Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào giá nhập khẩu và các nhân tố ảnh hưởng tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (615.49 KB, 62 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
oOo


TÔN THẤT TOÀN


TRUYỀN DẪN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀO
GIÁ NHẬP KHẨU VÀ CÁC NHÂN TỐ
ẢNH HƯỞNG TẠI VIỆT NAM




LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ





TP.Hồ Chí Minh - Tháng 9/2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
oOo


TÔN THẤT TOÀN

TRUYỀN DẪN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀO
GIÁ NHẬP KHẨU VÀ CÁC NHÂN TỐ


ẢNH HƯỞNG TẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số : 60340201


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. PHAN THỊ BÍCH NGUYỆT





TP.Hồ Chí Minh - Tháng 9/2013


LỜI CẢM ƠN

Trước hết tác giả xin gửi lời cám ơn đến các Thầy cô của Trường Đại học
Kinh tế TP. HCM đã tận tình giảng dạy trong thời gian tác giả học tập và nghiên
cứu tại trường. Tác giả cảm ơn chân thành đến người hướng dẫn khoa học, PGS.
TS. Phan Thị Bích Nguyệt, về những ý kiến đóng góp, những chỉ dẫn có giá trị
giúp tác giả hoàn thành luận văn.
Tác giả xin gửi lời cám ơn đến gia đình, đồng nghiệp và bạn bè đã hết lòng
ủng hộ và động viên tác giả trong suốt thời gian thực hiện luận văn này.


Tp. Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2013
Học viên

Tôn Thất Toàn


LỜI CAM ĐOAN

Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tác giả với sự
hướng dẫn của PGS.TS Phan Thị Bích Nguyệt. Số liệu thống kê được lấy từ
nguồn đáng tin cậy, nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn này chưa từng
được công bố trong bất cứ công trình nào cho tới thời điểm hiện nay.

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 09 năm 2013
Tác giả
Tôn Thất Toàn


MỤC LỤC
Trang
Tóm tắt 1
1. TỔNG QUAN VỀ TRUYỀN DẪN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 2
1.1. Khái niệm 2
1.2. Mối quan hệ giữa truyền dẫn tỷ giá và giá hàng hóa nhập khẩu 2
1.3. Cơ chế truyền dẫn tỷ giá hối đoái 3
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ truyền dẫn tỷ giá hối đoái 5
1.5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu truyền dẫn tỷ giá hối đoái 6
2. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY 7
2.1. Các nghiên ở các nước phát triển 7
2.2. Các nghiên cứu ở các nước đang phát triển 9
2.3. Các nghiên cứu trong nước 11
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 13
3.1. Mô hình nghiên cứu 13

3.2. Dữ liệu nghiên cứu 14
3.3. Kiểm định nghiệm đơn vị 15
3.4. Kiểm định đồng liên kết 24
4. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM 30
4.1. Ước lượng hệ số truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào giá nhập khẩu trong dài hạn 30
4.2. Những nhân tố kinh tế vĩ mô ảnh hưởng đến hệ số truyền dẫn tỷ giá hối đoái . 35
5. KẾT LUẬN 50
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO






DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

- CPI: Chỉ số giá tiêu dùng
- DOLS: Dynamic Ordinary Least Squares
- ERPT: Truyền dẫn tỷ giá hối đoái
- GSO: Tổng cục thống kê
- IMF: Quỹ tiền tệ quốc tế
- IMP: Chỉ số giá nhập khẩu
- OLS: Ordinary Least Squares
- PPI: Chỉ số giá sản xuất
- USCPI: Chỉ số giá tiêu dùng của Mỹ
- USPPI: Chỉ số giá sản xuất của Mỹ
- USD: Đô la Mỹ
- VND: Đồng Việt Nam
- WCPI: Chỉ số giá tiêu dùng quốc tế





DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
- Bảng 3.1: Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị 15
- Bảng 3.2: Kết quả kiểm định đồng liên kết theo phương pháp Johansen và Juselius
(1990) 25
- Bảng 4.1: Mức độ truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào giá nhập khẩu trong dài hạn bằng
mô hình Dynamic Ordinary Least Squares (DOLS) trong trường hợp sử dụng
USCPI đại diện cho chi phí nhà xuất khẩu 32
- Bảng 4.2: Mức độ truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào giá nhập khẩu trong dài hạn bằng
mô hình Dynamic Ordinary Least Squares (DOLS) trong trường hợp sử dụng
USPPI đại diện cho chi phí nhà xuất khẩu 32
- Bảng 4.3: Mức độ truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào giá nhập khẩu trong dài hạn bằng
mô hình Dynamic Ordinary Least Squares (DOLS) trong trường hợp sử dụng WCPI
đại diện cho chi phí nhà xuất khẩu 33
- Bảng 4.4: Trường hợp sử dụng USCPI đại diện cho chi phí nhà xuất khẩu 35
- Bảng 4.5: Trường hợp sử dụng USPPI đại diện cho chi phí nhà xuất khẩu 36
- Bảng 4.6: Trường hợp sử dụng WCPI đại diện cho chi phí nhà xuất khẩu 36



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Tỷ giá đối đoái là một trong những vấn đề quan trọng của kinh tế vĩ mô. Ngân hàng
nhà nước sử dụng tỷ giá hối đoái làm một trong những công cụ để điều hành nền
kinh tế. Tùy theo từng giai đoạn phát triền của nền kinh tế ngân hàng nhà nước sẽ
linh hoạt điều hành chính sách tỷ giá hối đoái nhằm đạt được mục tiêu của kinh tế vĩ
mô góp phần tăng trưởng kinh tế. Khi tỷ giá hối đoái tăng lên hay giảm xuống sẽ

ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa trong nước. Mức độ truyền dẫn của tỷ giá hối đoái
đến giá hàng hóa nhập khẩu trong trong dài hạn bao nhiêu? Những nhân tố nào ảnh
hưởng đến mức độ truyền dẫn tỷ giá hối đoái này? Để trả lời cho các câu hỏi trên,
tác giả thực hiện nghiên cứu: “TRUYỀN DẪN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀO GIÁ
NHẬP KHẨU VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TẠI VIỆT NAM”.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Thứ nhất: Đo lường mức độ truyền dẫn của tỷ giá hối đoái đến giá nhập khẩu của
Việt Nam trong giai đoạn năm 2001 - 2011.
Thứ hai: Xác định các yếu tố kinh tế vĩ mô ảnh hưởng đến mức độ tác động của tỷ
giá hối đoái đến giá nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn năm 2001 - 2011.
3. Đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tác giả đã sử dụng các đối tượng trong nghiên cứu của mình nhằm đạt được mục
tiêu nghiên cứu của đề tài như:
- Chỉ số giá nhập khẩu (IMP)
- Chỉ số giá sản xuất (PPI)
- Tỷ giá hối đoái song phương VND/USD (EX)
- Chỉ số giá sản xuất của Mỹ (USPPI)
- Chỉ số giá tiêu dùng của Mỹ (USCPI)
- Chỉ số giá tiêu dùng quốc tế (WCPI)
- Biến động cung tiền (M2V)
- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)


