Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tiểu luận Vai trò và chức năng của các ngôn ngữ dân tộc thiểu số trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.42 KB, 32 trang )

Ngôn ngữ là một trong những yếu tố quan trọng nhất của ý thức giác ngộ dân tộc và
cũng là phương tiện thống nhất dân tộc. Ở các quốc gia đa dân tộc, đa văn hoá và đa ngôn
ngữ cùng với vấn đề dân tộc và tôn giáo, ngôn ngữ càng trở nên có vai trò hết sức quan
trọng. Chính vì thế, ở bất kì quốc gia nào, nhà nước cũng luôn quan tâm đến chính sách
ngôn ngữ, và chính sách ngôn ngữ luôn luôn được coi là một phần không thể thiếu trong
chính sách dân tộc.
Việt Nam là nước có nhiều dân tộc anh em cùng chung sống, vì thế vấn đề dân tộc mà
trong đó trước hết là vấn đề ngôn ngữ văn hóa các dân tộc đã, đang và sẽ là vấn đề nóng
bỏng của đất nước ta. Vì thế có một chính sách ngôn ngữ văn hóa dân tộc hợp lí là một
nhiệm vụ thực sự cấp bách, một công việc không ít khó khăn. Bởi lẽ các dân tộc rất đa
dạng về mặt dân số, trình độ phát triển xã hội không đồng đều nhau, điều kiên tự nhiên
nơi các dân tộc cư trú lại rất khác nhau. Trong khi đó, mục tiêu công nghiệp hóa – hiện
đại hóa của Nhà nước ta đòi hỏi các dân tộc phải phát triển như nhau. Đây cũng chính là
nhân tố tác động đến việc hoạch định chính sách cũng như việc thực thi các nhiệm vụ để
hiện thực hóa chính sách ngôn ngữ văn hóa dân tộc.
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trọng yếu nhất của xã hội và là công cụ tư duy của con
người. Cho đến hiện nay và trong tương lai, không ai có thể phủ nhận được vai trò đặc
biệt quan trọng trong sự phát triển văn hóa của từng cá nhân con người trong một tập thể,
trong một dân tộc.
Ngôn ngữ là phương tiện quan trọng nhất của xã hội con người. Mỗi một cộng đồng xã
hội hay dân tộc khác nhau có những hình thức giao tiếp khác nhau. Có những dân tộc
trong xã hội chỉ dùng một ngôn ngữ duy nhất để giao tiếp với nhau. Trường hợp ấy người
ta gọi là tình trạng đơn ngữ. Lại có những dân tộc trong xã hội để giao tiếp với nhau
người ta sử dụng nhiều hơn hai ngôn ngữ trong sinh hoạt hàng ngày. Trường hợp ấy
người ta gọi là tình trạng song ngữ.
Việt nam là một quốc gia đa dân tộc và là một địa bàn thu nhỏ của bức tranh ngôn ngữ -
văn hóa khu vực Đông Nam Á . Theo tài liệu số 121 – TCTK của Tổng cục thống kê
ngày 2 – 3 – 1979, nước Việt Nam có 54 dân tộc gồm dân tộc Kinh (Việt) và 53 dân tộc
thiểu số khác. Như vậy Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Các dân tộc thiểu số ở nước
ta cư trú từ Bắc vào Nam, ở miền núi, trung du và đồng bằng tạo thành một bức tranh đa
dạng và phức tạp về địa vực cư trú.Ngoại trừ cộng đồng người Việt là một cộng đồng đơn


ngữ thì có thể nói tất cả các dân tộc thiểu số trên lãnh thổ Việt Nam đều là những cộng
đồng song ngữ.
Ngoài tiếng mẹ đẻ của mình được sử dụng trong những môi trường nhất định, dân tộc
thiểu số còn dùng tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ quốc gia throng những môi trường
khác. Ngoài ra có những dân tộc, bên cạnh tiếng mẹ đẻ, tiếng Việt lại có thể sử dụng
những ngôn ngữ khác nữa trong một vài môi trường giao tiếp nào đó. Trong tình hình
như vậy, việc nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở nước ta không thể không chú ý
tới vấn đề giao tiếp song ngữ.
Có những cộng đồng song ngữ, ngôn ngữ thứ nhất là tiếng mẹ đẻ của cộng đồng ấy. Ở
đây tiếng mẹ đẻ được dùng phổ biến ở quê hương, vùng lãnh thổ mà cộng đồng song ngữ
ấy sinh sống. Tuy nhiên do một điều kiên nào đó, cộng đồng này phải sử dụng thêm một
ngôn ngữ thứ hai không phải tiếng mẹ đẻ để làm công cụ giao tiếp. Việc cần phải sử dụng
ngôn ngữ thứ hai có thể là do tiếng mẹ không thỏa mãn yêu cầu phát triển tư duy, yêu cầu
giao tiếp ở một không gian lớn hơn…Trong trường hợp này ngôn ngữ thứ hai có tác dụng
tích cực bổ sung cho ngôn ngữ thứ nhất là tiếng mẹ đẻ. Bên cạnh đó có những cộng đồng
song ngữ mà mối quan hệ giữa tiếng mẹ đẻ với ngôn ngữ thứ hai không như vậy. Ở đây
ngôn ngữ thứ nhất không phải tiếng mẹ đẻ.
Các cá nhân song ngữ không thể sử dụng tiếng mẹ đẻ làm công cụ giao tiếp thường
xuyên và rộng rãi trong xã hội. Ngược lại ngôn ngữ không phải là tiếng mẹ đẻ lại trở
thành ngôn ngữ thứ nhất, đóng vai trò là công cụ giao tiếp chính của cộng đồng hay cá
thể người này. Ở một khía cạnh khác người ta còn nói đến một trạng thái nữa là trạng thái
song ngữ tự nhiên. Ở trạng thái này các thành viên trong cộng đồng song ngữ tuy sử dụng
tiếng mẹ đẻ là ngôn ngữ thứ nhất nhưng trình độ sử dụng chủ yếu là ở dạng nói mà chưa
sử dụng ở dạng viết, trình độ năm bắt và sử dụng tiếng mẹ đẻ chưa ở trình độ hoàn chỉnh.
Đồng thời ngôn ngữ thứ hai mà họ sử dụng cũng ở trình độ thấp.Ở Việt Nam Chính sách
ngôn ngữ được thể hiện
1.1. Trong thời kì Bắc thuộc, bọn phong kiến Trung Quốc dù cai trị trực tiếp hay gián
tiếp, cũng thi hành một chính sách nhất quán là đồng hoá Việt Nam về chính trị và văn
hoá. Tiếng Hán và chữ Hán trở thành một công cụ hữu hiệu trong hành chính và nhiều
lĩnh vực khác. Sử có nhắc tới vai trò của Sĩ Nhiếp (làm Thái Thú Giao Chỉ vào khoảng

