Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Luận văn thạc sĩ Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong công tác thu thuế trên địa bàn thị xã Tây Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (662.15 KB, 79 trang )



B GIÁO DC VÀ ÀO TO
TRNG I HC KINH T TP. H CHÍ MINH




T
T
R
R




N
N
G
G


N
N
H
H


T
T



Q
Q
U
U
A
A
N
N
G
G





NÂNG CAO HIU QU QUN LÝ NHÀ
NC TRONG CÔNG TÁC THU THU
TRÊN A BÀN TH XÃ TÂY NINH


LUN VN THC S KINH T


CHUYÊN NGÀNH: KINH T CHÍNH TR
MÃ S: 60.34.05


NGI HNG DN: PGS.TS V ANH TUN







TP.H CHÍ MINH – NM 2012






1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Chuyển đổi từ cơ chế quản lý nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi
phải đổi mới nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực tài chính nói chung và thuế nói
riêng. Từ năm 1990 đến nay, Nhà nước đã từng bước thực hiện cải cách hệ thống
chính sách thuế, và bộ máy ngành thuế được tổ chức thông nhất theo ngành dọc từ
trung ương đến xã, phường. Quản lý thuế đã được đổi mới căn bản , từng bước
hiện đại hoá và phát huy vai trò tích cực trong việc thực hiện các Luật thuế mới,
tăng thu cho nhân sách Nhà nước.
Thị xã Tây Ninh thuộc Tây Ninh là một trung tâm chính trị - kinh tế-văn
hoá-du lịch của tỉnh. Trong quá trình phát triển kinh tế, Thị xã đã luôn quan tâm
xây dựng ngành tài chính - thuế tạo nguồn thu ngân sách, đáp ứng được nhiệm vụ
chi tiêu ngày càng cao của Thị xã
Kết quả thu ngân sách qua các năm ngày càng tăng, nhờ chính sách thuế đã
phần nào hợp lý, tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển; nuôi
dưỡng được nguồn thu; Hệ thống quản lý thu thuế đã từng bước cải cách, hiện đại

hóa, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng cho đội ngũ công chức thuế, tăng
hiệu quả trong quản lý thu thuế. Tuy nhiện, Hệ thống chính sách thuế vẫn còn tồn
tại nhiều vấn đề ở chính sách thuế, cũng như trong quá trình tổ chức quản lý thu
thuế. Hệ thống chính sách thuế chưa bắt nhịp được với sự phát triển ngày càng cao
về khoa học, công nghệ. Sự hội nhập và quá trình toàn cầu hóa một cách nhanh
chóng đã làm cho chính sách thuế cũng như công tác tổ chức quản lý thuế bộc lộ
nhiều bất cập và tính khả thi thấp. Bên cạnh đó, cơ cấu tổ chức quản lý thu thì
chưa phù hợp, thiếu chặt chẽ, chồng chéo, nặng nề nên gây thất thu lớn về số
lượng cơ sở, đơn vị thực tế có kinh doanh nhưng không nộp thuế hoặc nộp không
đầy đủ, nợ đọng dây dưa thu ngân sách. Trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế chưa
phát huy hết tác dụng của công cụ thuế để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh có lợi


2
cho quốc kế dân sinh, thực hiện đóng góp hợp lý, công bằng cho Ngân sách Nhà
nước. Vì vậy, việc chọn đề tài : "Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước trong
công tác thu thuế trên địa bànThị xã Tây Ninh" có ý nghĩa thiết thực cả về mặt
lý luận và thực tiễn.
2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Vấn đề quản lý nhà nước trong công tác thu thuế đả có nhiều công trình
nghiên cứu, nhiều đề tài khoa học, nhiều bài viết đăng trên các tạp chí trong và
ngoài nước theo nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên. Chưa có một đề tài hay công
trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong
công tác thu thuế trên địa bàn Thị xã Tây Ninh
Các công trình nghiên cứu về nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong
công tác thu thuế ở nhiều khía cạnh có liên quan khác nhau như:
Sử Đình Thành, Bùi Thị Mai Hoài, 2009, Tài chính công và phân tích chính
sách thuế, NXBLĐXH, TPHCM
Học viện Tài chính, 2002, chính sách thuế của nhà nước trong quá trình hội
nhập, NXB Tài chính.

Huỳnh Huy Quế, 2006, ngành thuấ sẵn sàng hành trang bước vào kế hoạch
5 năm 2006-2010, Tạp chí Tài chính ( số 496)
Nguyễn Thanh Tuyền, Nguyễn Ngọc Thanh, 2001, Giáo trình thuế , NXB
Thống kê Hà Nội
Các tác phẩm trên đây đã có những đóng góp quan trong trên cả hai phương
diện lý luận, thực tiễn và giá trị khoa học nhất định khi phân tích và lý giải về quản
lý nhà nước trong công tác thu thuế. Song các công trình nghiên cứu trên được
nghiên cứu trên phạm vị toàn quốc, do đó việc vận dụng vào thực tiễn Thị xã Tây
Ninh hết sức khó khăn, vì vậy đề tài “ Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong
công tác thu thuế trên địa bàn Thị xã Tây Ninh” có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
3. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG:
Luận văn được thực hiện nhằm đạt được những mục đích sau đây:


3
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý
luận về thuế và công tác quản lý thuế.
- Phân tích đánh giá thực trạng về công tác quản lý thu thuế trên địa bàn Thị
xã Tây Ninh.
- Nghiên cứu, đề xuất những giải pháp để hoàn thiện tổ chức bộ máy và
nâng cao hiệu quả công tác thu thuế trên địa bàn,
Đối tượng nghiên cứu là các sắc thuế chủ yếu đang thực hiện.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Phạm vi nghiên cứu là công tác quản lý thu thuế trong đó có nhấn mạnh đến
công tác thu thuế tại Thị xã Tây Ninh. Với phạm vi đó, trọng tâm của vấn đề
nghiên cứu chủ yếu bao gồm các loại thuế chủ yếu và các đối tượng quản lý thu
thuế của địa phương. Nội dung chủ yếu của Luận văn : Từ phân tích kết quả thu
thuế qua từng năm chỉ ra ưu, nhược điểm và tác động của chính sách thuế đến số
thu Ngân sách, và phát triển kinh tế, thực hiện công bằng xã hội ở địa phương;
nghiên cứu các nguyên nhân về mặt chính sách, chế độ, về tổ chức quản lý thu

thuế, về đối tượng nộp thuế để đưa ra được những giải pháp tổ chức quản lý thuế
khả thi trong thời gian tới.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu là: phương pháp duy vật lịch sử,
phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp điều tra, thu thập, tổng hợp và
phân tích số liệu thống kê, phương pháp phân tích định lượng để rút ra các kết luận
có căn cứ khoa học.
6. Ý NGHĨA CỦA LUẬN VĂN:
Luận văn góp phần làm rõ thêm vai trò của thuế trong quản lý kinh tế của nhà
nước các cấp, đánh giá sát thực kết quả, hạn chế và nguyên nhân của việc thực
hiện công tác quản lý và thu thuế trên địa bàn Thị xã Tây Ninh; đề xuất mốt số giải
pháp hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý và thu thuế trên địa bàn Thị
xã Tây Ninh


