Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

Học thuyết âm, dương và việc vận dụng trong y dược học cổ truyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.76 MB, 45 trang )

BỘ Y TẼ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Dược HÀ NỘI
*****
NGUYỄN MINH HẢI
HỌC THUYẾT W - DƯƠNG
V À
VIỆC VỆN ĐỌNG TRONG Y Đơợc HỌC cổ TRUỴẾN
(KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Dược sĩ ĐẠI HỌC KHOÁ 1996 - 2001)
Người hướng dẫn : TS. v ũ VĂN VINH
Nơi thực hiện : Bộ môn Mác - Lê Nin
Thời gian thực hiện : 9/2000-05/2001
Lt ÍU HÀ NỘI, THẢNG 5/2001
/ w y " "\
|C * \<
ụ y ^ . ' 7
S ã* c á m < P ĩĩs /
Trong klioảng thời gicui hạn hẹp, hơn nữa đây là bước đầu làm quen với
nghiên cứu khoa học, kinh nghiệm bản í hân còn hạn chế, đặc biệt trong một
đê lài mang lính tổng quan. Tuy nhiên, điỉợc sự hướng dẫn lận lình của các
íhẩy, cô Irong Bộ môn Mác Lê nin, Bộ môn DìíỢc học cổ truyền, củỉig với sự
cố gắiiịỊ của bản ihâii, em đã hoàn tliàììh đề lài theo nội diiììíỊ và thời gian đã
đề ra.
Nhân clip này em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến :
- TS. Vũ Văn Vinh - Chủ nhiệm Bộ môn Mác - Lồ nin là người đã hướng

dẫn tận tình, tỉ mỉ cho em trong suối quá trình nghiên ám.
- TS. Phùng ỉíoà tìình - Bộ môn Dược học cổ truyền người đã quan lâm
đóng góp ý kiến cho bản luận văn được hoàn lỉìiện hơìì.
Em xin chân íhàìỉh cảm Ơ1Ĩ các íỉìầy, các cô trong Bộ môn Mác Lê nin,
Bộ môn Dỉíợc học cổ truyền đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành bẩn luận


văn này.
Cuối cùng em xin bày tỏ ìòng biết Ơ11 sâu sắc tới toàn thể các thầy, cô
giáo, cán bộ công nhân viên trong nhà tníờỉig về Ìiìỉững gì em đã được trang
bị, đào tạo trong suốt 5 năm học vừa qua.
Hà nội, ngày 20 tháng 5 năm 2001
Sinh viên
Nguyễn Minh Hải
MỤC LỤC
Trang
Phần 1 : Đặt vấn đề 1
Phần 2 : Nội dung 2
Chương ỉ : Học thuyết Ảm - Dương 2
1.1. Nguồn gốc và những quan niệm về Âm - Dương 2
1.1.1. Nguồn gốc 2
1.1.2. Những quan niệm về Âm - Dương 3
1.2. Những tính chất và quy luạt vạn hành của Âm - Dương 5
1.3. Một số hiểu lượng của Âm - Dương 8
1.4. Lưực khao về Kinh Dịch 9
Chương 2: Mộl số vận dụng của học íhiiyêĩ Ăm - Dương Iroỉig y chcợc 14
học cổ truyền .
2.1. Học thuyết Âm - Dương với giải phẫu và sinh lý học cơ thể 17
2.1.1. Học Ihuyết Âm - Dương với giải phẫu tổ chức học cơ thể 17
2.1.2. Học thuyết Âm - Dương với sinh lý học cơ thể 18
2.2.Học thuyết Âm - Dương với nguyên nhân gây bệnh 18
2.3.Học Ihuyết Âm - Dương với chẩn đoán phân loại bệnh 23
2.4.Học ihnyết Âm - Dương với điều trị bệnh trong y học cổ truyền 29
2.5.Học thuyết Âm - Dương trong lĩnh vực dược học cổ truyền 35
2.5.1. Học thuyết Âm - Dương với phân chia tính, vị thuốc cổ truyền 35
2.5.2. Học thuyết Âm - Dương với phân loại Ihuốc cổ truyền 37
2.5.3. Tính tương đối của Âm - Dương liung phương dược cổ tiuyền 38

2.5.4.Học thuyết Âm - Dương với đường lối lập phương dược cổ liuyền 38
2.5.5. Học thuyết Âm - Dương với việc Ihu hái, chế biến Ihuốc cổ 39
truyền
Phần 3: Kết luận 40
Danh mục tài liệu tham khảo
PHẨN h ĐẶT VẤN ĐỂ
Người Phương Đông xưa quan niệm Âm dưưng - Ngũ hành là nguyên
lý phổ biến của Irời đất, vạn vạt. Từ thời cổ đại đã có sự hiện hữu của phạm trù
này trong những hoạt động sống của con người kể cả sự sản sinh, biến hoá của
vũ trụ. Việc sử dụng các khái niệm Âm - Dương đã đánh dấu bước phát Iriển
về tư duy khoa học của người Phương Đông vượt khỏi sự khống chế của tư
iưởng lín ngưỡng và tôn giáo đương thời. Đó là cội nguồn duy vật thô sơ và
biện chứng của lư tưởng Iriết học phương Đông. Nó là cơ sở cho việc nhân
thức các hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy.
Qua hàng ngàn năm phát triển của y dược học cổ truyền, học thuyết
Âm-Dương cùng với những học thuyết khác như: Học thuyết Ngũ hành, học
thuyết tạng tưựng, học ihuyết kinh lạc, học Ihuyết Thiên - Địa - Nhân đã trở
thành nền tảng lý luận cho tư duy biện chứng luận trị.
Chính V I vạy, dể hiểu rõ những giá trị của nền y dược học cổ truyền,
chúng ta không thổ không đi sâu vào nghiên cứu các học thuyết này. Hơn nữa,
hiện nay Đang và Nhà nước la đang nỗ lực xây dựng một nền y tế toàn diện,
hiện đại dựa trên cơ sử kế thừa và kết hợp chặt chẽ giữa y học cổ truyền và y
học hiện đại. Do đó việc nghiên cứu học Ihuyết Âm - Dương và việc vạn dụng
nó trong y dược học cổ truyền là một việc làm cần thiết nhằm góp phần vào
việc nghiên cứu, học tập để kế íhừa những giá trị của nền y dược học cổ
truyền, phục vụ sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.
1
PHẨN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
HỌC THUYẾT ÂM -DƯƠNG

1.1. NGUỔN GỐC VÀ NHŨNG QUAN NIỆM VE ẢM - DƯƠNG:
1.1.1. Nguồn gốc:
Cho đến nay trong giới nghiên cứu ở nước ta vẫn tồn tại hai quan điểm
khác nhau về nguồn gốc của học thuyết Âm - Dương. Quan điểm ihứ nhất,
bao gồm đại Ix) phận các nhà nghiên cứu đều cho rằng: quan niệm về Âm -
Dương vốn đã có lừ thời cổ ở Trung Quốc. Trong sách "Quốc ngữ" một cuốn
sách viết vào khoảng năm 780 trước công nguyên đã thấy giải thích hiện
tượng động đất là do lác động của hai Ihế lực Âm và Dương: "Dỉíơnẹ ẩn không
thể ra, Ầm ép không ỉôi thoát, thì địa chấn sinh”, về sau quan niệm về Âm -
Dương được trình bày một cách rõ ràng và là cơ sở của Dịch học.
Quan điểm thứ hai thì cho rằng quan niệm về Âm - Dương có nguồn
gốc từ phương Nam của cư dân trồng lúa nước. Đây là một triết lý hình thành
rất sớm lại vùng nông nghiệp Nam Á, lừ khi chưa có chữ viết. Để minh chứng
cho luận điểm của mình các nhà khoa học đã đưa ra những dẫn chứng cụ thể như:
- Âm - Dương là sản phẩm Irừu tượng hóa lừ ý niệm và ước mơ của cư
dân nông nghiệp về sự sinh sản của hoa màu và con người.
- Triết lý Âm - Dương mang lính tổng hợp và biện chứng, nó chỉ có thể
là sản phẩm tư duy của loại hình văn hóa nông nghiệp trọng tĩnh.
- Căn cứ vào cặp phạm trù "trái - phải" để giải thích tính đối lập Âm - Dương.
- Căn cứ vào tính cách quân bình Âm - Dương trong các quan niệm của
cư dân trồng lúa nước, Trời - Đất yên bình cây cỏ tươi tốt thì mùa màng bội ihu.
- Biểu lượng Âm - Dương được dùng phổ biến trong đời sống sinh hoạt
của người dân. [22, 122] *
Như vậy hai quan niệm trên có sự khác nhau cả về nguồn gốc, cơ sở
hình thành và điều kiện tồn tại của quan niệm về Âm - Dương. Tuy nhiên,
theo chúng lôi, quan niệm về Âm - Dương (hay triết lỷ Âm - Dương) được
hình thành tù' rất sớm và nó được ghi ỉại trong các sách cổ của Trung Quốc.
* SỐ đầu là sổ thứ lự trong (lanh mục lài liệu tham khảo, số thứ hai là số trang tài liệu
2
Sau đó do sự giao lưu văn hóa quan niệm này có ảnh hưởng đến nhiều quốc

