Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Xã hội hóa và quá trình hình thành cái tôi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.64 KB, 20 trang )

BÀI 4: XÃ HỘI HÓA &
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CÁI TÔI
I. XÃ HỘI HÓA LÀ GÌ?
 Khái niệm: Quá trình hình thành ý thức
trong cách ứng xử của con người được gọi
là quá trình xã hội hóa. Hay, quá trình xã
hội hóa là quá trình mà trong đó chúng ta
có thể tiếp nhận nền văn hóa của xã hội, có
thể học được cách suy nghĩ và ứng xử hợp
với đặc trưng của xã hội.
 Trong quá trình xã hội hóa, cá nhân thu
thập kinh nghiệm xã hội và học các chuẩn
mực, khuôn mẫu một cách tự nhiên mà
không chống đối lại được.
Định nghĩa quá trình xã hội hóa
 Neil Smelser (Mỹ), XHH là “quá trình mà trong đó cá nhân học cách
thức hành động tương ứng với vai trò của mình để phụ vụ tốt cho
việc thực hiện các mô hình hành vi tương ứng với hệ thống vai trò
mà cá nhân phải đóng trong cuộc đời mình”
 Fichter đã xem "XHH là một quá trình tương tác giữa người này và
người khác, kết quả là một sự chấp nhận những khuôn mẫu hành
động và sự thích nghi với những khuôn mẫu“
 Nhà XHH người Nga G.Andreeva, đã nêu được cả hai mặt của quá
trình xã hội hoá:
 Một mặt, cá nhân tiếp nhận kinh nghiệm xã hội bằng cách thâm
nhập vào xã hội, vào hệ thống xã hội
 Mặt khác, cá nhân tái sản xuất một cách chủ động bằng các mối
quan hệ thông qua việc họ tham gia vào các hoạt động và thâm
nhập vào các quan hệ xã hội.
Các giai đoạn của quá trình xã hội hoá.
 Giai đoạn xã hội hoá ban đầu của đứa trẻ trong gia đình


 Giai đoạn xã hội hoá diễn ra trong nhà trường
 Giai đoạn con người thực sự bước vào xã hội
Ranh giới giữa các giai đoạn trên không phải lúc nào cũng rõ
ràng mà chỉ mang tính ước lệ. Tức là nó không được phân
chia một cách rạch ròi theo kiểu giai đoạn này kết thúc thì giai
đoạn khác mới được bắt đầu. Vì trong thực tế cuộc sống, cá
nhân có thể đã đi làm, đã có gia đình, nhưng vẫn tiếp tục học
tập và có nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh ở cơ quan hay trong
quan hệ vợ chồng, họ vẫn tìm đến cha mẹ để tìm một lời
khuyên. Như vậy, quá trình xã hội hoá chỉ chấm dứt khi cuộc
sống của chúng ta chấm dứt mà thôi.
Giai đoạn xã hội hoá ban đầu của đứa
trẻ trong gia đình
 Môi trường gia đình là môi trường xã hội hóa quan trọng
bậc nhất của cá nhân, bởi vì hầu hết cá nhân đều sinh ra và
lớn lên trong gia đình, chịu sự giáo dục về những quan
niệm đúng, sai của riêng gia đình và các phương cách ứng
xử chuẩn bị cho việc gia nhập xã hội lớn hơn. Có thể xem
gia đình như một tiểu văn hóa, với nền giáo dục, lối sống,
truyền thống của gia đình, v.v mà cá nhân sẽ tiếp nhận các
đặc điểm này.
 Tuy nhiên, sự ảnh hưởng của gia đình thường là không
chính thức và không có chủ đích, vì nó là sản phẩm của sự
tương tác qua lại giữa những người sống gần gũi nhau về
mặt tinh thần và thể chất. Sự tiếp thu trong giai đoạn đầu
của quá trình xã hội hóa này không đơn thuần thông qua
những lời răn dạy, mà còn thông qua các hành vi của thành
viên trong gia đình
Giai đoạn xã hội hoá diễn ra
trong nhà trường

 Dưới mái trường, trẻ con được học tập và vui chơi và
dần dần trở thành một con người của xã hội thông qua
hoạt động thu nhận những kiến thức ban đầu về ý
thức trách nhiệm và xã hội, thông qua giao tiếp và dần
dần hình thành các mối quan hệ xã hội.
 Theo các nhà xã hội học, trường lớp không chỉ đơn
thuần là cơ sở để truyền đạt kiến thức khoa học cơ
bản về tự nhiên, văn hóa - kinh tế - xã hội làm nền
tảng cho cuộc sống sau này, mà còn là các cơ quan
xã hội chính yếu. Khi đứa trẻ đến trường, nó không chỉ
học các kiến thức, mà học cả những qui tắc và cách
thức xác định hành vi.
Giai đoạn con người thực
sự bước vào xã hội
 Cá nhân tham gia vào xã hội thường dưới dạng thành
viên của nhóm (từ nhóm sinh viên, đồng nghiệp, nhóm
nghiên cứu, sáng tác, đến thành viên của các hội
đoàn, các tổ chức chính thống của xã hội). Lúc này,
quá trình xã hội hóa của cá nhân được thể hiện thông
qua các chuẩn mực chính thức (của xã hội) hay không
chính thức (của nhóm).
 Đây là một quá trình phức tạp và chồng chéo hơn
nhiều so với hai giai đoạn trước (gia đình và nhà
trường), và thường là một quá trình liên tục và kéo dài
đến suốt đời. Khi đó, cá nhân thực hiện một lúc nhiều
vai trò khác nhau trong các nhóm xã hội và trong toàn
xã hội (làm chồng, vợ, viên chức…).
II. SỰ HÌNH THÀNH CÁI
TÔI CỦA CÁ NHÂN
 Thông qua quá trình xã hội hóa, mỗi cá