4
7. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN:
Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước trong công tác
thu thuế
Phân tích và đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước trong công tác
thu thuế trên địa bàn bàn Thị xã Tây Ninh nhằm rút ra những thành tựu, hạn chế và
nguyên nhân.
Đề xuất các phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh hiệu quả
quản lý nhà nước trong công tác thu thuế trên địa bàn bàn Thị xã Tây Ninh.
8. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Về kết cấu ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm ba chương :
Chương 1 : Quan điểm, chủ trương, chính sách

của Đảng và pháp luật của

Nhà nước về công tác quản lý thu thuế
Chương 2 : Thực trạng công tác thu thuế trên địa bàn Thị xã Tây Ninh.
Chương 3 : Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu
thuế trên địa bàn Thị xã Tây Ninh .
Dưới đây là nội dung của luận văn











5

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU THUẾ
1.1 Một số khái niệm và vai trò của quản lý thu thuế:
1.1.1 Khái niệm, chức năng, phân lọai về thuế, các nguyên t ắc xây dựng
hệ thống thuế
1.1.1.1 Khái niệm về thuế:
Thuế là hình thức huy động tài chính cho Nhà nước. Khi Nhà nước ra đời,
thuế là công cụ để Nhà nước có nguồn thu nhằm trang trải các chi tiêu của Nhà
nước. Nhà nước dùng quyền lực của mình ban hành các luật thuế để bắt buộc dân
cư và các đối tượng khác trong nền kinh tế đóng góp cho Nhà nước.
Thuế là hình thức động viên mang tính chất bắt buộc trên nguyên tắc luật

định. Đặc điểm này được thể chế hoá trong hiến pháp của mỗi quốc gia. Nhà nước
dùng quyền lực và sức mạnh để ấn định các thứ thuế, bắt buộc các tổ chức kinh tế
và công dân thực hiện các nghĩa vụ thuế để nhà nước có nguồn thu ổn định,
thường xuyên đảm bảo trang trải các khoản chi trong hoạt động thường xuyên của
Nhà nước mà vẫn ổn định được Ngân sách Nhà nước.
1.1.1.2. Bản chất, chức năng của thuế
Nghiên cứu về thuế, người ta thấy có những đặc điểm riêng biệt để phân
biệt với các công cụ tài chính khác như sau :
Thuế là một khoản chuyển giao thu nhập của các tầng lớp nhân dân cho
Nhà nước mang tính bắt buộc phi hình sự. Tính bắt buộc phi hình sự là thuộc tính
cơ bản vốn có của thuế, phân biệt thuế với các hình thức huy động tài chính khác
của Ngân sách Nhà nước


6
Đặc điểm này vạch rõ nội dung kinh tế của thuế là những quan hệ tiền tệ,
được hình thành khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt, việc động viên mang
tính chất bắt buộc của Nhà nước ta
Phân phối mang tính chất bắt buộc dưới hình thức thuế là một phương thức
phân phối của Nhà nước mà kết quả của quá trình đó là một bộ phận thu nhập của
người nộp thuế được chuyển giao cho Nhà nước mà không kèm theo một sự cấp
phát hoặc những quyền lợi nào khác cho người nộp thuế.
Tính cưỡng bức, bắt buộc của việc chuyển giao thu nhập bắt nguồn từ
những l ý do sau :
Thứ nhất, hình thức chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không gắn
với lợi ích cụ thể của người nộp thuế, do đó không thể sử dụng phương pháp tự
nguyện trong việc chuyển giao. Để đảm bảo nhu cầu chi tiêu công cộng Nhà nước
tất yếu phải sử dụng quyền lực chính trị để bắt buộc các đối tượng có thu nhập
phải chuyển giao
Thứ hai, trong một xã hội hiện đại, các thành viên của cộng đồng ngày

càng có nhu cầu cao về hàng hóa công cộng Nhìn chung đại bộ phận hàng hóa
công cộng do Nhà nước sản xuất và cung cấp. Để sản xuất và cung cấp hàng hóa
công cộng tất yếu phải bỏ chi phí, các chi phí đó phải được bù đắp từ nguồn thu
nhập của những người thụ hưởng hàng hóa công cộng.
Tuy nhiên tính bắt buộc của thuế không có nội dung hình sự, nghĩa là hành
động đóng thuế cho Nhà nước không phải là hành động xuất hiện khi biểu hiện
phạm pháp, mà hành động đóng thuế là hành động thực hiện nghĩa vụ của người
công dân.
Từ đặc trưng này, thuế không giống như các hình thức huy động tài chính
khác của ngân sách Nhà nước như phí, lệ phí, công trái hoặc hình thức phạt bằng
tiền.
Việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không mang tính chất hoàn
trả trực tiếp, biểu hiện ở các khía cạnh:


7
Thứ nhất, sự chuyển giao thu nhập thông qua thuế không mang tính đối
giá, nghĩa là mức thuế mà các tầng lớp trong xã hội chuyển giao cho Nhà nước
không hoàn toàn dựa trên mức độ người nộp thuế thừa hưởng những dịch vụ và
hàng hóa công cộng do Nhà nước cung cấp .Người nộp thuế cũng không có quyền
đòi hỏi Nhà nước phải cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng trực tiếp cho mình
mới phát sinh khoản chuyển giao khoản thu nhập cho Nhà nước, mặt khác mức độ
cung cấp dịch vụ công cộng của Nhà nước cũng không nhất thiết ngang bằng mức
độ chuyển giao .
Thứ hai, Khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không hoàn trả
trực tiếp có nghĩa là người nộp thuế suy cho cùng sẽ nhận được các dịch vụ công
cộng của Nhà nước. Đặc điểm này giúp chúng ta phân biệt sự khác nhau giữa thuế
và các khoản phí, lệ phí .
Việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế được quy định trước bằng
pháp luật.