gia khác ở Đỏng Nam Á trong đó có Việl Nam. Nó írở thành cơ sở lý luận
quan trọng chi phối thố giới quan và nhân sinh quan của người phương Đông.
1.1.2. Những quail niệm về Âm - Dương:
Từ xưa đến nay việc đưa ra một quan niệm khái quát về Âm - Dương
luôn luôn là điều quan lâm nhấl của các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên ở mỗi một
thời đại, mõi giai đoạn phái triển của lịch sử cũng như mỗi lĩnh vực nghiên
cứu khác nhau thì lại có những quan niệm khác nhau về Âm - Dương. Trong
phần này, chúng lôi muốn trình bày một cách tóm tắt những quan điểm cơ
bản về Âm - Dương Ihông qua mộl số lài liệu và các nhà nghiên cứu.
- Trong Kinh Dịch, một cuốn kinh ra đời từ rất sớm ở Trung Quốc có
nhiều đoạn nhắc đôn đạo Âm - Dương,ví dụ như:
• Hệ lừ thượng, chưưng 1 viết: "Có Càn (Dương) liên íìiàìĩìi giống đực,
cồ Khôn {Ẵm) liên Ihàìilỉ giống ('ái”.
• Hệ từ hạ chương 6: "Đức của Âm - Dương ìiợp với nhau mà hào cương
và nhu mới có thực thể, nhân đó mà suy trắc được công việc của trời đất và
thôìĩq cảm được đức của thần mi nil”.
- Hệ lừ hạ, chưưng 5: "Giông đực, giếng cái kết hợp tinh khí mà vạn vật
sinh 11Ở, biến hóa". [16, 113]
Rõ ràng Kinh Dịch coi đạo Âm - Dương, đạo trời - đất, đạo nam - nữ là
quan Irọng nhất: vì chỉ cỏ sự biến hóa, giao cảm của trời đất mới tạo ra các sự
vật, hiện lượng.
- Từ điổn Iriết học viết:
"Âm - Dương là lìhữtìíị khái niệm cơ bản của triết học Tnmg Quốc thời
cổ. Thoạt cíứii Ăm và Dương dùng đế biểu thị những nhân tố sáng - tối, cứng -
mềm, nam - Iìfí trong lự nhiên. Trong CỊìiá trình phái íriển của triết học Trung
Quốc, Ảm vù Dương ngày cànq tượng iruìig cho sự lác động lẫn nhau nia
nhỉĩiiíỊ đôi lập cực đoan và quyết liệt ỉìlìáí: ủììh sáng - bóng tối, ngày - đêm,
mặt í rời - mặt trủỉìg, Irời - iìấí; ÌIÓỈIIỊ - lạnh; khẳng đinh - phủ đinh " [34, 18|
- Theo Từ điển y học cổ truyền:
"Học íluiyêĩ Âm - Dương trong y học là phương pháp tư tưởng hiện

chứng kếl ỉiợp vói thực íiẽìi lrong V học, lức là quan điểm Ẵm - Dương đối lập
và ílìỏỊig ìihâl, liêu trưàiiỊỊ và chuyển hóa; ỉìói lổn mối quan hệ C()1\ người với
tự nhiên, klĩái quát thành một loạt vấn đề írong y học,.'' [19, 14]
3
- Phùng Hữu Lan (rong "Đại cương triết học sử Trung Quốc" viết:
"Dương ỉiiỊìiyên nghĩa là ánh sáng mặt Irời hay những gì ílmộc về ánh sáng
mặt trời và ánh sáng. Ám có nghĩa là thiếu ánh sáìig mặỉ trời, lức là bóng đêm
hay bóng tối. Trơng sự phái triển về san, Ấm và Dương được coi như hai
nguyên lý hay hai thế lực vũ trụ; Biểu íhị cho giốìỉg đực, hoạt động, hơi nống,
ánh sáng, khôn ngoan, rắìi rỏi v.v lức là Dương; Biển thị cho giống cái thụ
động, khí ìạnìi, bón lị Iô'i, ẩm ỉíớl, mềm mỏng v.v tức là Ầm. Chính do sự hỗ
tương ảnh hưởng Ỉ>iỉ7a hai nguyên lý coăn bản ấy mà sinh rơ mọi Ỉỉiệiì tượng
trong trời đất." ị 15, 147]
- Nguyễn Đăng Thục trong "Lịch sử triết học phương Đông" viết: "Vẩn
đề phân công íììeo giốìiíỊ írống - mái, nam - mĩ ở xã hội Trung Hoa cổ đại đã
là một vấn đề chi phôi tư lỉíởiig người la đến nỗi nó đã là khởi điểm cho hai
kliái niệm Ẵm - Dương, là ý Uíởng căn bản dẫn đạo cho íấl cả phạm vi íổ chức
tinh llỉầỉi và thực tế. Thực vậy, hai chữ Ẵm - Dương trước hếl là chỉ vào giống
"trống" và giỏiìg "mái", ììữ với nam ở trong xã hội nông nghiệp và vấn đề
dỏng dõi được coi trọng nhất. ” [23, 141]
- Trầu Văn Giàu trong tác phẩm: "Sự phát Iriển của tư tưởng ở Việí
Nam" lập I viốl: ''Chữ "Dương" vốn nghĩa là mặt trời, chữ "Âm" vốn nghĩa ìà
mặt írời bị che lấp. Âm - Dương là 1iai Irạng thái đối lập và cụ thể của thời
gian, cũng là hai trạng íhái đối lập của không gian nữa như nói hai triền núi
bổn thì nắng, bên tìù mát RỐI cùng Ăm - Dương trở thành khái niệm triết /v
chỉ hai lliế lực tương sinh, íỉiơng khắc chi phối mọi sự pliát triển của ỉlĩiên
nhiên, xã hội và con người." [10,143]
- Lê Văn Quán trong lác phẩm: "Chu dịch vũ trự quan", khi đề cập đến
Âm - Dương cũng viết như sau:
"Ảm - Dương là nguyên lố (Trung Quốc gọi là khí) hoặc động lực cơ

bản của hai loại í rủi ngược nhau nlỉiùig lại kết hợp với nhau trong vũ trụ. Ầm
- Dương cổ quan hệ mật íìứếl với ánh sáng mặt trời. Ấm - Dương nguyên chỉ
là vật thể đổi với Iniứìỉg của áỉìh sủng mặt trời, phía trước mặt trời, là Dương,
phía sau ìììặí trời là Ẵm "
"Ịlai chữ Ám - Dương diễn biến qua thời đại Chiến Quốc đến thời Tiên
Tần trở thành llntậl ỉìgỉĩ triết học tự nhiên dùng để nói Vổ vũ trụ. Cơ sở náy
sinh muôn vật (rong trời âất là do hai thế lực Ám - Dương. Ầm - Dương sinh
trưởng, tiêu diệt lẫn nìicni hình thành những hiện tìiỢììg thiên biến vạn hóa
Irong vũ trụ".118,881
4
- Trong cuốn "Những nền văn minh thô' giới", Âm - Dương được đề cập
đến như sau: "Âm - Dương hai lừ của một khái niệm biểu hiện hai yếu í ố cùng
tồn tại, độc lập, tương phản nhưng lại hòa đồng, lồng vào nhau mà không triệt
tiêu nhau để sinh biến. Ảm - Dương không những dũng để biểu hiện trong thế
giới hữii hình (lừ vi mô đến vĩ mỏ - 1 hổ'giới hạt cấu trúc của vật cỉtâĩ) mà nó
còn biểu hiện trong cả Ị hổ'giới vô hình (thổ'giới của tư duy, của tâm linh, cảm
giác, tâm hồn chính vì thế Ầm - Dương có trong lất cả, íữ các hiện tượng đếĩi
bản thể vật clưĩl dù nó có trong tri giác hay không có trong tri giác". [17, 417]
Như vậy, trong quan niệm của người phương Đông thì Âm - Dương là
một khái niệm vừa mang lính khái quát vừa mang lính cụ thể. Khái quát ở chỗ
nó bao hàm trong mọi yếu tố, mọi quá trình, mọi sự vật, hiện tượng Irong thế
giới (bao gồm cả thế giới vật chất, tinh thần và tư duy của con người) cụ Ihể ở
chỗ nó gắn liền với các sự vật, hiện tượng như: Trời - đất; đàn ông - đàn bà;
trước - sau; trên - dưới; trong - ngoài; nóng - lạnh. Khái niệm Âm - Dương là
một khái niệm động vì nó là hai mặt đối lập của các sự vật, hiện tượng biến
động, tiến hóa không ngừng. Do đó khi xem xét, vận dụng người ta cũng phải
đặt nó trong quá trình vận động, biến đổi không ngừng.
1.2. NHỦNí; t ín h CIIẤT v ả q u i l u ậ t v ậ n HẢNII CỦA ÂM - DƯƠNG:
Âm và Dương lác động lẫn nhau Iheo nhũng quy luật sau:
1.2.1. Âm - Dương đối lập nhau:

Âm và Dương là hai mặl đối lập của nhau, chế ước lẫn nhau nhưng
không tách rời nhau mà chúng lác động lãn nhau, mặt Iiày lấy mặt kia làm liền
để lồn tại và phát triển của mình. Sự đối lập thể hiện ở tính tương phản của
Âm và Dươns>. Sự lương phản này có Ihể lổn tại ở bên trong sự vật, hiện lượng
hoặc giữa các sự vật, hiện lượng với nhau, chẳng hạn như :
+ Trời và đ ấ t: Trời Ihuộe Dương, đất Ihuộc Âm.
+ Mặt trời, mặl trăng : Mặl trời thuộc Dương, mặt trăng thuộc Âm.
+ Cứng và mềm: Cứng Ihuộc Dương, mềm thuộc Âm.
+ Thủy và hoả : Hoả thuộc Dương, Ihuỷ thuộc Âm.
+ Nóng và lạnh : Nóng thuộc Dương, lạnh thuộc Âm.
+ Cao và thấp : Cao Ihuộc Dương, thấp thuộc Âm.
+ Sáng và lối : Sáng thuộc Dương, lối thuộc Âm.
+ Nam và nữ : Nam thuộc Dương, nữ Ihuộc Âm
Chính sự đối lập và mâu Ihuẫn của Âm và Dương mà sinh ra sự vận
động và biến đổi không ngừng của vạn vật. Hệ từ Thượng truyện có viếl:
"Cương nhu tương thôi nhi sinh biến hoá" (Nghĩa là cương và nhu cùng đùn
đẩy nhau mà sinh ra biến hoá).
1.2.2. Âm - Dương hỗ căn:
Hỗ căn là nương tựa lãn nhau. Hai mặt Âm - Dương tuy đối lập nhau,
nhưng phải nương tựa với nhau mới tồn lại được. Tính hỗ căn phản ánh mối
liên hệ mật thiết của hai mặt Âm - Dương, trong Âm có Dương, trong Dương
có Âm. Không có sự vật nào tồn lại được mà chỉ có một mặt Âm hoặc Dương.
Khi Âm - Dương tương ứng thì Dương xướng mà Âm hoạ, hợp tác với nhau
như quẻ Càn và quẻ Khôn. Càn cương kiện, Khôn nhu thuận. Càn tạo ra sự vật
ở vô hình, thuộc về phần khí; nhưng phải nhờ Khôn vạn vật mới hữu hình, mới
sinh trưởng đươc.
Ví như khí và huyết, thì khí thuộc Dương, huyết thuộc Âm. Huyết dịch
được sinh ra từ thức ăn uống là nhờ công năng của khí, huyết dịch tuần hoàn
để nuôi cơ thổ cũng là do sự thúc đẩy của khí, cho nôn có câu: "Khí là íììống
soái của huyết". Tuy nhiên, khí được tạo ra từ những tinh chất của huyết nếu

linh chất của huyết không đầy đủ thì kill cũng suy. Do vậy khí và huyết có
quan hệ khăng khít với nhau.
1.2.3. Âm - Dương tiêu trưởng:
Tiêu là sự mất đi, trưởng là sự phát triển. Quy luật này nói lên sự vận
động không ngừng và sự chuyển hóa lãn nhau giữa hai mặt Âm - Dương. Âm
trưởng thì Dương liêu, Dương trưởng thì Âm tiêu. Dương đạt đến cực Ihịnh thì
Âm sinh và Dương thoái dần; Âm đạt đến cực thịnh thì Dương sinh và Âm
llioái dần. Cứ như vậy, chu trình vận động tạo thành vòng tròn khép kín. Mặl
luần hoàn này của Âm - Dương phản ánh lỗ biến hóa của trời đất, của vạn vạt.
Ví như: Thời tiết có 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông luồn luôn biến đổi hết Hạ
qua Thu sang Đông, hết Đông qua Xuân sang Hạ.
Kinh Dịch đã minh họa điều này qua 12 íháng như sau:
___
Tháng 4: Quẻ Càn ( § n ) Tháng 10: Quẻ Khôn ( J ! P )
Tháng 5: Quẻ Cấn (rEẸEỊỊ ) Tháng 11: Quẻ Phục ( s s )
Tháng 6: Quẻ Độn ( === ) Tháng 12 : Quẻ Lâm ( )
Tháng 7: Quẻ BT ( EE5 ) Tháng Giêng: Quẻ Thái ( )
1.2.4. Âm - Dương bình hành:
Phản ánh thế cân bằng giữa Âm và Dương. Âm - Dương tác động lẫn
nhau trong xu thế để đạt tới sự cân bằng giữa Âm và Dương. Đó ỉà trạng thái
mà sự vật lổn lại bền vững. Sức khỏe của con người cũng vậy, nó là kết quả
của sự quân hình Âm - Dương. Sự quân bình ấy đạt được là do con người biết
sống hài hòa với lự nhiên, luân Ihủ những quy luật của tự nhiên, không thái
quá, không bất cập. Âm - Dương ở trạng llìái cân bằng động, vì vậy sức khỏe
của con người cũng luôn luôn ở trạng thái cân bằng động. Những yếu lố về
ngoại cảnh, VC thời tiết, khí hậu, về ăn uống, về làm việc và nghỉ ngơi, những
yếu íố lâm sinh lý luôn luôn lác động làm mất cân bằng trạng thái lạo nôn sức
khỏe. Nhưng con người bằng những hoạt động cụ Ihể của mình như tiếl chế,
sinh lioạí điều độ, lập luyện thường xuyên, tu dưỡng và sử dụng thuốc một
cách hợp lý đổ lập lại thế quân bình Âm - Dương đảm bảo cho sức khỏe và sự

trường tồn của chính mình.
Tóm lại : Bốn quy luật cơ bán của Âm - Dương nêu ở trên nói lên sự
mâu thuẫn thống nhất, sự vận động, phát Iriển, biến hóa của các sự vậí, hiện
lượng trong vũ trụ. Sự màu ílniẫn thống nhất, vạn động và phát triển này mang
lính khách quan vì nó là dặc lính tồn lại bên trong, vốn có của mỗi sự vật, hiện
lượng và mối quail hệ giữa các sự vậl, hiện tượng vói nhau. Tuy nhiên cũng
cẩn phải lliấy rằng, trong quan niệm của người Trung Hoa cổ đại thì sự phân
biệt Âm - Dương chỉ có ý nghĩa lưưng đối, tuỳ theo sự chuyển hoá giữa hai
mặt Âm - Dương của sự vật, hiện lượng hoặc mối quan hộ lương phản giữa sự
vật, hiện tượng với nhau. Ví dụ: Trong một ngày thì ban ngày là Dương,
nhưng ban đêm lại là Âm. Hay như màu trắng so với màu đen thì trắng là
Dưưng, đen là Âm nhưng so với màu đỏ Ihì màu đỏ là Dương, trắng lại là Âm.
Như vạy Âm và Dương tuy lương phản nhưng cũng lương ứng, lương cầu,
tương giao. Sự khác biệt ấy không dẫn đến sự bài Irừ phủ định nhau mà là
nương lựa vào nhau, thúc đẩy nhau cùng tồn tại và phát triển.
7
1.3. MỘT SỔ BIỂU TƯỢNG CỦA ẢM - DƯƠNG
Biểu tương Ám Dương trong Đạo Lão
Ảm Dương xen kẽ nhau
Biểu tương Âm Dương trong Đạo Do Thái
Hải hòa giũa Âm và Dương
Biểu tương Âm Dương trong Phảt giáo
Àm thẳng đứng còn Dương nằm ngang, phối hợp
với nhau và cùng quay.
Biểu tương Ảm Dương trong Đạo Thần
(Shintoisme). Hài hòa giữa Âm và Dương đường
thẳng đứng là Dương(Himorogi). Đường nằm
ngang là Âm(lwasaka).
o


