Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Đo lường khả năng trả nợ vay của khách hàng cá nhân tại Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Bến Tre

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM



NGUYỄN TRẦN THÁI NGÂN


ĐO LƯỜNG KHẢ NĂNG TRẢ NỢ VAY CỦA KHÁCH
HÀNG CÁ NHÂN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ
PHẦN ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAMCHI
NHÁNH BẾN TRE





LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ




THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH- NĂM 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM


NGUYỄN TRẦN THÁI NGÂN



ĐO LƯỜNG KHẢ NĂNG TRẢ NỢ VAY CỦA KHÁCH
HÀNG CÁ NHÂN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ
PHẦN ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
CHI NHÁNH BẾN TRE

Chuyênngành: Tàichính - Ngânhàng
Mãsố: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:TS. LẠI TIẾN DĨNH



THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH- NĂM 2013
1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu
Hiện nay, nền kinh tế không ổn định và chưa có dấu hiệu phục hồi sau
cơn suy thoái kinh tế, hậu quả nghiêm trọng là vấn đề nợ xấu tại các TCTD và
có xu hướng tiếp tục tăng năm 2013 khiến cho nhiều TCTD hoang mang.Vì lẽ
đó, nhiều cơ quan ban ngành đang cố gắng tìm kiếm nhiều giải pháp để hồi
phục tình hình sản xuất kinh doanh nhằmkhắc phục nợ xấu. Điển hình là nghị
quyết số 02/NQ-CP ngày 07 tháng 01 năm 2013 của Chính phủ về một số giải
pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết
nợ xấu vàthông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21 tháng 01 năm 2013 về phân
loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử

dụng dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt
động của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoàivà thành lập công ty mua
nợ (VAMC). Với tình hình chung đó, Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển
Việt Nam (BIDV)cũng không ngoại lệ, chất lượng tín dụng đang được quan
tâm và những giải pháp hạn chế nợ xấu tiếp tục là đề tài tranh luận nhiều nhất.
Hiện tại, tôi là nhân viên tín dụng cá nhân tại Ngân hàngTMCP Đầu tư và
Phát triển Việt Nam Chi nhánh Bến Tre, tôi rất quan tâm đến vấn đề nợ xấu vì
nó ảnh hưởng trực tiếp đến công việc tôi đang làm. Tôi luôn muốn tìm hiểu
những giải pháp hạn chế nợ xấu để có thể vận dụng vào thực tiễn công việc,
nhưng trước khi có giải pháp thích hợp nhất, nguyên nhân gây ra nợ xấu mới
là quan trọng. Người làm tín dụng là người luôn sống chung với rủi ro, do đó
thay vì tránh né chúng thì ta cần phải đo lường rủi ro trong từng món vay. Từ
đó, ta sẽ có những giải pháp thích hợp để hạn chế hoặc sống chung với nó một
cách tốt nhất. Hiện tại, mức độ rủi ro sẽ thể hiện qua mất khả năng trả nợ khi
đến hạn, nên tôi quyết định thực hiện đề tài: “Đo lường khả năng trả nợ vay
của khách hàng cá nhân tại Ngân hàngthương mại cổ phần Đầu tư và
2

Phát triển Việt Nam Chi nhánh Bến Tre”.Đề tài này sẽ góp phần đưa ra
những tiêu chí đo lường khả năng trả nợ để nhận diện được khách hàng tốt,
góp phần tăng cường quản lý rủi ro tín dụng cho đối tượng khách hàng cá
nhân (KHCN). Đây làđối tượng khách hàng đang được khuyến khích phát
triển, đồng thời là động lực và nhiệm vụ của BIDV nói chung và BIDV Bến
Tre nói riêng trong thời gian tới.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu quan trọng của nghiên cứu là xem xét khả năng trả nợ của
khách hàngcá nhân được giải thích bởi những yếu tố nào, yếu tố nào quan
trọng nhất, mức độ tác động của các yếu tố đến khả năng trả nợ của khách
hàng cá nhân tại BIDV Bến Tre. Chính vì vậy, nhiệm vụ nghiên cứu của luận
văn tập trung vào:

+ Hệ thống lý thuyết về đo lường khả năng trả nợ của khách hàng cá
nhân tại NHTM.
+ Phân tích thực trạng khả năng trả nợ của khách hàng cá nhân và ứng
dụng mô hình logit dự báo khả năng trả nợ của khách hàng cá nhân tại BIDV
Bến Tre.
+ Dựa vào kết quả đưa ra giải pháp nâng cao khả năng nhận diện khách
hàng rủi ro trong tín dụng cá nhân tại BIDV Bến Tre.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu:
Những nhân tố tác động đến khả năng trả nợ của KHCN tại BIDVBến
Tre.
3.2 Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Khách hàng cá nhân trên địa bàn tỉnh Bến Tre, có quan
hệ tín dụng với BIDV Bến Tre.
+ Về thời gian: Số liệu chủ yếu của luận văn từ năm 2009 đến năm 2012
3

4. Phương pháp nghiên cứu
4.1 Phương pháp định tính:
Nghiên cứu sử dụng số liệu được thống kê thông qua thu thập dữ liệu có
sẵn, tiến hành lập bảng biểu, vẽ đồ thị để dễ dàng đánh giá và so sánh.Sử
dụng phương pháp phỏng vấn tay đôi để thu nhập thông tin.
4.2 Phương pháp định lượng
Ta sử dụng mô hình hồi quy Logit để thực hiện đo lường.
5. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 chương:
+Chương 1:Tổng quan về khả năng trả nợ của khách hàng cá nhân tại
các ngân hàng thương mại
+Chương 2: Đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng cá nhân tại
Ngân hàngthương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh Bến

Tre
+Chương 3: Giải pháp nâng caokhả năng nhận diện khách hàngrủi ro
trong hoạt động tín dụng cá nhân tại Ngân hàngthương mại cổ phần Đầu tư và
Phát triển Việt Nam Chi nhánh Bến Tre









