Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG GANDHI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.22 KB, 11 trang )

A. MỞ ĐẦU
Ấn Độ là một trong những nền văn minh lớn và huyền bí bật nhất Châu Á và
trên thế giới. Đây không những là nơi sản sinh ra các tôn giáo lớn, các công
trình nghệ thuật đặc sắc của thế giới, mà đây còn là quê hương của nhiều nhà
nhân cách lỗi lạc, trong đó có Gandhi. Với tư cách như một Thánh Nhân,
Gandhi Con người của lý tưởng nhưng thực tế Gandhi đã vạch ra cho thành
phần nghèo khổ trong xã hội phương pháp cải tổ chính quyền chỉ bằng sự
kiên trì bất hợp tác - một vũ khí mà ai cũng có. Ông đem niềm hy vọng đến
cho đại đa số ngu dân vốn đã mất hết hy vọng vì bị bỏ quên bởi những nhà
chính trị tiếm danh sống xa thực trạng cực khổ của nhân dân.
B. NỘI DUNG
I. ĐÔI NÉT VỀ MAHATMA GANDHI.
Mahatma Gandhi là anh hùng dân tộc Ấn Độ, là người chỉ đạo cuộc
kháng chiến chống chế độ thực dân của đế quốc Anh và giành độc lập cho
nhân dân Ấn Độ.
Mahatma Gandhi sinh tháng 2 năm 1869, mất ngày 30 tháng 1 năm
1948 do bị ám sát. Tên đầy đủ của ông là Mohandas Karamchand Gandhi.
Gandhi sinh ra trong một gia đình Ấn Độ thuộc cộng đồng Modh tại
Porbandar, bang Gujarat Ấn Độ. Cha ông là Karamchand Gandhi và mẹ là
bà Putlibai – một người theo Ấn Độ giáo phái thờ thần Tì - Thấp – Nô
Tên “Mahatma” theo người dân Ân Độ nghĩa là “linh hồn lớn”, “vĩ
nhân” hoặc “đại nhân”. Ngoài việc được xem là một trong những môn đồ Ấn
Độ giáo và những nhà lãnh đạo vĩ đại nhất, ông còn được nhân dân Ân Độ
tôn kính như một Quốc phụ.
II. NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG
GANDHI.
Lớn lên cùng người mẹ sùng tín Tì - Thấp - Nô trong một môi trường
được ảnh hưởng bởi những người theo đạo Kì - Na - Giáo tại Gujarat,
Gandhi sớm cảm nhận nguyên tắc bất bại, ăn chay, phương pháp nhịn ăn để
thanh lọc tâm thức cũng như sự khoan dung lẫn nhau của các tín đồ và tông
phái.


Mặc dù Cha của ông giữ chức dewan (thủ tướng) trong chính quyền
tiểu bang nhưng gia đình của ông vẫn không khá giả lắm, và có lẽ nhờ vậy
cho nên khi còn bé, ông có cơ hội vui đùa với bạn bè cùng tuổi thuộc nhiều
thành phần tôn giáo khác nhau.
Năm 1888-1891: Gandhi sang học luật ở Luân Đôn, nên ông có cơ hội
tiếp xúc với thế giới phương Tây, nhất là với các giáo huấn của Kitô-giáo.
Gandhi say mê đọc Kinh Thánh - đặc biệt Tân Ước - và yêu thích “Bài
Giảng Trên Núi” tức “Tám Mối Phúc Thật” của Đức Chúa GIÊSU. Bài
giảng làm đảo lộn tư tưởng và thay đổi lối sống. Từ chàng trai da đen Ấn độ,
muốn học đòi lối sống trưởng giả của các chàng trai thời đại Anh Quốc,
Gandhi bừng tỉnh cơn mơ dại dột, trở về với tư cách đúng đắn của một thanh
niên Ấn Độ đơn sơ và chân chính. Được sự khuyến khích của hiệp hội Thần
Trí học – chuyên tâm nghiên cứu kinh điển Phật giáo và Ấn Độ giáo Gandhi
bắt đầu tìm đọc Chí Tôn Ca. Mặc dù từ trước đây không tỏ vẻ hứng thú về
tôn giáo, ông bắt đầu đọc những tác phẩm nói về Ấn Độ giáo, KiTô Giáo,
Phật giáo và các tôn giáo khác.
Năm 1906: Chế độ kỳ thị chủng tộc, thành kiến và bất công trong
cách ứng xử với người Ấn Độ ngày càng gay gắt ở Nam Phi, nhất là khi
chính quyền Trasvaal công bố một pháp án mới, bắt người Ấn Độ phải ký
chứng. Tại một cuộc biểu tình lớn được tổ chức tại Johannesburg vào tháng
9 năm đó, Gandhi lần đầu tiên áp dụng nguyên tắc Chấp trì chân lý và đấu
tranh bất bạo lực.
Năm 1919: Bắt đầu chiến dịch Satyagraha ở Ấn Độ chống lại việc
người Ấn bị tước bỏ quyền công dân.
Năm 1922: Chấm dứt chiến dịch chống lại nhà nước thuộc địa sau khi
các người ủng hộ ông đã gây ra hàng loạt vụ bạo động ảnh hưởng đến chính
sách bất bạo động của ông.
Năm 1930: Ông dẫn đầu một đoàn tuần hành lớn đi về phía biển để
lấy muối. Cuộc biểu tình quy mô lớn này nhằm chống lại đạo luật đánh thuế
muối của thực dân Anh.

