Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

thực trạng nhiễm khuẩn vết mổ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.39 KB, 7 trang )

54 Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Thực trạng nhiễm khuẩn vết mổ và một số
yếu tố liên quan tại khoa ngoại, sản bệnh viện
đa khoa Sa Đéc năm 2012
Bùi Thò Tú Quyên (*), Trương Văn Dũng (**)
Nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM) là một trong những mối quan ngại lớn của thầy thuốc ngoại khoa và
gần như gắn liền với những cơ sở có tiến hành phẫu thuật trên người bệnh dù là phẫu thuật đơn giản
nhất cho đến phức tạp. Bằng phương pháp nghiên cứu cắt ngang có phân tích được thực hiện từ tháng
4 đến tháng 9 năm 2012 trên 460 bệnh nhân được phẫu thuật tại Bệnh viện Đa khoa (BVĐK) Sa Đéc
với mục tiêu: (1) Xác đònh tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ ở bệnh nhân khoa ngoại, sản Bệnh viện Đa khoa
Sa Đéc năm 2012; (2), Mô tả triệu chứng lâm sàng và vi sinh của nhiễm khuẩn vết mổ trên bệnh nhân
và (3) Xác đònh một số yếu tố liên quan đến nhiễm khuẩn vết mổ ở bệnh nhân tại Bệnh viện Đa khoa
Sa Đéc. Kết quả cho thấy tỷ lệ NKVM là 6,3%, nhiễm khuẩn vết mổ ở khoa ngoại là 11,4%; khoa sản
là 2,7%. Đa số bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng NKVM với sưng, nóng, đỏ đau. Có 45,4% vi khuẩn
gây NKVM là tụ cầu vàng (Staphylococcus aureus), còn lại là trực khuẩn mủ xanh (Pseudomonas
aeruginosa) và Enterococcus. Phương pháp mổ, thời gian mổ, tiền sử dụng corticoid, tổng trạng bệnh
nhân và tình trạng dẫn lưu… có liên quan đến NKVM.
Từ khóa: Nhiễm khuẩn vết mổ, yếu tố liên quan, khoa ngoại, sản, Đồng Tháp.
Postoperative surgical - site infection and some
related factors in departments of surgery and
obstetrics, Sa Dec general hospital in 2012
Bui Thi Tu Quyen (*); Truong Van Dung (*)
Postoperative surgical-site infection (PSSI) is one of the major concerns of the surgeons and found
almost associated with surgery on the patient, regardless it is either a simple or complex surgery.
From April to September 2012, a cross-sectional study was conducted on 460 patients who had been
operated in Sa Dec general hospital with the following objectives: (1) To determine the incidence
rate of PSSI in Sa Dec hospital; (2) To describe the clinical and microbiological symptoms of PSSI;
and (3) To identify some factors related to PSSI. The results show that the general incidence rate of
PSSI was 6.3%, specifically 11.4% in department of surgery and 2.7% in department of obstetrics.
Most of patients had clinical symptoms of swollen, hot, reddish and pain. About 45.4% of PSSI


| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27) 55
1. Đặt vấn đề
Hiện nay NKVM cũng là một vấn đề được quan
tâm ở nhiều bệnh viện vì nó ảnh hưởng đến chất
lượng, hiệu quả điều trò của bệnh viện cũng như
ảnh hưởng đến sức khoẻ, chi phí của bệnh nhân và
người nhà bệnh nhân. NKVM cũng là một trong
những vấn đề chính của nhiễm khuẩn bệnh viện, chỉ
đứng hàng thứ hai sau viêm phổi.
Bệnh viện Đa khoa Sa Đéc là bệnh viện hạng
II, khoa Phẫu thuật của bệnh viện có 04 phòng mổ,
trung bình mỗi năm thực hiện khoảng 4000 ca mổ
thuộc các chuyên khoa Ngoại, Sản, Mắt, Tai mũi
họng. Hầu hết các dạng bệnh được phẫu thuật tại
bệnh viện đều đảm bảo yêu cầu được phục vụ của
nhân dân đòa phương. Vấn đề phòng chống nhiễm
khuẩn bệnh viện cũng là một trong những vấn đề
được quan tâm, hàng năm công tác giám sát, kiểm
tra thực hiện các biện pháp nhằm kiểm soát nhiễm
khuẩn bệnh viện đều được thực hiện nghiêm túc.
Tuy nhiên tình trạng nhiễm khuẩn bệnh viện nói
chung và NKVM nói riêng vẫn xảy ra. Hiện vẫn
chưa có báo cáo chính xác nào về tình hình NKVM
sau phẫu thuật tại bệnh viện vì vậy chúng tôi tiến
hành nghiên cứu này với các mục tiêu: (1) Xác đònh
tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ ở bệnh nhân khoa Ngoại,
Sản BVĐK Sa Đéc năm 2012; (2) Mô tả triệu
chứng lâm sàng và vi sinh của nhiễm khuẩn vết
mổ trên bệnh nhân và (3) Xác đònh một số yếu tố

liên quan đến nhiễm khuẩn vết mổ ở bệnh nhân tại
Bệnh viện Đa khoa Sa Đéc. Chúng tôi mong muốn
cung cấp được những thông tin cần thiết liên quan
đến NKVM tại bệnh viện, giúp bệnh viện có cơ sở
để triển khai, lập kế hoạch và phổ biến kòp thời
những dữ kiện này đến những người cần được biết,
từ đó góp phần cải thiện tình hình nhiễm khuẩn
bệnh viện.
2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại BVĐK Sa Đéc
với thiết kế nghiên cứu cắt ngang có phân tích. Đối
tượng nghiên cứu là các bệnh nhân được phẫu thuật
kế hoạch và cấp cứu trong lónh vực Ngoại, Sản tại
BVĐK Sa Đéc trong khoảng thời gian từ 04/2012-
09/2012.
Cỡ mẫu được tính toán theo công thức cho
nghiên cứu cắt ngang với số bệnh nhân dự kiến là
456. Với phương pháp chọn mẫu liên tiếp với các
ca phẫu thuật thuộc lónh vực Ngoại, Sản trong
patients got Staphylococcus aureus while 27% got Pseudomonas aeruginosa and Enterococcus.
There are some factors related to PSSI such as: surgical methods, duration of surgery, history of
steroid use, drainage and physical status of patients.
Key words: Postoperative surgical-site infection, related factors, department of surgery, department
of obstetrics, Dong Thap.
Tác giả:
(*) Ths.BS. Bùi Thò Tú Quyên - Giảng viên Bộ môn Dòch tễ - Thống kê Trường Đại học Y tế Công cộng. Đòa chỉ:
138 Giảng Võ - Ba Đình - Hà Nội. Email:
(**) BS. Trương Văn Dũng - Cán bộ khoa Ngoại Bệnh viện Sa Đéc - Đồng Tháp. Đòa chỉ: 153 khóm Hòa Khánh -
Nguyễn Sinh Sắc - P2 thò xã Sa Đéc - Đồng Tháp. Email:
56 Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27)

| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
khoảng thời gian nghiên cứu nhóm đã thu thập được
số liệu từ 460 bệnh nhân.
Nghiên cứu viên là 03 bác sỹ thuộc khoa Ngoại,
khoa Sản và khoa Phẫu thuật gây mê hồi sức, các
nghiên cứu viên đã sử dụng phiếu phỏng vấn có cấu
trúc để phỏng vấn các bệnh nhân được chọn, ngoài
ra thông tin về bệnh sử, cuộc mổ… cũng được thu
thập từ hồ sơ bệnh án kết hợp với khám lâm sàng.
Những bệnh nhân có NKVM đã được lấy bệnh
phẩm (dòch tiết, mủ) để gửi đi nuôi cấy phân lập để
xác đònh vi khuẩn gây NKVM theo thường quy của
WHO. Bệnh nhân cũng được theo dõi và ghi nhận
thông tin cho đến khi xuất viện.
Số liệu thu thập được nhập làm sạch và nhập
bằng chương trình Epidata sau đó được phân tích
bằng phần mềm SPSS phiên bản 16.0. Các phân
tích mô tả đã được sử dụng để xác đònh tỷ lệ nhiễm
khuẩn, triệu chứng của NKVM. Kiểm đònh khi bình
phương được dùng để phân tích một số yếu tố liên
quan đến NKVM.
Nghiên cứu được triển khai có sự đồng ý của hội
đồng khoa học bệnh viện, đối với những bệnh nhân
phát hiện NKVM, nhóm nghiên cứu cùng phối hợp
tìm nguyên nhân, khi phân lập có vi khuẩn thì cùng
bác sỹ mổ cho làm kháng sinh đồ, trực tiếp chăm
sóc và theo dõi vết mổ cho đến lúc bệnh nhân xuất
viện. Nhóm cũng đã báo cáo hội đồng kiểm soát
nhiễm khuẩn để cùng tìm nguyên nhân và khắc
phục khi thấy có những yếu tố được nghó là nguy cơ

gây NKVM.
3. Kết quả nghiên cứu
Qua thu thập thông tin từ 460 bệnh nhân mổ và
điều trò tại hai khoa Ngoại, Sản bệnh viện Sa Đéc
chúng tôi thu được một số kết quả sau.
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Tỷ lệ nam giới trong mẫu nghiên cứu là 26,7%,
nữ là 73,3%, nhóm tuổi 15-45 chiếm tỷ lệ 79,8%,
trên 45 tuổi là 14,6%. Tỷ lệ bệnh nhân khoa Ngoại
là 44,1% còn lại là khoa Sản (55,9%).
Ở khoa Ngoại tỷ lệ mổ cấp cứu là 58,2%, mổ
phiên là 41,8%, thời gian chờ mổ thường <1 ngày,
mổ mở là 56,9%, mổ nội soi là 40,5%, đa số các
bệnh nhân mổ 1 lần (98,4%). Với khoa Sản đa số
bệnh nhân là mổ cấp cứu (91,8%), thời gian chờ mổ
thường >3 ngày, phần lớn bệnh nhân mổ mở
(91,7%), thường các bệnh nhân được mổ 01 lần
91,3%. Có 43,5% bệnh nhân mổ ở khoa Ngoại là do
viêm ruột thừa, đa số các bệnh nhân mổ ở khoa Sản
là mổ đẻ (87,2%).
3.2. Thực trạng nhiễm khuẩn vết mổ
Tỷ lệ NKVM chung là 6,3% (29/460 bệnh
nhân); tỷ lệ NKVM trong các bệnh nhân khoa
Ngoại là 11,4%, khoa Sản là 2,7% .
Biểu đồ 3.1. Một số đặc điểm chung của đối tượng
nghiên cứu
Bảng 3.1. Phân bố đặc điểm cuộc mổ theo khoa bệnh
Biểu đồ 3.2. Phân bố tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27) 57