4

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KHẢ NĂNG TRẢ NỢ CỦA KHÁCH
HÀNG CÁ NHÂN TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1Tổng quan về tín dụng cá nhân của Ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm
Quan hệ tín dụng ra đời và tồn tại xuất phát từ đòi hỏi khách quan của
quá trình tuần hoàn vốn để giải quyết hiện tượng dư thừa, thiếu hụt vốn diễn
ra thường xuyên giữa các chủ thể trong nền kinh tế.
Theo Mác, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ
người sở hữu sang người sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định; khi
đến hạn, người sử dụng phải hoàn trả một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban
đầu. Như vậy, theo quan điểm này tín dụng có 3 nội dung chủ yếu: tính
chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị, tính thời hạn và tính hoàn trả.
Với vai trò là trung gian tài chính, các NHTM đứng ra huy động nguồn
vốn nhàn rỗi từ những người dư thừa vốn, đồng thời phân phối lại cho những
người cần vốn trong xã hội. Quan hệ tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển

nhượng tài sản (vốn) giữa ngân hàng và các chủ thể khác trong nền kinh tế,
trong đó ngân hàng đóng vai trò vừa là người đi vay, vừa là người cho vay.
Theo khoản 14, điều 4 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010: “Cấp tín
dụng là việc thỏa thuận để các tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền theo
nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính,
bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác”. Như
vậy, tín dụng có thể thể hiện dưới các hình thức khác nhau: tín dụng bằng tiền
(cho vay), tín dụng bằng tài sản (cho thuê tài chính), tín dụng bằng chữ tín
(bảo lãnh). Tuy nhiên trong hoạt động tín dụng thì cho vay là hoạt động quan
trọng nhất và chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Nếu căn cứ vào chủ thể cho vay vốn, tín dụng có thể được chia làm 3
loại: tín dụng doanh nghiệp (tín dụng buôn bán), tín dụng cá nhân (tín dụng
5

bán lẻ) và tín dụng cho các tổ chức tài chính. Trong đó, tín dụng cá nhân là
khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu vay vốn của cá nhân, hộ gia đình.
Nhu cầu vốn của cá nhân, hộ gia đình chủ yếu là nhu cầu về cư trú: sửa chữa,
xây dựng nhà cửa; nhu cầu mua sắm tiện nghi: ô tô, xe máy… ; nhu cầu Chi
tiêu hằng ngày; nhu cầu chi đào tạo, y tế, giáo dục; nhu cầu phát triển kinh
doanh quy mô hộ gia đình…
Trên thế giới, tín dụng cá nhân đã được phát triển mạnh mẽ từđầu những
năm 80 của thế kỷ XX.Các ngân hàng không chỉ giới hạn hoạt động cấp tín
dụng đối với các khách hàng doanh nghiệp, mà đã chú trọng hơn nhiều đến
các khách hàng cá nhân. Ở Việt Nam, cho vay với các khách hàng cá nhân chỉ
bắt đầu từ những năm 1993 – 1994, thời gian đầu chỉ tập trung vào cho vay
trả góp, các sản phẩm cung ứng còn đơn điệu. Những năm gần đây, cho vay
cá nhân có xu hướng nở rộ cùng sự phát triển của kinh tế xã hội thời kì mở
cửa. Với thị trường rộng lớn hơn 88,5 triệu dân, mà trong đó chủ yếu là dân
số trẻ, với mức thu nhập ngày càng cao và phong cách sống hiện đại, nhu cầu
tiêu dùng, mua sắm lớn, mảng tín dụng cá nhân hứa hẹn là mảng kinh doanh

đầy tiềm năng và có tính cạnh tranh cao cho các ngân hàng.
1.1.2 Đặc điểm
Tín dụng cá nhân là một loại hình của tín dụng, vì vậy nó mang những
đặc điểm chung của tín dụng.
Thứ nhất, tín dụng dựa trên cở sở lòng tin. Ngân hàng chỉ cấp tín dụng
cho khách hàngcá nhân hay doanh nghiệp, khi có lòng tin vào việc khách
hàng sẽ sử dụng vốn vay đúng mục đích đã cam kết trong hợp đồng tín dụng,
hiệu quả và có khả năng trả nợ (gốc và lãi) đúng hạn.
Thứ hai, đảm bảo tính hoàn trả về thời gian và giá trị. Nguồn vốn ngân
hàng sử dụng để cho vay được lấy từ nguồn vốn huy động; do vậy, tất cả các
khoản tín dụng ngân hàng cấp cho khách hàng đều phải có thời hạn, đảm bảo
6

cho ngân hàng có thể hoàn trả vốn huy động. Để xác định thời hạn cho vay
hợp lý, ngân hàng phải căn cứ vào tính chất thời hạn nguồn vốn của mình và
quá trình luân chuyển của đối tượng cho vay. Nếu nguồn vốn của ngân hàng
ổn định thì thời hạn cho vay có thể dài hơn; và ngược lại, nếu vốn của ngân
hàng không ổn định và kỳ hạn ngắn, ngân hàng chỉ có thể cho vay với thời
hạn ngắn để đảm bảo khả năng thanh toán. Đồng thời, thời hạn cho vay phải
phù hợp với chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay. Nếu thời hạn cho vay
nhỏ hơn chu kỳ luân chuyển vốn của người đi vay, khi đó đến kỳ trả nợ mà
khách hàng vẫn chưa có nguồn để trả, gây khó khăn cho khách hàng. Nhưng
nếu thời hạn vay dài hơn chu kỳ luân chuyển vốn, khách hàng rất có thể sẽ sử
dụng vốn vay không đúng mục đích vay mà ngân hàng khó có thể kiểm soát
được, gây nhiều rủi ro cho ngân hàng. Đối với khách hàng cá nhân, thời hạn
vay thường là ngắn và trung hạn vì các khoản vay thường nhỏ, nhằm trang
trải cho các nhu cầu tiêu dùng cần thiết.
Thứ ba, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị trên
nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.Đây chính là thuộc tín riêng của tín
dụng.Người đi vay phải trả thêm một khoản lãi ngoài gốc, là chi phícủa việc

sử dụng vốn vay.Đây là nguồn để ngân hàng bù đắp chi phí hoạt động, cũng
như tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. Để thực hiện nguyên tắc này, ngân hàng
phải xác định lãi suất thực dương, hay lãi suất danh nghĩa phải lớn hơn tỷ lệ
lạm
phát (lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát).
Ngoài ra, hoạt động tín dụng cá nhân còn mang một số đặc điểm riêng
như sau:
+Quy mô: quy mô các khoản vay nhỏ nhưng số lượng các khoản vay có
số vốn tương đối và chỉ bổ sung phần còn thiếu.Tuy nhiên đối tượng vay là tất
7

