốc tế
BHTG Bảo hiểm tiền gửi
BHTGVN Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
CAMELS Phương pháp kiểm tra áp dụng theo chuẩn mức quốc tế
DIV Deposit Insurance of Viet Nam
DISPGB Bảo hiểm tiền gửi Đức
FDIC Bảo hiểm tiền gửi Mỹ
HFSA Cơ quan giám sát tài chính của Hungary
HUF Đơn vị tiền của Hungary
IADI Hiệp hội bảo hiểm tiền gửi quốc tế
IMF Quỹ tiền tệ quốc tế
MDIC Bảo hiểm tiền gửi Malaysia
NDIF Quỹ Bảo hiểm tiền gửi quốc gia tại Hungary
NHNN Ngân hàng nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTW Ngân hàng trung ương
NHLD Ngân hàng Liên doanh
QTDND Quỹ tín dụng nhân dân
USD Đô la Mỹ
TCTD Tổ chức tín dụng
VNĐ Đồng Việt Nam






DANH MỤC BẢNG VÀ HÌNH


A. DANH MỤC BẢNG
Bảng
Nội dung
Trang
1.1
Thời gian thành lập BHTG tại một số quốc gia Châu Á
6
1.2
Bảng phí theo mức độ rủi ro của MDIC
31
2.1
Số lượng tổ chức tham gia BHTG được kiểm tra qua các năm
56
2.2
Tóm tắt tình hình chi trả BHTG
58
3.1
So sánh một số hạn mức chi trả đề xuất
77

B. DANH MỤC HÌNH
Hình
Nội dung
Trang
1.1

Diễn biến tăng hạn mức chi trả BHTG trên thế giới
36
2.1
Sơ đồ tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
47
2.2
Vòng đời của tổ chức tham gia BHTG và hoạt động chủ yếu
của tổ chức tham gia BHTG
50
2.3
Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn DIV giai đoạn 2008 - 2012
52
2.4
Số lượng tổ chức tham gia BHTG được cấp giấy chứng nhận
BHTG 2008 - 2012
52
2.5
Cơ cấu tổ chức tham gia BHTG theo loại hình 6 tháng đầu năm
2013
53
2.6
Kết quả thu phí BHTG qua các năm
54
2.7
Loại hình TCTD được DIV giám sát đến tháng 6/2013
55
2.8
Tỷ lệ hạn mức chi trả BHTG/GDP bình quân đầu người
60
2.9

Cơ cấu tiền gửi Việt Nam theo số tiền năm 2012
62






1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nền kinh tế nước ta nói chung và lĩnh vực tài chính, ngân hàng nói riêng đang
hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập Tổ
chức thương mại thế giới (WTO). Với những lộ trình và cam kết mà Chính phủ đã ký
kết về việc mở cửa thị trường tài chính, điều đó đặt ra nhiều cơ hội cũng như thách
thức đối với hệ thống tài chính, ngân hàng nước ta.
Trong bối cảnh đó, hệ thống tài chính ngân hàng sẽ có nhiều cơ hội để phát
triển nhờ tiếp thu được công nghệ, kỹ năng quản lý của nước ngoài, nhưng đồng thời
hệ thống tài chính của nước ta cũng sẽ phải đối mặt với thách thức của sự cạnh tranh
và phát triển với nhiều tổ chức tài chính nước ngoài có tiềm lực vốn và công nghệ tốt.
Đồng thời, do tiến trình hội nhập, những động thái của thị trường tài chính thế
giới sẽ tác động trực tiếp đến hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam. Đặc biệt, năm
2008 “bong bóng” tín dụng bất động sản ở Mỹ vỡ tung, “cơn bão tài chính thế kỷ”
bùng phát và lan rộng khắp toàn cầu. An ninh tài chính tiền tệ trở thành mối quan tâm
hàng đầu của thế giới. Khủng hoảng toàn cầu năm 2008-2009 như một cơn bão lớn
làm lung lay cấu trúc tài chính của các nền kinh tế Bắc Mỹ, Tây Âu và các quốc gia
công nghiệp phát triển khác khiến Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng. Chính vì vậy, bên
cạnh những rủi ro truyền thống, hệ thống tài chính – ngân hàng nước ta còn phải đối
mặt với nhiều rủi ro mới. Làm thế nào để kiểm soát rủi ro, xây dựng niềm tin của

công chúng với hệ thống tài chính – ngân hàng là yêu cầu quan trọng đặt ra với
Chính phủ nước ta.
Hơn nữa hệ thống tài chính ngân hàng được coi là “huyết mạch” của nền kinh
tế. Sự bất ổn của hệ thống tài chính – ngân hàng sẽ gây ra những bất ổn về mặt xã hội
do vậy cần cân bằng giữa sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống tài chính – ngân hàng
với sự phát triển ổn định. Để đạt được mục tiêu đó, Chính phủ đã sử dụng công cụ tài
chính là Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam để bảo vệ người gửi tiền và góp phần đảm bảo
an toàn hệ thống ngân hàng thông qua các công cụ kiểm soát rủi ro. Từ khi ra đời đến
2