- Biến động chỉ số giá tiêu dùng (CPIV)
- Biến động tỷ giá hối đoái (EXV)
- Độ mở của nền kinh tế (OPEN)
3.2 Phương pháp nghiên cứu:
Tác giả thực hiện phân tích thực nghiệm bằng phương pháp Dynamic Ordinary
Least Squares (DOLS) được đề xuất bởi Stock và Watson (1993) để tính toán hệ số

truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào giá nhập khẩu trong dài hạn của Việt Nam giai đoạn
2001Q1 – 2011Q4.
Ngoài ra tác giả sử dụng mô hình hồi quy theo phương pháp bình phương nhỏ nhất
(Ordinary Least Square – OLS) để xác định các nhân tố kinh tế vĩ mô tác động đến
mức động truyền dẫn tỷ giá hối đoái (ERPT).
4. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, tóm tắt, tài liệu tham khảo, bố cục của luận văn gồm những
phần chính sau:
Phần 1. Tổng quan về truyền dẫn tỷ giá hối đoái như: Khái niệm, mối quan hệ giữa
truyền dẫn tỷ giá và giá hàng hóa nhập khẩu, cơ chế truyền dẫn tỷ giá hối đoái, các
nhân tố ảnh hưởng đến truyền dẫn tỷ giá hối đoái.
Phần 2. Tổng quan về các nghiên cứu trước đây: Tác giả sẽ trình bày những nghiên
cứu và kết quả tiêu biểu của những tác giả nước ngoài cũng như trong nước mà tác
giả tìm hỉểu được.
Phần 3. Phương pháp nghiên cứu: Phần này sẽ trình bày về mô hình nghiên cứu và
dữ liệu dùng để thực hiện nghiên cứu.
Phần 4. Nội dung và kết quả nghiên cứu: Ở nội dung này sẽ thể hiện kết quả đo
lường mức độ truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào giá hàng hóa nhập khẩu (ERPT) và xác
định các nhân tố ảnh hưởng đến ERPT tại Việt Nam trong giai đoạn 2001Q1-
2011Q4.
Phần 5. Kết luận: Nội dung này sẽ trình bày tóm lược lại toàn bộ kết quả nghiên
cứu của đề tài, những hạn chế của luận văn và hướng nghiên cứu tiếp theo.
Trang 1


Tóm tắt
Mức độ truyền dẫn tỷ giá hối đoái và giá nhập khẩu là một chủ đề được nhiều nhà
kinh tế học trên thế giới nghiên cứu và thảo luận. Tác giả thực hiện phân tích thực
nghiệm bằng phương pháp Dynamic Ordinary Least Squares (DOLS) được đề
xuất bởi Stock và Watson (1993) để tính toán hệ số truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào

giá nhập khẩu trong dài hạn của Việt Nam giai đoạn 2001-2011. Kết quả đạt được,
trong dài hạn mức độ truyền dẫn của tỷ giá hối đoái vào giá hàng hóa nhập khẩu là
cao. Tác giả cũng tiến hành phân tích bằng phương pháp hồi quy bình phương nhỏ
nhất Ordinary Least Square (OLS) xác định các nhân tố kinh tế vĩ mô như biến
động cung tiền, biến động lạm phát, biến động tỷ giá hối đoái và độ mở cửa của nền
kinh tế tác động đến độ lớn của hệ số truyền dẫn này.


















Trang 2


1. TỔNG QUAN VỀ TRUYỀN DẪN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
1.1. Khái niệm về truyền dẫn tỷ giá hối đoái
Tùy theo mục tiêu nghiên cứu mà các nhà kinh tế học đưa ra những khái niệm về

truyền dẫn tỷ giá hối đoái khác nhau.
Goldberg và Knetter (1996), Amit Ghosh và Ramkishen S. Rajan (2008) nghiên cứu
về truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào giá cả hàng hóa tập trung vào xem xét sự thay đổi
của giá cả hàng hóa đối với sự thay đổi của tỷ giá trong các giao dịch giữa quốc gia
nhập khẩu và xuất khẩu. Goldberg and Knetter đã định nghĩa truyền dẫn tỷ giá hối
đoái (ERPT) là phần trăm thay đổi của giá cả nhập khẩu tính theo đồng tiền của
quốc gia nhập khẩu khi tỷ giá hối đoái giữa quốc gia nhập khẩu và xuất khẩu thay
đổi 1%.
1

Jonathan McCarthy (2000, 2006) nghiên cứu sự tác động của biến động tỷ giá hối
đoái và giá nhập khẩu đến tỷ lệ lạm phát trong nước tại các nước phát triển.
Các nghiên cứu về truyền dẫn tỷ giá hối đoái tại các nước đang phát triển tập trung
vào cơ chế truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào chỉ số giá nhập khẩu, chỉ số giá sản xuất
và chỉ số giá tiêu dùng. Ito và Sato (2006) nghiên cứu truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào
các chỉ số giá trong nước tại các quốc gia ở Châu Á.
1.2. Mối quan hệ giữa truyền dẫn tỷ giá và giá hàng hóa nhập khẩu
Trong phần này tác giả trình bày một số vấn đề lý thuyết trong mô hình đo lường
mức độ truyền dẫn của tỷ giá hối đoái (ERPT) và mối quan hệ giữa giá nhập khẩu
với tỷ giá hối đoái giữa quốc gia xuất khẩu và quốc gia nhập khẩu.
Khi nghiên cứu về vấn đề truyền dẫn tỷ giá hối đoái tại các nước phát triển, các nhà
kinh tế học thường nghiên cứu đến vấn đề ảnh hưởng của biến động tỷ giá hối đoái
lên chỉ số giá nhập khẩu và mức ấn định giá bán của nhà xuất khẩu.
Theo nghiên cứu của Knetter (1993) và Marston (1990), một công ty ở quốc A xuất
khẩu hàng hóa i đến quốc gia B. Công ty A xác định giá bán là Pi. Lợi nhuận của
công ty A được xác định như sau:
    