nhân dần dần nhập tâm những giá trị và
chuẩn mực xã hội và dần dần biến chúng
thành những giá trị chuẩn mực của riêng
mình.
 Sự cá nhân hóa các giá trị chân lý, xã hội
và qui tắc ứng xử để biến con người thành
chủ thể xã hội này chính là quá trình hình
thành “cái tôi” của con người, hay nói cách
khác, “cái tôi” chính là kết quả của quá trình
xã hội hóa.
1. Cơ sở hình thành cái tôi
của con người
 Người ta thường đề cập đến “Cái tôi” nhằm nói kinh nghiệm
của các cá nhân trong quá trình xã hội hóa cũng như những
đặc trưng nhân cách của cá nhân ấy trong quá trình tương tác
xã hội.
 Theo Talcot Parsons (1954), ứng xử của con người thường
dựa trên 4 cấp độ:
 Cấp độ văn hóa, liên quan đến những truyền thống, chẳng
hạn như thiết chế hay các giá trị chuẩn mực
 Cấp độ xã hội, liên quan đến tổ chức và bao hàm những khái
niệm như nhóm, địa vị, vai trò…
 Cấp độ nhân cách, gắn liền với cái tôi và những khái niệm mô
tả về cái tôi cũng những những kinh nghiệm cá nhân.
 Cấp độ cá nhân, liên hệ tới sinh vật sinh lý, cơ thể.
Cơ sở hình thành cái tôi
của con người (tt)
 Bốn cấp độ trên đều thuộc khía cạnh ứng xử của
con người, và qua quá trình xã hội hóa, con người
sẽ không ngừng học tập, cải thiện mình để lĩnh

hội được những kỳ vọng đối với hành vi và giá trị
mà xã hội đó thừa nhận.
 Tuy nhiên, sự kiểm soát của xã hội bằng các chế
tài chỉ là từ bên ngoài (ngọai tại), các thành viên
trong xã hội luôn tự tìm cách điều chỉnh hành vi
của mình để phù hợp với những phản ứng đã
được trù liệu trước.
2. Sự phát triển của cái tôi
 Sự phát triển của cái tôi, theo lý thuyết biểu tượng, là
quá trình cá nhân học hỏi để đáp ứng lại các kì vọng
của người khác về cách thức họ đánh giá bản thân và
thể hiện mình.
 Cái tôi được phát triển thông qua sự tác động qua lại
với những người khác, được họ đánh giá, hướng dẫn.
Cái tôi mang tính phản chiếu và được Cooley (1922)
mô tả thông qua hình tượng cái tôi trong gương: “cá
nhân thực hiện hành vi nào đó và có thể tự quan
sát hành vi của mình thông qua phản ứng của cá
nhân khác, sau đó lí giải những đánh giá phản ứng
đó về những hành vi của mình”.
Sự phát triển của cái tôi
(tt)
 Nhờ quá trình “cái tôi trong gương”, cá nhân
hiểu được cái tôi của mình và phản ứng tương
đối với những đánh giá (dù chính xác hay
không), bằng sự xấu hổ hoặc giận dữ (khi nhận
được những phản ứng tiêu cực), hoặc tự hào
(khi nhận được phản ứng tích cực. Những
phản ứng của người khác là cơ sở cho sự
đánh giá lại bản thân mình, và cũng là cơ sở để

cá nhân ý thức về chính bản thân mình (cái tôi).
Một số lí thuyết về sự hình
thành cái tôi
 Lý thuyết sinh học xã hội
 Lý thuyết hình thành nhân cách theo lứa tuổi
 Lý thuyết Freud
 Lý thuyết về đạo đức
 Lý thuyết tương tác biểu tượng về sự hình
thành cái tôi (George Herbert Mead khởi
xướng năm 1934)
 Trong khuôn khổ của lý thuyết tương tác biểu
tượng, G. Mead còn đề ra những khái niệm về
“những người khác nói chung”, và “những
người khác có ý nghĩa”
Lý thuyết sinh học xã hội
 Cho rằng những yếu tố di truyền đóng vai trò quyết định
hành động con người, ví dụ như quan điểm về phân loại
chủng tộc cho rằng sự khác biệt chủng tộc quyết định sự
khác biệt trong trí lực, sức kkhỏe của con người và vì
vậy có người thông minh, có người ngu đần.
 Những quan điểm này dễ dàng bị bác bỏ bằng phát triển
phản xạ có điều kiện, và những nghiên cứu về lí thuyết
hành vi cho thấy quá trình xã hội hóa mới là quan trọng
(ví dụ: những đứa trẻ bị cô lập không phát triển bình
thường được), yếu tố sinh vật chỉ đóng vai trò là điều
kiện cần nhưng chưa đủ quyết định hành vi của con
người.
Lý thuyết hình thành nhân
cách theo lứa tuổi
Jean Piaget (1896-1980): quá trình hình thành nhân cách