cả cá nhân trong xã hội với nhu cầu hết sức đa dạng. Do đó tổng quy mô các
khoản tín dụng cá nhân là cũng khá lớn.
+Lãi suất: lãi suất cho vay cá nhân thường cao hơn lãi suất cho vay đối
với doanh nghiệp. Đối với các khoản vay cá nhân, ngân hàng thường tốn
nhiều chi phícho việc xác định thẩm định và xét duyệt vay.Số lượng các
khoản vay thì rất lớn, nhưng quy mô mỗi khoản vay lại nhỏ. Để bù đắp chi
phívà thu lợi nhuận, ngân hàng thường đặt ra mức lãi suất cao hơn so với cho
doanh nghiệp. Tuy nhiên, khách hàng quan tâm đến số tiền mà mình phải trả
hơn là lãi suất mà mình phải chịu.
+Nhu cầu vay: nhu cầu vay của khách hàng cá nhân thường nhạy cảm
theo chu kỳ kinh tế, tăng lên khi nền kinh tế mở rộng và giảm xuống khi nền
kinh tế suy thoái. Ngoài ra nhu cầu vay còn phụ thuộc nhiều vào hai biến số là
mức thu nhập và trình độ học vấn của người vay.
+Nguồn trả nợ: nguồn trả nợ của khách hàng chủ yếu phụ thuộc vào
nguồn thu nhập của họ. Nguồn trả nợ này có thể có những biến động lớn, phụ
thuộc vào quá trình làm việc, kỹ năng và kinh nghiệm đối với công việc của
họ. Sự kiểm soát các nguồn thu này nhiều khi rất khó khăn.
+Rủi ro: các khoản vay cá nhân thường có độ rủi ro cao hơn cho vay
với doanh nghiệp. Chất lượng thông tin tài chính do khách hàng cung cấp

thường không cao. Tư cách khách hàng là yếu tố quan trọng, quyết định sự
hoàn trả của khoản vay, song nó lại là yếu tố định tính, rất khó xác định.
Ngoài ra, do nguồn trả nợ của khách hàng cá nhân chủ yếu là từ thu nhập của
người vay, có thể có những biến động lớn. Khả năng trả nợ của khách hàng
còn phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe của khách hàng, đặc biệt nếu người vay
chết ngân hàng sẽ khó có thể thu hồi nợ.
1.1.3 Phân loại tín dụng cá nhân
8

Hiện nay cùng với xu thế phát triển và cạnh tranh, các ngân hàng đều
nghiên cứu đưa ra nhiều hình thức tín dụng nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu
của khách hàng, từ đó đa dạng hóa các danh mục đầu tư, thu hút khách hàng,
tăng trưởng lợi nhuận, phân tán rủi ro và đứng vững trong cạnh tranh. Đối với
khách hàng cá nhân, ngân hàng cũng cung cấp rất nhiều loại hình tín dụng,
đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Về cơ bản, các tiêu chí để phân loại
tín dụng cá nhân cũng giống các tiêu chí để phân loại tín dụng chung. Có thể
phân loại tín dụng cá nhân theo một số tiêu chí sau:
1.1.3.1 Căn cứ vào thời hạn cho vay
+Tín dụng ngắn hạn: là tín dụng có thời hạn đến 1 năm. Nguồn vốn
này được sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động cá nhân và hộ gia
đình.Rủi ro cho ngân hàng là khá nhỏ khi cho vay ngắn hạn, vì trong thời gian
ngắn hạn ít có biến động xảy ra và nếu có ngân hàng cũng có thể dự tính
được.
+Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ trên 1 năm đến 5
năm. Đối với cá nhân, tín dụng trung hạn phục vụ cho các nhu cầu có thời hạn
tương đối dài như mua ô tô, xây dựng nhà cửa…
+Tín dụng trung dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Đối
với cá nhân, tín dụng dài hạn được cung cấp khi quy mô khoản vay lớn, chủ
yếu phục vụ cho nhu cầu mua sắm đất đai, nhà cửa. Nhìn chung, đối với ngân
hàng, tín dụng dài hạn tiềm ẩn rủi ro lớn.

1.1.3.2 Căn cứ vào mục đích tín dụng
Các sản phẩm cho vay dành cho khách hàng cá nhân thường được phát
triển và thiết kế tương tự như sản phẩm tín dụng truyền thống nhưng có
những nét đặc thù riêng của từng NHTM. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn
của khách hàng cá nhân thành các loại:
9

+Cho vay bất động sản: cho vay bất động sản là sản phẩm tín dụng
dành cho khách hàng cá nhân nhằm đáp ứng nhu cầu mua nhà, hợp thức hóa
nhà đất, xây dựng sửa chữa nhà cửa của khách hàng nhưng chưa thể thực hiện
do khó khăn về tài chính.
+Cho vay tiêu dùng: cho vay tiêu dùng là loại cho vay nhằm đáp ứng
nhu cầu nhất định, chủ yếu là công nhân viên chức hưởng lương và có việc
làm ổn định. Số lượng khách hàng vay thường rất đông.
+Cho vay sản xuất kinh doanh: cho vay sản xuất kinh doanh là loại cho
vay nhằm bổ sung vốn thiếu hụt trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
những cá nhân hay hộ gia đình sản xuất kinh doanh cá thể với quy mô nhỏ. Số
lượng khách hàng có nhu cầu vay là khá lớn, nhưng doanh số cho vay không
cao do trình độ và thời gian của khách hàng thường hạn chế nên nhiều khi
khách hàng ngại tiếp xúc với ngân hàng. Muốn đẩy mạnh loại hình này, ngân
hàng có đội ngũ nhân viên tín dụng năng động và linh hoạt, có thể đến tận nơi
tiếp xúc khách hàng, thay vì thụ động ngồi chờ khách hàng tìm đến ngân
hàng.
+Cho vay nông nghiệp: thực ra cho vay nông nghiệp cũng là cho vay
sản xuất kinh doanh nhưng tập trung vào các hộ sản xuất nông nghiệp như
trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản. Cho vay nông nghiệp ngoài việc
đáp ứng nhu cầu cho bà con nông dân còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là
góp phần thay đổi tập quán làm ăn, chuyển từ sản xuất nhỏ phục vụ thị trường
địa phương sang sản xuất quy mô lớn. Có như vậy mới thay đổi được căn bản
đời sống của nông dân ở nông thôn.