(1)

1
Xem Goldberg, Pinelopi K., and Michael M. Knetter (1996)
Trang 3


Trong đó: 



là tổng chi phí của công ty A


   


 




 
Sắp xếp lại, được công thức như sau:
 


 










Trong đó:   





là hệ số co giãn của cầu theo giá của hàng hóa i và 






là chi phí biên của công ty A.
Pi = (


)






(2)



 





(3)
Đặt  (


) là phần thặng dư của nhà xuất khẩu
Quốc gia B là quốc gia nhập khẩu. Trong truờng hợp không có rào cản thương mại
giá của hàng hóa tại quốc gia B đựơc xác định như sau:



  





(4)
Trong đó 



được định nghĩa là số lượng tiền tệ của quốc gia B trên một đơn vị
tiền tệ của quốc gia A.
Từ phương trình (3) và (4), ta có



 





(5)
Phương trình (5) được trình bày dưới dạng logarit chúng ta có:






 


 


(6)
Phương trình (6) chỉ ra rằng truyền dẫn tỷ giá hối đoái có thể bị ảnh hưởng bởi chi
phí biên và thay đổi thặng dư của nhà xuất khẩu.
Goldberg cho rằng nếu luật một giá là đúng thì những hàng hóa giống nhau sẽ có

giá bán như nhau khi quy về một đồng tiền chung. Điều này ngụ ý rằng theo luật
một giá thì giá cả hàng hóa nhập khẩu chỉ phụ thuộc vào tỷ giá hối đoái và chi phí
sản xuất hàng hóa tính theo đồng tiền của quốc gia xuất khẩu, khi tỷ giá hối đoái
tăng thì giá cả hàng hóa tính theo đồng tiền nước nhập khẩu thay đổi tương ứng.
1. 3. Cơ chế truyền dẫn tỷ giá hối đoái
Trang 4


Trong nghiên cứu của Goldberg và Knetter (1996) cho rằng có hai kênh truyền dẫn
tỷ giá hối đoái: Kênh trực tiếp và kênh gián tiếp.
Kênh truyền dẫn trực tiếp: E là tỷ giá hối đoái giữa quốc gia nhập khẩu và quốc gia
xuất khẩu (số lượng nội tệ trên một đơn vị ngoại tệ), P là giá cả hàng hóa nhập khẩu
tính theo đồng tiền của quốc gia xuất khẩu (ngoại tệ). E*P là giá cả của hàng hóa
nhập khẩu tính theo đồng tiền của quốc gia nhập khẩu (nội tệ). Nếu P cố định, E
tăng (đồng nội tệ bị mất giá) thì giá hàng hóa nhập khẩu sẽ tăng tương ứng. Kết quả
này gọi là truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến giá nhập khẩu. Sự thay đổi của giá nhập
khẩu gần như được truyền dẫn và giá sản xuất và giá tiêu dùng nếu các nhà sản xuất
tăng giá của họ tương ứng với sự tăng lên trong giá nhập khẩu.
Kênh truyền dẫn gián tiếp: Kênh truyền dẫn này chủ yếu đề cập đến tính cạnh tranh
trên thị trường quốc tế. Tỷ giá hối đoái tăng (đồng nội tệ bị mất giá) làm cho giá cả
hàng hóa nội địa trên nên rẻ hơn đối với người tiêu dùng nước ngoài, hệ quả là xuất
khẩu và tổng cầu sẽ tăng, kết quả là sẽ làm cho giá cả nội địa tăng lên.
An (2006) tỷ giá hối đoái được truyền dẫn đến giá cả trong nước qua ba kênh: giá
tiêu dùng nhập khẩu, giá nguyên liệu đầu vào nhập khẩu và giá hàng hóa trong nước
khi tính bằng đồng tiền nước ngoài.
Theo Hyder và Shah (2004), truyền dẫn tỷ giá hối đoái trực tiếp khi tỷ giá hối đoái
biến động sẽ ảnh hưởng đến giá cả trong nước thông qua thay đổi của giá hàng hóa
nhập khẩu tiêu dùng cuối cùng hoặc hàng hóa nhập khẩu làm nguyên vật liệu đầu
vào cho sản xuất trong nước. Khi tỷ giá hối đoái tăng (đồng nội tệ bị phá giá) sẽ làm
cho giá nhập khẩu tăng và ngược lại. Các công ty nhập khẩu hàng hóa tiêu dùng

cuối cùng sẽ tăng giá bán để bù lại chi phí nhập khẩu tăng. Các công ty sản xuất
nhập khẩu nguyên vật liệu sản xuất cũng sẽ tăng giá bán để bù đắp phần chi phí
tăng thêm do tỷ giá hối đoái tăng làm cho giá nguyên vật liệu tăng. Kênh truyền dẫn
tỷ giá hối đoái gián tiếp, khi tỷ giá hối đoái tăng sẽ làm thay đổi xu hướng tiêu dùng
của người dân trong nước và nước ngoài. Khi đồng nội tệ bị phá giá sẽ làm cho giá
hàng hóa nhập khẩu trở nên đắt hơn so với hàng hóa trong nước, người dân ở nước
nhập khẩu sẽ có xu hướng tiêu dùng sản phẩm nội địa thay thế làm cho cầu nội địa
Trang 5


tăng. Ở thị trường nước ngoài, cầu về hàng hóa của nước có đồng tiền bị phá giá sẽ
tăng lên. Các kênh truyền dẫn trực tiếp và gián tiếp được tổng hợp trong sơ đồ sau:




















1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ truyền dẫn tỷ giá hối đoái
Trong phần này, tác giả sẽ tổng hợp lại một số kết quả nghiên cứu tập trung vào các
nhân tố ảnh hưởng đến mức độ truyền dẫn tỷ giá hối đoái:
- Lạm phát ban đầu: Taylor (2000) cho rằng sự suy giảm trong truyền dẫn tỷ giá hối
đoái là do môi trường lạm phát thấp bằng cách sử dụng mô hình kinh tế vi mô để
minh họa làm thế nào một sự thay đổi mạnh của tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến sản
lượng và lạm phát, và kết quả cho thấy rằng lạm phát thấp dẫn đến ERPT thấp. Giả
thuyết của Taylor về mối quan hệ giữa lạm phát và truyền dẫn tỷ giá hối đoái và
T
ỷ giá hối đoái tăng
(Đồng nội tệ bị phá giá)