nay, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã góp phần hạn chế tình trạng rút tiền ồ ạt khi
nghe những tin đồn thất thiệt, đảm bảo sự phát triển an toàn của hệ thống ngân hàng.
Tuy nhiên, với hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi đã được quy định từ năm 2005 đến
nay không thay đổi vẫn ở mức 50 triệu đồng cho mỗi người gửi tiền tại tổ chức tham
gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định của nghị định 109/2005 thì liệu với tình hình
kinh tế nước ta như hiện nay thì hạn mức trên có còn phù hợp, có còn bảo vệ tốt
quyền lợi của người gửi tiền, tạo tâm lý yên tâm, qua đó hạn chế tình trạng rút tiền
hàng loạt khi có sự cố về ngân hàng hay không?
Xuất phát từ tính cấp thiết đó, tôi chọn đề tài: “Điều chỉnh hạn mức chi trả
bảo hiểm tiền gửi tại Tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam – DIV” làm luận văn
tốt nghiệp Cao học kinh tế ngành Tài chính – Ngân hàng năm 2013.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là “Điều chỉnh hạn mức chi trả bảo hiểm
tiền gửi tại Tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam” thông qua việc kết hợp giữa lý
thuyết về bảo hiểm tiền gửi, Luật bảo hiểm tiền gửi (2013 ) cùng với việc phân tích
thực trạng hoạt động và việc áp dụng hạn mức chi trả của Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi
Việt Nam trong mười năm qua (2008 – 2012) và định hướng phát triển trong giai
đoạn mới, đặc biệt chú trọng đánh giá khách quan những mặt mạnh cần phát huy,
những tồn tại, yếu kém cần khắc phục từ đó đưa ra những giải pháp sát hợp với thực
tiễn.

3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi tại tổ chức bảo hiểm
tiền gửi Việt Nam
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu: Về không gian, đề tài tập trung chủ yếu vào các mảng
hoạt động nghiệp vụ và tình hình áp dụng hạn mức chi trả của Tổ chức bảo hiểm tiền
3

gửi Việt Nam. Về thời gian, các dữ liệu sử dụng để phân tích chủ yếu trong giai đoạn
2008 – 2012.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là thu thập thông tin, dữ liệu từ các báo cáo
thường niên, kỷ yếu, tài liệu nghiệp vụ của Tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, tạp
chí, bài báo kinh tế và các thông tin khác có liên quan. Sau đó sử dụng phương pháp
thống kê, phân tích, so sánh, đánh giá các thông tin nhằm sáng tỏ vấn đề cần nghiên
cứu.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về Hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi tại tổ chức bảo hiểm tiền
gửi
Chương 2: Thực trạng Hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi tại Tổ chức bảo hiểm tiền
gửi Việt Nam – DIV
Chương 3: Giải pháp điều chỉnh hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi tại Tổ chức bảo
hiểm tiền gửi Việt Nam – DIV

4

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ HẠN MỨC CHI TRẢ BẢO HIỂM TIỀN GỬI
TẠI TỔ CHỨC BẢO HIỂM TIỀN GỬI

1.1. Tổng quan về bảo hiểm tiền gửi và vai trò bảo hiểm tiền gửi đối với nền
kinh tế
1.1.1. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển bảo hiểm tiền gửi
Khái niệm về bảo hiểm tiền gửi đã được hình thành từ rất lâu trên thế giới.
Hoạt động tài chính ngân hàng luôn gắn liền với sự nhạy cảm và tiềm ẩn rủi ro, chính
vì vậy mỗi quốc gia cần phải có tổ chức đứng ra bảo vệ người gửi tiền trong trường
hợp ngân hàng xảy ra đổ vỡ để ổn định tình hình an ninh xã hội. Trong thực tế, khi
các quốc gia chưa hình thành hệ thống bảo hiểm tiền gửi thì họ cũng đã sử dụng công
cụ “bảo hiểm ngầm” có nghĩa là mặc dù không cam kết công khai trước công chúng
về việc bảo vệ tiền gửi của họ trong trường hợp ngân hàng đổ bể nhưng nếu điều đó
xảy ra thì Chính phủ phải đứng ra chi trả tiền gửi cho người gửi tiền. Tuy nhiên việc
bảo vệ ngầm đó không thật sự mang lại lợi ích cho quốc gia cũng như không mang
lại niềm tin của công chúng đối với hệ thống tài chính ngân hàng vì vậy hệ thống bảo
hiểm tiền gửi công khai đã ra đời.
Nguồn gốc ra đời của bảo hiểm tiền gửi gắn liền với việc chuyển từ bảo vệ
ngầm sang bảo vệ công khai tiền gửi. Theo đó, người gửi tiền sẽ được chi trả một
phần hoặc toàn bộ tiền gửi khi ngân hàng đổ bể hoặc cam kết công khai.
Việc bảo vệ tiền gửi công khai lần đầu tiên được thành lập ở Mỹ với tên gọi
“Chương trình bảo hiểm trách nhiệm ngân hàng” được thực hiện ở New York năm
1829. Trách nhiệm trong chương trình này đề cập đến tiền gửi ngân hàng và chứng
chỉ huy động tiền gửi. Tiếp theo chương trình này từ năm 1831 đến năm 1858 các
Bang: Vermont, Indiana, Michigan, Ohia và Iowa đã thành lập tổ chức BHTG và sự
tham gia của các ngân hàng vào tổ chức BHTG là tự nguyện.
Mục đích của các chương trình này là:
5