1.1.3.3 Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ
+Tín dụng trực tiếp: là hình thức ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho
khách hàng có nhu cầu vay vốn, đồng thời khách hàng hoàn trả nợ vay trực
tiếp cho ngân hàng. Ưu điểm của hình thức tài trợ này là: rất linh hoạt vì có sự
10

đàm phán giữa ngân hàng và khách hàng, quyết định cho vay hay không hoàn
toàn cho ngân hàng quyết định, ngoài ra ngân hàng có thể sử dụng triệt để
trình độ kiến thức kinh nghiệm của cán bộ tín dụng.
+Tín dụng gián tiếp: là hình thức ngân hàng cấp tín dụng qua một trung
gian ủy thác. Đối với khách hàng cá nhân, trung gian ủy thác có thể là nhà bán
lẻ hàng hóa, dịch vụ.Theo hình thức này, ngân hàng sẽ ký kết hợp đồng với
chính nhà cung cấp, thực ra là mua những khoản nợ, để trên cơ sở đó nhà
cung cấp sẽ chịu bán hàng hóa cho người tiêu dùng. Hợp đồng ký kết giữa
ngân hàng và nhà cung cấp quy định rõ điều kiện bán chịu như: đối tượng
khách hàng được bán chịu, loại hàng được bán chịu, số tiền được bán
chịu…Thông qua những điều kiện đó mà nhà cung cấp sẽ thỏa thuận với
khách hàng của mình về việc bán chịu hàng hóa.
1.1.3.4 Căn cứ vào bảo đảm tín dụng
+Tín dụng có bảo đảm: là tín dụng có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc có
bảo lãnh của người thứ ba. Hình thức tín dụng này áp dụng đối với những
khách hàng không đủ uy tín, khi vay vốn phải có tài sản đảm bảo hoặc phải có
bảo lãnh. Tài sản bảo đảm hoặc bảo lãnh của người thứ ba là căn cứ pháp lý
để ngân hàng có thêm nguồn thu dự phòng khi nguồn thu chính (dòng tiền)
của con nợ thiếu hụt, tạo áp lực buộc con nợ phải trả nợ, giảm thiểu rủi ro cho
ngân hàng. Như đã trình bày ở phần đặc điểm, hầu hết các khoản tín dụng cấp
cho cá nhân là tín dụng có bảo đảm.
+Tín dụng không có bảo đảm: là tín dụng không có tài sản cầm cố, thế
chấphoặc không có bảo lãnh của người thứ ba. Hình thức tín dụng này chủ
yếu được áp dụng đối với các khách hàng có việc làm và thu nhập ổn định,

thu nhập ngoài việc trang trải các chi tiêu thường xuyên còn có tích lũy để trả
nợ vay (công chức, viên chức trong biên chế nhà nước, nhân viên có hợp
đồng lao động).
11

1.1.3.5Căn cứ vào phương thức hoàn trả nợ vay
+Tín dụng trả góp: Theo hình thức tài trợ này, thì người đi vay hoàn trả
cho ngân hàng (gồm cả gốc và lãi) theo nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất
định do ngân hàng quy định ( tháng, quý,…). Hình thức áp dụng cho các
khoản vay có giá trị lớn hoặc những khách hàng mà thu nhập định kỳ của họ
không đủ để thanh toán hết một lần số nợ vay.
+Tín dụng hoàn trả một lần: Đây là hình thức tài trợ mà theo đó số tiền
vay của khách hàng sẽ được thanh toán một lần khi hợp đồng tín dụng đến
hạn. Đặc điểm của các khoản tín dụng này thường có quy mô nhỏ, thời hạn
cho vay ngắn.
1.1.4Các rủi ro trong tín dụng cá nhân
Rủi ro ngân hàng là những biến cố không mong đợi xảy ra, gây mất
mát thiệt hại tài sản, thu nhập của ngân hàng trong quá trình hoạt động. Rủi ro
thất thoát tài sản khi cấp tín dụng cá nhân có thể phát sinh một bên đối tác (cá
nhân vay vốn) không thực hiện nghĩa vụ tài chính hoặc nghĩa vụ theo hợp
đồng đối với ngân hàng, bao gồm cả việc không thực hiện thanh toán nợ cho
dù đấy là nợ gốc nợ lãi khi khoản nợ đến hạn.
Việc phân loại rủi ro tín dụng cá nhân hợp lý sẽ giúp nâng cao khả năng
ngân hàng có thể xác định rõ ràng vị trí của từng loại rủi ro, nguyên nhân dẫn
đến hệ thống rủi ro.
Rủi ro tín dụng cá nhân dẫn đến nợ quá hạn do nhiều nguyên nhân và
tùy vào tiêu thức phân loại, mục đích nghiên cứu hoặc đứng dưới giác độ
khác nhau, người ta có thể phân loại theo những nhóm nguyên nhân khác
nhau. Những nguyên nhân có thể gây ra những ảnh hưởng xấu đến hoạt động
của khách hàng cá nhân. Lĩnh vực hoạt động của cá nhân thường có phạm vi