3.3. Đặc điểm lâm sàng và vi sinh của
nhiễm khuẩn vết mổ
Trong 29 ca NKVM triệu chứng lâm sàng
NKVM được ghi nhận với 4 dấu hiệu sưng, nóng,
đỏ, đau chiếm tỷ lệ là 48,3%, còn lại là các bệnh
nhân có các triệu chứng đơn lẻ của NKVM. Có
75,9% bệnh nhân NKVM là nhiễm khuẩn nông,
24,1% là nhiễm khuẩn sâu và không có ca nào
nhiễm khuẫn khoang phẫu thuật. Tỷ lệ mẫu bệnh
phẩm có căn nguyên gây bệnh là 39% còn lại là
không có căn nguyên gây bệnh. Trong tổng số 11
mẫu có căn nguyên gây bệnh thì có 5 mẫu (45,4%)
là do tụ cầu vàng (Staphylococcus aureus), 3 mẫu
(27,3%) là do trực khuẩn mủ xanh (Pseudomonas
aeruginosa) và 3 mẫu còn lại là do Enterococcus.
3.4. Một số yếu tố liên quan đến nhiễm
khuẩn vết mổ
Có mối liên quan giữa sử dụng corticoid trước
mổ với NKVM (p<0,001). Những bệnh nhân có sử
dụng corticoid có nguy cơ bò NKVM cao gấp 10,6
lần những bệnh nhân không sử dụng corticoid. Bệnh
nhân có tổng trạng thuộc nhóm ASA II-III cũng có
nguy cơ bò NKVM cao gấp 9,6 lần những bệnh nhân
có tổng trạng ASA I (p<0,001).
Tình trạng choáng mất máu và choáng nhiễm
khuẩn cũng liên quan đến NKVM (p<0,001) Bệnh
nhân choáng mất máu có nguy cơ bò NKVM cao hơn
11 lần những BN không choáng mất máu. Ngoài ra
bệnh nhân thuộc nhóm phẫu thuật nhiễm bẩn có tỷ
lệ NKVM (76,9%) cao hơn nhóm sạch và sạch

nhiễm (p<0,005).
Có mối liên quan giữa hình thức mổ với NKVM
(p<0,01). Những bệnh nhân mổ cấp cứu có nguy cơ
bò NKVM cao gấp 9 lần những bệnh nhân mổ phiên.
Bệnh nhân có thời gian mổ dài (trên 60 phút) có
nguy cơ bò NKVM cao gấp 3 lần những bệnh nhân
thời gian mổ dưới 60 phút (p<0,01). Những bệnh
nhân sau mổ có đặt dẫn lưu cũng có nguy cơ bò
NKVM cao gấp 9,6 lần những bệnh nhân không đặt
dẫn lưu (p<0,001). Chưa thấy có mối liên quan giữa
số lần mổ với nhiễm khuẩn vết mổ (p>0,05).
4. Bàn luận
Trong khoảng thời gian nghiên cứu từ tháng 4
đến 9 năm 2012 với 460 bệnh nhân được phẫu thuật
ngoại, sản thì tỷ lệ NKVM ở BVĐK Sa Đéc là 6,3%.
Tỷ lệ này cao hơn so với NC của Phạm Thúy Trinh
và cộng sự [4] ở khoa Ngoại tổng hợp BV Đại học
Y Dược TPHCM trên 270 bệnh nhân chỉ là 3%, nếu
Bảng 3.2. Đặc điểm lâm sàng và vi sinh của nhiễm
khuẩn vết mổ
Bảng 3.3. Một số yếu tố liên quan đến nhiễm khuẩn
vết mổ
* Fisher exact test
58 Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
so sánh với tỷ lệ NKVM ở khoa Ngoại BVĐK Sa
Đéc thì tỷ lệ này còn cao hơn nữa (11%). Có sự
khác biệt này có thể do nghiên cứu của Phạm Thúy
Trinh chỉ thực hiện trên các bệnh nhân mổ sạch và
sạch nhiễm trong khi nghiên cứu của chúng tôi có