187–226) với tư cách là Nam bang học tổ, tức là người đầu tiên tổ chức việc học ở Việt
Nam. Nhưng thực tế vào thời Bắc thuộc quan cai trị chỉ tổ chức dạy chữ Hán cho một số
người Việt, đủ để làm công chức trong bộ máy cai trị của người Hán chứ chưa phải là dạy
Nho giáo nhằm mục đích thi cử. Trong thời kì này, các chùa mới là các trung tâm văn
hoá và nhân dân học chữ Hán ở các chùa chứ không phải các trường do người Trung
Quốc dựng nên. Theo sử sách, dưới thời Bắc thuộc, đã có một ít người giỏi chữ Hán,
nhưng vẫn chưa có chế độ học tập chữ Hán quan trọng ngoài các chùa. Ai muốn đi thi thì
phải sang Trung Quốc, như Trương Trọng, Lí Cầm, Lí Tiến, Khương Công Phụ. Cho đến
trước thế kỉ XI, những người tiêu biểu cho văn hoá Việt Nam vẫn là các nhà sư.
1.2. Từ năm 939, Việt Nam giành được độc lập từ tay người Hán. Do nhu cầu phải đua
tài với Trung Quốc để củng cố độc lập bằng văn hoá, Việt Nam có nhu cầu tiếp thu văn
hoá Hán. Việc học chữ Hán có quy mô chỉ bắt đầu từ thời độc lập. Về vấn đề này, chúng
ta không quên công lao của các vị vua khai quốc thời Lí–Trần. Khi đất nước giành được
quyền độc lập, định hướng cơ bản về ngôn ngữ văn tự là: tiếp tục dùng chữ Hán, coi đó
là nền văn tự chính thức của nhà nước. Căn cứ vào những tài liệu còn lưu giữ được thì
năm 1018 vua Lí Thái Tổ sai Nguyễn Đạo Thành và Phạm Hạc sang Tàu lấy Kinh Tam
Tạng đem về để vào Kho Đại Hưng; 1075 vua Lí Nhân Tông mở Khoa thi Tam trường để
tuyển người ra làm quan, năm sau vua lập Quốc Tử Giám, tổ chức giảng dạy và đến năm
1086 Vua lại mở khoa thi chọn người vào Hàn Lâm Viện. Theo Nguyễn Tài Cẩn, "Tri
thức Hán học của người Việt ở giai đoạn Ngô, Đinh, Lê là một sản phẩm còn lưu lại của
chế độ Bắc thuộc, còn tri thức Hán học của người Việt từ đời Lí trở về sau lại là sản
phẩm của một sự định hướng có ý thức của một triều đình nước Việt độc lập. Sự định
hướng này làm cho Việt Nam đi hẳn vào khu vực văn hoá Hán, đứng bên cạnh Trung
Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản. Về mặt ngôn ngữ, sự định hướng này làm cho tiếng Việt đi
xa dần các ngôn ngữ bà con vốn cùng gốc Mon Khmer như mình: Mường, Poọng, Chứt,
Cơtu, Bana, Môn, v.v."
(1)
Nhà Trần và các triều đại tiếp theo vẫn tiếp tục sự nghiệp của nhà Lí, cũng tổ chức học
hành thi cử bằng chữ Hán, cũng sáng tác bằng chữ Hán.
Thực tiễn lịch sử chứng tỏ rằng định hướng ngôn ngữ văn tự của các triều đại Việt

Nam đã khiến cho sự tiếp xúc văn hoá–ngôn ngữ Việt–Hán phát triển. Hệ quả là:
– Việt Nam đã sáng tạo ra chữ Nôm để ghi lại tiếng nói của mình.
– Tiếng Việt đã tiếp thu các yếu tố Hán Việt và các yếu tố Hán Việt Việt hoá làm
phong phú kho từ vựng của mình.
– Hình thành cách đọc Hán Việt, một cách đọc chữ Hán riêng của người Việt Nam.
Trong cuốn Từ vựng tiếng Việt năm 1978, Nguyễn Thiện Giáp xác định cách đọc Hán
Việt như sau: "Cách đọc Hán Việt là cách đọc chữ Hán ở Việt Nam của người Việt Nam.
Cách đọc đó phản ánh dạng ngữ âm của chữ Hán thời nhà Đường được dạy và học ở Việt
Nam lúc bấy giờ. Tất nhiên so với dạng ngữ âm của chữ Hán thời nhà Đường thì cách
đọc Hán Việt cũng đã được Việt hoá ít nhiều cho phù hợp với hệ thống ngữ âm của tiếng
Việt thời đó"
(2)
. Gần đây, trong bài Mối quan hệ giữa âm Hán Việt và phương ngữ tiếng
Hán nhìn từ đặc điểm âm đầu
(3)
, Lê Xảo Bình và Vi Thụ Quan đã chứng minh âm Hán
Việt chịu ảnh hưởng của phương ngữ tiếng Hán. Các tác giả cho rằng tại vùng giáp
Quảng Tây và Quảng Đông ngày nay, trong thời cổ, từng có một phương ngữ Hán quyền
uy, đó là phương ngữ Quảng Tín. Trong hơn 300 năm kể từ năm 106 trước công nguyên
cho đến năm 217, Quảng Tín luôn là trụ sở của Bộ Thứ Sử Giao Chỉ (về sau là Bộ Thứ
Sử Giao Châu), là trung tâm chính trị, văn hoá của Lĩnh Nam. Ba quận Giao Chỉ, Cửu
Chân và Nhật Nam nằm trong nước Việt Nam ngày nay luôn thuộc về sự cai quản của Bộ
Thứ Sử Giao Chỉ, Việt Nam chịu ảnh hưởng của trung tâm chính trị, văn hoá thời bấy giờ
là điều tất nhiên. Trong thời gian Sĩ Nhiếp làm Thái Thú Giao Chỉ, âm Hán mà người
Việt học không phải là âm Trung Nguyên, mà là âm của một phương ngữ nào đó lúc bấy
giờ. Các tác giả khẳng định phương ngữ Hán này phải là phương ngữ Quảng Tín. Bản
thân Sĩ Nhiếp chính là người Quảng Tín Xương Ngô, phương ngữ Quảng Tín lại là
phương ngữ quyền uy thời kì đó, dạy học sinh Việt Nam bằng phương ngữ Quảng Tín
cũng là điều bình thường. Vì trung tâm chính trị Lĩnh Nam di chuyển sang phía đông
(năm 217 Tôn Quyền rời trung tâm chính trị Lĩnh Nam từ Quảng Tín Xương Ngô đến