Bảo vệ cộng đồng khi có ngân hàng đổ bể;
Bảo vệ người gửi tiền cá nhân và người giữ các công cụ huy động tiền gửi.
Tuy nhiên, mặc dù trong thời gian đầu, tổ chức BHTG hoạt động tương đối
hiệu quả nhưng cuối cùng các tổ chức BHTG này đã phải đóng cửa do những nguyên

nhân sau đây:
Thứ nhất, vào cuối những năm 1830 do sự ra đời của chính sách ngân hàng tự
do ở Mỹ đã tạo điều kiện cho một số lượng lớn ngân hàng rút khỏi tham gia BHTG;
Thứ hai, sự thành lập hệ thống ngân hàng quốc gia năm 1886 ở Mỹ cho phép
các ngân hàng Nhà nước các bang được chuyển thành ngân hàng quốc gia và những
ngân hàng này có thể rút khỏi sự tham gia BHTG.
Thứ ba, thời kỳ thử nghiệm của hoạt động BHTG diễn ra ở Mỹ vào những
năm 1908 đến năm 1930. Cụ thể từ năm 1908 đến năm 1917 ở Mỹ có 8 bang thành
lập hệ thống BHTG. Tuy nhiên, đến năm 1930 cả 8 hệ thống này đã đóng cửa do ảnh
hưởng của điều kiện kinh tế bất lợi làm cho nhiều ngân hàng ở 8 bang này phải đóng
cửa và dẫn đến các tổ chức BHTG ở đó bị mất khả năng thanh toán. Theo các tài liệu
nghiên cứu của Mỹ cho thấy, trong giai đoạn 1930 – 1933 mỗi năm có hơn 1000
ngân hàng ngưng hoạt động, đỉnh cao là năm 1933 đã có tới 4000 ngân hàng thương
mại ngưng hoạt động. Trong bối cảnh như vậy, để ứng phó với tình huống nhằm ổn
định tình hình kinh tế, chính trị thì Chính phủ cần phải bảo vệ tiền gửi của người dân,
do đó Chính phủ Mỹ đã quyết định thành lập BHTG liên bang (Federal Deposit
Insurance Cooperation – FDIC) vào năm 1933. FDIC bắt đầu hoạt động vào ngày
1/1/1934 và sau đó nhanh chóng trở thành mô hình BHTG công khai đầu tiên trên thế
giới. Tiếp theo FDIC, trong những năm 1960, trên thế giới có 6 quốc gia thành lập tổ
chức BHTG, những năm 1970 có thêm 4 quốc gia. Hầu hết các quốc gia triển khai
hoạt động BHTG công khai vào những năm cuối 1990. Đặc biệt, ngày 6/5/2002, Hiệp
hội Bảo hiểm tiền gửi quốc tế (International Association of Deposit Insurers - IADI)
được thành lập có trụ sở đặt tại Thụy Sỹ. Đây là một tổ chức phi lợi nhuận nhằm kết
nối các cơ quan BHTG trên khắp thế giới với mong muốn chia sẻ kiến thức cho nhau.
6

Mục tiêu của IADI là đóng góp vào sự ổn định của các hệ thống tài chính thông qua
thúc đẩy hợp tác quốc tế trong lĩnh vực BHTG.
Với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của hệ thống tài chính ngân hàng trên
thế giới, xu thế hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng, nhu cầu về bảo

vệ người tiêu dùng nói chung và người gửi tiền nói riêng là đòi hỏi tất yếu đặt ra cho
bất kỳ Chính phủ nào. Bởi lẽ niềm tin của người gửi tiền rất quan trọng đối với sự an
toàn và phát triển lành mạnh của hệ thống tài chính ngân hàng trong thế giới hiện đại.
Với những ưu thế và tính chuyên nghiệp trong việc bảo vệ người gửi tiền và góp
phần đảm bảo sự ổn định của hoạt động tài chính ngân hàng, hệ thống bảo hiểm tiền
gửi công khai ngày càng phát triển mạnh mẽ trên thế giới. Tính đến thời điểm hiện tại
đã có hơn 98 quốc gia trên thế giới sử dụng cơ quan bảo hiểm tiền gửi độc lập để
công khai bảo vệ người gửi tiền và hơn 93 quốc gia có cơ quan bảo hiểm tiền gửi
nằm trong ngân hàng trung ương như Trung Quốc, Thái Lan, Lào,… Và xu hướng
này vẫn tiếp tục tăng cao khi có nhiều nước nhất là các nước đang phát triển đã
nhanh chóng thành lập hệ thống BHTG. Bởi vì Châu Á là khu vực có nền kinh tế
phát triển năng động nhất thế giới hiện nay.
Bảng 1.1: Thời gian thành lập Bảo hiểm tiền gửi tại một số quốc gia Châu Á
Số TT
Tên quốc gia
Năm thành lập
1
Ấn Độ
1963
2
Philippines
1963
3
Nhật Bản
1971
4
Đài Loan
1985
5
Hàn Quốc

1996
6
Việt Nam
2000
7
Singapore
2005
8
Malaysia
2005
9
Indonesia
2005
10
Thái Lan
2008
(Nguồn: Tổng hợp của tác giả)
7

1.1.2. Một số khái niệm liên quan đến hoạt động bảo hiểm tiền gửi:
Bảo hiểm tiền gửi là sự bảo đảm hoàn trả tiền gửi cho người được bảo hểm
tiền gửi trong hạn mức trả tiền bảo hiểm khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm
vào tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền hoặc phá sản. (Theo
Luật BHTG năm 2013).
Hay nói một cách khác, bảo hiểm tiền gửi là cam kết công khai của tổ chức
BHTG đối với tổ chức tham gia BHTG về việc tổ chức BHTG sẽ trả tiền gửi cho
người gửi tiền khi tổ chức tham gia BHTG bị chấm dứt hoạt động và không có khả
năng thanh toán cho người gửi tiền.
Trong đó, người được bảo hiểm tiền gửi là các cá nhân có tiền gửi được bảo
hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Người được bảo hiểm tiền gửi có quyền