nhỏ, chỉ một thay đổi nhỏ cũng có thể gây ra những tác động mạnh mẽ đến
12

hoạt động đó. Từ đó, dẫn đến khả năng không hoàn trả được nợ của khách
hàng, rủi ro tín dụng xảy ra.
Thứ nhất, các nguyên nhân khách quan
+Rủi ro do thay đổi cơ chế chính sách như: chính trị, điều chỉnh chính
sách, chế độ pháp luật của nhà nước hoặc thay đổi địa giới hành chính các địa
phương, sự sáp nhập hay tách ra của các bộ ngành trong nền kinh tế. Những
thay đổi và điều chỉnh này tuy cần thiết trong quá trình phát triển của đất
nước, nhưng đôi khi cũng có những tác động tiêu cực đến quan hệ tín dụng
giữa ngân hàng và khách hàng của mình.
+Rủi ro do môi trường pháp lý: Do thiếu hoặc không thể biết hết các
thông tin về khách hàng, ngân hàng thường phải đối mặt với các rủi ro như
sau:
Rủi ro do sự thiếu chính xác trong cung cấp thông tin cho ngân hàng
của các cơ quan chức năng có liên quan, hoặc do thiếu các quy định, chế tài
cần thiết của nhà nước trong việc cung cấp thông tin như che đậy thông tincá
nhân không tốt của khách hàng, các quy định về cung cấp thông tin và sử
dụng thông tin.
+Rủi ro đạo đức: Mặc dù ngân hàng đã cố gắng kiểm tra kỹ càng,
nhưng khách hàng vẫn cố tình vi phạm, che dấu thông tin hoặc làm sai lệch
thông tin về mình như: cố tình lập phương án kinh doanh thiếu trung thực, cố
tình sử dụng vốn sai mục đích, làm giả hoá đơn,…
+Rủi ro do nhân tố quốc tế: Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa, tín
dụng trong nước có mối quan hệ chặt chẽ với tín dụng quốc tế, dễ bị ảnh
hưởng bởi tình hình kinh tế, chính trị quốc tế, các chính sách tài chính của các
quốc gia.
Thứ hai, các nguyên nhân chủ quan
13


+Rủi ro do ngân hàng không có chính sách cho vay rõ ràng, phù hợp
với thực trạng nền kinh tế. Chính sách cho vay của một ngân hàng là kim chỉ
nam cho hoạt động tín dụng của ngân hàng đó. Chính sách cho vay thống
nhất, đầy đủ và đúng đắn sẽ giúp cán bộ tín dụng xác định phương hướng khi
thực hiện nhiệm vụ của mình, nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng. Ngược
lại, một chính sách tín dụng không đầy đủ, đúng đắn và thống nhất sẽ làm cho
hoạt động tín dụng lệch lạc, dẫn đến việc cấp tín dụng không đúng đối tượng,
tạo ra kẽ hở cho người sử dụng vốn, dẫn đến nợ quá hạn.
+Rủi ro do tính toán không chính xác hiệu quả đầu tư dự án xin vay,
dẫn đến các quyết định sai lầm trong cho vay. Cán bộ tín dụng chưa được đào
tạo đầy đủ, không am hiểu về lĩnh vực kinh doanh mà mình đang cho vay
hoặc đôi khi, do chính cán bộ tín dụng cố ý cho vay, mặc dù biết dự án cho
vay không hiệu quả, gây rủi ro cho ngân hàng.
+Rủi ro do ngân hàng đánh giá chưa đúng mức về khoản vay, về người
đi vay hoặc do chủ quan tin tưởng vào khách hàng quen của mình mà coi nhẹ
khâu kiểm tra về tình hình tài chính, khả năng thanh toán hiện tại và tương lai,
nguồn trả nợ… để có sự phân tích, đánh giá khách hàng cá nhân một cách
khách quan, đúng đắn.
+Rủi ro ngân hàng thiếu một cơ chế theo dõi, quản lý rủi ro, thiếu hạn
mức tín dụng tối đa cho từng khách hàng thuộc các ngành nghề, lĩnh vực sản
phẩm, địa phương khác nhau để phân tán rủi ro, chưa đủ các tiêu thức để đo
lường rủi ro, rủi ro tối đa cho phép chấp nhận đối với từng khách hàng, nhóm
khách hàng thuộc các ngành khác nhau.
1.2Khả năng trả nợ của khách hàng cá nhân
1.2.1 Khái niệm khả năng trả nợ
14

Định nghĩa về khả năng đảm bảo trả nợ: Có nhiều cách gọi khác nhau
về khả năng đảm bảo trả nợ như xác suất trả được nợ, khả năng trả nợ. Cũng

như có nhiều cách gọi độc lập với định nghĩa trên như vỡ nợ, mất khả năng
thanh toán, không trả được nợ.
Vay nợ và trả nợ là hiện tượng kinh tế khách quan trong nền kinh tế thị
trường hiện nay.Nếu như việc vay nợ mà không trả nợ diễn ra sẽ dẫn đến hậu
quả là sự xung đột lợi ích của các chủ thể tham gia vào quan hệ kinh tế
này.Vậy, khi một Ngân hàng cho một khách hàng vay đều tìm những hậu quả
khi khách hàng không trả nợ, đây chính là rủi ro của Ngân hàng.Để quản trị
rủi ro này, Ngân hàng cần xác định được khả năng về tài chính và nhân
thân… của khách hàng để đánh giá được khả năng trả nợ của khách hàng.
1.2.2 Các nhân tố tác động đến khả năng trả nợ của khách hàng cá
nhân
Theo công trình nghiên cứu của Chapman (1940) thì các nhân tố có
thểkiểm tra khả năng trả nợ của KHCN bằngmột số đặcđiểm nhân thân của
từng khách hàng như tuổi tác,giới tínhvà tình trạnggia đình, vàbởivị trínghề
nghiệphoặckinh tếcủa người vay,thu nhậpvàgiá trị tài sản, ngoài ra nghiên cứu
cho rằng yếu tố chính quyết định khả năng trả nợ của KH là sự sẳn lòng trả nợ
của khách hàng.
Theo Vương Quân Hoàng và ctg (2006), ông đã dùng phương pháp
thống kê bằng mô hình hồi quy Logit trên 1.727 khách hàng thì các biến độc
lập: mức thu nhập hàng tháng, chênh lệch thu nhập và chi tiêu và giá trị tài
sản khách hàng có ảnh hưởng đồng biến với khả năng trả nợ của KHCN; các
biến còn lại như: tuổi tác, trình độ học vấn, loại hình công việc, tình trạng hôn
nhân, nơi cư trú, thời gian cư trú, số người số phụ thuộc, phương tiện đi lại có
tác động ngược chiều đối với khả năng trả nợ.
15