Phiên Ngung (thành phố Quảng Châu ngày nay) Nam Hải) và theo di chuyển của người
Hán, phương ngữ Quảng Tín phân hoá dần, cho nên hình thành đối ứng không đồng đều
về đặc trưng ngữ âm giữa âm Hán Việt và mấy phương ngữ Hán hiện đại.
1.3. Trên cơ sở của chữ Hán, dựa vào nguyên tắc cấu tạo chữ Hán, người Việt Nam đã
sáng tạo ra chữ Nôm, một thứ chữ ghi lại tiếng nói của dân tộc. Ban đầu, chữ Nôm mới
chỉ là những kí tự dùng để phiên âm các từ ngữ nước ngoài, những địa danh, nhân danh ở
Việt Nam mà vốn chữ Hán không thể thể hiện được. Khi hệ thống văn tự Nôm được hình
thành và việc sáng tác thơ văn bằng chữ Nôm đã trở thành phong trào thì có sự phân công
giữa chữ Hán và chữ Nôm về mặt chức năng: chữ Hán dùng trong hành chính, giáo dục,
trong giao tiếp triều chính, còn chữ Nôm thì dùng trong giao tiếp, văn chương bình dân.
Theo Phan Huy Chú
(4)
, Lê Thánh Tông làm vua 38 năm, mở 12 kì thi, lấy đỗ 501 tiến sĩ,
trong số đó có 9 trạng nguyên. Tuy coi trọng chữ Hán hơn chữ Nôm, nhưng phong trào
sáng tác bằng chữ Nôm vẫn phát triển mạnh. Quan lại, nho sĩ đua nhau làm thơ bằng chữ
Nôm. Ngay vua Lê Thánh Tông cũng có nhiều thơ Nôm được truyền tụng trong lịch sử.
Cái tâm lí "trọng chữ khinh Nôm" có ở hầu hết các nhà nho: sáng tác về những đề tài
trang trọng, nghiêm chỉnh thì dùng chữ Hán, làm thơ để chơi, để mua vui thì dùng Nôm.
Tuy nhiên, cùng với bước trưởng thành của chữ Nôm, vị thế của nó cũng dần thay đổi.
Nguyễn Trãi hết lòng tôn trọng ngôn ngữ dân tộc, tin yêu ngôn ngữ dân tộc. Tất cả các
bài thơ Nôm của Nguyễn Trãi đều nói đến những cái chân thành nhất, trang nghiêm nhất:
nói đến chí hướng, nói đến đạo lí, nói đến lẽ sống ở đời, Với ý thức tự cường dân tộc,
dưới thời nhà Hồ, Hồ Quý Li đã có một quyết sách lớn nhằm nâng cao vị thế của chữ
Nôm. Tương truyền, Hồ Quý Li đã dịch Kinh Thi, Kinh Thư ra chữ Nôm để dạy cho các
cung nữ. Điều này chứng tỏ Hồ Quý Li đã có chủ trương đưa chữ Nôm vào lãnh vực giáo
dục. Rất tiếc, công cuộc cải cách của nhà Hồ bị chặn lại bởi gót giày xâm lược của nhà
Minh. Nhà Minh thi hành chính sách đồng hoá rất tàn bạo. Chúng đã đốt phá các văn
liệu, sử liệu Việt, trong đó có cả những tài liệu ghi chép bằng chữ Nôm. Vì thế những tài
liệu bằng chữ Nôm thời Hồ Quý Li đều đã thất truyền.
1.4. Chữ quốc ngữ được các nhà truyền giáo chế tác từ thế kỉ XVII với mục đích chính

là truyền bá đạo Thiên Chúa vào Việt Nam và học tiếng Việt, hiểu được về đất nước và
con người Việt Nam. Muốn truyền bá đạo của mình, cần phải có phương tiện giao tiếp.
Thực tế, nhân dân Việt Nam rất ít người đọc được chữ Nôm, vì thế không thể dựa vào
chữ Nôm để truyền bá tư tưởng Thiên Chúa giáo vào nhân dân. Vấn đề đầu tiên là phải
học tiếng Việt. Các giáo sĩ phương Tây đã tạo ra một hệ thống kí tự ghi tiếng Việt dựa
trên hệ chữ cái La tinh. Những năm đầu của thế kỉ XIX hệ thống kí tự này được gọi là
chữ Quốc ngữ, mặc dù theo nghĩa đen thì chữ Nôm cũng là chữ quốc ngữ. Từ khi xuất
hiện chữ Quốc ngữ, thế tương quan giữa các ngôn ngữ, văn tự trên diễn đàn văn hoá Việt
Nam khác với các giai đoạn trước: Có hai ngôn ngữ là tiếng Việt và văn ngôn Hán, với ba
loại chữ viết là chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ.
Trong ba loại chữ viết thì chữ Hán vẫn chiếm vị thế số một, sau đó đến chữ Nôm, cuối
cùng là chữ Quốc ngữ. Tuy nhiên, trong thời kì này đã nảy sinh sự tranh chấp giữa chữ
Hán và chữ Nôm. Văn học chữ Nôm thời kì này có sự phát triển toàn diện về lượng cũng
như về chất. Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương, đại thi hào Nguyễn Du với tác phẩm
Truyện Kiều bất hủ đều xuất hiện trong giai đoạn này. Không những thế, chữ Nôm không
chỉ được dùng để ghi lại văn chương bình dân mà còn được dùng cả trong những lĩnh vực
khác nữa. Căn cứ vào "Di sản Hán Nôm Việt Nam, Thư mục đề yếu" do Viện Hán Nôm
biên soạn với sự cộng tác của nhóm học giả Trường Viễn đông Bác cổ Pháp, NXB Khoa
học Xã hội, Hà Nội, 1993, trong số 5038 quyển, có một số quyển viết bằng chữ Nôm.
"Vận niên ca diễn âm" là một quyển sách về ảnh hưởng của thời tiết đối với mùa màng
viết bằng chữ Nôm. Số sách về Đạo giáo có 163 quyển, phần lớn là loại "giáng bút", tức
là loại sách tập hợp những lời của các đồng cốt nói thay mặt các vị thần, chủ yếu viết
bằng chữ Nôm bởi vì Đạo giáo gắn bó trước hết với người dân lao động. Những sách in
đầu tiên ở Việt Nam là Kinh Phật, nhưng số kinh in lại, diễn Nôm không có bao nhiêu.
Sách giáo khoa về sử Việt Nam, có một cuốn bằng chữ Nôm. Về ngoại giao, cuốn
"Chuyến sang Pháp của sứ bộ triều Nguyễn" viết bằng thơ lục bát. Về luật pháp, có
Hoàng triều luật lệ toát yếu diễn ca bằng chữ Nôm, Dân luật Bắc Kì, diễn Nôm thời Khải
Định. Tầng lớp nho sĩ gần gụi nhân dân lao động đã dùng chữ Nôm để sáng tác văn
chương, ghi chép các sự kiện xã hội, lịch sử với cách nhìn khác với cách ghi chép chính
thức bằng chữ Hán, có những tác phẩm tiến bộ, chứa đựng những tư tưởng trái với quan