yêu cầu tổ chức BHTG thanh toán tiền gửi kể cả tiền lãi tích lũy trên tiền gửi đó
trong hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm của tổ chức BHTG có thể là toàn bộ
hoặc một phần tiền gửi do chính sách của mỗi quốc gia.
Tổ chức bảo hiểm tiền gửi là tổ chức tài chính nhà nước, hoạt động không vì
mục tiêu lợi nhuận, thực hiện chính sách bảo hiểm tiền gửi, góp phần duy trì sự ổn
định của hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của
hoạt động ngân hàng.
Tổ chức tham gia BHTG là các ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân
hàng có hoạt động huy động tiền gửi, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thành lập và
hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng được nhận tiền gửi của cá nhân. Các tổ
chức này khi tham gia BHTG có trách nhiệm đóng phí BHTG và được quyền yêu cầu
tổ chức BHTG chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền tại tổ chức đó trong trường
hợp tổ chức này mất khả năng thanh toán và bị cơ quan có thẩm quyền chấm dứt hoạt
động.
Tùy theo mục tiêu của Chính phủ và NHTW, chính sách tiền tệ của mỗi quốc
gia mà Chính phủ của quốc gia đó quy định cho tổ chức BHTG bảo hiểm cho những
loại tiền nào. Các quốc gia có tổ chức BHTG thường bảo hiểm cho loại tiền gửi tiết
8

kiệm và tiền gửi cá nhân bằng đồng bản tệ, nhằm bảo vệ người gửi tiền và bảo vệ
đồng tiền của quốc gia mình và chống ngoại tệ hóa.
Trên thế giới, tiền gửi ở nước ngoài của ngân hàng trong nước, tiền gửi nội địa
của ngân hàng nước ngoài, tiền gửi liên ngân hàng và tiền gửi ngoại tệ thường không
được bảo hiểm. Tuy nhiên vẫn có một số ngoại lệ như tổ chức BHTG ở Hungary
chấp nhận tiền gửi bằng EUR và tiền tệ của các quốc gia OECD khác, trong khi đó tổ
chức BHTG Mỹ và Canada chấp nhận tiền gửi liên ngân hàng.
Phí BHTG là khoản tiền mà tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có nghĩa vụ
nộp cho Tổ chức bảo hiểm tiền gửi để được bảo hiểm cho tiền của khách hàng.
Phí bảo hiểm tiền gửi được tính trên cơ sở số dư tiền gửi bình quân của tiền
gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG nhân với tỷ lệ thu phí quy định tùy

thuộc mỗi quốc gia. Phí bảo hiểm tiền gửi được hạch toán vào chi phí hoạt động của
tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
Hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi là số tiền tối đa mà tổ chức bảo hiểm tiền
gửi trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của một người tại một tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm.
Ngân hàng cầu nối là một ngân hàng được thành lập bằng 100% vốn của tổ
chức BHTG với mục đích đảm nhận, hỗ trợ và duy trì tạm thời việc kinh doanh của
tổ chức tham gia BHTG bị đổ vỡ bị đặt dưới lệnh quản lý trong khi chưa tìm được
một tổ chức tài chính đồng ý đảm nhận công việc kinh doanh của tổ chức đó.
Mạng an toàn tài chính được khái quát gồm 4 yếu tố: chức năng cho vay cuối
cùng, bảo hiểm tiền gửi, khung giám sát và các quy định quản lý về an toàn và cơ chế
giải quyết đổ vỡ các TCTD.
Mối quan hệ của tổ chức BHTG và các cơ quan chức năng khác trong mạng
an toàn tài chính
Mối quan hệ giữa tổ chức BHTG và cơ chế xử lý đổ vỡ
9

Tương ứng với các yếu tố của mạng an toàn tài chính, có các tổ chức tham gia
đảm nhận các chức năng. Bên cạnh NHTW đảm nhận chức năng người cho vay cuối
cùng, Bộ tài chính tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào mạng an toàn tài chính thông
qua việc cung cấp tài chính cho NHTW, tổ chức BHTG. Và cuối cùng là tổ chức
BHTG thực hiện BHTG và giải quyết đổ vỡ của các tổ chức tài chính ngân hàng.
Mối quan hệ giữa tổ chức BHTG và chức năng người cho vay cuối cùng
NHTW là tổ chức thực hiện chức năng người cho vay cuối cùng nhằm hỗ trợ
thanh khoản cho những ngân hàng thiếu thanh khoản tạm thời nhưng có khả năng tồn
tại. Các khoản vay này được áp dụng lãi suất cao như lãi suất phạt và có thế chấp. Tổ
chức BHTG chỉ thực hiện hỗ trợ tài chính, chi trả, giải quyết đổ vỡ khi ngân hàng
mất khả năng trả nợ và đổ vỡ.
Mối quan hệ giữa tổ chức BHTG với các cơ quan giám sát và cơ quan ban
hành quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng

Trách nhiệm của tổ chức BHTG về giám sát, ban hành các quy định về an toàn
và giải quyết những ngân hàng gặp khó khăn thực sự về tài chính tùy thuộc vào mô
hình hoạt động BHTG của mỗi quốc gia.
1.1.3. Bản chất và vai trò của bảo hiểm tiền gửi
1.1.3.1. Bản chất bảo hiểm tiền gửi
Bảo hiểm tiền gửi cũng mang bản chất của các loại hình bảo hiểm nói chung,
tức là hoạt động theo nguyên lý lấy số đông bù số ít nhưng bên cạnh đó nó còn mang
tính chất đặc thù, đó là:
Hoạt động BHTG là hoạt động cung cấp dịch vụ công, có nghĩa là BHTG là
công cụ được sử dụng để thực hiện chính sách công của từng quốc gia.
Hoạt động của tổ chức BHTG thông thường không vì mục tiêu lợi nhuận.
Chính phủ các quốc gia thành lập tổ chức BHTG nhằm mục đích để thực hiện
chính sách công. Bởi trong thực tế, hoạt động tài chính ngân hàng là hoạt động
nhạy cảm, gắn với tính lan truyền rất cao, đồng thời sự đổ vỡ của hệ thống tài
10

chính ngân hàng sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế và gây ra những bất ổn
về mặt xã hội. Do đó, Chính phủ các quốc gia đã sử dụng công cụ tài chính là
BHTG nhằm góp phần đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống
tài chính ngân hàng và ổn định xã hội.
1.1.3.2. Vai trò của hoạt động bảo hiểm tiền gửi
Một là, BHTG có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ người gửi tiền, nâng
cao niềm tin của công chúng đối với hệ thống tài chính, ngân hàng. Bởi lẽ, trong nền
kinh tế thị trường, bảo vệ người tiêu dùng nói chung và người gửi tiền nói riêng là
yêu cầu đặt ra đối với mỗi Chính phủ. Bảo vệ người tiêu dùng là để đảm bảo cân
bằng giữa sự phát triển và đảm bảo quyền lợi của người dân trong xã hội. Do đó,
BHTG là một công cụ tài chính hữu hiệu được hầu hết các Chính phủ sử dụng để bảo
vệ người gửi tiền.
BHTG củng cố niềm tin của công chúng đối với hệ thống tài chính ngân hàng
và đó là yêu cầu đặt ra đối với bất kỳ Chính phủ nào trên thế giới. Tổ chức BHTG có

nhiệm vụ thay mặt Chính phủ bảo vệ tiền gửi của người dân, và trong trường hợp tổ
chức tín dụng bị đổ vỡ thì tổ chức BHTG phải có trách nhiệm chi trả toàn bộ hoặc
một phần tiền gửi cho người gửi tiền.
Thực tiễn cho thấy, khi mà người dân không tin tưởng vào hệ thống tài chính
ngân hàng thì trước hết hệ thống ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng và sau đó là toàn bộ nền
kinh tế của quốc gia cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng theo. Một minh chứng cho thấy
cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ từ năm 2007 đến nay chính là cuộc khủng hoảng
niềm tin của người dân vào khả năng thanh toán của các ngân hàng, họ đã rút tiền ồ
ạt không gửi tiền vào các ngân hàng nữa và điều này đã chứng minh rõ nét vai trò của
người gửi tiền đối với sự tồn tại, sự phát triển của hệ thống ngân hàng quốc gia. Khi
công chúng thiếu tin tưởng vào hệ thống tài chính ngân hàng, họ thường lựa chọn
những kênh đầu tư khác như mua vàng, bất động sản để tích lũy tài sản mà không gửi
tiền vào ngân hàng nữa. Điều này ảnh hưởng không tốt đến toàn bộ nền kinh tế, do
11

vậy sẽ cản trở sự phát triển, đặc biệt ở những quốc gia có nền kinh tế đang phát triển
như Việt Nam.
Hơn nữa nếu người dân không tin tưởng vào hệ thống ngân hàng nói chung và
tổ chức tín dụng nói riêng, lập tức người dân sẽ có hành động rút tiền ra khỏi hệ
thống. Trường hợp này vô cùng nguy hiểm nếu hiện tượng này xảy ra hàng loạt và
điều đó có thể dẫn đến đổ vỡ ngân hàng gây nguy hại đến toàn bộ nền kinh tế. Lịch
sử hoạt động tài chính ngân hàng đã xảy ra khá nhiều vụ rút tiền ồ ạt, gây ra sư tê liệt
và đổ vỡ của các ngân hàng, như ở Mỹ vào những năm 1920, 1930 hay ở Châu Á
năm 1997,… Do đó, nền kinh tế của các quốc gia này đã bị chao đảo bởi hệ quả của
khủng hoảng tài chính ngân hàng. Ở Mỹ, từ năm 1929 đến 1933 khi chưa có cơ quan
bảo hiểm tiền gửi liên bang (FDIC) đã có khoảng 4000 ngân hàng bị đổ vỡ, nhưng
nhờ có FDIC năm 1934 chỉ có 9 ngân hàng bị đổ vỡ.
Hai là, bảo vệ người gửi tiền nhỏ lẻ, có hiểu biết giới hạn về tài chính
Mục tiêu của chính sách công của hoạt động BHTG thường được nêu ra là bảo
vệ những người có hiểu biết giới hạn về tài chính, đó là những người có những khoản

tiền gửi nhỏ. Họ cần được bảo hiểm vì có nhận định rằng, những người này có những
hạn chế nhất định trong việc tiếp cận thông tin về tình hình thị trường và hay nhạy
cảm, dễ hoảng loạn. Họ hay phản ứng mạnh tạo nên sự kiện rút tiền hàng loạt khi
nghe bất kỳ thông tin kinh tế bất lợi nào về tổ chức họ gửi tiền, do đó tổ chức BHTG
sẽ làm giảm bớt gánh nặng đối với người gửi tiền được bảo hiểm trước vấn đề khó
khăn và phức tạp là đánh giá tình hình hoạt động của tổ chức tài chính nơi họ gửi
tiền.
Ba là, tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống ngân hàng phát triển.
Thông qua hoạt động giám sát và kiểm tra nhằm phát hiện sớm rủi ro trên cơ
sở cảnh báo tới các ngân hàng, tổ chức BHTG đã góp phần đảm bảo ổn định hoạt
động ngân hàng và tạo điều kiện cho các giao dịch tài chính có hiệu quả hơn bằng
cách phòng tránh đổ vỡ ngân hàng.
Bốn là, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
12