Ti
ền lương
t
ă
ng

Giá nguyên
vật liệu sản
xuất tăng

Nhu c
ầu xuất khẩu
tăng
Giá hàng hóa nhập
khẩu tiêu dùng
cuối cùng tăng


Truyền dẫn gián tiếp Truyền dẫn trực tiếp
Chi ph
í

s

n

xuất tăng
Giá cả hàng hóa
trong nước tăng
Nhu c
ầu nội
địa hàng hóa
thay thế tăng

Giá hàng hóa
nội địa thay thế
và xuất khẩu
t
ă
ng

C
ầu lao động tăng

Trang 6


được Ehsan U. Choudhri và Dalia S. Hakura (2001) được kiểm nghiệm trong bài

viết “Exchange Rate Pass-Through To Domestic Prices: Does The Inflationary
Environment Matter?”.
- Mức biến động của tỷ giá hối đoái: mức biến động của tỷ giá hối đoái có thể có
tương quan thuận hoặc tương quan nghịch với độ lớn của truyền dẫn tỷ giá hối đoái
vào giá cả hàng hóa. Khi tỷ giá hối đoái biến động, nếu các công ty xuất khẩu nhận
định đây chỉ là sự biến động của tỷ giá trong ngắn hạn thì họ sẽ không tăng giá bán
hàng hóa, họ đồng ý giảm lợi nhuận (do tỷ giá hối đoái tăng) để giữ thị phần. Trong
trường hợp này biến động tỷ giá hối đoái sẽ có mối quan hệ tương quan nghịch với
mức độ truyền dẫn tỷ giá hối đoái vấn đề này được Ghosh và Rajan (2008), Lian An
và Jian Wang (2012) nghiên cứu. Ngược lại, nếu công ty xuất khẩu nhận thấy sự
biến động tỷ giá hối đoái sẽ kéo dài thì họ sẽ điều chỉnh giá bán hàng hóa. Trong
trường hợp này biến động tỷ giá hối đoái sẽ có mối quan hệ tương quan thuận với
mức truyền dẫn tỷ giá hối đoái theo An (2006).
- Mức độ mở cửa của nền kinh tế (OPEN): đại diện cho sự phụ thuộc vào hàng hóa
nhập khẩu của một quốc gia. Độ mở cửa nền kinh tế càng lớn chứng tỏ năng lực
cạnh tranh của các công ty nội địa kém hơn so với các quốc gia xuất khẩu. Điều này
làm cho giá nhập khẩu hàng hóa nhạy cảm hơn đối với sự biến động của tỷ giá hối
đoái. Mặt khác, độ mở cửa nền kinh tế càng lớn thì càng gây ra sức ép cạnh tranh
hàng hóa nhập khẩu càng lớn tạo sức ép giảm giá hàng hóa.
- Biến động của cung tiền tệ (M2): đại diện cho sự biến động của chính sách tiền tệ
của một quốc gia. Một quốc gia có chính sách tiền tệ ổn định dài hạn thì hệ số
truyền dẫn tỷ giá hối đoái sẽ thấp. Bởi vì các công ty xuất khẩu sẽ định giá hàng hoá
của họ bằng chính đồng tiền của quốc gia nhập khẩu, khi đó giá hàng hóa sẽ không
biến động để phản ứng lại sự biến động của tỷ giá hối đoái trong ngắn hạn.
Devereux và cộng sự (2004).
1.5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu truyền dẫn tỷ giá hối đoái
Truyền dẫn tỷ giá hối đoái được nghiên cứu bởi nhiều nhà kinh tế học ở các nước
phát triển cũng như ở các thị trường mới nổi. Truyền dẫn tỷ giá hối đối là một trong
Trang 7



những công cụ hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách dự báo lạm phát cũng như gợi
ý trong việc điều hành chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa của nhà nước. Hiểu
biết được truyền dẫn tỷ giá hối đoái nhà hoạch định chính sách có thể hiểu được cơ
chế truyền dẫn, mức độ tác động của nó lên giá cả trong nước nhằm đưa ra chính
sách đối ứng thích hợp để đạt mục tiêu chung. Nếu một quốc gia có mức truyền dẫn
tỷ giá hối đoái đến giá cả hàng hóa trong nước quá lớn thì một khi đồng nội tệ bị
phá giá tất yếu sẽ ảnh hưởng mạnh đến tình hình lạm phát và tốc độ phát triển kinh
tế quốc gia. Do đó, biết được mức độ tác động và các nhân tố ảnh hưởng đến mức
truyền dẫn tỷ giá hối đoái rất quan trọng. Nhà hoạch định chính sách hiểu biết được
những vấn đề này sẽ góp phần đưa ra những quyết định chính xác về điều hành kinh
tế vĩ mô nhằm đạt được mục tiêu của mình.
2. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
Chủ đề truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào giá cả trong nước được nghiên cứu bởi nhiều
nhà kinh tế học nước trên thế giới. Các nhà kinh tế học đã sử dụng nhiều mô hình
của kinh tế lượng khác nhau để khám phá mức độ truyền dẫn tỷ giá hối đoái và các
nhân tố ảnh hưởng đến hệ số truyền dẫn tỷ giá này. Sau đây tác giả trình bày một số
nghiên cứu tiêu biểu của các nhà kinh tế học trên thế giới cũng như những nghiên
cứu trong nước mà tác giả tìm hiểu được.
2.1. Các nghiên cứu ở các nước phát triển
Campa và Goldberg (2002) nghiên cứu truyền dẫn của tỷ giá hối đoái (ERPT) đến
giá vào giá nhập khẩu của 25 nước OECD. Tác giả sử dụng dữ liệu hàng quý trong
giai đoạn 1975-1999 ước tính độ co giãn của ERPT, trong dài hạn mức độ của
ERPT là gần bằng một. Mặc dù các biến kinh tế vĩ mô như lạm phát và tiền tệ đóng
vai trò quan trọng nhưng có vai trò hạn chế trong việc giải thích mức độ tác động
hoàn toàn của ERPT.
Campa, Goldberg, và Gonzalez-Minguez (2005) trình bày một phân tích thực
nghiệm của truyền dẫn của tỷ giá vào giá nhập khẩu giữa các nước châu Âu. Họ
kiểm tra các thay đổi cấu trúc trong việc truyền dẫn của sự thay đổi tỷ giá hối đoái.
Trang 8