điểm và đạo lí chính thống. Vào giai đoạn cuối của nhà Lê, nhà cầm quyền không những
coi thường mà còn e ngại chữ Nôm, có những hoạt động tiêu cực đối với chữ Nôm, thậm
chí còn đốt rất nhiều văn liệu viết bằng chữ Nôm. Năm 1663 đời Lê Huyền Tông, Trịnh
Tạc đã yêu cầu Phạm Công Trứ viết 47 điều giáo hoá bằng chữ Hán, trong đó điều 35 chủ
trương cấm đoán và phá hoại các tác phẩm Nôm. Năm 1718 lại có lệnh của Trịnh Cương
như sau: "Phủ liệu
(5)
vâng lời truyền cho quân dân trong nước biết rằng: phàm sách vở có
quyển nào quan hệ đến sự giáo hoá trong đời mới được khắc in và lưu hành. Lâu nay,
những bọn hiếu sự lượm nhặt bậy bạ các tạp truyện và bỉ ngữ
(6)
bằng quốc âm, không
phân biệt hay dở, khắc gỗ in bán, việc ấy phải nên nghiêm cấm. Từ nay nhà nào có in
những sách như thế, cho trình quan đến bắt và tịch thu ván in phá hết"
(7)
. Năm 1760,
Trịnh Doanh lại sai Nhữ Đình Toản diễn Nôm 47 điều giáo hoá ra lục bát để tiện phổ
biến.
Ngược lại, nhằm tăng cường tính tự tôn và tinh thần dân tộc, triều đại Tây Sơn của
Nguyễn Huệ đã chủ trương dùng tiếng Việt và chữ Nôm trong hành chính (giấy tờ của
Nhà nước), trong giáo dục, thi cử và trong tế lễ thiêng liêng. Đây là Chiếu của Bình Định
Vương Nguyễn Huệ gửi cho Nguyễn Thiếp năm 1788:
"Chiếu truyền La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp khâm tri:
Ngày trước uỷ cho phu tử về Nghệ An tướng địa làm đô cho kịp kì này hồi ngự. Sao
về tới đó chưa thấy đặng việc nhỉ. Nên hãy giá hồi Phú Xuân Kinh, hưu tức sĩ tốt.
Việc chiếu ban hạ, phu tử tảo nghi dữ trấn thủ Thận cộng sự, kinh chi, doanh chi,
tướng địa tu đô tại Phú Thạch hành cung sao cho hậu cận sơn, kì chính địa phòng tại dân
cư chi gian hay là đâu cát địa khả đô, duy phu tử đạo nhãn giám định, tảo tảo tốc hành.
Uỷ cho trấn thủ Thận tảo lập cung điện, kì tam nguyệt nội hoàn thành, đắc tiện giá
ngự. Duy phu tử vật dĩ nhàn hốt thị.

Khâm tai! Đặc chiếu.
Thái Đức thập nhất niên, lục nguyệt, sơ nhất nhật"
(8)
.
Trong giáo dục và thi cử, triều đại Tây Sơn quy định: Mỗi khoa thi, ở vòng ba ("đệ
tam trường"), thí sinh phải làm bài bằng chữ Nôm. Tương truyền, Hoàng đế Quang Trung
còn lệnh cho Nguyễn Thiếp dịch kinh, truyện ra tiếng Việt làm tài liệu giảng dạy, nhưng
các bản dịch ấy đã bị mất cả.
Như ta biết, việc tế lễ trước đây, văn tế, sớ phải viết bằng chữ Hán, khấn bằng tiếng
Hán. Nhưng trong lễ tang Hoàng đế Quang Trung, triều đình và họ hàng nhà vua đều
dùng văn tế bằng tiếng Việt, chữ Nôm và năm bài văn tế do Phan Huy Ich làm vẫn còn
được lưu truyền tới ngày nay.
Nhà Tây Sơn đổ, những cố gắng của Nguyễn Huệ nhằm khẳng định vị thế của tiếng
Việt và chữ Nôm lại trở về trạng thái như cũ.
Mặc dù chữ Quốc ngữ đã tận dụng được nhiều ưu điểm riêng, vốn có của hệ chữ La
Tinh, nhưng việc sử dụng hệ thống này cũng chỉ giới hạn trong phạm vi các văn liệu tôn
giáo, trong giao dịch giữa những người cùng giáo xứ, giáo đoàn. Hai thế kỉ sau khi được
chế tác, chữ Quốc ngữ đã trở thành một công cụ hữu hiệu, giúp người Pháp, quân đội
Pháp xâm lược và chia tách đất nước Việt Nam thành ba miền.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Ngoài dân tộc Kinh là dân tộc chiếm 85% dân
số, còn có 53 dân tộc khác, thuộc các ngữ hệ khác nhau.
Thuộc ngữ hệ Nam Á (Austroasiatic), có những ngôn ngữ như: Kinh (Việt), Mường,
Nguồn, Poọng, Thổ, Cuối, Đan Lai, Li hà, Rục, Mày, Sách, Mã Liềng, Kri (Phọong),
Aream, Mảng, Khơ Mú, Xinh Mun, Kháng, Ơ Đu, Bru-Vân Kiều, Pacô, Tà Ôi, Cơ Tu,
Bana, Co, Ca Dong, Ha Lăng, Giẻ, Triêng, Xơđăng, Rơngao, Takua, Hrê, Mơ Nâm, Ve,
Rơ Mân, Tơ Drạ, Brâu, Cơho, Mnông, Mạ, Xtiêng, Chơro, Khmer Nam Bộ.
Thuộc ngữ hệ Thái–Ka Đai, có: Tày, Nùng, Cao Lan, Thu Lao, Thái Đen, Thái Trắng,
Thái Đỏ, Thái Thanh, Thái Dọ, Thái Hàng Tổng, Lào, Lự, Tày Nặm, Pa Dí, Giáy, Bố Y,
Tu Dí, Pu Nà, Tống, Thuỷ, Laha, La Chí, Pupéo, Cơ Lao, Nùng Vẻn.
Thuộc ngữ hệ Mèo–Dao (Hmong–Mien), có: Mông, Na Mẻo, Pà Thẻn, Miền (Dao