Biêu tượng Âm Dương của Đạo Thiên Chúa.
Dương thằng đứng, Âm nằm ngang, hòa hơp với
nhau thảnh cải Đơn nhất của mọi hiện tượng.
Biểu tượng Âm Dương của Đạo Zoroastre. Dương
là cái chấm, Âm là cải gạch, hai cải luôn luôn di
đôi với nhau. Bên phải đồ hình là Vũ trụ của Đạo
gồm 32 hình vuòng Dương và 32 hinh vuòng Âm
(Tống còng là con số 64 !).
Hình 1: Một số biểu tượng của Ảm - Dương.
Trong lịch sử, quy luật Âm - Dương đưực hình tượng hoá bằng nhiều
biểu lượng khác nhau. Trong đó ta có thể thấy biểu tượng: 1 vòng tròn khép
kín, có một đường cong hình chữ s ngược chia hình tròn ra làm 2 phẩn là biểu
thị đầy đủ ý nghĩa nhất.
Trong biểu lượng này:
- Vòng Iròn lớn khép kín gọi là Thái cực, nói lên sự thống nhất của một sự
vạt, hiện iưựniỊ. Phân chia vòng tròn này thành hai nửa Thái Âm và Thái Dương
(Âm có màu đen, Dương có màu Irắng) là hình chữ s ngược (chứ không phải là
một đường lliẳnu) nói lỏn sự cân hằng động giữa Âm và Dương.
8
- Hai chấm nhỏ bên trong là Ihiếu Âm (chấm đen, nằm trong Thái
Dương) và Thiếu Dương (chấm trắng, nằm trong Thái Âm). Thiếu Dương vân
động đến Thái j$Ô8Ịthì trong lòng Thái Dương nảy sinh Thiếu Âm, Thiếu Âm
vận động đốn Thái Âm lliì trong lòng Thái Âm lại nảy sinh Thiếu Dương. Cứ
như vây, Âm - Dương biến hoá liên tục tạo thành vòng khâu biến hoá không ngừng.
1.4. LƯỢC KHẢO VỂ KINII DỊCIi:
Kinh Dịch là một bộ sách mang tính triết học của người Trung Hoa cổ
đại. Đó là nhũng cơ sở lý luận về vũ trụ quan và nhân sinh quan của người
xưa, hàm chứa nhũng lư tưởng ban đầu về triết lý Âm - Dương. Tương truyền
Kinh Dịch khởi thủy do vua Phục Hy (4477-4363 Irước công nguyên) còn gọi
là Đào Hy hay Thái Cao hoặc Thái Hạo, đó là vị vua có nhiều công lao cho sự

phát triển của lịch sử Trung Hoa cổ đại. Ông là người lập ra Hà Đồ (trong Hà
Đồ, ông dùng chấm Irắng tượng trưng cho Dương, chấm đen tượng trưng cho
Âm), vạch ra liên thiên bát quái gồm 8 quẻ, mỗi quẻ có 3 vạch (vạch liền biểu
thị cho Dương (-), vạch đứt biểu thị cho Âm đó là biểu thị của sự Âm -
Dương giao hoà, trong Âm có Dương và trong Dương có Âm). Rồi lại Irùng
quái bằng cách chổng 8 quẻ lên nhau tạo thành 64 quẻ kép, mỗi quẻ có 6
vạch, mỗi vạch là một hào, tổng cộng là 384 hào.
Đến thời Hạ (2205 - 1766 trước Công nguyên) vua Hạ Vũ đã lạp ra Lạc
Thư và Cửu Irù hổng phạm. Hai phẩn này chỉ ghi bằng chấm và gạch, nói về
các vấn đề liên quan đến luân thường đạo lý trong trời đất, vũ trụ và con
người. Hơn 1000 năm sau, đến Chu Văn Vương (1144 - 1142 trước CN) đã
thay đổi các quẻ dịch của Phục Hy và diễn giải thêm và đặt ihành Hậu thiên
bát quái. Ông dùng văn lự để giải thích ỷ nghĩa của các quẻ gọi là Thoán từ
hay Quái lừ.
Sau đó ƠIU Công Đán là con của Văn Vương đã đặt ra hào từ hay iưựng từ.
Ông đã cắl nghĩa các hào trong 64 quẻ và cho mõi hào một ý nghĩa ngắn gọn.
Đến thòi Khổng Tử (551 - 479 trưức CN) đã viết Thập Dực mở lộng
thêm ỷ nghĩa và phái huy những giá trị của Dịch. Ngày nay qua các công Irình
nghiên cứu, các học giả về Kinh Dịch và Iriếl học phương Đông đều cho rằng
Kinh Dịch là cuốn kinh ra đời lừ 1'ấl sớm, nội dung của nó mang lính Iriết lý
sâu sắc làm cư SƯ lý luận cho quá Irình nhộn thức vũ trụ và con người của
người phương Đồng cổ đại. Kinh Dịch do nhiều người viết, trải qua các Uiời
kỳ đều được bổ sung, phát Iriổn hoàn thiện.
9
Nội dung Kinh Dịch gồm 12 Ihiên bao quát những phần sau đây:
- Hà Đồ và Tiên Thiên bát quái của vua Phục Hy.
O O C H H K K )
9 ỵ/ / / *-* N'S''\S

o

ệt f «
ill ^ A A
Hình 2: Hà Đồ
Hình 3 :Tiên Thiên bát quái
Theo Iruyền thuyết các hình Irên là do vua Phục Hy vạch ra. Nhân khi
trông thấy Long Mã xuất hiện Irên sông Hoàng Hà, trên lưng nó có những
chấm như mộl bức họa đồ, ông liền phỏng Iheo và vẽ thành một bức đồ gọi là
Hà Đổ. Vua lại lấy vạch ngang liền (-) để ký hiệu Dương vạch ngang đứt (- -)
để ký hiệu Âm. Mõi vạch như vậy gọi là 1 hào. Bát quái là 8 quẻ, mõi quẻ có
3 hào, được sắp xốp như sau:
1. Quỏ Kiền: là trời; ký hiệu: ( EEEE )
2. Quẻ Đoài: là ao, hồ; ký hiệu: ( )
3. Que Ly: là lửa; ký hiệu: ( SESE )
4. Que Chấn: là sấm; ký hiệu: ( J
5. Que Tốn: là gió; ký hiệu: ( ErEE )
6. Que Khảm: là nước; ký hiệu: ( EES )
7. Que Cấn: là núi; ký hiệu: ( EETEE )
8. Quẻ Khôn: là đất; ký hiệu: ( EEEE )
Xếp Ihứ tự như Ihố gọi là Tiên Ihiên bát quái. Chồng hai quẻ lên nhau ta
lại có 64 que kép. Mõi quẻ có 6 hào.
- Lạc thư và Cửu trừ hồng phạm của vua Hạ Vũ:
Theo iưưng Iruyền vua Hạ Vũ nhân dạo chơi trôn sông Lạc nhìn thấy
một con rùa vàng trôn mai có những chấm và vạch bố trí như một biểu đổ gọi
là Lạc Thư. Dựa theo đó ngài đã đặt ra 9 nội dung triết lý để trị dân và làm
giường cột cho xã hội dương thời gọi là Cửa trù hồng phạm (khuôn phép của 9 IrCi).
10
4
Ngũ kỷ
9
Ngũ phúc

lục cực
2
Ngũ sự
3
Bát chính
5
Hoàng cực
7
Kê nghi
8
Thứ trung
1
Ngũ hành
6
Tam íức
Iiinh 5: Lạc Thư
- Thoán íù' và Hậu Ihiên bát quái:
Hình 6: cửu trù hồng phạm
Là nội dung Ihứ 3 của Kinh Dịch. Đây là phẩn phát triển của Văn
Vương nhà Chu. Ông đã thay đổi vị trí các quẻ dịch trong mô hình bát quái cổ
và diễn giải them, dặt mô hình mới gọi là hậu thiên bát quái:
1. Kiền là cha
2. Kham là U ung nam
3. Cấn là thiếu nam
4. Chấn là trưởng nam
5. Tốn là trưởng nữ
6. Ly là Irung nữ
7. Khốn là mẹ
8. Đoài là thiêu nữ Hình 7: Hậu thiên bát quái
Phần diễn giải thêm toàn ý các quẻ gọi là Thoán từ. Nó nói rõ nội dung,