Với vai trò bảo vệ người gửi tiền, tổ chức BHTG tạo niềm tin trong công
chúng và toàn xã hội trong việc mở rộng huy động vốn, thu hút tối đa các nguồn vốn
tạm thời nhàn rỗi. Việc thiết lập hệ thống BHTG có thể làm tăng cường dòng vốn
chảy vào các tổ chức nhận tiền gửi, nhờ đó tạo nguồn cho hoạt động cho vay và đầu
tư. Do đó hoạt động của tổ chức BHTG góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một
cách gián tiếp.
Năm là, giảm thiểu rủi ro rút tiền hàng loạt
Khi không có hệ thống BHTG, có một khả năng lớn có thể xảy ra là người gửi
tiền có thể rút tiền hàng loạt do những khó khăn – có thể là thực sự hoặc chỉ là hiện
tượng quan sát – tại tổ chức nhận tiền gửi đó. Khi hiện tượng rút tiền hàng loạt xảy ra
tại một tổ chức có thể kéo theo hiện tượng trên tại các tổ chức khác mà không quan
tâm đến tình trạng hoạt động thực tế của các tổ chức đó do người gửi tiền không có
khả năng phân biệt được một tổ chức hoạt động lành mạnh hay không. Khả năng của
hệ thống BHTG trong việc ngăn chặn hoặc tránh hiện tượng rút tiền hàng loạt phụ
thuộc vào mức độ người gửi tiền nhận thấy mình được bảo vệ như thế nào đối với

những thiệt hại khi một tổ chức bị đổ vỡ. Điều này phụ thuộc vào hạn mức chi trả,
tốc độ chi trả bảo hiểm và mức độ tín nhiệm của hệ thống bảo hiểm sẽ tác động đến
mức độ tăng cường ổn định hệ thống tài chính.
Sáu là, góp phần vào một hệ thống thanh toán theo trật tự
BHTG góp phần tăng cường ổn định tài chính thông qua việc đóng góp vào
hoạt động thuận lợi của hệ thống thanh toán. Thông qua việc tăng cường niềm tin
trong hệ thống, tổ chức BHTG tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao dịch tiền gửi dễ
dàng giữa các bên. Để hệ thống thanh toán hoạt động, người gửi tiền phải tin chắc
rằng tiền gửi của mình được an toàn như tiền mặt. Bên cạnh đó, tổ chức BHTG có
thể cung cấp một số hình thức hỗ trợ tài chính tức thời, điều này có thể đảm bảo giao
dịch thanh toán giữa các tổ chức gặp vấn đề. Hình thức hỗ trợ này có thể giúp tránh
sự gián đoạn trong nghiệp vụ chi trả và dòng tiền thanh toán.
Bảy là, giải quyết khủng hoảng tài chính
13

Tổ chức BHTG thường được thiết lập khi một quốc gia đang trải qua hoặc vừa
trải qua một giai đoạn mất ổn định nghiêm trọng về tài chính. Khi vấn đề trong khu
vực tài chính xảy ra, tổ chức BHTG tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức duy trì ổn
định đối với tiền gửi và là công cụ bảo đảm với người gửi tiền về độ an toàn của tiền.
Tổ chức BHTG được xây dựng nhằm đẩy lùi bất ổn hệ thống tài chính trong ngắn
hạn có thể dẫn đến các vấn đề trong dài hạn.
Qua đó cho thấy BHTG có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và củng cố
niềm tin của công chúng đối với hệ thống tài chính ngân hàng. Tổ chức BHTG đã
thay mặt Chính phủ bảo vệ tiền gửi của người dân và trong trường hợp tổ chức tín
dụng bị đổ vỡ, BHTG sẽ cho trả toàn bộ hoặc một phần tiền gửi cho người gửi tiền.
Ngân hàng là trung gian tín dụng, là cầu nối giữa người có vốn và người cần vốn.
Trong quá trình chu chuyển của nguồn vốn nếu không có yếu tố niềm tin thì chu trình
đó sẽ bị tắc nghẽn và ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế.
1.2. Tổng quan về tổ chức bảo hiểm tiền gửi
1.2.1. Mô hình tổ chức BHTG

Tổ chức BHTG có thể được tổ chức theo ba hình thức: Sở hữu nhà nước, sở
hữu tư nhân và đồng sở hữu kết hợp tư nhân và nhà nước.
Tổ chức BHTG thuộc sở hữu nhà nước
Xuất phát từ bản chất của hoạt động BHTG là hoạt động cung cấp dịch vụ
hàng hóa công, mục đích chung nhất của hoạt động BHTG là góp phần kiểm soát và
duy trì tính ổn định và an toàn của hoạt động ngân hàng, nhiều quốc gia xác định
hoạt động BHTG cần được tổ chức dưới hình thức là một cơ quan quản lý nhà nước.
Sự kết hợp giữa tổ chức BHTG với NHTW, cơ quan điều hành và kiểm soát toàn bộ
hệ thống ngân hàng của quốc gia sẽ được thuận lợi hơn. Thông thường tổ chức
BHTG theo hình thức sở hữu nhà nước được thành lập dưới hình thức là một cơ quan
của Chính phủ, có sự tham gia của NHTW, Bộ Tài chính. Vốn thành lập ban đầu và
hỗ trợ khi cần thiết sẽ được Nhà nước đảm bảo. Có ba yếu tố cơ bản quyết định mô
hình tổ chức BHTG nên tổ chức theo mô hình sở hữu nhà nước: thứ nhất là khả năng
14