Kết quả, tác giả kết luận rằng truyền dẫn tỷ giá hối đoái trung bình vào giá nhập
khẩu thì cao trong ngắn hạn, khoảng 60% một quý và khoảng 80% một năm.
Jonathan McCarthy (2000): Tác giả đã sử dụng mô hình VAR đệ quy (recursive
VAR) để nghiên cứu ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đối với giá nhập khẩu (IMP),
giá sản xuất (PPI) và giá tiêu dùng (CPI) trong nước tại 9 nước có nền kinh tế phát
triển trong khoảng thời gian từ năm 1976-1998. Kết quả nghiên cứu kết luận rằng tỷ
giá hối đoái tác động đến lạm phát trong nước thấp hơn so với tác động của giá
nhập khẩu. Mức độ truyền dẫn tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đáng kể đến lạm phát ở
những quốc gia phụ thuộc vào hàng hóa nhập khẩu nhiều hơn.
Hahn (2003) nghiên cứu về tác động của các cú sốc như: cú sốc giá dầu, cú sốc tỷ
giá hối đoái và cú sốc chỉ số giá nhập khẩu ngoại trừ giá dầu đến các chỉ số giá
trong nước (chỉ số giá nhập khẩu, chỉ số giá sản xuất và chỉ số giá tiêu dùng) của
khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu. Trong nghiên cứu này, tác giả cũng sử
dụng mô hình VAR đệ qui như McCarthy (2000). Kết quả nghiên cứu cho thấy, sự
truyền dẫn lớn nhất và nhanh nhất là do cú sốc của chỉ số giá nhập khẩu tiếp theo là
cú sốc tỷ giá hối đoái và cú sốc giá dầu. Mức độ ảnh hưởng của các cú sốc này sẽ
giảm dần theo chuỗi chỉ số giá trong nước, tức là mức truyền dẫn đến chỉ số giá
nhập khẩu là lớn nhất, tiếp đến là chỉ số giá sản xuất và chỉ số giá tiêu dùng.
Faruquee (2006) dùng mô hình VAR để nghiên cứu truyền dẫn tỷ giá hối đoái tại
khu vực Châu Âu. Truyền dẫn tỷ giá hối đoái trong ngắn hạn thấp và tăng dần theo
thời gian. Thierry Tressel (2011), tác giả dùng mô hình VECM để nghiên cứu
truyền dẫn tỷ giá hối đối tại Thụy Sĩ. Kết luận của nghiên cứu cho rằng mức truyền
dẫn của tỷ giá hối đoái lên chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là thấp, mức truyền dẫn tỷ giá
hối đoái lên giá nhập khẩu là khá cao. Để giải thích cho vấn đề này tác giả cho rằng
nhà nhập khẩu thanh toán bằng chính đồng nội tệ vì vậy sự biến động của tỷ giá hối
đoái không ảnh hưởng nhiều đến giá cả tiêu dùng trong nước. Chi phí khác ngoài
chi phí nhập khẩu hàng hóa và khả năng thay thế hàng nhập khẩu của hàng hóa
trong nước cao, vì vậy khi tỷ giá hối đoái thay đổi cũng sẽ ít ảnh hưởng đến giá tiêu

dùng trong nước.
Trang 9


Ihrig (2006) sử dụng mô hình luật một giá để nghiên cứu hệ số truyền dẫn tỷ giá hối
đoái, tác giả đã bổ sung vào mô hình một số biến giải thích cho phù hợp với tình
hình thực tế như: độ trễ của biến tỷ giá hối đoái giữa hai nước, biến chênh lệch sản
lượng (output gap) để phân tích mối quan hệ giữa giá tiêu dùng hay giá nhập khẩu
và sự biến động của tỷ giá hối đoái ở các quốc gia G7 trong khoảng thời gian từ
1975 - 2004. Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ truyền dẫn của tỷ giá hối đoái
vào giá tiêu dùng và giá nhập khẩu giảm. Đối với giá nhập khẩu, trong giai đoạn từ
1975-1980 nếu đồng tiền của quốc gia nhập khẩu bị mất giá 10% thì giá nhập khẩu
sẽ tăng 7%, tăng 4% trong giai đoạn từ 1980 - 2004. Đối với giá tiêu dùng, trong
giai đoạn từ 1975-1980 nếu đồng tiền của quốc gia nhập khẩu bị mất giá 10% thì
giá tiêu dùng sẽ tăng 2%, hầu như giá tiêu dùng không thay đổi trong giai đoạn từ
1980-2004.
Felix P.Hufner và Michael Schroder (2002): Tác giả sử dụng bộ dữ liệu theo tháng
của các biến tỷ giá hiệu lực đa phương danh nghĩa (NEER), lãi suất ngắn hạn, chênh
lệch sản lượng (output gap) giá dầu, giá nhập khẩu, giá sản xuất và giá tiêu dùng.
Tác giả sử dụng mô hình VECM để ước lượng hệ số truyền dẫn tỷ giá hối đoái cho
các quốc gia khu vực Châu Âu. Kết quả nghiên cứu đối với cụ thể từng quốc gia,
Hà Lan xảy ra truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến giá tiêu dùng là nhanh nhất, tác động
lâu nhất là ở Ý và Pháp. Mức độ truyền dẫn vào giá nhập khẩu là lớn nhất.
2.2. Các nghiên cứu ở các nước đang phát triển.
Ghosh và Rajan (2007): tác giả sử dụng mô hình luật một giá để đo lường mức độ
truyền dẫn của tỷ giá song phương và tỷ giá hiệu lực đa phương danh nghĩa vào chỉ
số giá tiêu dùng (CPI) của Ấn Độ trong giai đoạn 1980-2005. Kết quả nghiên cứu
chỉ ra rằng mức độ truyền dẫn của tỷ giá song phương giữa đồng rupee Ấn Độ và đô
la Mỹ vào CPI là 40% trong dài hạn, 10% trong ngắn hạn. Mức độ truyền dẫn của
tỷ giá hiệu lực đa phương danh nghĩa (NEER) vào CPI thì không có ý nghĩa thống

kê. Độ lớn của ERPT không có xu hướng giảm theo thời gian. Ghosh và Rajan
(2009): Tác giả đã sử dụng phương pháp hồi quy theo mô hình Dynamic OLS
(DOLS) để đo lường hệ số truyền dẫn tỷ giá vào giá nhập khẩu (IMP) và giá tiêu
Trang 10