mục đích áp dụng nhũng tình huống các quẻ để giải thích các hiện lượng xã
hội và nhân sự. Do đó có phần nói về "tốt - xấu, cát - hung, lành - dữ” Irong
mỗi que, làm cho dịch lý Irở Ihành nguồn gốc phương pháp tính toán đổ liên
đoán số mệnh, bói loán, lính số lử vi.
- Hào lừ:
Đây là phần bổ sung của Chu Công Đán con Văn Vương. Ồng cắl ngliĩạ
íừng hào trong 64 quẻ, cho mỗi hào mộl ý nghĩa ngắn gọn, gắn sự cát - hung
cho từng hào gọi là Hào lừ. Nội dung của 64 quẻ đều xoay quanh lỗ biến hóa
của Âm - Dương, cư sở của sự liêu Irưởng, lành dữ, cái đạo của sự liến hóa,
tổn vong của muôn vậl.
- Thập dực: Là phẩn Khổng Tử soạn và bổ sung để hoàn Ihành Kinh
♦ Dịch. Phần Thập dực bao gồm: Thoán truyện, Tượng Iruyện, Hệ từ mỗi thứ có
2 thiên, còn Văn ngôn, Thuyết quái, Tự quái, Tạp quái mỗi thứ có một thiên.
+ Thoán truyện: Gồm 2 thiên: Thiên ihượng giải thích Thoán lừ của 30
quẻ đáu, íhiên hạ giai thích Thoán lừ của 34 quẻ sau.
+ rỉ'iíỢHí> truyện: Giải thích cái ''tượng" của mỗi quẻ và của loàn quẻ.
Tượng truyện cũng chia làm 2 thiên: thiên thượng cho 30 quẻ đầu, thiên hạ
cho 34 quẻ sau.
+ lỉệ lừ: Cũng gồm hai Ihiên thượng và hạ. Nội dung tập thượng bàn về:
Lý lẽ về Càn - Khôn; ý nghĩa việc thánh nhân làm dịch; sự lo lớn của đạo
dịch; bàn về lliuyốt Âm - Dương; sô đại diện trong dịch và phép bói; công
dụng của đạơ dịch; việc bói dịch. Nội dung lập hạ bàn về: Lẽ tốt xấu trong quẻ
và hào, cổ nhân lấy iưựng ử các quẻ mà lạo đồ dùng, luật tuần hoàn và đạo đức
trong dịch, sự khác nhau giữa các hào 2 và 4; 3 và 5; bàn luận chung về dịch
+ Vãn ngôn truyện giải Ihích ihôm về kinh văn, nội dung Văn ngôn
truyện hàn vổ ý nghĩa của hai quẻ Càn và Khôn đối với lính cách và hành vi
của con ngưừi. về tư tưởng thiên truyện này có nhiều chỗ giống trong tác
phẩm Đại học, Tru nụ; dung và Mạnh lử, mang IÍI1Ỉ1 Iriốl ]ỷ nhằm giáo dục con
người vì lliố nhiều nhà nghiên cứu về Kinh Dịch đã dựa vào nội dung này mà
cho rằng các chirưng Irons’- Thập Dực không phải do chính Khổng Tử soạn mà

do các nhà nho đời sau viốl ra.
+ Thuyết quái truyện: Chỉ có một thiên gồm 11 chương ngắn bàn nhiều
về bói, chú ý dùng vào vice bói; nhiều chương lời văn tối nghĩa khé) hiểu.
+ Tự (ỊUÚỈ truyệìư. Giải Ihícli về thứ lự các quẻ. Cũng chia thành 2 thiên:
thiên lượng bail về 30 quẻ đẩu, ihiên hạ về 34 quẻ sau.
+ Tạp (Ịìiái truyện: GỒIĨ1 1 thiên, nội dung giải thích bổ sung một số
quẻ không llieo qui tắc nào. Trong lạp quái truyện cũng có nhiều chỏ tối
nghĩa. Nhiều nhà nghiên cứu cho là nội dung tầm thường.
Như vậy, nội dung của Thập tlực không đều, có chỗ hàm súc, chứa đựng
nhiều tư iươnu, triết học uyên bác vồ vũ trụ và nhân sinh, nhưng cũng có Iruyện
lối nghĩa và lầm thường. Nhiều nhà khảo cứu cho rằng Thập dực do nhiều
người viốl sail này và được gán ghép cho Khổng Tử.
- Các bộ sách Dịch:
Do sự sáp xốp lliứ lự các que khác nhau mà thời xưa có những loại Dịch
khác nhau. Theo sách Chu lõ thì đời nhà Chu ở Trung Quốc có quan Thái Bốc
trông coi 3 loại Dịch:
12
+ Lien Soil Dịch của nhà Hạ (2205 - 1176 trước CN) lấy quẻ Cấn làm
gốc. Nguồn gốc Dịch này có lừ Ihời vua Phục Hy, khi mà cuộc sống hoang dã
của con người còn phổ biến. Họ lấy các hang núi làm nơi sinh hoạt chính.
+ Quy Tàng Dịch của nhà Thương (1778 - 1150 trước CN) lấy quẻ
Khôn làm chủ, với ý nghĩa là nguồn gốc muôn loài được sinh ra lừ đất lồi lại
quay về đất. Nguồn gốc của dịch này có lừ thời vua Thần nông, người tượng
Irưng cho liền nông nghiệp thủa ban đầu, con người phải nhờ đất mà sống vì
vạy lấy đất làm chủ.
+ Chu Dịch của nhà Chu (550 - 250 Irước CN) lấy quẻ Càn và quẻ Khôn
làm gốc, ngụ ý nói rằng: "Trời đất là nguồn gốc biến hóa của Âm - Dương".
Theo truyền tlniyếl Clni dịch khởi đầu ử Văn Vương, hoàn thành ở Khổng Tử.
Từ đời Hán về sau nhiều học giả căn cứ vào các cuốn Kinh Dịch cổ và
Dịch do Khổng Tử san định đổ soạn ra các bộ Dịch có chú giải để người đọc

dễ tiếp thu và Iruyền bá những lư tưởng triết học và đạo đức của người xưa,
nhằm giáo dục các chuẩn mực đao đức cho con người và xã hội. Trong đó có
đại biểu nổi liếng thời Hán như Phi Trực và Trịnh Huyền. Đến Ihời Ngụy có
Vương Bạl đã cai tiến cách soạn dịch đưa Thoán truyộn, Tượng truyện, Văn
ngôn truyện xen vào phần kinh văn ghi sau mỗi quẻ, mỗi hào. Còn lại Hệ lừ
Iruyện, Thuyốl quái truyện, Tự quái truyện và Tạp quái Iruyện là in liêng ở
phần cuối kinh.
Đốn lliời Tống, Chu Hi đã soạn ra "Chu Dịch bản nghĩa" giải tliích đầy
đủ nhiều quan niệm về vũ trụ và nhân sinh của người xưa. Nhiều người học
dịch sau này đã dựa vào cuốn Kinh Dịch của Chu Hi. ở nước ta nhiều cuốn
Dịch được dịch ra liếng Việt cũng dựa theo sách này. Nhìn chung các cuốn
dịch đều chia Kinh Dịch ra làm 2 phần gọi là Thượng Kinh và Hạ Kinh.
Thưựng Kinh nói về Hà Đồ, Lạc Thư, Bál Quái và 30 quẻ đầu, Hạ Kinh nói về
34 quẻ sau.
Như vậy rõ ràng Kinh Dịch là một cuốn sách rất đồ sộ, do rất nhiều
người viết và hổ Sling. Những Iriếl lý của Kinh Dịch cũng không phải là quan
niệm l iêng cua một vài người, mà là vũ trụ quail và nhân sinh quan Ihống nhất
của người Á Đông. Nó được coi là cơ sử lý luận cho nhiều lĩnh vực của cuộc
sống con người như y dược, lịch toán và có trong lĩnh vực nhân học nhằm tiên
đoán vận mệnh đời người như khoa lử vi học. Tuy còn những hạn chế, nhưng
phải nói rằm; những giá trị đổ lại của Kinh Dịch là rất lớn, chúng la cần đi sâu
đổ "gcm dục, khơi íroiỉiị", phái huy vốn văn hóa cổ (Irong đó có Kinh Dịch)
phục vụ cho cuộc sống con người hôm nay.
13
CHƯƠNG 2:
MỘT SỐ VẬN DỤNG CỦA HỌC THUYẾT ÂM - DƯƠNG
TRONG Y DƯỢC HỌC cổ TRUYỀN
■ ■
Ngay lừ khi xuất hiện, học thuyết Âm - Dương đã được ứng dụng vào
rất nhiều lĩnh vực như thiên văn học, nông học, toán học đặc biệt trong y