cả các bệnh nhân mổ nhiễm bẩn và tỷ lệ NKVM
trong nhóm này là rất cao (77%). Ngược lại thì tỷ lệ
NKVM trong nghiên cứu ở BVĐK Sa Đéc năm
2012 lại thấp hơn nhiều so với nghiên cứu ở Bệnh
viện Chợ Rẫy TPHCM [2] của Hoàng Hoa Hải và
cộng sự, tỷ lệ NKVM chung lên tới 14,3%. Nguyên
nhân có thể do Bệnh viện Chợ Rẫy là bệnh viện
tuyến Trung ương nên bệnh nhân thường là những
trường hợp nặng, phức tạp… ngoài ra mật độ bệnh
nhân cũng lớn dẫn tới nguy cơ NKVM cũng cao
hơn. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cao
hơn các số liệu của CDC về tình hình NKVM trên
thế giới với tỷ lệ khoảng 5%, hay nghiên cứu tại
Brazil là 3,3% vào năm 2003 [7]. Tỷ lệ NKVM tại
bệnh viện Sa Đéc còn cao do bệnh viện chưa sử
dụng kháng sinh dự phòng mà chủ yếu sử dụng
kháng sinh phổ rộng và phối hợp trong khi hiệu
quả của việc dùng kháng sinh dự phòng đã được
một số tác giả chứng minh [8]. Ngoài ra nguyên
nhân tỷ lệ NKVM còn cao là do khoa Phẫu thuật
gây mê hồi sức của bệnh viện còn chưa đủ tiêu
chuẩn về vô khuẩn.
Tỷ lệ NKVM được ghi nhận tại các khoa Ngoại
là 11,4%; khoa Sản là 2,7% với số mẫu bệnh phẩm
được cấy khuẩn là 29 trong đó có 18 mẫu không có
căn nguyên gây bệnh và 11 mẫu có căn nguyên gây
bệnh. Khoa Ngoại thường ghi nhận NKVM ở các
bệnh nhân mổ ở nhóm nhiễm bẩn mà chủ yếu là
viêm ruột thừa có biến chứng, bệnh nhân sản
thường gặp là mổ bắt con và tỷ lệ NKVM cũng

thấp hơn.
Với những mẫu phân lập được ghi nhận chỉ có
01 loài vi khuẩn gây bệnh và chiếm tỷ lệ cao nhất
là tụ cầu vàng 45,4%; tiếp đến là trực khuẩn mủ
xanh 27,3% và Enterococcus 27,3%, các loài này
chỉ gây nhiễm khuẩn bề mặt da là chính; chỉ có 07
trường hợp sâu ở lớp cân cơ, so với nghiên cứu tại
các bệnh viện trong nước của Bộ Y tế về căn
nguyên gây NKVM tại các bệnh viện miền Bắc thì
có sự khác biệt (Escheria coli 20,5%, Pseudomonas
aeruginosa 20,5% và Staphylococcus aureus 18%),
so với bệnh viện Nam Đònh tỷ lệ tụ cầu là 55,9%,
trực khuẩn mủ xanh là 41,2% [5]. Các kháng sinh
được sử dụng để điều trò tại BVĐK Sa Đéc phổ biến
là Cefalosporin thế hệ 3, Imidazol, kết quả kháng
sinh đồ vi khuẩn phân lập được đều còn nhạy cảm
với các loại kháng sinh thuộc nhóm trên nên kết quả
điều trò cũng tốt.
Mức độ NKVM tại 02 khoa Ngoại và Sản
BVĐK Sa Đéc ghi nhận chủ yếu là NKVM nông
được xử trí bằng cách chăm sóc vết thương, sử dụng
kháng sinh hợp lý. Có 07 trường hợp NKVM sâu
đến lớp cân, cơ, bệnh nhân được chăm sóc vết
thương, dinh dưỡng, kháng sinh đến khi mọc mô hạt
và vết mổ sạch thì được xử trí bằng cách khâu lại
vết mổ và tiếp tục điều trò. Không ghi nhận trường
hợp nào NKVM khoan phẫu thuật phải mổ lại. Với
các nghiên cứu của các tác giả trong nước [4, 5, 6]
thì tỷ lệ này cũng gần tương ứng do điều kiện bệnh
viện hạng II và đây cũng là một thành công trong