dùng (CPI) của Hàn Quốc và Thái Lan. Kế quả nghiên cứu: ERPT của Thái Lan thì
lớn hơn của Hàn Quốc, độ lớn của ERPT có xu hướng tăng trong giai đoạn nghiên
cứu. Độ mở cửa của nền kinh tế và độ biến động tỷ giá hối đoái là hai nhân tố ảnh
hưởng đến độ lớn của ERPT.
Daniel Leigh và Marco Rossi (2002): Tác giả đã sử dụng mô hình VAR để nghiên
cứu sự truyền dẫn của tỷ giá hối đoái đến chỉ số giá tiêu dùng tại Thổ Nhĩ Kỳ.
Trong nghiên cứu tác giả đã sử dụng dữ liệu thống kê hàng tháng từ tháng 1 năm
1994 đến tháng 4 năm 2002 để thực hiện nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho thấy
tác động của cú sốc tỷ giá hối đoái đến các chỉ số giá tại Thổ Nhĩ Kỳ kéo dài trên 1
năm và có mức tác động mạnh nhất sau 4 tháng, sự truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến
giá bán sỉ có mức độ mạnh hơn giá cả tiêu dùng và sự truyền dẫn tỷ giá hối đoái là
hoàn toàn trong một thời gian ngắn và với mức độ lớn hơn so với các ước lượng
được thực hiện tại các nước đang phát triển khác trong nghiên cứu.
Michele Ca’ Zorzi, Elke Hahn và Marcelo Sánchez (2007) sử dụng mô hình VAR
để nghiên cứu sự truyền dẫn tỷ giá hối đoái đối với 12 nước đang phát triển thuộc
châu Á, Mỹ Latinh, Trung và Đông Âu. Mô hình sử dụng dữ liệu quý từ năm 1975
đến 2004. Mô hình bao gồm sáu biến giá dầu, chênh lệch sản lượng (output gap), tỷ
giá hối đoái, chỉ số giá nhập khẩu, chỉ số giá tiêu dùng và lãi suất ngắn hạn. Kết
quả nghiên cho thấy mức độ truyền dẫn tỷ giá hối đoái ở các thị trường mới nổi thì
lớn hơn so với các nước phát triển. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng đối với các
nước đang phát triển có lạm phát chỉ ở mức một con số thì mức truyền dẫn đến chỉ
số giá nhập khẩu và chỉ số giá tiêu dùng là thấp. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy
một mối quan hệ cùng chiều rõ rệt giữa độ lớn của sự truyền dẫn tỷ giá hối đoái và
lạm phát, điều này phù hợp với nghiên cứu của Taylor (2000). Trong khi mối tương

quan cùng chiều giữa độ mở của một quốc gia và độ lớn của sự truyền dẫn tỷ giá
hối đoái có độ tin cậy thấp hơn so với môi trường lạm phát.
Ito và Sato (2006) dùng mô hình VAR để nghiên cứu sự truyền dẫn tỷ giá hối đoái
đối với các nước thuộc khu vực Đông Á chịu ảnh hưởng mạnh của cuộc khủng
hoảng tiền tệ năm 1997 – 1998 gồm: Indonesia, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippine và
Trang 11


Malaysia. Dữ liệu nghiên cứu từ tháng 1 năm 1994 đến tháng 12 năm 2006. Kết quả
của nghiên cứu cho thấy: độ lớn của mức truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến chỉ số giá
nhập khẩu là cao nhất, sau đó đến chỉ số giá sản xuất và chỉ số giá tiêu dùng; mức
truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến chỉ số giá nhập khẩu là khá cao ở các nước bị ảnh
hưởng bởi cuộc khủng hoảng tiền tệ; mức truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến chỉ số giá
tiêu dùng nhìn chung tương đối thấp ở các nước được khảo sát ngoại trừ Indonesia.
Ito, Sasaki, và Sato (2005) xem xét tác động ERPT đến giá trong nước giữa các
nước Đông Á bằng phương pháp phân tích VAR. Họ xác định những cú sốc về cấu
trúc, và kiểm tra mỗi cú sốc đến giá trong nước. Phân tích cho thấy giá nhập khẩu
(IMP) phản ứng nhiều nhất với sự thay đổi của tỷ giá, tiếp đến là giá cả sản xuất
(PPI), và cuối cùng, chỉ số giá tiêu dùng bị ảnh hưởng ít nhất. Các kết quả phù hợp
với nghiên cứu trước đây như McCarthy (2000) và Hahn (2003), hệ số ERPT đến
các loại giá khác nhau ở các nước phát triển. Nhìn chung, kết quả nghiên cứu cho
thấy rằng mức độ ERPT của tỷ giá đến giá nhập khẩu là khá cao và chỉ số giá tiêu
dùng thì chỉ ở mức thấp.
2.3. Các nghiên cứu trong nước
Trần Ngọc Thơ và cộng sự (2012): Tác giả đã sử dụng mô hình VAR 7 biến với bộ
dữ liệu từ quý 1 năm 2001 đến quý 4 năm 2011 để đo lường hệ số truyền dẫn tỷ giá
hối đoái vào các chỉ số giá trong nước. Thứ tự Cholesky được thiết lập như sau:


 


 

 

 

 

 

 


Theo kết quả nghiên cứu, tác giả kết luận rằng độ lớn của mức truyền dẫn tỷ giá hối
đoái và các chỉ số giá trong nước ở Việt Nam đang có xu hướng tăng nhanh và
không phải nhỏ nếu so với các nước khác. Do đó các cú sốc về tỷ giá hối đoái chắc
chắn sẽ ảnh hưởng đến các chỉ số giá trong nước, qua đó sẽ ảnh hưởng đến nền kinh
tế. Truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến chỉ số giá nhập khẩu là lớn nhất, tiếp theo là chỉ
số giá sản xuất và cuối cùng là chỉ số giá tiêu dùng. Trong những quý đầu tiên kể từ
khi xảy ra tỷ giá hối đoái đến CPI bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi yếu tố cung tiền tệ
(M2), chỉ số giá sản xuất và tác động độ trễ của chính nó. Sau 4 quý ảnh hưởng của
Trang 12


cú sốc tỷ giá hối đoái có sự thay đổi, CPI bị ảnh hưởng bởi cú sốc GDP, cú sốc chỉ
số giá nhập khẩu (IMP) và cú sốc tỷ giá hối đoái đa phương danh nghĩa (NEER).
Hệ số tương quan thứ hạng Spearman cho thấy các yếu tố của môi trường truyền
dẫn là quy mô nền kinh tế, độ mở nền kinh tế, bất ổn tỷ giá hối đoái, cú sốc dai dẳng
của tỷ giá, bất ổn của của chính sách tiền tệ có dấu đúng với kỳ vọng trừ tương quan

giữa cú sốc dai dẳng của tỷ giá hối đoái với mức độ truyền dẫn chỉ số giá tiêu
dùng.
2