Đặc điểm này, một mặt thể hiện tính pháp l í cao của thuế, mặt khác phản
ánh sự chuyển giao thu nhập này không mang tính chất tùy tiện mà dựa trên những
cơ sở khoa học nhất định và đã được xác định trong luật thuế. Những tiêu thức
thường được xác định trước đối với thuế là : đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp
thuế, mức thuế phải nộp, thời hạn cụ thể và những chế tài mang tính cưỡng chế
khác .
Các khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế chịu sự ảnh hưởng
của các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội trong những thời kỳ nhất định.
Yếu tố kinh tế tác động đến thuế thường là mức độ tăng trưởng của nền
kinh tế quốc dân, thu nhập bình quân đầu người, giá cả, thị trường, sự biến động
của ngân sách Nhà nước
Yếu tố chính trị, xã hội tác động đến thuế thường là thể chế của Nhà nước,
tâm l í, tập quán của các tầng lớp dân cư, truyền thống văn hóa, xã hội của dân


8
tộc Do thuế chịu sự ràng buộc của các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội như vậy
nên người ta thường nói thuế mang ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội tổng hợp.
Các khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế chỉ được giới hạn
trong phạm vi biên giới quốc gia với quyền lực pháp l í của nhà nước đối với con
người và tài sản .
Tóm lại, những thuộc tính cơ bản trên đây của thuế đã phản ánh bản chất
và nội dung bên trong của thuế. Từ những thuộc tính đó giúp ta phân biệt thuế với
các hình thức động viên khác của ngân sách nhà nước trên nhiều phương diện khác
nhau.
1.1.1.3. Hệ thống thuế và phân loại thuế
Bất kỳ một hệ thống thuế nào cũng phải bao gồm 2 bộ phận : Hệ thống
chính sách thuế và Hệ thống quản lý thuế. Chính sách thuế là tổng hợp các phương
hướng của Nhà nước trong lĩnh vực thu nộp thuế; quản lý thuế là các biện pháp,
thủ pháp thực hiện chính sách thuế để đạt được những mục tiêu đã định

Khi xem xét hệ thống thuế của một quốc gia nhất định, người ta ít chú ý
đến số lượng của các sắc thuế, các loại thuế trong hệ thống đó, mà chủ yếu đánh
giá, xem xét đến khía cạnh chất lượng của nó. Mỗi quốc gia tùy theo điều kiện lịch
sử, kinh tế, xã hội ở từng giai đoạn cụ thể mà định hướng xây dựng hệ thống thuế
riêng của mình. Hệ thống thuế đó phản ánh những mục tiêu của Nhà nước đặt ra.
Ở Việt nam, hệ thống chính sách thuế đã được cải cách đáng kể, đã xây
dựng được một hệ thống chính sách thuế gồm các sắc thuế, cụ thể :
- Thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp ,thuế tiêu thụ đặc biệt,
thuế xuất khẩu, nhập khẩu ,thuế sử dụng đất

nông nghiệp, thuế tài nguyên, thuế
nhà, đất, thuế thu nhập cá nhân, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế môn bài.
Hệ thống chính sách thuế hiện nay được xây dựng và hoàn chỉnh có tính
pháp lý cao nhất đó là các văn bản Luật và đã đáp ứng được một số yêu cầu của
một hệ thống chính sách thuế hiện đại, đó là :


9
+ Về tài chính: Đã bao quát hết mọi nguồn thu có thể bồi dưỡng, khai thác
và động viên nhằm đáp ứng được nhu cầu chi tiêu cần thiết ngày càng tăng của
ngân sách nhà nước, tạo được phần tích lũy cho phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở
hạ tầng.
+ Về kinh tế : Thực sự phát huy tác dụng là công cụ có hiệu lực của Nhà
nước tích cực góp phần quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tăng cường hạch
toán kinh tế, khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh. Thực hiện tốt chính
sách kinh tế đối ngoại trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới.
+ Về xã hội : Từng bước thực hiện yêu cầu động viên đóng góp công bằng,
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư, giảm dần khoảng cách
chênh lệch về thu nhập và tiêu dùng xã hội, góp phần ổn định chính trị, kinh tế, an
toàn xã hội.

+ Về nghiệp vụ : Chính sách chế độ đã có sự đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu, dễ
kiểm tra; phát huy được quyền dân chủ và nâng cao được trách nhiệm và nghĩa vụ
công dân về thuế .
1.1.2 Phân loại thuế
Để phục vụ cho công tác nghiên cứu, quản lý và tổ chức hành thu trong thực
tế, người ta tiến hành phân loại thuế theo một số tiêu thức nhất định.
1.1.2.1. Phân loại theo tính chất kinh tế của thuế
Theo cách phân loại truyền thống đã hình thành từ rất lâu, thuế được chia
thành hai loại : thuế trực thu và thuế gián thu. Sự phân loại này phụ thuộc vào đối
tượng đánh thuế, mối quan hệ tương hỗ giữa người nộp thuế và nhà nước.
- Thuế trực thu là loại thuế đánh trực tiếp lên một khoản thu nhập (tiền
lương, lợi nhuận, lợi tức ) hoặc tài sản (ruộng đất, nhà cửa, chứng khoán ) nào
đó của người nộp thuế.
Thuế trực thu thường đụng chạm trực tiếp đến lợi ích của người nộp thuế, dễ
gây ra tâm lý bất bình trong nhân dân. Ở nước ta, trong hệ thống thuế hiện hành,


10
các loại thuế dưới đây được xem là thuế trực thu : như thuế lợi tức, thuế thu nhập,
thuế tài nguyên, thuế nhà đất và thuế sử dụng đất nông nghiệp.
- Thuế gián thu là một loại thuế đánh vào hàng hoá, dịch vụ và được ấn định
dưới hình thức một khoản phụ thêm được cấu thành trong giá cả hàng hoá, dịch vụ
nhằm điều tiết một phần thu nhập của người tiêu dùng.
Khi áp dụng hình thức thuế gián thu, mối quan hệ giữa người nộp thuế và
nhà nước được thể hiện một cách gián tiếp.
1.1.2.2. Phân loại theo đối tượng đánh thuế
Phân loại theo đối tượng đánh thuế, hệ thống thuế bao gồm các loại:
- Thuế đánh vào hàng hoá: thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, nhập khẩu,
thuế giá trị gia tăng.
- Thuế đánh vào thu nhập như: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập

cá nhân .
- Thuế đánh vào tài sản, như: thuế nhà, thuế đất, thuế chuyển quyền sử dụng
nhà, đất
- Thuế đánh vào các tài sản thuộc sở hữu công cộng, như: thuế tài nguyên,
thu vốn ngân sách.
Vận dụng cách phân loại này trong thực tế cho thấy hệ thống thuế bao gồm
nhiều loại thuế với những tác dụng riêng có khác nhau, từng loại thuế phát huy vai
trò điều tiết trong các lĩnh vực nhất định song chúng vừa hổ trợ, bổ sung cho nhau
để đảm bảo thực hiện chức năng toàn diện của hệ thống thuế.
1.1.3. Nguyên tắc xây dựng hệ thống thuế
Nguyên tắc minh bạch: các quy định về thuế phải rõ ràng và mang tính đại
chúng nhằm ngăn ngừa hiện tượng lạm dụng thu đối với người nộp, ngăn ngừa
hiện tượng tham ô và biển lận thuế ở cán bộ thuế, đồng thời cho thấy thái độ tôn
trọng người nộp thuế của Nhà nước. Nguyên tắc minh bạch thể hiện qua các điểm
sau:


11
+ Thuế phải được xây dựng theo một trình tự pháp lý nghiêm ngặt
+ Nhà nước và các cơ quan hành thu phải tạo điều kiện để doanh nghiệp và
dân chúng thực hiện quyền được biết một cách minh bạch về số tiền thuế phải nộp,
thủ tục thu nộp thuế, những chính sách ưu đãi về thuế,
+ Những quy định về thuế phải phổ thông và nhất quán, tính toán thuế phải
đơn giản, dễ thực hiện và dễ kiểm tra.
+ Thuế thu phải thuận tiện cho người nôp theo thời gian và không gian.
- Nguyên tắc hiệu quả: Việc xây dựng các sắc thuế phải chú trọng đến tính
hiệu qủa kinh tế - xã hội. Hệ thống thuế có hiệu quả khi được phát huy tối đa tác
dụng. Thuế không những tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước mà nó còn có tac
dụng tăng cường quan lý các hoạt đông kinh tế xã hôi, điều chỉnh các hoạt động
kinh tế vĩ mô theo hướng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn diện, tạo hành lang

cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, điều tiết thu nhập.
- Nguyên tắc linh hoạt: Hệ thống thuế phải gắn chặt với các hoạt động kinh
tế, phản ánh thực sự những thăng trầm kinh tế và những biến động chính trị, xã
hội. Tính linh hoạt thể hiện qua độ nổi và độ co giãn của thuế. Nguyên tác linh
hoạt đòi hỏi khi đưa ra các quy định, pháp luật thuế phải tiên liệu mọi phát sinh
hay thay đổi của thuế, khi đó thuế sẽ đạt một độ ổn định trong một khoảng thời
gian nhất định. Chính sự linh hoạt của thuế làm cho nhũng quy định về thuế ổn
định.
- Nguyên tác công bằng: Hệ thống thuế thực hiện tái phân phối thu nhập xã
hội theo khả năng tài chính của người chịu thuế. Về mặt xã hội, ngyên tắc công
bằng đòi hỏi thuế không được phân biệt đối xử đối tượng nộp thuế và thuế phải
góp phần tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp.
1.2. Vai trò của thuế đối với phát triển kinh tế xã hội
Thứ nhất: Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước
Nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa vào chủ yếu nguồn thu nội bộ từ
nền kinh tế quốc dân. Một ngân sách lành mạnh trước hết phải dựa vào nguồn thu


12
trong nước, mà trong đó thuế là nguồn thu chủ yếu (từ 80 đến 90%). Nguồn thu
của thuế lấy từ thu nhập quốc dân sản xuất, khả năng động viên của thuế phụ thuộc
cơ bản vào sự phát triển và hiệu quả sản xuất, trình độ và ý thức tiết kiệm trong
sản xuất và tiêu dùng của doanh nghiệp và người dân.
Muốn vậy hệ thống thuế và chính sách thuế mới phải được áp dụng thống
nhất giữa các thành phần kinh tế, phải bao quát được hết hết các hoạt động sản
xuất kinh doanh, các nguồn thu nhập của doanh nghiệp và xã hội để đảm bảo yêu
cầu vốn, thực hiện mục tiêu tăng trưởng cao hơn.
Thứ hai: Thuế là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô của nền kinh tế
Thuế không chỉ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu Ngân sách Nhà nước hằng
năm mà còn là công cụ của Nhà nước để quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Để

phát huy tốt tác dụng điều tiết vĩ mô của chính sách thuế, nhìn chung ở nước ta
cũng như các nước khác trên thế giới, nội dung của chính sách thuế thường xuyên
thay đổi cho phù hợp với diễn biến tình hình kinh tế xã hội và phù hợp với tình
hình kinh tế, tài chính. Các sắc thuế đang áp dụng chủ yếu hiện đang được áp dụng
gồm có: Thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt,
thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thuế môn bài
Thuế gián thu (thuế tiêu dùng, thuế GTGT, thuế TTĐB, thuế xuất nhập
khẩu ) là những loại thuế có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh, ảnh
hưởng đến tiêu dùng xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả thu nhập và quan hệ
cung cầu trên thị trường. Thông qua thuế gián thu, Nhà nước có thể chi phối đến
việc lựa chọn và sản xuât "cái gì", sản xuất "như thế nào", "sản xuất cho ai" Dựa
vào công cụ thuế gián thu, Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn chế việc tích luỹ,
đầu tư và tiêu dùng. Từ chính sách thuế phân biệt theo thuế suất cao, thấp khác
nhau đối với từng ngành nghề kinh doanh, đối với từng sản phẩm dịch vụ, tuỳ
thuộc vào sự cần thiết của sản xuất và đời sống xã hội, tự nó đã có tác dụng điều
chỉnh việc phân bổ nguồn vốn trong xã hội.
Thông qua thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt Nhà nước có thể
điều tiết hướng dẫn tiêu dùng, bảo vệ sản xuất trong nước, đồng thời khuyến khích


13
các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế thay thế nguyên liệu nhập khẩu bằng nguyên
liệu sản xuất trong nước theo mức độ tỷ lệ nội địa hoá, góp phần tăng khả năng
cạnh tranh của hàng hoá trong nước, làm cho hàng hoá trong nước có sức cạnh
tranh ngay trong thị trường nội địa cũng như thị trường quốc tế.
Thuế trực thu (thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân) là những
loại thuế mà nhà nước có thể sử dụng để khuyến khích mở rộng đầu tư, đổi mới
công nghệ. Với chính sách ưu đãi qua thuế suất, thời gian miễn giảm thuế của thuế
TNDN, Nhà nước có thể khuyến khích đầu tư trong nước cũng đầu tư nước ngoài
vào những ngành, những lĩnh vực nhà nước khuyến khích đầu tư. Chẳng hạn áp

dụng thuế suất thấp và miễn giảm hấp dẫn đối với các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực,
ngành nghề, địa bàn ưu đãi đầu tư như các cơ sở sản xuất mới thành lập; đầu tư ở
miền núi hải đảo, các vùng có nhiều khó khăn
Thuế thu nhập cá nhân còn phải đảm nhiệm vai trò quản lý và điều tiết vĩ
mô nền kinh tế. Vai trò này được thực hiện thông qua việc tăng cường điều tiết
hay giảm bớt điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư, làm cho tổng cầu của
xã hội giảm hoặc tăng từ đó có tác dụng co hẹp hay kích thích kinh tế.
Với hệ thống thuế rõ ràng, ổn định, các nhà đầu tư có thể xác định, các nhà
đầu tư có thể xác định được hiệu quả đầu tư vốn của mình sau khi hoàn thành
nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước. Họ sẽ so sánh, tính toán và lựa chọn lĩnh vực đầu
tư vào những ngành, những vùng có lợi nhất. Một chính sách thuế phù hợp sẽ thu
hút được các nguồn vốn trong và ngoài nước đầu tư vào lĩnh vực cần ưu tiên,
khuyến khích đầu tư vào những vùng có điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội còn gặp
nhiều khó khăn.
Thứ ba: Thuế góp phần tạo môi trường kinh doanh công bằng, bình đẳng
khuyến khích đầu tư phát triển kinh tế
Việc áp dụng chính sách thuế thống nhất đối với mọi thành phần kinh tế
trong phạm vi cả nước đã góp phần tạo nên sân chơi bình đẳng, thúc đẩy cạnh
tranh và khuyến khích phát triển mọi thành phần kinh tế trong phạm vi cả nước
góp phần tạo ra sân chơi bình đẳng thúc đẩy cạnh trạnh và khuyến khích phát triển