Theo Norvilitis và ctg (2003), có những phát hiện mâu thuẫn trong lý
thuyết về những yếu tố mà người ta nghĩ rằng làm cho một người vỡ nợ.Một
số nghiên cứu kết luận rằng những người có nhiều nợ không khác với những
người không nhiều về mặt nhân khẩu gia đình.Còn trong nghiên cứu của

mình, Black and Morgan (1998) nói rằng nợ xấu và vỡ nợ thường liên quan
tới các yếu tố xã hội và các yếu tố về nhân khẩu học (như quy mô gia đình)
của người sử dụng tín dụng. Thậm chí, Livingston và Lunt (1992) đã cho thấy
những người có thu nhập cao và ít con có khả năng mắc nợ cao hơn. Lea và
ctg (1993) cũng đưa ra kết luận: nợ nhiều hay không cũng là do yếu tố kinh
tế, xã hội và tâm lý của người vay. Cả hai nghiên cứu đều cho thấy rằng nợ là
tương quan mạnh mẽ với các yếu tố kinh tế. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu
khác, Crook (2001) báo cáo rằng thu nhập, việc sở hữu nhà và quy mô hộ gia
đình làm tăng mức nợ ở Mỹ. Và theo Vương Quân Hoàng (2006) tổng giá trị
của các khoản nợ có ảnh hưởng đến khả năng trả nợ và khả năng sử dụng hiệu
quả tín dụng của cá nhân.
Theo Zelizer (1994), nam giới và phụ nữ rất khác nhau về việc tiếp
nhận, sử dụng và quan niệm về giá trị của tiền bạc. Trong nghiên cứu của
mình, Lea và ctg (1995) cho thấy rằng những người không trả nợ thường là
phụ nữ hơn là đàn ông.Xiao và ctg (1995) phát hiện ra rằng người đàn ông có
thái độ hợp tác hơn phụ nữ trong mối quan hệ với ngân hàng.Sự khác biệt giới
tính được kỳ vọng sẽ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng khi sử
dụng sản phẩm tín dụng.
Qua những nghiên cứu trước đây, các yêu tố tác động đến khả năng trả
nợ của khách hàng ta có thể tổng kết thành 4 nhóm chính:
 Thông tin về bản thân khách hàng
16

Nghiên cứu về nhân thân một cá nhân nhằm đánh giá được khả năng cơ
bản và điều kiện nội tại để giải quyết những khó khăn, thực hiện cam kết của
họ. Các thông tin đó gồm:
+ Độ tuổi;
+ Giới tính;
+ Tình trạng hôn nhân;
+ Trình độ học vấn;

+ Chức vụ hiện tại trong công việc;
+ Thời gian họ gắn bó với công việc;
+ Thời gian công tác với công việc hiện tại;
+ Tiền án tiền sự.
 Thông tin về điều kiện sống của khách hàng
Nghiên cứu về điều kiện sống của khách hàng nhằm đánh giá được các
tác động xung quanh, chi phối đến khả năng tài chính và nhận thức của KH
đó. Những thông tin về điều kiện sống bao gồm:
+ Quy mô hộ gia đình;
+ Số người đi làm của gia đình;
+ Số người thất nghiệp hoặc không trong tuổi lao động của gia đình;
+ Sở hữu nhà;
+ Sở hữu tài sản khác (như xe, điện thoại);
+ Đặc điểm nơi cư trú của KH;
+ Loại hình công việc của KH.
 Tài chính cá nhân
Phân tích thông tin tài chính và các mối liên hệ tài chính là quan trọng
nhất với xác định có cho khách hàng vay hay không, vì đây là cơ sở chính cho
thấy khả năng trả được nợ tín dụng của KH, từ đó ra quyết định cấp hạn mức
cho KH. Các chỉ tiêu tài chính cần được phân tích:
17

+ Thu nhập ròng hàng tháng;
+ Tiết kiệm;
+ Giá trị tổng tài sản nợ (tổng dư nợ);
+ Giá trị tài sản đảm bảo;
+ Mối quan hệ với ngân hàng;
+ Số dịch vụ khác đang sử dụng;
+ Số sản phẩm tín dụng khác đang sử dụng;
+ Hình thức Chi lương;

+ Số lần vay nợ mới.
 Những yếu tố kinh tế vi mô, vĩ mô, yếu tô môi trường tác động:
+ Chính sách tiền tệ
+ Khủng hoảng kinh tế
+ Thiên tai, lũ lụt, hoả hoạn,…
1.2.3Phương pháp đo lường khả năng trả nợ
1.2.3.1 Mô hình định tính đo lường khả năng trả nợ của khách hàng
cá nhân
Mô hình 6C
Phương pháp này nghiên cứu 6 tiêu chí của người xin vay, bao gồm: tư
cách (Character), năng lực (Capacity), thu nhập (Cash), bảo đảm (Collateral),
điều kiện (Conditions) và kiểm soát (Control). Tất cả các tiêu chí này đều
phải được đánh giá tốt, thì khoản vay mới được xem là khả thi.
+ Tư cách người vay (Character): cán bộ tín dụng phải chắc chắn tin
rằng người xin vay có mục đích tín dụng rõ ràng và thiện chí nghiêm chỉnh trả
nợ khi đến hạn. Nếu cán bộ tín dụng không biết chính xác tại sao khách hàng
lại đến xin vay tiền, thì phải làm rõ mục đích xin vay là gì.Khi mục đích xin
vay đã rõ ràng, cán bộ tín dụng phải xác định xem có phù hợp với chính sách
tín dụng hiện hành của ngân hàng hay không. Thậm chí, cho dù mục đích xin
18

vay là tốt, thì cán bộ tín dụng cũng phải xác định xem người vay có tỏ thái độ
trách nhiệm trong việc sử dụng vốn vay, trả lời các câu hỏi một cách trung
thực, thiện chí và nỗ lực hết sức để hoàn trả nợ vay khi đến hạn.
+ Năng lực pháp lý của người vay (Capacity): đối với KHCN thì cá
nhân đó phải có: (i) năng lực pháp luật dân sự, nghĩa là phải có quyền và
nghĩa vụ dân sự theo pháp luật; (ii) năng lực hành vi dân sự, tức khả năng của
cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện và nghĩa vụ dân sự.Cán bộ
tín dụng phải chắc chắn rằng người vay phải có đủ năng lực hành vi và năng
lực pháp lý để ký kết hợp đồng tín dụng.