xử trí vết mổ tại bệnh viện vì không có trường hợp
nào phải mổ lại dù trong đó có những bệnh nhân sốc
nhiễm khuẩn nặng.
Triệu chứng lâm sàng các vết mổ nhiễm khuẩn
thường ghi nhận dấu hiệu chính là đỏ nơi vết mổ,
sau đó sẽ hết khi được chăm sóc và điều trò với
kháng sinh, những trường hợp không đáp ứng với
điều trò thì vết mổ sẽ bung ra và phải xử trí thoát
dòch, khâu thứ cấp vết thương, những trường hợp
này thì thời gian sử dụng kháng sinh và nằm viện
của bệnh nhân sẽ kéo dài hơn. Vấn đề đánh giá
triệu chứng lâm sàng cũng còn mang tính chủ quan
do khai của người bệnh, nhất là triệu chứng đau vết
mổ và chỉ có những trường hợp khi có đủ 04 dấu
hiệu của NKVM (sưng, nóng, đỏ, đau) thì mới là
triệu chứng điển hình, trong đó cũng có một ít
trường hợp ròn dòch, mủ từ vết mổ, và những trường
hợp NKVM sâu thì có xuất hiện vết thương bò hở.
Nghiên cứu cho thấy một số yếu tố liên quan
đến NKVM (bảng 3.3) những bệnh nhân sử dụng
corticoid trước mổ thì nguy cơ NKVM cao hơn, điều
này cũng phù hợp vì sức đề kháng của bệnh nhân
đã giảm, huyết áp và đường huyết thường cao, lớp
mỡ dưới da thường dầy hơn dễ tạo môi trường sinh
sản cho vi khuẩn.
Đối với những bệnh nhân nhóm ASA II-III, tỷ
lệ NKVM cũng cao hơn nhóm ASA I, điều này cũng
phù hợp với cảnh báo của Hiệp hội Gây mê Thế
giới. Đối với những trường hợp choáng cũng liên
quan đến NKVM đối với những trường hợp choáng

nhiễm khuẩn, tỷ lệ này rất cao đến 91%, vì vậy vấn
đề giải quyết kòp thời các bệnh lý ngoại khoa và sử
dụng kháng sinh phù hợp trước, trong và sau mổ
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27) 59
cũng cần được quan tâm đúng mức. Nghiên cứu
cũng ghi nhận đối với các vết mổ sạch thì tỷ lệ
NKVM thấp hơn các nhóm sạch nhiễm, nhiễm và
nhiễm bẩn, trong nhóm nhiễm bẩn thì tỷ lệ NKVM
cao đối với các trường hợp viêm ruột thừa có biến
chứng như viêm phúc mạc do ruột thừa vỡ, abces
ruột thừa, điều này cũng phù hợp với nghiên cứu tại
bệnh viện Nhi Đồng II Hồ Chí Minh [3] về tỷ lệ
NKVM trên bệnh nhân viêm ruột thừa và cảnh báo
không để viêm ruột thừa trở thành biến chứng thì tỷ
lệ NKVM sẽ tăng cao.
Những trường hợp NKVM chủ yếu là các trường
hợp mổ cấp cứu, vì vậy vấn đề chuẩn bò bệnh nhân
trước mổ về vùng mổ, kháng sinh dự phòng cũng là
một vấn đề đáng được quan tâm. Về phương pháp
mổ, chúng tôi nhận thấy có mối liên quan giữa mổ
mở, mổ nội soi và nội soi chuyển mở, tỷ lệ NKVM
trong nhóm nội soi là thấp nhất tiếp theo là mổ mở,
nhóm ghi nhận mổ nội soi sau đó chuyển mổ mở thì
tỷ lệ NKVM rất cao. Điều này cũng phù hợp, vì đối
với những ca này thì thường khi mổ nội soi, tổn
thương thường không giải quyết được do mức độ tổn
thương và khi chuyển mổ mở thì thời gian mổ
thường kéo dài, thời gian mổ cũng là yếu tố của
NKVM, trong nghiên cứu chúng tôi nhận thấy với