14
mọi thành phần kinh tế. Trong quá trình triển khai thực hiện, chính sách thuế luôn
được điều hỉnh linh hoạt, kịp, phù hợp với yêu cầu thực tiễn và hội nhập kinh tế
quốc tế. Điều này thể hiện rõ nét qua một số sắc thuế sau:
- Luật thuế GTGT được ban hành thay thế luật thuế doanh thu đã góp phần
giảm chi phí sản xuất kinh doanh, hạ giá thành sản phẩm, tránh đánh thuế trung
lắp, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đặc biệt là các
doanh nghiệp lớn.

- Luật thuế thu nhập doanh nghiệp được ban hành thay thế luật thuế lợi tức
với một mức thuế suất thống nhất đã khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế tăng cường đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Chính sách
thuế TNDN hiện nay của Việt Nam đã khá tương đồng với chuẩn mực quốc tế.
Mức thuế suất 28% là tương đối thấp so với các nước trong khu vực. Việc bãi bỏ
chính sách thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài đã đáp ứng kịp thời yêu cầu
khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài.
- Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao cũng đựợc điều chỉnh 7 lần
thông qua việc giảm mức thuế suất luỹ tiến cao nhất và tăng khoảng giãn cách
giữa các bậc thuế, góp phần thu hút nguồn nhân lực có trình độ cao ngoài nước.
Việt Nam cũng đã đàm phán và ký hiệp định tránh đánh thuế hai lần với 46 nước
trên thế giới, tạo cơ sở pháp lý khuyến khích các nhà đầu tư và cá nhân người
nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
Thứ tư: Thuế góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Thuế phục vụ định hướng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế phụ thuộc rất lớn vào mối quan hệ cung cầu của thị
trường. Có nhu cầu tất yếu đòi hỏi phải phát triển sản xuất, dịch vụ để cung ứng đủ
nhu cầu và ngược lại. Mục tiêu của chuyển dịch cơ cấu kinh tế là làm tăng tổng
cung gắn với kích cầu để quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đạt kết quả tốt.
Tổng cầu tăng hay giảm phụ thuộc vào nhiều yếu tố liên quan, chủ yếu là thu nhập
của các tầng lớp dân cư, giá cả từng sản phẩm, cơ cấu hàng hoá trên thị trường.


15
Ảnh hưởng của chính sách thuế thông qua các mức thuế, các chế độ miễn
giảm, các chế độ quản lý thu thuế khác nhau có vai trò quan trọng đến việc tạo nên
tổng cầu theo hai hướng, khuyến khích phát triển hay hạn chế. Thuế cũng có ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới cung của thị trường. Đó là việc đánh thuế cao
hay thấp và các yếu tố sản xuất, tiêu dùng, thu nhập. Bên cạnh sự can thiệp của
thuế vào cả hai lĩnh vực cung và cầu, chính sách thuế cũng có tác động đến lạm

phát trong nền kinh tế, cũng có nghĩa là can thiệp vào môi trường chuyển dịch cơ
cấu kinh tế.
Thuế góp phần phân bổ lại nguồn lực nhằm thực hiện tốt chương trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Việc thiết kế và xây dựng hệ thống chính sách thuế có phân biệt theo
nghành vùng khác nhau, Nhà nước có thể thúc đẩy phát triển nhiều nghành kinh tế
mũi nhọn then chốt và các vùng kinh tế trọng điểm, góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
1.3.Vai trò quản lý của Nhà nước trong quản lý thuế:
1.3.1 - Quan niệm về quản lý thuế
:
"Quản lý nhà nước về thuế" là thuật ngữ dùng để chỉ tổng thể các khâu lập
pháp, hành pháp và tư pháp về thuế. Khi xem xét lĩnh vực thuế dưới góc độ quản
lý nhà nước là xem xét ở tầm vĩ mô. Quản lý nhà nước về thuế là quản lý nguồn
thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Chủ thể quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế
là các cơ quan nhà nước có chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp về thuế. Đối
tượng của quản lý nhà nước về thuế là "các quá trình xã hội, hành vi của cá nhân
và tổ chức xã hội" trong lĩnh vực thuế. Tuy nhiên, bản luận văn này chỉ xét đến
lĩnh vực quản lý thuế.
Quản lý thuế là hoạt động của Nhà nước mà cơ quan thuế là đại diện để nhằm
huy động tiền thuế vào ngân sách nhà nước theo những quy định của pháp luật về
thuế.


16
Quản lý thuế là hoạt động quản lý gắn liền với cơ quan thuế - một tổ chức
nhà nước có tư cách pháp nhân công quyền. Do đó, quản lý thuế là một hình thức
quản lý công. Quản lý thuế chỉ gồm khâu hành pháp và tư pháp về thuế.
1.3.2 - Vai trò quản lý của Nhà nước trong quản lý thuế:


- Quản lý thuế có các vai trò sau:
Thứ nhất, quản lý thuế là thực hiện một chức năng quan trọng của Nhà nước
trong lĩnh vực tài chính.
Thứ hai, huy động nguồn lực tài chính cho ngân sách nhà nước

Thứ ba, đóng vai trò quan trọng trong việc đưa chính sách thuế vào cuộc
sống.

Thứ tư, tạo môi trường sản xuất kinh doanh lành mạnh, công bằng thúc đẩy
đầu tư phát triển kinh tế.

- Tính tất yếu khách quan vai trò Nhà nước về quản lý thuế
+ Thứ nhất, vai trò Nhà nước về quản lý thuế nhằm tạo ra khuôn khổ pháp
lý về thuế
Trong những năm vừa qua, nhằm hướng tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã tiến hành các cuộc cải cách
thuế, không ngừng hoàn thiện và kiện toàn hệ thống quản lý thuế nhằm đảm bảo
tính hiệu lực của các Luật thuế trong cả nước và tính hiệu quả của công tác quản lý
thu thuế. Nhờ vậy, công tác thuế đã góp phần tích cực vào nguồn thu Ngân sách
nhà nước và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, trước những
yêu cầu đặt ra của thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, cơ chế quản lý hiện nay đã bộc
lộ những hạn chế. Như vậy để tạo bộ khung pháp lý về quản lý thuế hoàn chỉnh,
phù hợp với những thay đổi của sự phát triển kinh tế quốc tế thì vai trò hoạch định,
cải cách chính sách về quản lý thuế nhằm nâng cao vai trò của nhà nước về quản
lý thuế là rất cần thiết.