+ Thu nhập của người vay (Cash): tiêu chí thu nhập của người vay tập
trung vào câu hỏi: Người vay có khả năng tạo ra đủ tiền để trả nợ? Nhìn
chung ngân hàng thường quan tâm nhất đến việc người vay có khả năng tạo
tiền từ việc bán hàng hay từ thu nhập khác. Đây là nguồn thu căn bản để các
cá nhân trả nợ cho ngân hàng.
+ Bảo đảm tiền vay (Collateral): khi đánh giá khía cạnh bảo đảm tiền
vay, cán bộ tín dụng phải tự hỏi: người vay có sở hữu hợp pháp một giá trị tài
sản nào có chất lượng để hỗ trợ cho khoản vay không? Các ngân hàng coi tài
sản đảm bảo là nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn thu nợ thứ nhất (thu nhập của
người vay) không thể thanh toán được nợ. Cán bộ tín dụng phải đặc biệt chú ý
đến các yếu tố nhạy cảm như: tuổi thọ, điều kiện và mức độ chuyên dụng của
tài sản người vay.
+ Các điều kiện (Conditions): cán bộ tín dụng và nhà phân tích tín
dụng cần phải biết được xu hướng hiện hành về công việc và ngành nghề hiện
hành của người vay, cũng như khi điều kiện kinh tế thay đổi sẽ có ảnh hưởng
như thế nào đến khoản tín dụng. Để đánh giá xu hướng ngành và các điều
kiện ngân hàng phải duy trì các file dữ liệu thông tin gồm các mẫu báo cáo
liên quan, các bài tạp chí, nghiên cứu…
19

+ Khả năng kiểm soát khoản vay (Controls): Ngân hàng có kiểm soát
được việc khách hàng sử dụng tiền vay không? Tập trung vào những vấn đề
như: các thay đổi trong luật pháp và quy chế có ảnh hưởng xấu đến người
vay? Yêu cầu tín dụng của người vay có đáp ứng được tiêu chuẩn của ngân
hàng và nhà quản lý về chất lượng tín dụng?
Ngoài phương pháp phân tích 6C, các ngân hàng thường sử dụng
phương pháp phân tích định tính tương tự khác là phân tích CAMPARI, gồm
các nội dung: Tư cách người vay (Character), năng lực người vay (Ability),
lãi cho vay (Margin), mục đích vay (Purpose), số tiền vay (Amount), hoàn trả
( Repayment) và bảo đảm (Insurance).

Tuy nhiên, cả hai phương pháp phân tích: 6C và CAMPARI đều có
nhược điểm là phân tích định tính, các quyết định mang tính chất phán xét
chủ quan của cán bộ tín dụng.
1.2.3.2Mô hình định lượng đo lường khả năng trả nợ của khách hàng
cá nhân
a. Phương pháp điểm số tín dụng
Mô hình điểm số tiêu dùng: đây là phương pháp được nhiều ngân hàng
sử dụng để xử lý các đơn xin vay của khách hàng cá nhân. Yêu cầu tín dụng
của khách hàng được xử lý bằng hệ thống chấm điểm tự động. Nhiều ngân
hàng áp dụng mô hình cho điểm để xử lý đơn xin vay của người tiêu dùng
như: mua xe hơi, trang thiết bị gia đình, bất động sản… Các yếu tố quan trọng
trong mô hình cho điểm tín dụng bao gồm: hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái
tài sản, số người phụ thuộc, sở hữu nhà, thu nhập, điện thoại cố định, tài
khoản cá nhân, thời gian làm việc.
Các yếu tố quan trọng liên quan đến khách hàng được sử dụng trong
mô hình bao gồm: hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, số người phụ
thuộc, sở hữu nhà, thu nhập, điện thoại cố định, số loại tài khoản cá nhân, thời
20

gian công tác. Nhờ mô hình này việc phân tích các khách hàng gồm nhiều yếu
tố được đơn giản hóa chỉ còn một yếu tố là điểm tín dụng của khách hàng.
Mô hình này được sử dụng từ 7 – 12 hạng mục, mỗi hạng mục được
cho điểm từ 1 – 10.
+ Ưu điểm: Mô hình này loại bỏ được sự phán xét chủ động trong quá
trình cho vay giảm đáng kể thời gian ra quyết định tín dụng.
+ Nhược điểm: Mô hình không thể tự điều chỉnh một cách nhanh
chóng để thích ứng với các thay đổi trong nền kinh tế và cuộc sống gia đình.
b. Mô hình điểm số tín dụng cá nhân của FICO.
Điểm số tín dụng (Credit score) cá nhân là một phương tiện kiểm soát
tín dụng được gắn cho mỗi cá nhân tại một số nước phát triển giúp tổ chức tín

dụng ước lượng mức rủi ro khi cho vay. Điểm tín dụng càng thấp thì mức rủi
ro của nhà cho vay càng cao. Fair Isaac Corp đã xây dựng mô hình điểm số
tín dụng FICO thấp nhất là 300 và cao nhất là 850 áp dụng cho cá nhân dựa
vào tỷ trọng của 5 chỉ số phân tích được trình bày trong Bảng 1.1.
Bảng 1.1 : Tỷ trọng các chỉ tiêu đánh giá trong mô hình điểm số tín dụng
FICO
Tỷ trọng Tiêu chí đánh giá
35%
Lịch sử trả nợ (Payment history): Thời gian trễ hạn càng dài và
số tiền trễ hạn càng cao thì điểm số tín dụng càng thấp.
30%
Dư nợ tại các tổ chức tín dụng (Amounts owed): Nợ quá nhiều
so với mức cho phép đặc biệt là đối với thẻ tín dụng sẽ làm giảm
điểm số tín dụng.
15%
Độ dài lịch sử tín dụng (Length of credit history): Thông tin
càng nhiều năm càng đáng tin cậy và điểm số tín dụng sẽ càng
21

cao.
10%
Số lần vay nợ mới (New credit): Vay nợ thường xuyên bị xem là
dấu hiệu có khó khăn về tài chính nên điểm số tín dụng càng
thấp.
10%
Các loại tín dụng được sử dụng (Types of credit used): Các loại
nợ khác nhau sẽ được tính điểm số tín dụng khác nhau.
Mô hình điểm số tín dụng FICO được áp dụng rộng rãi tại Mỹ do các
thông tin liên quan đến tình trạng tín dụng của mọi người có thể được ngân
hàng kiểm tra dễ dàng qua các công ty dữ liệu tín dụng (Credit reporting