những ca mổ thời gian <30 phút thì không ghi nhận
NKVM, điều này cũng phù hợp với kết quả nghiên
cứu của các tác giả trong nước [1,5,6]. Vì vậy vấn
đề tay nghề, trình độ của bác sỹ phẫu thuật cũng là
một yếu tố mà bệnh viện cũng cần chú ý, thời gian
quy đònh để giải quyết các ca mổ tùy thuộc vào trình
độ bác sỹ phẫu thuật nên vấn đề kết hợp trong kíp
phẫu thuật cũng cần được quan tâm. Nhóm cũng ghi
nhận có mối liên quan có ý nghóa thống kê giữa
NKVM và cách xử trí vết mổ, đối với những vết mổ
có dẫn lưu hay để hở da thì tỷ lệ NKVM cao hơn.
Thường những vết mổ nhiễm và nhiễm bẩn mới có
dẫn lưu và NKVM được ghi nhận thường xuất hiện
ở chân ống dẫn lưu và thường thấy có màu đỏ ở chân
ống. Vấn đề cũng đặt ra cho các thầy thuốc lâm
sàng là chỉ đònh phẫu thuật cần đúng lúc và kòp thời
nhằm giảm tỷ lệ mổ muộn có thể đưa đến NKVM.
Vấn đề cấy khuẩn và kháng sinh đồ cũng là một
vấn đề quan tâm của nhóm nghiên cứu vì kết quả
có được sau 48 giờ mà triệu chứng lâm sàng của
bệnh nhân cần phải xử trí ngay nên vấn đề sử dụng
kháng sinh phù hợp cũng chưa thực hiện tốt. Kháng
sinh phải sử dụng thường là phổ rộng và hiệu quả
kinh tế chưa cao vì thường là đắt tiền, một số mẫu
bệnh phẩm khi phân lập thì không tìm được vi
khuẩn gây NKVM đây cũng là một yếu tố khó khăn
trong nghiên cứu cũng như trong điều trò. Nhóm
cũng chưa có căn cứ để kết luận NKVM về căn
nguyên gây bệnh có liên quan giữa vết mổ và môi
trường hay không vì thường cấy khuẩn khi có

NKVM chứ chưa cấy khuẩn thường xuyên các dòch,
mủ trong vết mổ.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi chưa đề cập
được mối liên quan giữa NKVM giữa 02 nhóm có
sử dụng kháng sinh dự phòng và không sử dụng
kháng sinh dự phòng do hầu hết các bệnh nhân
trong nghiên cứu không dùng kháng sinh dự phòng
trước mổ. Mặc dù số bệnh nhân tham gia nghiên cứu
không quá ít (460 bệnh nhân) tuy nhiên NKVM
không phải là quá phổ biến nên chúng tôi cũng chưa
thực hiện được một số phân tích sâu về các yếu tố
liên quan hoặc các phân tích về sự tương tác hay
yếu tố nhiễu đối với NKVM.
Chúng tôi đề nghò Ban Giám đốc bệnh viện cần
có kế hoạch nâng cấp khoa phẫu thuật gây mê hồi
sức theo tiêu chuẩn vô khuẩn: thiết kế theo một
chiều, thông khí trong các buồng mổ, hệ thống điều
hòa. Ngoài ra cần trang bò hệ thống tiệt trùng dụng
cụ nội soi theo tiêu chuẩn vì hiện tại chỉ tiệt khuẩn
với dung dòch tiệt khuẩn là chính. Cần có kế hoạch
nhằm giảm tải tại khoa Sản, khoa Ngoại bằng cách
mở rộng xây dựng các buồng bệnh, thực hiện đề án
1816 đối với tuyến trước trong đó có thể chuyển các
bệnh nhân đã mổ về các bệnh viện tuyến trước tiếp
tục chăm sóc vết mổ, điều dưỡng.
Hội đồng chống nhiễm khuẩn bệnh viện thực
hiện công tác cấy khuẩn tại các buồng hậu phẫu
giống như buồng mổ, cấy khuẩn tay nhân viên y tế
và dụng cụ sau tiệt khuẩn.
Triển khai sử dụng kháng sinh dự phòng khi