17
+ Thứ hai, vai trò Nhà nước về quản lý thuế góp phần làm giảm những

khuyết tật của kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường có nhiều ưu điểm nhưng cũng có nhiều khuyết tật. Sư
phát triển kinh tế thị trường tất yếu dẫn đến như sự bất bình đẳng trong thu nhập,
sự phân hóa giàu nghèo, vấn đề ô nhiễm môi trường Chính vì vậy có cần vai trò
của Nhà nước trong việc quản lý thuế sẽ góp phần làm hạn chế những khuyết tật
này. Với chính sách thuế phù hợp sẽ động viên được nguồn thu để sử dụng trong
phân phối phúc lợi xã hội. Giúp đảm bảo công bằng trong đóng góp vào ngân sách
nhà nước. Dựa vào vai trò quản lý về thuế của mình, nhà nước sử dụng nguồn thu
của ngân sách để tạo lập hàng hóa công cộng, phân phối phúc lợi xã hội một cách
hợp lý
+ Thứ ba, vai trò Nhà nước về quản lý thuế nhằm tạo ra “sân chơi” bình
đẳng cho mọi thành phần kinh tế.
Chúng ta đang trong quá trình toàn cầu hóa, sự đầu tư liên kết không chỉ
trong khu vực mà trên toàn thế giới. Nhà nước tập trung vai trò quản lý thuế trong
tay để tạo ra “sân chơi” bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế. Mỗi mức thuế suất,
sự tăng giảm mức thuế ưu đãi, và việc thực thi chính sách đó sẽ thúc đẩy, khuyến
khích đầu tư hay hạn chế đầu tư vào từng lĩnh vực tùy theo chính sách khuyến
khích phát triển kinh tế vùng, miền, ngành hay hạn chế đầu tư vào các lĩnh vực
không khuyến khích tùy theo chính sách phát triển kinh tế xã hội của đất nước, và
chủ trương chính sách đúng đắn của Đảng và nhà nước có được thực hiện đúng
đắn nghiêm túc không phụ thuộc vào khâu tổ chức thực hiện đó là quản lý thuế.
+ Thứ tư, do đặc điểm thuế là khoản thu bắt buộc mang tính cưỡng chế
người đóng thuế không phải để nhận lại của nhà nước mà là nghĩa vụ đóng góp
chung chứ không phải tự nguyện. Thuế làm tăng thu cho Nhà nước và giảm thu
nhập của người nộp thuế do đó phải có vai trò nhà nước để đảm bảo việc thu
thuế được thực hiện nghiêm chỉnh, đúng pháp luật.
+ Thứ năm, hiện nay chúng ta đã hội nhập đầy đủ toàn diện với kinh tế
quốc tế do đó để đảm bảo yêu cầu đòi hỏi về tính phù hợp với các điều ước và



18
thông lệ quốc tế về chính sách tài chính; đồng thời tạo điều kiện tối đa cho cho
người nộp thuế trong việc kê khai nộp thuế thì đòi hỏi Nhà nước mà đại diện là cơ
quan thuế phải nâng cao vai trò của mình trong quản lý thuế .
1.3.3- Những nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thuế
+ Hệ thống chính sách, pháp luật thuế
Hệ thống chính sách, pháp luật thuế được áp dụng thống nhất đối với mọi
thành phần kinh tế phải đảm bảo được sự động viên đóng góp bình đẳng và thực
hiện công bằng xã hội. Hệ thống thuế phải thực sự khuyến khích mọi thành phần
kinh tế, mọi ngành nghề kinh doanh, các tổ chức và cá nhân bỏ vốn, lao động, đầu
tư trang thiết bị và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật cho sản xuất kinh doanh
theo quỹ đạo của kế hoạch nhà nước .
Hệ thống thuế mang tính chấp vá, chồng chéo, thiếu căn cứ kinh tế, có thể
vừa gây lạm thu, vừa gây thất thu lớn cho ngân sách nhà nước. Ngược lại, hệ
thống chính sách thuế khoa học, đơn giản, dễ hiểu và ổn định trong thời gian dài
tạo điều kiện nâng cao hiểu biết và nhận thức về nghĩa vụ công dân đối với thuế,
tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ rộng rãi của các tầng lớp dân cư và tự giác
chấp hành luật thuế, từ đó tác dụng thúc đẩy hạch toán kinh tế, thực hiện nghiêm
chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ .
+ Tổ chức bộ máy quản lý thuế
Yếu tố này có vai trò quan trọng mang tính quyết định cho việc thực thi chủ
trương, chính sách, bảo đảm thắng lợi cho công cuộc cải cách thuế. Hệ thống bộ
máy quản lý thuế phải được kiện toàn, củng cố để có đủ điều kiện thực hiện có
hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ của cả hệ thống thuế. Bộ máy quản lý thuế phải
thống nhất từ trung ương đến địa phương, bảo đảm hiệu lực của cả hệ thống trong
quá trình triển khai hệ thống chính sách thuế mới .
Phẩm chất cách mạng và năng lực toàn diện của các cán bộ quản lý thuế
phải được nâng cao về quan điểm, lập trường, đạo đức, về trình độ nghiệp vụ thuế,
về khả năng tổ chức quản lý, thông thạo về kế toán, kiểm toán, có trình độ ngoại



19
ngữ, biết sử dụng vi tính phù hợp với sự phát triển của ngành và đáp ứng được yêu
cầu quản lý ngày càng cao trong tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
ngày càng đa dạng và phức tạp .
+ Quy trình quản lý thu nộp thuế
Đây chính là cơ chế vận hành hết sức quan trọng trong quá trình tổ chức
quản lý, hành thu. Cần thiết phải xây dựng một quy trình quản lý, thu nộp thuế,
quyết toán thuế chặt chẽ từ khâu quản lý đối tượng nộp thuế, lập bộ thuế và thông
báo thuế, tổ chức thu nộp qua hệ thống kho bạc, theo dõi chấm bộ thuế, quyết toán
và xử lý nợ đọng, xem xét miễn giảm thuế, báo cáo cung cấp thông tin trong hệ
thống.
Mỗi đối tượng quản lý thuế, chẳng hạn đối tượng thực hiện thu theo phương
pháp khấu trừ, phương pháp kê khai hay khoán thuế hoặc theo từng sắc thuế như
thuế nông nghiệp, thuế nhà đất, đều phải xây dựng một quy trình cụ thể, chặt chẽ
theo nguyên tắc “khép kín”, có sự độc lập của từng khâu, kiểm tra giám sát lẫn
nhau
+ Công tác tin học
Khối lượng công việc quản lý hành thu thuế là rất lớn, chi phí rất cao và ảnh
hưởng trực tiếp đến kết quả thu ngân sách nhà nước. Phương pháp càng tiến bộ thì
kết quả quản lý thu thuế càng cao. Do vậy, việc ứng dụng công nghệ tin học là một
khả năng tốt nhất có tác dụng mạnh trong việc đẩy mạnh cải cách thuế và phát huy
những tiến bộ của ngành thuế trong công tác quản lý và hành thu thuế hiện nay .
+ Công tác tuyên truyền chính sách thuế
Các chính sách chế độ, luật, pháp lệnh về thuế chỉ có thể thực thi một cách
đầy đủ, thống nhất khi công tác phổ biến giáo dục được triển khai sâu rộng trong
quảng đại quần chúng. Mọi tổ chức, cá nhân cần phải biết đầy đủ các quy định,
những việc phải làm và mức độ sẽ bị xử lý đối với từng hành vi trốn lậu thuế,
không chấp hành nghiêm việc kê khai, đăng ký thuế; vi phạm về sử dụng hoá đơn
chứng từ, sổ sách kế toán, dây dưa nợ đọng trốn thuế. Tăng cường công tác phổ