companies). Công ty dữ liệu tín dụng thực hiện ghi nhận và cập nhật thông tin
từ các tổ chức tín dụng, phân tích và cho điểm đối với từng người.Theo mô
hình điểm số tín dụng của FICO thì người có điểm số tín dụng ở mức 700
được xem là tốt, đối với cá nhân có điểm số tín dụng thấp hơn 620 sẽ có thể bị
ngân hàng e ngại khi xét cho vay.
c. Mô hình phân tích đặc biệt (DA).
Mô hình phân tích đặc biệt được xây dựng trên cơ sở phương pháp DA.
Mục tiêu chung của DA trong XHTD là phân biệt giữa cá nhân có nguy cơ
không trả được nợ và có khả năng trả nợ một cách khách quan, chính xác
nhất, bằng việc sử dụng hàm phân biệt; trong đó, biến số là các chỉ tiêu tài
chính cá nhân. Mục tiêu chính là tìm kiếm một hệ thống các tổ hợp tuyến tính
của các biến nhằm phân biệt tốt nhất các biến, các cá thể trong mỗi nhóm gần
nhau nhất và các nhóm được phân biệt tốt nhất (xa nhau nhất).
Các giả thiết của mô hình:
+ Giả thiết 1: kích thước của mỗi nhóm phải lớn hơn số biến độc lập
hay biến dự báo và phải đủ lớn. Số biến độc lập lớn nhất là (n – 2); trong đó n
là kích thước mẫu.
22

+ Giả thiết 2: Các biến độc lập có phân phối chuẩn.
+ Giả thiết 3: Ma trận hiệp phương sai là thuần nhất.
+ Giả thiết 4: Giữa các biến độc lập không có quan hệ tuyến tính.
Nhận xét:
Trong thực hành mô hình phân tích phân biệt được vận dụng khá nhiều
trong XHTD (đã được ứng dụng vào những năm 1930).Tuy nhiên, nếu dữ liệu
là định tính thì việc áp dụng DA là không thể thực hiện được.Mô hình này chỉ
thực sự phù hợp cho việc phân tích số liệu là các chỉ tiêu tài chính.Khi đánh
giá tính thích hợp của mô hình DA thì điều kiện cần thiết là việc kiểm định
xem nó có thỏa mãn các giả thiết toán học hay không, đặc biệt là tính phân
phối chuẩn của các nhân tố liên quan tới khả năng trả nợ.Nếu giả thiết về tính

phân phối chuẩn không được thỏa mãn, thì kết quả mô hình là không tối ưu và
ít có ý nghĩa trong sử dụng cũng như đạt được sự công nhận.
Một lợi thế của việc sự dụng mô hình phân tích đặc biệt so với thủ tục
phân loại khác là hàm phân biệt có dạng tuyến tính hệ số riêng được diễn tả
bằng thuật ngữ kinh tế.
d. Mô hình hồi quyLogit.
Mô hình hồi quy Logit sử dụng biến phụ thuộc dạng nhị phân để ước
lượng xác suấtmột sự kiện sẽ xảy ra với những thông tin của biến độc lập mà
ta có được. Có rất nhiều hiện tượng trong tự nhiên chúng ta cần đoán khả
năng xảy ra một sự kiện nào đó mà ta quan tâm (chính là xác suất xảy ra), ví
dụ sản phẩm mới có được chấp nhận hay không, người vay trả được nợ hay
không, mua hay không mua….Sau đây là một số thông tin về mô hình hồi quy
Logit:
Thuật ngữ “Hồi quy” do Francis Galton đưa ra lần đầu tiên. Phân tích
hồi qui là một trong những công cụ cơ bản của kinh tế lượng.Phân tích hồi
quy là nghiên cứu sự phụ thuộc của một biến (biến phụ thuộc hay biến được
23

giải thích) vào một hay nhiều biến khác (biến độc lập hay biến giải thích), với
ý tưởng ước lượng hay dự báo giá trị bình quân (hay trung bình của tổng thể)
biến phụ thuộc. Trên cơ sở các giá trị biết trước hay cố định các biến giải
thích.
Mô hình logit là một mô hình nhị thức dùng để tính xác suất của các
biến phụ thuộc, với biến phụ thuộc là các chỉ số đặc trưng của đất nước, chỉ số
này được tính nhờ vào các biến số kinh tế ở trong quá khứ và hiện tại. Mô
hình không có bất cứ giả thiết nào về phân phối của các biến độc lập, kiểm
định thống kê không phức tạp, có thể điều chỉnh hàm phi tuyến dễ dàng, các
biến độc lập định tính thông qua việc thiết lập biến giả có thể chuyển thành
định lượng. Từ đó có thể được ứng dụng rất nhiều trong thực tiễn như áp
dụng vào các chỉ tiêu tài chính, phi tài chính, kinh tế, sản xuất… Các chỉ tiêu

thông qua đó có thể được lượng hóa nhằm so sánh, phân loại và xếp hạng.
Mô hình Logit, các c đị ằngP
i
được xá nh b :
P
i
=

(∗)

(∗
=

∗

∗
=

∗

∗
(*)
X=(1, X
1
); X
i
=(1,X
1i
); β = (β
0

, β
1
)
Lấy log cơ số e hai vế của g trình (*) ta được: phươn
Log
e
[
()
()
]= β
0
+ β
1i
X
i

Vì Y chỉ nhận một trong hai giá trị 0 và 1, Y có phân phối nhị thức, nên
hàm hợp lý với mẫu kích thước n.
Khi biến phụ thuộc ở dạng nhị phân thì nó không thểđược nghiên cứu
với dạng hồi quy thông thường,vì nó sẽ xâm phạm các giả định, rất dễ thấy là
khi biến phụ thuộc chỉ có hai biểu hiện thì thật không phù hợp khi giả định
rằng phần dư có phân phối chuẩn, mà thay vào đó nó sẽ có phân phối nhị
thức, điều này sẽ làm mất hiệu lực thống kê của các kiểm định trong phép hồi
quy thông thường của chúng ta. Một khó khăn khác khi dùng hồi quy tuyến

×