của con người trải qua 4 giai đoạn:
(1) Giai đọan cảm giác (0-2 tuổi), nhận thức thị giác bằng
các giác quan qua tiếp xúc mang tính vật chất;
(2) Giai đoạn tiền thao tác (2-7 tuổi), nhận thức thông qua
biểu tượng và ngôn ngữ, đứa trẻ phân biệt tư tưởng và
thực tại khách quan bằng cách cho mình là trung tâm;
(3) Giai đoạn thao tác cụ thể (7-11 tuổi), bắt đầu lý luận
nhưng dựa vào những tình huống cụ thể chứ chưa nâng
lên mức trừu tượng;
(4) Giai đoạn lý luận hình thức (11 tuổi trở lên), có tư duy
trừu tượng cao, có thể hình dung khả năng của thực tế
Lý thuyết Freud
 Do Etik Emikson sáng lập (ông là học trò của Freud),
chú ý đến quá trình học hỏi trong việc hình thành nhân
cách con người.
 Ông cho rằng sự hình thành cái tôi của con người là
một quá trình xã hội, trong đó cá nhânlựa chọn và cố
gắng bắt chước hành vi người lớn hoặc những người
mình ngưỡng mộ (quá trình cố gắng đồng nhất hóa –
Identification).
 Quá trình này kéo dài suốt cuộc đời của con người,
nhưng những khía cạnh cơ bản nhất và quan trọng
nhất được hình thành từ thời ấu thơ
Lý thuyết về đạo đức
Do Lowtence Kolbeng (học trò của Jean Piaget) sáng
lập, chú ý quá trình hình thành nhân cách về mặt
đạo đức, thông qua 3 giai đoạn:
(1) Giai đoạn tiền qui ước, trong đó hành vi đạo đức
cá nhân chịu sự chi phối của các tiêu chuẩn chế tài
(khen thưởng hay trừng phạt);

(2) Giai đọan qui ước, hiểu được cái đúng cái sai của
luật lệ hay luật pháp;
(3) Giai đoạn hậu qui ước, cá nhân phân biệt được
những qui chuẩn của luật pháp và các nguyên tắc
đạo đức. Lí thuyết này bị phê phán là không chú
trọng đến sự khác biệt giữa các nền văn hóa và
khác biệt giới tính
Lý thuyết tương tác biểu
tượng về sự hình thành cái
tôi
 Đưa ra sự giải thích về cách thức cá nhân học tập để
đáp ứng lại các kỳ vọng của người khác và cách thức
họ tự đánh giá về bản thân mình mỗi khi bị phản ứng.
 Cái tôi hình thành nhờ sự tương tác với người khác
và nó quyết định cách thức hành động trong quan hệ
xã hội.
 Cái tôi vừa là chủ thể (vì là tác nhân của hành động),
vừa là đối tượng (vì có thể nhìn chính mình qua phản
ứng của người khác). Quá trình này được phân tích
thông qua khái niệm phản ứng “cái tôi trong gương”
Cái tôi trong gương
(1) Cá nhân thực hiện hành vi và được mọi
người xung quan quan sát và phản ứng lại,
(2) Cá nhân tiếp nhận và lý giải những phản ứng
của người khác đối với ứng xử của mình,
(3) Sau đó, cá nhân phản ứng lại với những đánh
giá của những người khác bằng sự kiêu hãnh
hay xấu hổ
“những người khác nói chung”,
và “những người khác có ý

nghĩa”
 Khi cá nhân sống trong xã hội và được kì vọng một số vai trò
nào đó.
 Kết hợp những vai trò được kỳ vọng này được gọi là “những
người khác nói chung”, theo đó khi cá nhân đóng một vai trò nào
đó, cá nhân cũng coi mình như người khác (ví dụ: cô bé đóng
vai cô bảo mẫu để chăm sóc các búp bê) và thông qua đó làm
cá nhân hiểu người khác hơn (cô bé khi đóng vai cô bảo mẫu
phải làm những công việc phù hợp với vai trò bảo mẫu, từ đó
hình thành ý niệm về thái độ, hành vi ứng xử của người bảo
mẫu).
 Tuy nhiên, đối với những người có khả năng tạo ra ảnh hưởng
đối với hành vi của cá nhân (cha mẹn, anh chị, bản thân, thầy
cô), cá nhân ý thức về những người này như là “những người
khác có ý nghĩa”, và cố gắng làm điều gì đó để vừa lòng họ,
mong muốn tuân theo lời khuyên hay hướng dẫn của họ, từ đó
hình thành nhân cách

×