Võ Văn Minh (2009): tác giả đã sử dụng mô hình VAR để ước lượng mức tác động
của cú sốc tỷ giá hối đoái đến chỉ số giá nhập khẩu và tỷ lệ lạm phát trong nước. Dữ
liệu nghiên cứu từ tháng 1 năm 2001 đến tháng 2 năm 2007. Kết quả định lượng
cho thấy mức truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến chỉ số giá nhập khẩu sau 6 tháng là
1,04, sau 1 năm là 0,21; tuy nhiên mức truyền dẫn đến chỉ số giá tiêu dùng trong 4
tháng đầu là âm và mức tác động tích lũy sau 1 năm chỉ là 0,13 – ở mức thấp so với
các nước trong khu vực.
Bạch Thị Phương Thảo (2011): tác giả đã sử dụng mô hình VAR đệ quy tương tư
như nghiên cứu của Jonathan McCarthy (2000) để tính hệ số truyền dẫn tỷ giá hối
đoái vào chỉ số giá nhập khẩu (IMP), chỉ số giá sản xuất (PPI) và chỉ số giá tiêu
dung (CPI) của Việt Nam trong giai đoạn từ quý 1 năm 2001 đến quý 4 năm 2011.
Kết quả mô hình định lượng cho thấy mức truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến chỉ số giá
nhập khẩu là lớn nhất; mức truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến chỉ số giá sản xuất cũng
lớn không kém mức truyền dẫn đến chỉ số giá nhập khẩu và thấp nhất là độ lớn của
mức truyền dẫn đến chỉ số giá tiêu dùng. Cụ thể, mức tác động của cú sốc tỷ giá hối
đoái đến chỉ số giá nhập khẩu là dương và do độ trễ của các hợp đồng ngoại thương
nên sự biến động tỷ giá hối đoái tác động đến chỉ số giá nhập khẩu chỉ bắt đầu có ý
nghĩa thống kê sau khoảng 1 quý kể từ khi có sự biến động tỷ giá hối đoái. Mức tác
động lớn nhất là sau khoảng gần 14 tháng kể từ khi có cú sốc tỷ giá hối đoái với độ
lớn khoảng 0,77 – nghĩa là khi biến động NEER là 1% sẽ làm cho chỉ số giá nhập
khẩu tăng khoảng 0,77%. Mức tác động của cú sốc tỷ giá hối đoái đến chỉ số giá sản

2
Xem Trần Ngọc Thơ và cộng sự (2012)
Trang 13



xuất là dương và bắt đầu có ý nghĩa thống kê sau khoảng 4 tháng xảy ra cú sốc tỷ
giá hối đoái; tuy nhiên sau khoảng 5 đến 11 tháng, mức tác động của cú sốc tỷ giá
hối đoái đến chỉ số giá sản xuất không có ý nghĩa thống kê. Mức tác động này lớn
nhất là sau gần 14 tháng kể từ cú sốc tỷ giá hối đoái với độ lớn khoảng 0,73. Mức
tác động của cú sốc tỷ giá hối đoái đến chỉ số giá tiêu dùng là thấp nhất, và do độ trễ
của tác động từ cú sốc tỷ giá hối đoái đến các chỉ số giá nhập khẩu và sản xuất nên
mức tác động của cú sốc tỷ giá đến CPI chỉ bắt đầu có ý nghĩa thống kê sau 11
tháng kể từ khi có cú sốc tỷ giá hối đoái. Mức tác động này cũng lớn nhất sau gần
15 tháng kể từ cú sốc tỷ giá hối đoái với độ lớn khoảng 0,3964.
3

Tóm lại, qua những nghiên cứu trước đây có thể kết luận rằng mức độ ERPT là
khác nhau giữa các nước. Hiệu ứng truyền dẫn của tỷ giá đến giá không hoàn toàn
vào giá nhập khẩu trong ngắn hạn là khá phổ biến và nó sẽ cao hơn trong dài hạn.
ERPT đến giá nhập khẩu thì nhanh hơn nhiều hơn so với chỉ số giá tiêu dùng.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Mô hình nghiên cứu
Bài viết này, tác giả đã kế thừa mô hình và kết quả nghiên cứu của Ghosh và Rajan
(2007, 2009) để nghiên cứu hệ số truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào giá nhập khẩu tại
Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2001-2011. Bài viết sử dụng phương trình (6) để
kiểm tra truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào giá nhập khẩu của Việt Nam với tỷ giá hối
đoái song phương với đô la Mỹ (VND/USD). Để sử dụng phương trình (6) để ước
lượng truyền dẫn tỷ giá hối đoái điều quan trọng là kiểm soát được nhu cầu trong
nước. Do đó phương trình ước lượng của bài viết là:

ln(IMP) = α
0
+ α
1

ln(EX) + α
2
ln(PPI) + α
3
ln(MC
F
) (7)
Trong đó:
- IMP: Chỉ số giá nhập khẩu của Việt Nam
- EX: Tỷ giá hối đoái VND/USD. Tỷ giá hối đoái tăng là VND bị giảm giá.