Năm 1932: Gandhi bắt đầu chiến dịch Bất phục tùng dân sự chống lại
người Anh, cũng trong tháng 9/1932 ông tiến hành một cuộc “tuyệt thực”
nhằm đòi quyền lợi cho những người cùng khổ Ấn Độ.
Năm 1947: Tuyệt thực thành công để chấm dứt xung đột bạo động
giữa người Hindu và người Hồi giáo ở Calcutta sau khi Ấn Độ giành được
độc lập.
Ngày 30/01/1948:Trên đường tới một nơi thờ tụng, Gandhi bị bắn
chết bởi Nathuram Godse tại tòa nhà Birla ở New Delhi.
Trong suốt cuộc đời mình ông phản đối tất cả các hình thức khủng bố,
bạo lực. Thay vào đó chỉ áp dụng những tiêu chuẩn đạo đức tối cao. Và từ
đó nguyên lý “Bất bạo lực” (còn gọi là bất hại) được ông đề xướng với tên
gọi : Chấp trì chân lý ra đời.
III. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CỦA GANDHI.
Tư tưởng của Gandhi tập trung chủ yếu ở 3 triết lý nền tảng là Ahimsa
(tư tưởng bất bạo động), Satya (Đạo/chân lý) và Satyagraha (sức mạnh chân
lý)
Ahimsa hay Tư Tưởng Bất Bạo Ðộng.
“Tín điều của ta là bất bạo động trong mọi trường hợp. Phương pháp
của ta là cải biến tâm tính con người chứ không dùng sự áp chế, là tự chịu
khổ nạn chứ không phải gây khổ nạn cho kẻ nắm bạo quyền”. Câu nói này
của Gandhi kết tinh các nguyên tắc căn bản nhất của triết lý bất bạo động.
Triết lý bất bạo động là một trong những di sản quan trọng nhất trong tư
tưởng của Gandhi, và nó là nền tảng cho nhiều tư tưởng khác của ông, đặc
biệt là Satyagraha (sức mạnh của chân lý).
Triết thuyết Ahimsa của Gandhi là triết thuyết bất bạo động, và ông
chủ trương áp dụng bất bạo động trong mọi lĩnh vực quốc gia. Ahimsa được
định nghĩa tạm như là tư tưởng bất bạo động hướng dẫn con người hành xử
theo tình thương người với sự can đảm cá nhân vượt bậc. Tình thương người
và lòng can đảm cá nhân là hai bảo bối quan trọng của người thi hành bất
bạo động. “Lưỡi kiếm của bất bạo động là tình thương và sự quả quyết

không thể lay chuyển”. Bất bạo động lúc nào cũng hơn phản kháng vũ lực và
có thể giải quyết tất cả các khó khăn. Tuy vậy, bất bạo động không thể được
sử dụng để bảo vệ các chủ trương sai lầm.
Gandhi tin tưởng tuyệt đối vào sự thành công của đường lối bất bạo
động. Theo ông, không có vấn đề thua thiệt trong bất bạo động. Bất bạo
động sẽ không bị thất bại nếu là bất bạo động thật sự và chỉ có những kẻ giả
mạo bất bạo động mới gặp thất bại.
Gandhi quan niệm rằng chúng ta có thể sẽ không bao giờ đủ mạnh để
hoàn toàn trở thành bất bạo động trong ý nghĩ, lời nói và hành động; nhưng
chúng ta phải giữ bất bạo động như mục đích của cuộc đời và tiến hóa dần
dần về hướng bất bạo động. Khi áp dụng triết thuyết Ahimsa vào thực tế thì
sức mạnh nòng cốt của Ahimsa là Satyagraha.
Bất bạo động không đồng nghĩa với sự hèn nhát, song có những hành
vi dùng vũ lực được xem như là hành vi bất bạo động. Nếu chỉ phải chọn lựa
giữa tư thế hèn nhát để từ chối cứu người hoạn nạn và hành động bạo lực để
cứu người thì Gandhi sẵn sàng dùng bạo lực để cứu người. Bất bạo động
không bao giờ được dùng như một bình phong để che đậy sự hèn nhát.
Hành vi bất bạo động cũng có mức độ bởi vì đôi khi hành động tự vệ
bằng vũ khí cũng được xem là bất bạo động. Như vậy thì một hành động tùy
trường hợp có thể được xem là hành vi bất bạo động hay là hành vi bạo
động.
Theo Gandhi, bất bạo động không thể tồn tại nếu không có sự tu thân.
Muốn thi hành bất bạo động thì nhân loại phải biết thay đổi để yêu
thương mọi người kể cả đối phương. Tình thương yêu nhân loại của người
theo bất bạo động là tình thương bao la vô tận, nếu còn lòng kiêu căng và vị
kỷ thì không bao giờ có bất bạo động. Gandhi khuyên mọi người hãy can
đảm và thương yêu đồng hương cũng như đối thủ theo gương Phật Thích Ca
và Chúa Jêsus.
Trong bất bạo động, con người hành xử theo sức mạnh của Thượng
Ðế chứ không phải sức mạnh cá nhân. Vì vậy, cội rễ của bất bạo động nằm ở

sự cầu nguyện. Người thi hành bất bạo động cầu nguyện Thượng Ðế giúp đỡ
chống lại sự độc ác của bạo lực đối lập cho nên họ phải tin tưởng tuyệt đối
vào Thượng Ðế.

×