dược học cổ truyền. Cùng với một số học thuyết khác, học thuyết Ảm - Dương
được coi là nền lảng mang lính bao quái và sâu sắc Irong mọi khía cạnh của y
dược học cổ Iruyền, lừ việc phân định tổ chức các bộ phận của cơ thể đến chẩn
đoán phân loại bệnh, điều trị, châm cứu, phân loại lính vị của các vị Ihuốc,
xây dựng phương thang, cách chế biến sử dụng thuốc Việc vận dụng học
thuyết Âm - Dưưng hoàn loàn không mang tính trừu tượng mà nó mang tính
cu thể, khoa học và hiệu quả, đặc biệt dưới ánh sáng của y học hiện đại. Trải
qua hàng ngàn năm việc vận dụng học thuyết Âm - Dương cộng với những
kinh nghiệm làm sàng đã đúc kết thành những lý luận cơ bản của y dược học
cổ truyền, đưựe ghi chép, lưu truyền, không ngừng được sáng tạo và phát íriển.
"Hoàng Đế Nội Kinh" là pho sách thuốc hoàn chỉnh đầu tiên của y dược
học cổ truyền Trung Quốc, biên soạn và ra đời vào thời Chiến Quốc, bộ sách
là sự tổng kêl các kinh nghiệm và thành tựu y học Irong các thời kỳ trước đó.
Xét về căn bán, Hoàng Đê' Nội Kinh cũng không ngoài việc lấy Âm - Dương,
Ngũ hành đổ lỊĨải Uiích mối quan hệ giữa con người với giới lự nhiên, về
nguyên nlúìn gây bệnh, chẩn đoán, điều trị Trong Ihiên "Âm -Dương lứ
tượng đại luận" cổ viol: "Âm - Dương lịiả, íììiêìi địa chi đạo dã, vạn vật chi
Cttơnq kỷ, biến hóa chi phụ mẫu, sinh sát chi bản tìiể, íìiần minh chí phủ dã "
có nghĩa là: "Ẵm - Dươììg là đạo của trời đất, là giường mối của inĩiâỉỉ vật, là
cha mẹ của sự biến hóa, là nguồn gốc CÚCI sự sinh sát, ỉà phú của thần
minh " ị20, 521. Trong tác phẩm này, danh lừ "đạo" được dùng để chỉ quy
luạl vận hành cúa Âm - Dưưng, sự biến hóa này được biểu hiện như sau: '7 liái
cực tĩnh lliì sinh Âm, động íhì sinh Dìíơng, Trời sinh ra bởi động, đất sinh ra
bởi Ịĩỉih gọi là hóa, vật đến cực gọi là biến" [20, 52|. Qua đó ta có thổ ihấy
Âm - Dương là 11C11 lang tư tưởng của "ỉloàiìíị Để Nội Kiììlì" và dây chính là
CƯ sở lý luận của y học. Các y gia sau này đều lấy Nội Kinh làm căn bản và
14
hết sức coi trọng những lý luận trong đó. Theo Trương Trọng Cảnh, một danh
y Trung Quốc "Đó là sách thánh nên đọc” còn Hải Thượng Lãn ông thì cho
rằng "Những nhà làm y trước hết cẩn đọc Nội Kinh và bước đầu cần nhập tâm".

- Cuốn Hoàng Đố 81 Nạn Kinh (gọi tắt là Nạn Kinh) tương truyền do
Biển Thước soạn nhằm giải thích thêm những điểm thâm thúy của Nội Kinh.
- Trương Trọng Cảnh (150-219) một danh y thời Hán của Trung Quốc,
lác giả của hai cuốn sách nổi Uống: 'Thương Hàn Luận" và "Kim Quỹ yếu
Lược" cũng đều dựa Irên cơ sở Nội Kinh, lấy Âm - Dương làm căn bản, ông
cho rằng: "Ầm - Dương là đề Cỉíơng của bệnh lật" ông là người đã sáng chế ra
hai phương thuốc nổi tiếng Lục vị (bổ âm), Bát vị (bổ dương).
Lý Đông Viên (1180 - 1251), tác giả cuốn "Tỳ vị luận", người xây dựng
nôn phái bổ tỳ thì lấy việc bổ lỳ dương làm trọng, Chu Đan Khê (1281 - 1358)
với lý thuyết "tư âm" thì lấy việc bổ âm làm trọng vì ông cho rằng: "Dương
íhời hũìi dư, âm thời bất lúc” cho nên phải chú trọng bổ chân âm.
Hoa Đà, một thần y thời Tam quốc ở Trung Quốc, cũng không ngoài
việc lấy Âm - Dương làm căn bản. Trong "Hoa Đà thần y bí truyền" viết:
"Trời là lổ của dương, đất là lổ của âm, dương là gốc của sinh, âm là nền của
lử, được dương thì sống được ảm Ị lù chết " [5, 35]
Y dược học cổ truyền Việt Nam được hình thành trong suốt quá trình
dựng nước và giữ nước. Ngoài việc lự tìm tòi lừ kinh nghiệm thực tế, y dưực
học cổ truyền Việt Nam còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của y dược học cổ truyền
Trung Quốc do việc giao lưu văn hóa giữa hai nước trong suốt quá trình phát
Iriển của lịch sử. Các danh y Việt Nam cũng đều lấy Nội Kinh làm căn bản,
Âm dương, Ngũ hành làm nền lảng tư tưởng. Trong tác phẩm "Nam Dược ihần
hiệiyVTuệ Tĩnh đã vận dụng Âm - Dương để phân chia Ưnh vị của các vị thuốc
trong nước từ đó làm căn cứ đổ sử dụng trong điều trị. Ví dụ: Vị thuốc có khí
ôn, vị cay là dương dược dùng điều trị ârh bệnh, vị thuốc có khí hàn, vị đắng là
âm dược dùng để điều trị dương bệnh.
Hải Thượng Lãn ông (1724 - 1791), một danh y nước ta thời hậu Lê,
người có công lớn trong việc xây dựng và phát triển nền y dược học cổ truyền
nước nhà, được coi là đại tôn y Việt Nam, người luôn tâm niệm xây dựng một
nền y học Việt Nam độc lập, tự chủ, vì sức khoẻ nhân dân. Bộ sách "Hải
15

Thượng y tông tâm lĩnh" của ồng nổi tiếng trong và ngoài nước. Ây vậy mà
cơ sử y lý của ông cũng không ngoài hai chữ Âm - Dưưng, Thủy - Hỏa. Ngoài
việc hấp ihu các tinh hoa y học trong và ngoài nước, ông còn là người phát
triển học thuyết Âm - Dương trong y học một cách sâu sắc toàn diện và khoa
học, đặc biệl ông đã xây dựng Ihành công một học thuyết có ý nghĩa quan
trọng trong y học đó là học thuyếl Tâm - Thận hay học thuyết Thủy - Hỏa.
Theo ông, người ta sinh ra do sự hội tụ, giao hòa của hai khí chân âm, chân
dương (hay chân thủy, chân hỏa) của cha mẹ, đấy gọi là thủy hỏa tiên thiên,
còn lớn lên là do khí huyết của ngũ tạng giao nhau, đấy là hậu thiên, Ihủy hỏa
là cha mẹ của khí huyết. Thận là tạng được hình thành đầu tiên của giai đoạn
bào thai, do sự hội tụ của ihủy hỏa liên thiên, từ đó hình thành nên các lạng
khác, như vạy, thận là nơi ngự trị của chân âm, chân dương, là nguồn của bách
bệnh, trị bệnh, phải tìm đến Ihận. Còn tâm là quân chủ, chủ về khí huyết hậu Ihiên.
Hải Thượng Lãn Ông luạn rằng: Theo Hậu thiên bát quái của Chu
Văn Vương, thi lâm ứng với quẻ Ly( ) gồm một hào âm ( ) ử giữa
hai hào dương (-) ẩy là Irong quân hỏa có âm huyết. Còn thận ứng với quẻ
Khảm ( EHEE ) có một hào dương ở giữa hai hào âm ấy là thận thủy chứa
tướng' hỏa. Như vậy giữa hai lạng tâm, thận có sự giao hòa chuyển cho nhau.
Tâm hỏa phải đi xuống, thận thủy phải đi lên ấy là'thủy hỏa ký tế (giao nhau)
mới hợp với Đạo của Dịch, cơ thể mới khỏe mạnh được. Từ quan điểm đó, ông
chủ trương điều trị theo đường lối "giáng tâm hỏa, ích thận thủy". Ông rất tâm
đắc với hai bài Lục vị và Bát vị của Trương Trọng Cảnh, ông dẫn lời cổ thư:
"Nhà y mà không hiểu rõ chân liỉớng của tiên thiên thái cực, không nghiên
CÚÌI công dựìiíị của lliủy hỏa vô hùih mà không thể trọng dụng được những bài
thuốc hay như Lục vị, Bái vị íhì làm thuốc còn thiếu đến hơn một nửa" [30,
430]. Trong cuộc đời lcim thuốc của mình ồng chỉ lấy 2 bài thuốc này làm căn
ban mà có thể chữa trị được trên 50 loại bệnh khác nhau.
Như vây có Ihể nói đường lối biên chứng luân trị của Hải Thượng
Lãn Ông gắn liền một cách sâu sắc với nội dung tính chất và sự biện chứng
của quy luật Âm - Dương.