củng cố và duy trì niềm tin của công chúng và hệ thống ngân hàng là do Nhà nước;
thứ hai là khả năng đáp ứng nguồn tài chính khi có đổ bể ngân hàng hàng loạt phụ
thuộc vào Nhà nước; thứ ba là khả năng tiếp cận thông tin với độ chính xác cao nhất
và kịp thời nhất về các tổ chức tham gia BHTG phụ thuộc và các cơ quan Nhà nước.
Tổ chức BHTG thuộc sở hữu của tư nhân
Ở những quốc gia mà việc điều hành hệ thống ngân hàng không phụ thuộc
trách nhiệm của NHTW mà do Hiệp hội ngân hàng quốc tế đóng vai trò quan trọng
và đa phần các ngân hàng có tiềm lực tài chính mạnh thì tổ chức BHTG có thể được
tổ chức theo hình thức sở hữu tư nhân. Thông thường tổ chức BHTG theo hình thức
sở hữu tư nhân được thành lập dưới hình thức là một tổ chức cổ phần, do Hiệp hội
ngân hàng của quốc gia tổ chức đứng ra quản lý. Nguồn vốn hoạt động của tổ chức
BHTG do các ngân hàng và các tổ chức tài chính trong quốc gia đó góp vốn, chủ yếu
là từ các ngân hàng.
Loại hình BHTG theo sở hữu tư nhân có một số đặc điểm phổ biến sau:
Vốn hoạt động là do đóng góp của thành viên dưới hình thức thu phí thường

xuyên và thu phí sau khi có đổ vỡ ngân hàng xảy ra cần có nguồn tài chính để bù đắp
cho khoản tiền đã thực hiện chi trả BHTG.
Có khó khăn trong việc thu thập thông tin từ các đơn vị thực hiện chức năng
thanh tra ngân hàng và từ các ngân hàng trung ương.
Có khó khăn nhất định trong việc tìm nguồn vốn thực hiện chi trả bảo hiểm
kịp thời khi việc đổ vỡ ngân hàng xảy ra hàng loạt.
Tổ chức BHTG theo hình thức liên doanh giữa nhà nước và tư nhân:
Tổ chức BHTG theo hình thức liên doanh giữa nhà nước và tư nhân thuận tiện
trong việc phát huy được ưu điểm của mỗi hình thức sở hữu đơn lẻ. Tổ chức BHTG
được thành lập theo hình thức liên doanh này sẽ được nhà nước đầu tư tài chính ban
đầu theo một tỷ lệ nhất định và cũng được nhà nước hỗ trợ khi cần thiết.
1.2.2. Mô hình hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi
Trên thế giới hiện có ba mô hình hoạt động của tổ chức BHTG sau đây:
15

Mô hình chuyên chi trả (Pay – box): là mô hình chủ yếu thực hiện chức năng
chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền tại các tổ chức tham gia bảo hiểm bị đổ vỡ và
góp phần ổn định hệ thống tài chính thông quan việc bảo vệ những người gửi tiền yếu
thế về mặt tài chính. Chức năng chính của mô hình này là trả tiền bảo hiểm cho
người gửi tiền. Mô hình này thường tồn tại ở các nước đang phát triển, tổ chức
BHTG mới thành lập và còn nhỏ cả về quy mô lẫn năng lực tài chính.
Mô hình chi trả với quyền hạn được mở rộng (Pay – box with extended
function): Bên cạnh vai trò cơ bản của mô hình chuyên chi trả (thu phí bảo hiểm tiền
gửi, quản lý quỹ và trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền), mô hình chi trả quyền hạn
mở rộng bổ sung chức năng xử lý tổ chức đổ vỡ, thanh lý tài sản và phối hợp điều
hành tổ chức thành viên, hỗ trợ tài chính cho các tổ chức tham gia BHTG gặp khó
khăn trong thanh toán, theo dõi và khuyến nghị sự cẩn trọng và phòng tránh rủi ro đối
với các tổ chức tham gia BHTG. Qua đó làm tăng thêm các mục tiêu cần đạt được
của chính sách công như hạn chế rủi ro, tránh đổ vỡ có hệ thống của các tổ chức tài
chính ngân hàng hoặc khủng hoảng tài chính quốc gia, đảm bảo một môi trường tài

chính ổn định.
Mô hình giảm thiểu rủi ro (Risk minimizer): là mô hình có các thẩm quyền
nhằm bảo vệ tốt nhất người gửi tiền, đảm bảo sự an toàn hệ thống tài chính và tham
gia vào tái thiết hệ thống ngân hàng. Đây là mô hình tiên tiến nhất và được áp dụng
phổ biến nhất hiện nay.
Theo mô hình này, tổ chức BHTG được trao quyền hạn và phạm vi hoạt động
rộng lớn hơn. Ngoài nhiệm vụ bảo vệ tốt nhất quyền lợi của người gửi tiền, tổ chức
BHTG hoạt động theo mô hình giảm thiểu rủi ro còn tham gia cùng với cơ quan nhà
nước, ngân hàng và các định chế tài chính góp phần đảm bảo sự an toàn và hoạt động
bình ổn của hệ thống tài chính tiền tệ quốc gia, tạo sự công bằng và động lực cạnh
tranh lành mạnh cho các tổ chức tham gia BHTG thông qua cơ chế tính phí BHTG
dựa trên mức độ rủi ro trong hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG, được trao
các nghiệp vụ kinh doanh, đầu tư nhằm bảo toàn và phát triển nguồn vốn ban đầu
16