điều kiện cho phép: xây khu vực phòng mổ mới
theo đúng tiêu chuẩn vô khuẩn ngoại khoa.
Người nhà bệnh nhân và bệnh nhân: Sử dụng
thuốc theo đúng y lệnh bác sỹ không tự ý dùng
thuốc. Khám và điều trò ở các cơ sở y tế có uy tín về
chuyên môn, nhập viện sớm để điều trò khi có các
dấu hiệu của bệnh ngoại khoa, sản khoa để phòng
biến chứng.
Với các nhà nghiên cứu: Tiếp tục thu thập thông
tin về bệnh nhân phẫu thuật toàn viện để có bức
tranh tổng thể về NKVMå tại bệnh viện Sa Đéc.
Phân tích sâu dưới các khía cạnh về tương tác, tác
60 Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tài liệu tham khảo
Tiếng Việt
1. Đặng Hồng Thanh và cộng sự, Xác đònh tỷ lệ nhiễm khuẩn
vết mổ tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Ninh Bình năm 2011.
Bệnh viện đa khoa Ninh Bình, 2012.
2. Hoàng Hoa Hải, Lê Thò Anh Thư, Nguyễn Ngọc Bích và
cs, Nhiễm khuẩn vết mổ và vấn đề sử dụng kháng sinh. Y
Hoc TP. Ho Chi Minh, 2001. 5(2): p. 41-46.
3. Nguyễn Thò Lan Anh, Xác đònh các yếu tố liên quan đến
nhiễm trùng vết mổ ở bệnh viện Nhi Đồng 2 TP Hồ Chí
Minh. Báo cáo hội nghò khoa học, 2009.
4. Phạm Thúy Trinh, Lê Thò Anh Đào, and Nguyễn Thò
Thanh Trúc và cs, Nghiên cứu tình trạng nhiễm khuẩn vết
mổ tại khoa ngoại tổng hợp bệnh viện Đại học Y dược Thành
phố Hồ Chí Minh. Y Hoc TP. Ho Chi Minh 2010. Vol.14
(Supplement of No 1): p. 124 - 128.

5. Tống Vónh Phú và cs, Đánh giá thực trạng và căn nguyên
gây nhiễm khuẩn vết mổ tại khoa Ngoại bệnh viện đa khoa
tỉnh Nam Đònh - Báo cáo hội nghò khoa học,.
6. Vũ Bảo Châu, Cao Minh Nga, Tìm hiểu căn nguyên vi
khuẩn gây nhiễm khuẩn vết mổ và sự đề kháng kháng sinh tại
bệnh viện 175. Y Hoc TP. Ho Chi Minh, 2009. 13(1): p. 4.
Tiếng Anh
7. Aldo Cunha Medeiros, et al. (2005) Surgical Site
Infection in a University Hospital in Northeast Brazil. BJID,
2005. 9(August).
8. Nandi, P et al. (1999), Surgical wound infection. Hong
Kong Medical Journal, 1999. 5(1): p. 82-86.
động, nhiễu để có cái nhìn thực chất về NKVM từ
đó có các giải pháp can thiệp cụ thể, hiệu quả hơn.
Lời cảm ơn
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn các bệnh nhân
khoa Ngoại, Sản BVĐK Sa Đéc đã cung cấp thông
tin cho nghiên cứu này. Ban Giám đốc bệnh viện
cùng các cán bộ y tế khoa Ngoại, Sản và Phẫu thuật
gây mê hồi sức bệnh viện đã giúp đỡ trong quá trình
triển khai nghiên cứu.

×