Trên đây là những biểu hiện mang tính khái quát sự vận dụng học
thuyốl Âm - Dương trong lịch sử phát triển của y dược học cổ truyền, sau đây
16
chúng tôi sẽ đi sâu vào phân tích những ứng dụng cụ thể của học ihuyết Âm -
Dương vào mội số vấn đề trong y dược học cổ truyền.
2.1. IIỌC THUYẾT ÂM - DƯƠNG VỚI GIẢI PHẪU v à SINII l ý h ọ c c ơ THỂ:
Người xưa cho rằng vạn vạt trong vũ trụ được hình thành do sự giao
hoà của hai khí âm và dương, con người cũng như vậy, "Nhăn thân tiểu thiên
địa" (con người là một vũ trụ thu nhỏ).Từ lúc bắt đầu sinh ra, sinh trưởng và
phát triển đều hàm chứa một hình đồ thái cực Irong đó hàm chứa hai mặí Âm
- Dương có quan hệ mật thiếl với nhau, trong dương có âm và trong âm có
dương. Do vậy mõi bộ phận trong CƯ thể hoặc giữa các bộ phận đều hàm chứa
Âm - Dương.
2.1.1. Về giải phẫu học cơ thể có thể phân chia như sau:
- Xét vồ liên, dưới thì nửa người Irên (lính từ rốn Irở lên) thuộc dương,
nửa người dưới thuộc âm.
- Xét về trong, ngoài thì Irong (lý) thuộc âm, ngoài (biểu) thuộc dương.
- Xét về Irước, sau thì lưng thuộc dương, bụng thuộc âm.
- Xét về trái, phải thì nửa người bên trái thuộc dương, nửa bên phải thuộc âm.
- Xét lạng, phủ thì Ngũ lạng (tâm, can, lỳ, phế, thận) thuộc âm, lục phủ
(đởm, vị, tiểu tràng, đại tràng, bàng quang, phủ lam liêu) thuộc dương.
Tuy nhiên, sự phân chia mang lính lương đối, ví như trong mỗi tạng,
phủ đều có phần âm, phần dưưng; Tâm có Tâm âm (Tâm huyết), Tâm duơng
(Tam hoả). Can có Can âm, Can dương; Tỳ có Tỳ âm, Tỳ dương; Thận có
Thận âm, Thận dương.
Tính chất lương đối còn thể hiện ở chỗ: Tạng tâm, tạng phế thuộc âm
nhưng nằm trong lồng ngực thuộc dương ấy là âm trong dương, can, lỳ, thận
là lạng âm Irong âm.
Các đường kinh dương trong cơ thể được phân bố phía lưng, mặt ngoài
của chân, tay còn các đường kinh âm đuợc phân bố phía bụng, mặt trong của

tay, chân.
Xél về khí huyốl: khí là Uạng Ihái năng lượng của cơ thể, đưa lại công
năng của CƯ nhục, hoạt động của tạng phủ, thuộc dương, huyết là,chất dịch
màu đỏ lưu thông trong mạch đi khắp cơ thể, là chất nuội dưỡng cơ thổ/ là
Ậ. lỡ.
17
nguồn của khí, là tinh hoa của ihức ăn, thuộc âm. Khí có vệ khí (khí thuộc
9 biểu) là dương trong dương, vinh khí (là khí ihuộc lý) là dương trong âm.
2.1.2. Về sinh lý học cơ thể:
Hoạt động sinh lý của cơ thổ phụ ihuộc vào sự cân bằng Âm - Dương.
Nếu Âm - Dưưng cân bằng thì cứ thể khoỏ mạnh, Âm - Dương thiên lệch thì
cơ thể phát bệnh, trong hoạt động sinh lý của cơ Ihể cũng có những trạng thái
thuộc dưưng như: hoạt động, hưng phấn, vui, nóng , có những trạng thái
thuộc âm như: nghỉ ngơi, ức chế, buồn, lạnh cơ thể con người luôn có sự tự
điều chính nhằm đưa các hoạt động sinh lý ờ trạng thái cân bằng. Ví dụ: sốt
cao sẽ gây phản ứng giãn mạch, mở lõ chân lông để thoát nhiệt, tuy nhiên khi
cơ Ihể không thổ íự cân bằng được nữa lúc đó bệnh lật sẽ phát sinh.
2.2. IIỌC TIIƯYẾT ẢM - DƯƠNG VỚI NGUYÊN NHÂN GẢY 1ỊỆNH.
Theo quy luật Âm - Dương, quan điểm của Đông y cho rằng phàm
những bệnh lớn hay nhỏ, nông hay sâu, đơn giản hay phức tạp xét cho cùng
nguyên nhân không ngoài việc mất cân bằng Âm - Dương. Trong Nội Kinh có
viết: "Ấm hocì bình, Dương kín đcỉo, íinìi thần sẽ yên ổn, Ầm - Dương tách lìa
nhau sinh khí sẽ h ếr [20, 36]. Hải Thượng Lãn Ông cũng cho rằng: "sự sông
chết, già cỗi, hay bệnh tật của người la đều do sự biên chuyển của hai khí Ám
- Dương cả Bệnh lậl cliễii ra lỉiy có nhiều loại, với tên gọi khác nhau nhưng
đều có sự chênh lệch về thổ chất của Ảm - Dương thịnh hay suy, cơ năng của
khí huyết hu' hay thực " [6, 52]. Căn cứ vào hội dung, lính chất của quy luật
Âm - Dương và sự áp dụng nó vào giải phẫu, sinh lý của cơ thể con người, y
học cổ truyền đã đưa ra một số nhận định có tính quy luật sau:
Âm thắng thời dương bệnh

Dương Ihắng thời âm bệnh.
Âm hư sinh nội nhiệt
Dưưng hư sinh ngoại hàn.
Dương thắng sinh ngoại nhiệt.
Âm thắng sinh nội hàn.
Thật vậy: Dương khí cluì thăng, chủ tán, chủ nhiệt, khi dương khí quá
mạnh lấn át phẩn âm khí, làm âm khí hao lán, giống như Ihuỷ bị hoả thiêu đối
mà hao kiệt thì cơ thổ sinh bệnh. Âm hư không chế ước được phẩn dương làm
18
cho dương khí động, lưu tán, bốc lên trên gây chứng nội nhiệt (phế nhiệt, vị
* nhiệt). Dương hư, dương tại biểu, do vạy chân tay, da dẻ sẽ lạnh
Lấy mộI ví dụ cụ thể: về mùa hạ khí hậu nóng lực, cơ thổ rất dễ bị
thương Ihử. Nếu thương thử tác động phần biểu gây ra chứng ngoại cảm nhiệt
(sốt cao, mặt đỏ, ra mồ hôi, háo khát, mạch huyền, phù ) Nếu thương thử lấn
sâu vào trong (lý) gây ra chứng Irúng thử (vật vã, sốt cao, mặt đỏ, mê man, bất
lỉnh ). Đó chính là dương là quá mạnh lấn át âm khí của cơ thể mà gây bệnh.
Sự mất cân bằng Âm - Dưưng có íliể xảy ra Irong một cơ quan, bộ
phận, hoặc giữa các cơ quan bộ phận với nhau, giữa bôn trong với bôn
ngoài, trên với dưới, trôn loàn bộ cơ thổ hoặc giữa cơ thể với môi trường
bên ngoài.
Xét về mặt các nguyên nhân gây ra sự mất cân bằng Am - Dưưng.
Theo Ihuyết "Tam Nhân” của Đông y có thể phân chia thành: Nội nhân, Ngoại
nhân, bất nội ngoại cụ thổ như sau:
2.2.1. Ngoại nhân:
Ngoại nhân là những nguyên nhân bên ngoài, do môi trường, mang tĩnh
khách quan tác động lên cơ thể. Đông y thường chú trọng đến lục dâm (6
nguyên nhân xấu), Ihường thì CƯ thể suy yếu thì lục dâm dỗ xâm nhập vào cơ
thổ và gây bệnh. Luận về lục dâm, Hải Thượng Lãn Ông viết: "Hàn thương
thận, thử làm hại lâm, láo gây thương tổn phế, phong làm thương íổn can,
nhiệt làm thương tổn lâm, íỉìcíp lổn íhìCơng tỳ. Đó là lục dâm gây thành bệnh