cũng như tăng cường sức mạnh tài chính, giảm dần sự phụ thuộc vào ngân sách chính
phủ. Theo đó xã hội sẽ nhận được những hiệu quả lớn hơn của việc thực hiện những
mục tiêu của chính sách công như phòng ngừa có hiệu quả những đổ vỡ dây chuyền
của hệ thống ngân hàng hoặc khủng hoảng tài chính, khuyến khích tiết kiệm, tăng
trưởng tín dụng góp phần vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế quốc gia.
1.2.3. Căn cứ pháp lý và cơ quan quản lý của tổ chức bảo hiểm tiền gửi
Tùy theo mỗi quốc gia mà hoạt động của tổ chức BHTG sẽ được điều chỉnh
bởi Luật hay các văn bản dưới Luật (Nghị định, Quyết định). Ngày nay hoạt động
của đa phần các tổ chức BHTG đều được điều chỉnh bởi Luật. Căn cứ bởi mô hình tổ
chức mà xác định cơ quan quản lý của tổ chức BHTG:
Nếu tổ chức BHTG thuộc sở hữu nhà nước thì thường cơ quan quản lý là
Quốc hội hay NHTW.
Nếu là tổ chức BHTG thuộc sở hữu tư nhân thì thường cơ quan quản lý của tổ
chức BHTG là Hiệp hội ngân hàng.
Nếu tổ chức BHTG là tổ chức liên doanh giữa Nhà nước và tư nhân thì cơ

quan chủ quản sẽ được thành lập mà nhân lực sẽ do Chính phủ và Hiệp hội các
ngân hàng tiến cử.
1.2.4. Nguồn vốn hoạt động của tổ chức BHTG:
Nguồn vốn hoạt động của tổ chức BHTG sẽ tùy theo mô hình tổ chức tiền gửi
mà hình thành từ các nguồn sau (ngoài các nguồn thu từ phí bảo hiểm tiền gửi, thu từ
hoạt động đầu tư nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của tổ chức BHTG và các nguồn thu
khác theo quy định của pháp luật):
Nếu mô hình tổ chức BHTG là thuộc sở hữu nhà nước thì vốn hoạt động của
tổ chức BHTG đó sẽ do Chính phủ cung cấp hoàn toàn.
Nếu là mô hình tổ chức BHTG thuộc sở hữu tư nhân thì vốn hoạt động của tổ
chức BHTG đó sẽ do các ngân hàng và các tổ chức tài chính trong quốc gia đó
góp.
17

Nếu mô hình tổ chức BHTG là tổ chức liên doanh giữa Nhà nước và tư nhân
thì vốn hoạt động của tổ chức BHTG đó sẽ do nhà nước và Hiệp hội ngân
hàng cùng góp vốn. Vốn sẽ được phân chia theo tỷ lệ nhất định tùy thuộc vào
khả năng tài chính của nhà nước cũng như Hiệp hội ngân hàng quốc gia đó.
1.2.5. Các nghiệp vụ chính của tổ chức BHTG:
1.2.5.1. Nghiệp vụ kiểm tra
Nghiệp vụ kiểm tra là một trong những nhiệm vụ quan trọng của BHTG. Nội
dung kiểm tra tập trung vào hai vấn đề cơ bản là kiểm tra tổ chức tham gia BHTG
thực hiện các quy định về BHTG và quy định về đảm bảo an toàn trong hoạt động
ngân hàng.
Nội dung kiểm tra chấp hành các quy định của BHTG, bao gồm: kiểm tra hồ
sơ pháp lý đảm bảo là thành viên tham gia BHTG, kiểm tra tính đầy đủ trong nộp
phí, chấp hành thời hạn nộp phí và nộp phạt (nếu có), kiểm tra việc cung cấp thông
tin cho BHTG.
Nội dung kiểm tra việc tuân thủ hoạt động ngân hàng được thực hiện căn cứ
vào các chỉ tiêu an toàn mà hệ thống ngân hàng Việt Nam đề ra. Nội dung kiểm tra

tập trung vào một số tiêu chí như tuân thủ quy định về giới hạn hoạt động vốn theo
địa bàn; tuân thủ quy định về chế độ hạch toán và chứng từ kế toán; quy định về đảm
bảo an toàn vốn điều lệ; quy định về đảm bảo an toàn trong cho vay; quy định về tính
pháp lý của hồ sơ vay vốn; khả năng tạo lợi nhuận, trích lập quỹ; quy định về quản
trị, kiểm soát và điều hành.
1.2.5.2. Nghiệp vụ giám sát
Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của hoạt động BHTG. Theo quy
định của pháp luật hiện hành, nghiệp vụ giám sát của tổ chức tham gia BHTG được
tiến hành trên cơ sở thông tin thu thập được để nắm bắt tình hình hoạt động của tổ
chức tham gia BHTG. Các nguồn tin mà BHTG có được bao gồm: các loại báo cáo
từ khách hàng, thông tin truy cập từ Ngân hàng Nhà nước. Kết quả của công tác giám
sát phản ánh tình hình nộp phí bảo hiểm, tình hình tuân thủ một số chỉ tiêu về an toàn

×