20
biến, giáo dục pháp luật về thuế còn có ý nghĩa nâng cao tính tự giác, ý thức về
nghĩa vụ của công dân đối với nhà nước và sự kiểm tra giám sát của xã hội đối với
việc thực thi các chính sách, pháp luật về thuế, đảm bảo tính công khai, công bằng
xã hội .
+ Sự phối hợp giữa các ban ngành chức năng
Thuế là một trong những chính sách lớn của Đảng, Nhà nước. Là công cụ
quan trọng để Nhà nước quản lý kinh tế, quản lý xã hội hay nói một cách khác
thuế là một phạm trù kinh tế - chính trị tổng hợp, do đó thực hiện chính sách thuế
không phải là công việc đơn phương của ngành thuế. Cần có sự phối hợp với các
đoàn thể và cơ quan có liên quan để triển khai đồng bộ việc thi hành chính sách
thuế với các chính sách khác và quản lý kinh tế- xã hội trên địa bàn .
Tóm lại, công tác quản lý thu thuế có nhiều nhân tố tác động, chúng ta cần
chú trọng đến những nhân tố cơ bản nhất, nhưng cũng không nên bỏ qua những
yếu tố khác về kinh tế-xã hội và tác động của môi trường.
1.4 - Nội dung cơ bản của công tác quản lý thuế
1.4.1. Tổ chức bộ máy
Để thực hiện công tác quản lý thu thuế, trước hết bộ máy quản lý thuế phải
được tổ chức thống nhất từ trung ương đến địa phương, mỗi bộ phận có chức năng
riêng biệt, không chồng chéo đồng thời có sự phối hợp thống nhất chặt chẽ, hỗ trợ
nhau trong công tác quản lý thu thuế.

- Bộ máy thu thuế nhà nước được tổ chức thống nhất, thành hệ thống dọc từ
Trung ương đến các Quận, Huyện. Ở Trung ương có Tổng Cục Thuế thuộc Bộ Tài
Chính. Ở Tỉnh, Thành Phố, Đặc khu trực thuộc trung ương có Cục Thuế thuộc
Tổng Cục Thuế đồng thời chịu sự chỉ đạo của UBND cùng cấp. Ở các Huyện, thị
xã, thành phố trực thuộc tỉnh có Chi cục thuế chịu sự quản lý song trùng của Cục
thuế và UBND huyện, thị cùng cấp. Các đội thuế phường, xã trực thuộc chi cục

quản lý và UBND phường, xã, thị trấn cùng cấp .
1.4.2. Chức trách, nhiệm vụ chủ yếu của cơ quan thuế các cấp


21
- Tổng Cục Thuế :
Đây là cơ quan thuế cao nhất trong hệ thống thu thuế nhà nước. Cơ cấu gồm
có: Các phòng chức năng và phòng nghiệp vụ được tổ chức theo các sắc thuế.
Tổng Cục Thuế có một số nhiệm vụ chủ yếu:
Một là, giúp Bộ Tài Chính soạn thảo các văn bản pháp qui về thuế và các
khoản thu khác trình cơ quan chức năng có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực
hiện thống nhất các văn bản này trong cả nước. Tổng Cục thuế cũng được quyền
ban hành theo ủy quyền của Bộ Trưởng Bộ Tài Chính các văn bản về nghiệp vụ
quản lý thu thuế và hướng dẫn cơ quan thuế cấp dưới thực hiện thống nhất.
Hai là, hướng dẫn lập kế hoạch và tổng hợp kế hoạch thu thuế và thu khác
trình Bộ trưởng Bộ Tài Chính xem xét để trình các cơ quan có thẩm quyền quyết
định. Tổng Cục thuế xem xét giao chỉ tiêu thu thuế và thu khác cho cơ quan thuế
cấp dưới, hướng dẫn, chỉ đạo cấp dưới tổ chức thu thuế và thu khác trên địa bàn và
đảm bảo thu đủ, kịp thời vào ngân sách nhà nước.
Ba là, tổ chức thanh tra bộ máy thu thuế và các đối tượng nộp thuế; xử lý vi
phạm theo luật định .
- Cục Thuế
Về cơ cấu tổ chức cũng bao gồm một số phòng chức năng và phòng nghiệp
vụ. Cục Thuế có hai mặt nhiệm vụ chủ yếu sau:
Một là, hướng dẫn, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các văn bản pháp qui về thuế,
quản lý công tác thu thuế và thu khác thống nhất trên địa bàn.
Hai là, trực tiếp thu thuế đối với các đối tượng nộp thuế. Theo phân cấp hiện
nay về công tác thu thuế thì Cục thuế trực tiếp thu thuế đối với các doanh nghiệp
nhà nước trung ương đóng trên địa bàn, các doanh nghiệp nhà nước do tỉnh quản
lý, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ngoài quốc doanh thu theo phương

pháp khấu trừ, lệ phí trước bạ và một số đơn vị thu khác ngân sách.
- Chi Cục Thuế