3
Xem Bạch Thị Phương Thảo (2011)
Trang 14


- PPI: Chỉ số giá sản xuất của Việt Nam. PPI đại diện cho nhu cầu trong
nước. Sự gia tăng sản lượng trong nước thường ngụ ý sự gia tăng nhu cầu
đối với hàng hóa nhập khẩu, do đó làm tăng giá nhập khẩu. Do đó, α
2
dự
kiến sẽ tác động tích cực (α
2
> 0). Tuy nhiên, sự gia tăng trong sản lượng
cũng có thể hàm ý ít nhu cầu đối với hàng hóa nhập khẩu và sự sụt giảm
trong giá nhập khẩu. Vì vậy, rất có thể α
2
< 0.
- MC
F

: Đại diện cho việc kiểm soát chi phí của nhà xuất khẩu của Việt
Nam (điều này sẽ được thảo luận trong phần tiếp theo).
Nếu α
1
= 0 không có ERPT vào giá nhập khẩu của Việt Nam, trong khi
nếu α
1
= 1 có ERPT hoàn toàn.
3.2. Dữ liệu nghiên cứu
Trong bài viết này để kiểm soát những thay đổi trong nhu cầu nhập khẩu tác giả đã
sử dụng chỉ số sản xuất của Việt Nam, đại diện cho sản lượng đầu ra. Liên quan đến
chi phí, vì hầu hết các hoạt động thương mại của Việt Nam được ghi nhận chủ yếu
bằng đôla Mỹ trên hóa đơn, Marazzi và cộng sự (2005), Campa và Goldberg (2005)
đã sử dụng chỉ số giá tiêu dùng của Mỹ (USCPI) và chỉ số giá sản xuất của Mỹ
(USPPI) làm đại diện cho chi phí của nhà xuất khẩu. Bài viết cũng sử dụng một đại
diện thứ ba cho chi phí của nhà xuất khẩu nước ngoài, cụ thể là chỉ số chỉ số giá tiêu
dùng quốc tế (WCPI). Các dữ liệu có nguồn gốc từ IMF-IFS, Datatream và tổng cục
thống kê của Việt Nam.
Trong bài viết này sử dụng số liệu hàng quý từ 2001Q1-2011Q4.
- IMP: Chỉ số giá nhập khẩu của Việt Nam được tế được điều chỉnh yếu tố mùa vụ
theo phương pháp Census X12 và quy về giá gốc (2001Q1 = 100). Nguồn dữ liệu:
GSO
- EX: Tỷ giá hối đoái song phương VND/USD. Tỷ giá được điều chỉnh yếu tố mùa
vụ theo phương pháp Census X12 và quy về giá gốc (2001Q1 = 100). Nguồn dữ
liệu: IMF-IFS.
Trang 15


- PPI: Chỉ số giá sản xuất của Việt Nam được tế được điều chỉnh yếu tố mùa vụ
theo phương pháp Census X12 và quy về giá gốc (2001Q1 = 100). Nguồn dữ liệu:

GSO.
- USCPI: Chỉ số tiêu dùng của Mỹ được điều chỉnh yếu tố mùa vụ theo phương
pháp Census X12 và quy về giá gốc (2001Q1 = 100). Nguồn dữ liệu: IMF-IFS.
- USPPI: Chỉ số giá sản xuất của Mỹ được điều chỉnh yếu tố mùa vụ theo phương
pháp Census X12 và quy về giá gốc (2001Q1 = 100). Nguồn dữ liệu: IMF-IFS.
- WCPI
4
: Chỉ số giá tiêu dùng quốc tế được điều chỉnh yếu tố mùa vụ theo phương
pháp Census X12 và quy về giá gốc (2001Q1 = 100). Nguồn dữ liệu: IMF-IFS,
Datatream.
- M2: Cung tiền tệ Việt Nam. Nguồn dữ liệu: IMF-IFS.
- CPI: Chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam được điều chỉnh yếu tố mùa vụ theo
phương pháp Census X12 và quy về giá gốc (2001Q1 = 100). Nguồn dữ liệu: GSO.
Các số liệu đều được đưa về logarit cơ số mũ tự nhiên.
3.3. Kiểm định nghiệm đơn vị:
Trước khi tiến hành nghiêm cứu thực nghiệm, bài viết tiến hành kiểm tra tính dừng
của các biến trong phương trình (7) và (8). Bài viết sử dụng phương pháp
Augmented Dickey-Fuller (ADF) và Phillip-Perron (PP) để kiểm định tính dừng
của các biến.
Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị cho thấy các biến là chuỗi thời gian không dừng ở
chuỗi gốc I(0) và là chuỗi dừng ở chuỗi sai phân bậc một I(1). Kết quả được trình
bày trong các bảng sau:
Bảng 3.1: Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị .
Theo tiêu chuẩn Augemented Dickey-Fuller (ADF)

ADF test
statistic
1% critical
value
5% critical

value
10% critical
value
Kết quả

4
Chỉ số này được tính bằng cách lấy trung bình CPI theo tỷ trọng GDP của các đối tác thương mai
chính của Việt Nam như: Úc, Bỉ, Hongkong, Trung Quốc, Pháp, Đức, Indonesia, Ý, Nhật, Hàn
Quốc, Hà Lan, Philippines, Nga, Singapore, Thụy Sĩ, Thái Lan, Anh, Mỹ xem Ghosh và Rajan
(2009).
Trang 16


LIMP -1.822116 -4.198503 -3.523623 -3.192902 Không dừng
LEX -2.00568 -4.226815 -3.536601 -3.20032 Không dừng
LPPI -1.574649 -4.192337 -3.520787 -3.191277 Không dừng
LUSCPI

-1.776332 -4.186481 -3.51809 -3.189732 Không dừng
LUSPPI

-3.574761 -4.192337 -3.520787 -3.191277
Dừng ở mức ý
nghĩa 5%, 10%
LWCPI -1.080731 -4.186481 -3.51809 -3.189732 Không dừng


ADF test
statistic
1% critical

value
5% critical
value
10%
critical
value
Kết quả

LIMP -3.011818 -4.262735 -3.552973 -3.209642

Không dừng

LEX
-4.195214 -4.192337 -3.520787 -3.191277

Dừng

PPI -4.154552 -4.198503 -3.523623 -3.192902

Dừng ở mức ý
nghĩa 5%, 10%

LUSCPI -5.123386 -4.192337 -3.520787 -3.191277

Dừng

LUSPPI -4.198397 -4.192337 -3.520787 -3.191277

Dừng


LWCPI -5.033599 -4.192337 -3.520787 -3.191277

Dừng

Theo tiêu chuẩn Phillips – Person (PP)

PP test
statistic
1% critical
value
5% critical
value
10%
critical
value
Kết quả
LIMP -0.638296 -4.186481 -3.51809 -3.189732 Không dừng
LEX 1.426729 -4.186481 -3.51809 -3.189732 Không dừng
LPPI -0.803794 -4.186481 -3.51809 -3.189732 Không dừng
LUSCPI

-1.973983 -4.186481 -3.51809 -3.189732 Không dừng
LUSPPI -2.758314 -4.186481 -3.51809 -3.189732 Không dừng

×