ngoại cảm" [31 , 43]
* Phong (gió): chủ khí mùa xuân, quy hành mộc, hay gây bệnh ở lạng
can, có tính chất biến động lưu chuyển lừ chỗ này sang chỗ khác, Ihuộc
dương.
Ngoại phong (từ bên ngoài) Ihường kết hợp với các tà khí khác (hàn,
nhiệt, thấp ) để lác động vào cơ thể, nhẹ thì cảm mạo, nặng thì gây chứng
trúng phong (méo mồm, lệch mắl, nói ngọng, bán thân bất toại, bất tỉnh )
Nội phong (phát lừ Irong CƯ thể) thường do âm huyết hao tổn hoặc đờm
hỏa nhiệt lạo thành, gây các chứng kinh phong nội động (nhức đầu, mắt đỏ, co
giậl, điên loạn, ihịt da lê bại).
* Thử (nắng).
19
Là chủ khí mùa hạ, quy hành hỏa, hay hại tâm khí. Tính chất nóng
0 nhiệt, chủ ihăng, chủ tán, Ihuộc dương.
Thử ihường hợp với phong là, nhẹ Ihì làm thương tổn phần biểu gây ra
chứng: sốt cao, ra mồ hôi, mặt đỏ, sợ nóng háo khát, nặng thì gây ra chứng
trúng Ihử: sốt cao, đau đầu, vật vã, mê man, mạch phù xác, hữu lực, dưưng thử
thường gây hại khí phế, tâm hỏa, và ihiêu đốt âm dịch.
* H ỏa (nóng)
Thử có liên quan đến hỏa (nóng) cũng là chủ khí mùa hạ, ihuộc dưưng.
Nắng và nóng là nguyên nhân Irực liếp gây ra chứng hỏa. Khi mắc chứng hoả
thì lạng phủ, tân dịch, khí huyết trong cơ lliổ bị thiêu đốt, cơ thể sốt cao, phát
cuồng, hôn mê. Các chứng phong, hàn, ihử, thấp đều có thể dãn đến hoả gọi là
phong hoá hoả, Ihấp hoá hoả, láo hoá hoá. Khi đã chuyển sang giai đoạn hoả
thì bệnh chuyển sang giai đoạn nặng hơn, khó chữa.
* Táo: Là ráo, khô, chủ khí mùa thu, quy hành kim, lạng phế, Ihuộc
dương. Triệu chứng của táo biểu hiện da khô, miệng khô, háo khát, ho khan,
tiểu tiện ít, táo bón (Dương bệnh). Ngoại táo là khí hậu hanh khỏ của trời đất
còn nội láo là do huyốl hư, tân dịch không đầy đủ.
* Hàn (lạnh)

Chủ khí mùa đông, quy hành thủy, lạng Ihạn, khuynh hướng hút sâu vào
phía trong rồi ngưng đọng lại gây tích trệ, thuộc âm, rất dỗ làm tổn Ihưưng
dương khí.
Ngoại hàn nếu phạm biểu gây ra các chứng cảm mạo hàn (âm bệnh),
sốt cao, rét run, sợ lạnh, thích uống nước ấm, nếu lấn sâu vào Irong gây chứng
trúng hàn (nôn mửa nước trong, đau quặn bụng, đi ngoài liên tục, chân íay giá
lạnh, mạch trầm, phục ).
Nội hàn nguyên nhân chính là do nội lạng Ihiếu dương khí (tâm, lỳ, thận
dương hư) gây chứng suy nhược, ăn uống kém, tiết lả, xương cốt đau lạnh.
* Thấp (ẩm thấp)
Là chủ khí mùa trưởng hạ tính ngưng trệ, trọc nhờn, thuộc âm, có
khuynh hướng hút vào trong, gắn vào nơi thấp chạy, gây cản trở cho việc vận
hành khí huy cl.
20
Ngoại thấp là khí hậu ẩm thấp của môi Irường, ngoại thấp khi xâm nhạp
« vào CƯ thể, nếu vào hạ liêu gay khớp chân đau nhức, sưng phù, tô bì, thấp ở
phần Ihưựng tiêu, đầu có cám giác nặng, chảy nước mắt, nước mũi, thấp ở
phần biểu có cảm giác lúc nóng, lúc lạnh.
Nội thấp ihường phát sinh do tỳ, vị hư nhược, do ăn nhiều thức ăn tanh
lạnh. Tỳ vị không vận hóa được nên ứ đọng thành thấp.
2.2.2. Nội nhân.
Đó là những nguyên nhân phát sinh bên trong cơ thể trong đó quan
trọng nhấl là ihất lình (bẩy trạng thái linh thần): Hỷ, nộ, bi, ưu, lư, kinh,
khủng. Nói chung thất tình xuất phát từ sự rối loạn về tinh Ihần của con người
trước tác động của íự nhiên, xã hội, và chính bản thân, dẫn đến sự mất cân
bằng Âm- Dương, gây ra sự lối loạn về sinh lý. Nội kinh viết: "Bỗng nhiên
giận quá hại âm, mữìig quá hại dươtiiị, giận thì khí bốc lên, mừng thì khí hoãn,
buồn thì khí tiêu, sợ thì khí hạ, kinh thì khí loan, nghĩỉhì khí kết." [ 20, 65]
* Hỷ (mùng rỡ)
Là biểu hiện của tâm lình khoan khoái, phấn chấn, thuộc dương. Bình

thường giúp cho tâm khí thư thái, nhưng mừng quá độ sẽ tổn thương đến tâm
khí đến độ tâm khí bấl lúc thì Ihành các chứng tim đập nhanh, mất ngủ.
* Nộ (giận dữ)
Là Irạng thái hưng phấn quá độ, khi gặp sự bất bình, không vừa ý, Ihuộc
dương, giận dữ ihường liên quan đến can, ỉàm can mất điều đạt uất lại, hao lán
huyết dịch, thương tổn can âm, khiến can mộc mất tư nhuận, can hỏa bốc lên
gây bệnh.
* Kinh (sợ )
Thuộc dương, trạng thái linh thẩn căng thẳng trước những đe dọa (ác
động bên ngoài, thường do thận âm bất lúc.
* Khủng (khiếp)
Thuộc dương, là Irạng lliái thần kinh căng thẳng cao độ, trước những sự
việc phái sinh đột xuấl, hại lâm.
* Tư (tư lự)
Thuộc âm, lo lắng suy nghĩ, là Irạng thái tinh thần ức chế, mệt mỏi vì
quá tập trung suy nghĩ về một vấn đề nào đấy, suy nghĩ quá độ thì hại tỳ, vị.
21
* ưu (sầu)
* Trạng thái linh lluln ức chế, buồn bã, ihuộc âm, hại phế khí.
* Bi (bi quan)
Chán nản, trạng thái tinh Ihẩn ức chế cao, biểu hiện trầm uất, bi ai,
Ihuộc âm, hại thận, phế, lỳ, khí.
2.2.3. Một số nguyên nhân khác (bất nội ngoại nhân)
* Ăn uổng:
+ Ăn uống không đầy đủ dẫn đốn khí huyết bấl lúc, âm dương suy yếu,
cơ thổ gầy yếu, mệt mỏi, chân tay vô lực.
+ Ăn uống quá thừa, không tiêu hóa đưực gây chứng thực tích, hoặc
linh khí Ihừa sẽ bị nung nấu trong cơ thổ lạo ra nhiệt độc tích tụ (ung nhọt)
hoặc gây đàm Ihấp ứ trệ, CƯ ihể nặng nề.
+ Ăn uống không điều độ, no đói, nóng lạnh thất thường, thường làm

mấí cân bằng âm dương của tỳ, vị, ảnh hưởng đến công năng chuyển hóa.
+ Ản nhiều thức ăn cay nóng (ihuộc (iưưng) thì hại đến âm dịch, gây tỳ
vị lích nhiệl, láo bón.
+ Ăn nhiều thức ăn tanh lạnh (thuộc âm) làm hại dương khí, làm hại
đến chức năng vận hóa của tỳ.
* Lao động: Lao động quá độ thì hao tổn dương khí dẫn đến hao tổn
âm huyết, làm cho người mệt mỏi, dãn đến suy yếu cả chân âm, chân dương,
ngược lại người không vận động thì khí huyết không lưu thông mà ứ trệ.
* Phòng thất không tiết độ, hao tổn âm tinh của thận dẫn đến dưưng khí
lưu thoát lổn hại đến cả chân âm, chân dương. Người vừa ốm dậy, âm tinh và
dương khí không dồi dào mà phòng dục, dỗ dẫn đến âm dương ly thoát.
* Cha mẹ già, yếu Ihì con cái không hội đủ cái tiên thiên âm dương,
thủy hỏa, do vậy cơ thể yếu, dỗ bị ngoại là xâm nhập.
* Ký sinh Irùng sinh ra do tỳ vị thấp nhiệt, tích tụ ăn uống không sạch,
tồn tại trong cơ thổ làm ảnh hưởng đến chức năng vận hóa của tỳ vị, chúng
làm hao tổn âm huyết và dương khí làm hao mòn cơ thể.
* Phụ nữ hay bị mất âm huyết do kỳ kinh, nên chân âm, chân thủy kém,
sinh ra chứng âm hư hỏa vượng, hay có cơn bốc hỏa.
22

×