22
Về cơ cấu tổ chức, Chi Cục Thuế gồm các tổ chuyên môn, nghiệp vụ và các
đội, tổ, trạm trực tiếp quản lý thu thuế. Chi cục Thuế có các nhiệm vụ chủ yếu sau:
+ Lập kế hoạch thu thuế hàng năm, quý, tháng trên địa bàn.
+ Tham gia với các cơ quan chức năng xét duyệt đăng ký kinh doanh, đăng
ký nộp thuế. Trực tiếp quản lý đăng ký tính thuế của các đối tượng nộp thuế do
Chi cục quản lý.
+ Tổ chức các biện pháp thu thuế: tính thuế lập sổ thuế, thông báo số thuế
phải nộp; đôn đốc thực hiện đầy đủ, kịp thời mọi khoản thu vào Kho bạc nhà
nước; xem xét và đề nghị xét miễn, giảm thuế và các khoản thu khác theo quy định
của nhà nước; thực hiện thanh quyết toán kết quả thu thuế đến từng hộ nộp thuế.
+ Tổ chức kiểm tra chống khai man lậu thuế; kiểm tra và xử lý các vi phạm
chính sách chế độ thuế; vi phạm kỷ luật trong nội bộ ngành thuế; giải quyết các
đơn khiếu nại theo thẩm quyền và theo sự ủy quyền của cơ quan thuế cấp trên.
+ Tổ chức công tác thống kê, kế toán, thông tin báo cáo tình hình và kết quả
thu nộp thuế theo chế độ quy định.
+ Quản lý kinh phí chi tiêu, trang phục, ấn chỉ của bộ máy thuế ở Quận,
Huyện.
1.5. Nhiệm vụ cơ bản của công tác quản lý thuế
Nhiệm vụ của công tác quản lý thuế là làm thế nào để quản lý tốt đối tượng
nộp thuế, quản lý đối tượng tính thuế, tính thuế đúng và nộp thuế vào ngân sách
nhà nước kịp thời, đúng quy định.
1.5.1. Quản lý đối tượng nộp thuế
Đối tượng nộp thuế là cá nhân, đơn vị, tổ chức có thu nhập có nhiệm vụ
chuyển giao một bộ phận thu nhập của mình cho nhà nước thông qua việc đóng
thuế. Đối tưọng nộp thuế thưòng rất đông và đa dạng do đó công tác quản lý

ĐTNT cũng phải tuỳ theo đặc điểm của đối tượng để quản lý. Trong quản lý đối
tượng nộp thuế, yêu cầu phải tổ chức lực lượng cán bộ trực tiếp hợp lý, nhất là đội
thuế phường xã, số lượng đối tượng nộp thuế và các ngành nghề sản xuất, kinh


23
doanh, dịch vụ để bố trí cán bộ phù hợp, có khả năng quản lý bao quát đến thôn, tổ
dân phố, đường phố. Trách nhiệm của cán bộ thuế phải nắm chắc tất cả các tổ
chức, cá nhân đang hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn theo từng
ngành nghề, quy mô kinh doanh, quan trọng là theo dõi cho được các biến động
của các đối tượng kinh doanh: cơ sở mới phát sinh, đang tạm nghỉ, nghỉ hẳn, tái
hoạt động, kinh doanh vãng lai, các hoạt động kinh doanh ngầm, các đối tượng xin
nghỉ nhưng thực chất vẫn kinh doanh trốn thuế, kinh doanh không đúng ngành
nghề theo giấy phép, hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại Đây là khâu cơ
bản trong công tác quản lý thu thuế.
1.5.2. Quản lý đối tượng tính thuế
Trong giai đoạn hiện nay, quản lý đối tượng tính thuế thật sự là một vấn đề
khó khăn. Để thực hiện tốt khâu quản lý này đòi hỏi phải có các điều kiện sau:
+ Về phía quản lý nhà nước phải xây dựng các định mức (sản lượng, giá
tính thuế, tỷ lệ động viên, mức thuế suất ) sát hợp theo từng ngành nghề, quy mô
kinh doanh và điều kiện kinh doanh của từng địa phương, từng vùng kinh tế có
tính chất hướng dẫn kinh doanh đồng thời giúp công tác quản lý kinh tế của nhà
nước chặt chẽ hơn.
+ Các tổ chức cá nhân kinh doanh phải chấp hành tốt pháp lệnh kế toán-
thống kê, thực hiện tốt chế độ sổ sách kế toán và hạch toán kinh tế đầy đủ.
+ Trong hoạt động kinh doanh phải thực hiện tốt chế độ hoá đơn, chứng từ
hợp pháp.
+ Cán bộ thuế phải có trình độ nghiệp vụ giỏi, đồng thời phải am hiểu về
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của đối tượng nộp thuế để theo dõi quản
lý chuẩn xác.

+ Mọi sự vi phạm phải được xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.
Các vấn đề trên tuy rằg pháp luật đều có quy định, nhưng thực chất sự chấp
hành của các tổ chức, cá nhân kinh doanh chưa thật nghiêm túc: đối với doanh
nghiệp nhà nước thì thực hiện khá chặt chẽ, nhưng đối với khu vực kinh tế ngoài


24
quốc doanh thì quá trình kinh doanh gắn với lợi ích cá nhân nên rất khó quản lý
được doanh số tính thuế một cách đầy đủ .
1.5.3. Công tác tính thuế
Nếu quản lý tốt đối tượng nộp thuế, xác định đúng đối tượng tính thuế thì
tính thuế sẽ dễ dàng. Tuy nhiên việc xác định đối tượng tính thuế rất phức tạp, việc
tính thuế, lập sổ thuế, tính thuế nợ, tính phạt, miễn giảm thuế, là công việc rất
tốn nhiều công sức và rất dễ nhầm lẫn, gây thất thu thuế hoặc không công bằng
trong đối tượng nộp thuế. Cần phải cải tiến phương pháp tính thuế thủ công sang
tự động hoá bằng máy vi tính và cập nhật kịp thời các thông tin về kết quả kinh
doanh và khả năng nộp thuế của các tổ chức, cá nhân kinh doanh để tính thuế
nhanh chóng, chuẩn xác, thông báo nộp thuế kịp thời đến đối tượng nộp thuế.
Về phía đối tượng nộp thuế, do trình độ còn hạn chế và không đồng đều do
đó đòi hỏi cần phải có chính sách thuế đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu và tạo điều kiện
cho đối tượng nộp thuế tự kê khai, tự tính và tự nộp thuế vào ngân sách nhà nước.
1.5.4. Nộp thuế vào ngân sách nhà nước
Nộp thuế vào ngân sách nhà nước kịp thời là kết quả sau cùng của công tác
hành thu. Đối với các doanh nghiệp tự kê khai, nộp thuế trực tiếp vào Kho bạc
Nhà nước thì khâu kiểm tra tờ khai thuế cần được thực hiện nhanh và chuẩn xác để
đối tượng nộp thuế trực tiếp nộp thuế vào Kho bạc Nhà nước. Đồng thời cơ quan
thuế phải cập nhật số liệu nộp thuế của từng đối tượng để nắm chắc thông tin, đôn
đốc hoặc xử lý các trường hợp chậm nộp thuế.
Đối với các hộ kinh doanh ngoài quốc doanh nộp thuế trực tiếp tại Kho bạc
hoặc đội thuế thì công tác kiểm tra, đôn đốc nộp thuế khá vất vả, bởi vì số lượng

đối tượng nộp thuế rất đông, việc thông báo thuế phải kịp thời đồng loạt và phải
đến nơi kinh doanh đôn đốc nộp thuế. Việc theo dõi cập nhật thông tin số liệu về
ĐTNT thường không được kịp thời và chưa đầy đủ nên chậm xử lý các trường hợp
chậm nộp thuế, trốn thuế có nhiều khả năng xảy ra. Từ sự chậm trể và xử lý vi
phạm không nghiêm theo quy định của pháp luật thường xuyên như vậy, đã tạo

×