Đỏ, Dao Đeo Tiền, Dao Cooc Ngáng, Dao Ôgang, Dao Quần Chẹt, Dao Đại Bản, Dao
Tiểu Bản ), Mùn (Dao Quần Trắng, Dao Thanh Y, Dao áo Dài, Dao Họ, DaoTuyeenr,
Dao Làn Tẻn, )
Thuộc ngữ hệ Nam Đảo (Austronesian), có: Chăm Đông (Chăm Ninh – Bình Thuận),
Chăm Tây (Chăm An Giang, Tây Ninh), Êđê, Giarai, Raglai, Hroi, Churu.
Thuộc ngữ hệ Hán–Tạng, có: Hoa, Lôlô, Hà Nhì, La Hủ, Sila, Cống, Xá Phó, Phù Lá.
Trong các ngôn ngữ trên, chỉ một số ngôn ngữ có chữ viết cổ truyền, đó là các chữ:
Chữ Nôm Tày; các loại chữ Thái cổ ở Tây Bắc, Quỳ Châu, Man Thanh, Lai Pao; chữ
Hán; chữ viết tự dạng Sanscrit của Khmer; chữ Nôm Nùng; chữ Chăm cổ; chữ viết tự
dạng Sanscrit của Lào; chữ Nôm Dao; chữ Nôm Cao Lan.
Đặc điểm nổi bật của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam là sống đan xen nhau khiến cho
trạng thái đa ngữ xã hội là trạng thái phổ biến ở các vùng dân tộc thiểu số. Tiếng Việt
được coi là ngôn ngữ giao tiếp giữa các dân tộc. Bên cạnh đó, một số ngôn ngữ như tiếng
Thái, tiếng Tày, tiếng Nùng, cũng được coi là ngôn ngữ vùng, tức là phương tiện giao
tiếp giữa các dân tộc cùng chung sống trong vùng nào đó.
Nói đến chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám 1945, cần đề cập
đến ba mảng sau đây:
– Chính sách đối với các ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số;
– Chính sách đối với tiếng Việt;
– Chính sách đối với các ngoại ngữ
2.2. Chính sách đối với ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số
Đối với các ngôn ngữ dân tộc thiểu số, Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương tôn
trọng tiếng mẹ đẻ của các dân tộc, bảo đảm sự phát triển tự do và bình đẳng của tất cả các
ngôn ngữ dân tộc ở Việt Nam. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng khi mới thành lập (1930) đã
đề ra chính sách "đoàn kết dân tộc trên cơ sở những nguyên tắc bình đẳng và tương trợ
lẫn nhau để giành lại độc lập và hạnh phúc chung cho các dân tộc". Chính cương của
Đảng năm 1951 ghi rõ: "Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều được bình đẳng về
quyền lợi và nghĩa vụ, Cải thiện đời sống cho các dân tộc ít người, giúp đỡ họ tiến bộ
về mọi mặt, bảo đảm để họ tham gia chính quyền và dùng tiếng mẹ đẻ trong việc giáo
dục ở các địa phương".

Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thông qua ngày 9/11/1946, có viết:
– "Ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của
mình" (điều thứ 15).
– "Quốc dân thiểu số có quyền dùng tiếng nói của mình trước toà án" (điều thứ 66).
Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được Chủ tịch nước công bố ngày
01/01/1960, viết chi tiết hơn:
– "Các dân tộc có quyền duy trì hoặc sửa đổi phong tục tập quán, dùng tiếng nói, chữ
viết, phát triển văn hoá dân tộc của mình" (điều 3).
– "Toà án nhân dân bảo đảm cho công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thuộc
các dân tộc thiểu số có thể dùng tiếng nói và chữ viết của mình trước Toà án" (điều 102).
Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, viết:
– "Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn và phát huy những phong
tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình" (điều 5).
– "Toà án nhân dân bảo đảm cho công dân nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thuộc các dân tộc quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước toà án" (điều
60).
Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 1992 bổ sung thêm như
sau:
– "Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy
những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình" (điều 5).
– "Toà án nhân dân bảo đảm cho công dân nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thuộc các dân tộc quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước Toà án" (điều
133).
Luật Phổ cập giáo dục tiểu học ban hành ngày 06/8/1991, khẳng định:
– "Các dân tộc thiểu số có quyền sử dụng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình cùng
với tiếng Việt để thực hiện giáo dục tiểu học".
Luật Giáo dục tiểu học ngày 10/12/1998 viết rõ hơn: "Nhà nước tạo điều kiện để
người dân tộc thiểu số được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình. Việc dạy và học
tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số được thực hiện theo quy định của Chính phủ".
Các chỉ thị,nghị quyết của Đảng và Chính phủ đều nhằm vào thực hiện ba vấn đề:

A. Cải tiến và xây dựng chữ viết cho các dân tộc thiểu số.
Quyết định của Phủ Thủ tướng số 153-CP ngày 20/8/1969 ghi rõ:
"Dân tộc thiểu số nào chưa có chữ viết riêng nếu có đủ điều kiện cần thiết sau đây thì
được xây dựng và sử dụng chữ viết của dân tộc mình:
a) Dân số tương đối đông, so với các dân tộc anh em khác.
b) Cư trú tương đối tập trung.
c) Có nhiều khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức trực tiếp bằng tiếng, chữ phổ thông,
có yêu cầu xây dựng chữ viết riêng để phát triển sự nghiệp giáo dục, văn hoá trong dân
tộc mình.
d) Có vốn từ ngữ tương đối phong phú.
Dân tộc thiểu số nào đã có chữ viết riêng nhưng nếu xét thứ chữ viết không thuận lợi
cho sự tiến bộ của mình, thì có thể cải tiến chữ viết cũ, hoặc xây dựng chữ viết mới thích
hợp hơn.
Dân tộc thiểu số nào không đủ điều kiện xây dựng chữ viết riêng nhưng thấy cần thiết
có chữ để ghi tiếng nói của mình, thì có thể dùng chữ phổ thông để phiên âm".
Quyết định của Hội đồng Chính phủ về chủ trương đối với chữ viết của các dân tộc
thiểu số, số 53-CP ngày 22/02/1980 viết:
"Nhiều dân tộc thiểu số chưa có chữ viết có yêu cầu xây dựng bộ vần chữ riêng để có
thể ghi tiếng nói của dân tộc mình. Một số dân tộc thiểu số có chữ viết lối cổ muốn có
chữ viết mới theo chữ cái Latin cho gần gũi với chữ phổ thông. Những yêu cầu này cần
được coi trọng, và từng bước giải quyết".
"Để việc dạy và học chữ dân tộc và chữ phổ thông được dễ dàng, nhanh chóng, thuận
tiện cho cả đồng bào dân tộc thiểu số và đồng bào người Kinh muốn học chữ dân tộc, cần
xây dựng mới hoặc cải tiến chữ viết dân tộc theo bộ vần gần gũi với bộ vần chữ viết phổ
thông".
B. Sử dụng tiếng nói và chữ viết dân tộc sao cho thích hợp, hiệu quả.
Quyết định của Phủ Thủ tướng số 153-CP, ngày 20/8/1969 quy định rõ:
"Chữ dân tộc cần được sử dụng trong phạm vi và với mức độ sau:
a) Trong việc xoá nạn mù chữ và bổ túc văn hoá ở vùng người dân tộc đã có chữ viết
riêng. Trong bổ túc văn hoá, nơi nào không biết hoặc ít biết tiếng phổ thông thì cho học

xen kẽ chữ dân tộc với tiếng và chữ phổ thông ở các lớp cấp 1. Từ cấp II trở lên thì học
hoàn toàn bằng tiếng Việt và chữ phổ thông. Nơi nào quần chúng muốn và có thể học
thẳng tiếng và chữ viết phổ thông thì trong xoá nạn mù chữ cũng như trong bổ túc văn
hoá nên dạy tiếng và chữ phổ thông, nhưng chú ý giảng bằng tiếng dân tộc để người học
hiểu mau và chắc, đồng thời nên cho họ học thêm bộ vần chữ dân tộc để họ đọc được
sách báo viết bằng chữ dân tộc.
b) Các trường phổ thông trong vùng dân tộc có chữ viết phổ thông cần cho học sinh
lớp vỡ lòng và cấp I học xen kẽ chữ dân tộc với tiếng và chữ phổ thông và chú ý cho học
sinh làm quen với tiếng và chữ phổ thông càng sớm càng tốt. Ở cấp II và III, chủ yếu là
dạy tiếng và chữ phổ thông, đồng thời có dạy môn ngữ văn dân tộc.
c) Trên các lĩnh vực văn hoá, văn nghệ, thông tin báo chí v.v nên sử dụng rộng rãi
tiếng và chữ dân tộc ở những nơi có đông đảo đồng bào dân tộc.
d) Nhân dân các dân tộc thiểu số đã có chữ viết riêng thì có quyền dùng chữ dân tộc
trong việc ghi sổ sách, viết thư và làm đơn từ gửi các cơ quan Nhà nước; ở những nơi mà
hầu hết đồng bào thuộc một dân tộc, và cán bộ nhân dân đã biết chữ dân tộc thì công văn
giấy tờ từ huyện xuống xã nên dùng chữ dân tộc".
Quyết định của Hội đồng Chính phủ số 53-CP, ngày 22/02/1980 đề ra nhiệm vụ cụ thể
hơn:
"Trong công tác thông tin, tuyên truyền và công tác văn hoá của Nhà nước ở vùng của
đồng bào dân tộc thiểu số phải cố gắng kết hợp sử dụng tiếng, chữ dân tộc, giúp cho đồng
bào tiếp thu được dễ dàng, nhanh chóng.
Trong giao dịch thư tín và trong đơn từ quan hệ với các cơ quan Nhà nước đồng bào
dân tộc thiểu số được dùng chữ viết dân tộc, các cơ quan nhà nước có trách nhiệm tiếp
nhận và giải quyết tốt những đơn từ đó".
Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về một số chủ trương, biện pháp tiếp tục phát triển
kinh tế–xã hội miền núi, số 525-TTg ngày 02/11/1993 viết: "Tiếp tục phát triển phát
thanh và truyền hình ở miền núi và vùng dân tộc: hết năm 1995, hoàn chỉnh việc phủ
sóng truyền hình cho các huyện. Nâng cao chất lượng các buổi phát thanh bằng tiếng dân
tộc.".
C. Duy trì bảo vệ ngôn ngữ và văn hoá dân tộc:

Trong bài Các ngôn ngữ nguy cấp và việc bảo tồn sự đa dạng văn hoá, ngôn ngữ tộc
người ở Việt Nam đăng trên tạp chí Ngôn ngữ, số 4 (năm 1999), Nguyễn Văn Lợi cho
biết trong số 6.500 ngôn ngữ đang tồn tại trên thế giới, chỉ có chừng 300 đến 400 ngôn
ngữ được truyền lại cho các thế hệ tiếp theo, các ngôn ngữ còn lại hoặc chỉ được truyền
lại ở một bộ phận nhỏ, hoặc không được truyền lại, đang nằm bên bờ của sự tiêu vong.
Căn cứ vào sức sinh tồn, những điều kiện xã hội-ngôn ngữ học, ông chia các những nguy
cấp ở Việt Nam thành 5 nhóm:
Nhóm thứ nhất bao gồm các ngôn ngữ hầu như đã bị mất, hiện nay chỉ còn rất ít người
sử dụng (trên dưới 10 người). Đó là các ngôn ngữ như: tiếng Cơlao đỏ ở Trùng Sán,
Hoàng SuPhì (người Cơlao đỏ đã chuyển sang nói tiếng Quan Hoả); Tiếng Tống ở huyện
Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang (người Tống hiện được xếp vào dân tộc Dao); Tiếng Thuỷ ở
Chiêm Hoá, Tuyên Quang (người Thuỷ cũng được coi là thuộc dân tộc Dao); Tiếng Ơđu
ở Con Cuông, tỉnh Nghệ An (hầu hết người Ơđu chuyển sang nói tiếng Thái, Khơ mú,
hiện chỉ còn vài người nhớ ngôn ngữ này); Tiếng Tu Dí (Bố Y) ở huyện Mường Khương,
tỉnh Lào Cai (người Tu Dí chuyển sang nói tiếng Quan Hoả).
Nhóm thứ hai gồm các ngôn ngữ nguy cấp thực sự, hiện chỉ còn trên, dưới 100 người
sử dụng. Đó là: tiếng Pu Péo, tiếng Cơlao Trắng ở Đồng Văn – Hà Giang; tiếng La Chí ở
Hoàng Su Phì – Hà Giang; tiếng Laha ở Thuận Châu – Sơn La; tiếng Ta Mit ở Than
Uyên – Lào Cai; tiếng Nùng Vẻn ở Hà Quảng – Cao Bằng ; tiếng Đan Lai, Li Hà, Tày
Poong ở Con Cuông – Tân Kì – Nghệ An; tiếng Mã Liềng, Cọi (Krih) ở Hương Khê – Hà
Tĩnh; tiếng Rục, Mày, Sách ở Tuyên Hoá – Quảng Bình; tiếng Arem ở Bố Trạch – Quảng
Bình.
Nhóm thứ ba gồm các ngôn ngữ có số người sử dụng trên dưới một ngàn người, phạm
vi sử dụng tương đối hẹp, chủ yếu trong giao tiếp gia đình, có xu thế bị mất ở thế hệ trẻ,
chịu áp lực rõ rệt từ các ngôn ngữ có vị thế cao hơn. Đó là các ngôn ngữ như Mảng,
Kháng, Xinh Mun thuộc dòng Mon-Khmer và các ngôn ngữ thuộc họ Tạng Miến như:
Cống, Sila, Xá Phó, Phù Lá, La Hủ.
Nhóm thứ bốn gồm các ngôn ngữ có số lượng người sử dụng từ vài ngàn đến chục
ngàn người, chủ yếu được sử dụng trong giao tiếp gia đình thuộc mọi thế hệ, nhưng một
bộ phận có xu thế thay bằng ngôn ngữ khác. Đó là tiếng Nà Mẻo ở Tràng Định tỉnh Lạng

Sơn và Sơn Dương tỉnh Tuyên Quang; tiếng Pà Thẻn ở Chiêm Hoá tỉnh Tuyên Quang và
ở Bắc Quang tỉnh Hà Giang; tiếng Lôlô ở Bảo Lộc tỉnh Cao Bằng và ở Đồng Văn, Mèo
Vạc tỉnh Hà Giang.
Nhóm thứ năm gồm các ngôn ngữ có từ một chục ngàn đến vài ba chục ngàn người sử
dụng, vẫn được các thành viên trong cộng đồng sử dụng trong giao tiếp hàng ngày và
truyền lại cho thế hệ sau. Tuy nhiên, các ngôn ngữ này có xu thế dễ bị "hoà" vào các
ngôn ngữ có vị thế cao hơn. Đó là các ngôn ngữ như Hà Nhì, Giáy, Khơ mú, Chơro,
Churu, Pakô, Tà Ôi.
Ngôn ngữ dân tộc là biểu hiện của bản sắc văn hoá dân tộc. Duy trì và bảo vệ ngôn
ngữ các dân tộc là duy trì và bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc, một công việc có ý nghĩa
nhân bản sâu sắc, Nguyễn Văn Lợi viết: "Mất đi sự đa dạng ngôn ngữ cũng có nghĩa mất
đi sự đa dạng về trí tuệ. Mỗi một ngôn ngữ là công cụ độc nhất vô nhị để phân tích, tổng
hợp, tri nhận thế giới bên ngoài, tạo nên tri thức, sự đánh giá của cộng đồng người nói về
thế giới. Chúng ta quý trọng và tìm mọi cách giữ gìn các nguồn gien quý của các loài sao
la, bò xám, tê giác một sừng, Ở Việt Nam, chúng ta cũng quý trọng và ra sức giữ gìn
ngôn ngữ các dân tộc, những nguồn gien quý của kho tàng ngôn ngữ, văn hoá, văn minh
nhân loại. Bảo vệ môi trường, sinh thái tự nhiên là nhiệm vụ cấp bách; bảo vệ môi
trường, sinh thái văn hoá cũng vô cùng quan trọng. Đối với loài người, các ngôn ngữ đều
có giá trị nhân văn như nhau: Kho tàng các ngôn ngữ thế giới là tài sản quý báu của nhân
loại" (Bài đã dẫn, trang 49).
Quyết định của Hội đồng Chính phủ về chủ trương đối với chữ viết của các dân tộc
thiểu số, số 53-CP ngày 22/02/1980 viết: "Tiếng nói và chữ viết của mỗi dân tộc thiểu số
ở Việt Nam vừa là vốn quý của các dân tộc đó, vừa là tài sản văn hoá chung của cả
nước".
Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về một số chủ trương, biện pháp tiếp tục phát triển
Kinh tế – Xã hội miền núi, số 525-TTg ngày 02/11/1993 cũng viết: "Tiếp tục duy trì từng
bước phát triển nâng cao các hoạt động văn hoá, văn nghệ quần chúng, khai thác và bảo
tồn văn hoá lâu đời của cộng đồng các dân tộc. Nghiên cứu khôi phục và nâng cao các lễ
hội truyền thống lành mạnh".
Nghị quyết Trung ương V, khoá VIII của Đảng về "Xây dựng và phát triển nền văn

hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" khẳng định: "Nền văn hoá Việt Nam là
nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam Bản sắc dân
tộc của văn hoá Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa được vun đắp
nên qua lịch sử ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, tạo thành những nét đặc sắc
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam".
Muốn duy trì và bảo vệ ngôn ngữ, văn hoá dân tộc thì trước hết phải duy trì và bảo vệ
chính những tộc người nói những ngôn ngữ đó. Vì vậy, vấn đề duy trì và bảo vệ ngôn
ngữ văn hoá không thể tách rời vấn đề phát triển dân tộc mà muốn duy trì và phát triển
dân tộc thì trước hết phải phát triển kinh tế. Trong bài "Tình hình một số ngôn ngữ dân
tộc nguy cấp ở Việt Nam và những luận cứ chính sách đối với các ngôn ngữ ấy" sau khi
phân tích tình hình một số ngôn ngữ dân tộc được coi là nguy cấp, Trần Trí Dõi cho rằng:
– "Việc thúc đẩy nền kinh tế–xã hội của các dân tộc và nhóm tộc người có ngôn ngữ
bị suy giảm là một nhu cầu bức bách. Muốn cho tộc người Arem chẳng hạn không suy
giảm dân số với tỉ lệ 1% năm, đó là vấn đề sản xuất, đó là vấn đề y tế v.v mà cả cộng
đồng phải giải quyết. Cũng vậy, muốn những người Ơđu có điều kiện duy trì tiếng mẹ đẻ
của mình, cộng đồng nhỏ bé của họ hiện nay phải được phát triển, phát triển tới mức họ
có nhu cầu dùng tiếng mẹ đẻ trong giao tiếp hàng ngày.
– Phải nâng cao chất lượng tiếng mẹ đẻ của họ trong giao tiếp cộng đồng. Cách tốt
nhất để làm được điều này là duy trì tiếng mẹ đẻ trong hoạt động văn hoá của cả dân
tộc Chính văn hoá truyền thống hay bản sắc văn hoá của các dân tộc là cái nền tốt nhất
để lưu giữ ngôn ngữ của họ. Vì thế, để đảm bảo ngôn ngữ của các dân tộc có nguy cơ bị
suy thoái không bị mai một, một công việc tốt nhất là khơi dậy và làm sống lại hoạt động
văn hoá truyền thống của chính họ" (Sách đã dẫn, trang 98).
Tại hội nghị quốc tế về bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể các dân tộc do UNESCO tổ
chức tại Hà Nội, tháng 3/1993, các đại biểu đã đưa ra một số khuyến nghị đối với Chính
phủ Việt Nam về bảo tồn và phát huy văn hoá các dân tộc thiểu số:
– Cung cấp tài chính kịp thời cho chương trình quốc gia: "Kho tàng chung di sản văn
hoá phi vật thể của các tộc người ở Việt Nam".
– Ở cấp độ nhà nước, bảo vệ, giữ gìn, phát triển và khôi phục kho tàng văn hoá phi vật
thể của các dân tộc thiểu số. Những lĩnh vực cần được tập trung chú ý là: khôi phục các

lễ hội của các dân tộc thiểu số, thu thập với sự trợ giúp của các phương tiện kĩ thuật nghe
nhìn tư liệu về âm nhạc, múa, văn hoá dân gian của các dân tộc.
– Khôi phục lại việc dạy ngôn ngữ và chữ viết các dân tộc mà đã bị ngừng trệ do chiến
tranh, ở các trường trung học và tiểu học.
– Dạy trẻ em dân tộc về lịch sử và văn minh của các tộc người.
– Mở rộng các chương trình truyền thanh, truyền hình về văn hoá dân tộc thiểu số; tổ
chức phát thanh bằng các ngôn ngữ dân tộc thiểu số.
– Tiếp tục thu thập, bảo tồn và phổ biến các văn bản viết bằng chữ cổ của các dân tộc
thiểu số.
Rõ ràng, chính sách của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đối với ngôn ngữ của
các dân tộc thiểu số khác hẳn chính sách của bọn thực dân và những chính quyền thân
Pháp, thân Mĩ trước đây. Như ta biết, thực dân Pháp khi cai trị nước ta, đã tạo chữ viết
cho một số dân tộc ở Tây Nguyên như: chữ Ê Đê, chữ Ba Na, chữ Gia Rai, Nhưng mục
đích của thực dân Pháp là chia để trị, là đồng hoá các dân tộc ở Việt Nam phải theo Pháp
cho nên chúng tổ chức dạy chữ dân tộc cho người dân tộc mà không cho họ học tiếng
Việt, không cho học tiếng Việt nhưng lại bắt họ học tiếng Pháp. Chính quyền Ngô Đình
Diệm thì ngược lại, buộc các dân tộc thiểu số học tiếng Việt mà không cho họ học tiếng
của họ. Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, nghe theo lời Mĩ, đã tổ chức chế độ giáo dục
song ngữ. Viện Ngôn ngữ học mùa hè (SIL) đã tạo ra nhiều chữ viết theo mẫu tự La tinh
cho các dân tộc thiểu số như: Gia Rai, Cơ Ho, Raglai, Mnông, Bru–Vân Kiều, Katu, Giẻ–
Triêng, Tà Ôi, Mạ, Co, Chơro, Churu. Tuy nhiên, mục đích chính của Mĩ Thiệu là tuyên
truyền chống cộng và truyền bá đạo Tin Lành.
Có thể khẳng định rằng chính sách của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đối với
ngôn ngữ các dân tộc thiểu số là đúng và căn bản. Nó đã đáp ứng được các vấn đề dân tộc
và ngôn ngữ ở Việt Nam trong công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng tổ quốc. Tuy
nhiên trong quá trình thực hiện vẫn còn nhiều điều bất cập. Nguyễn Như Ý trong bài
Những vấn đề chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam, đã viết: "Các chủ trương của Đảng và
Nhà nước về ngôn ngữ dân tộc thường chỉ dừng lại ở những tư tưởng, những luận điểm
chung nhất, thiếu hẳn các kế hoạch, các chương trình mục tiêu và hệ thống các biện pháp
cụ thể cùng các hình thức tổ chức thực hiện thích hợp với từng khu vực, từng dân tộc, đặc

biệt là thiếu hẳn một đội ngũ cán bộ được chuẩn bị về kiến thức và phương pháp, sau
cùng là một chế độ kiểm tra, đánh giá ở cấp Nhà nước, để triển khai".
Từ kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới, Trần Trí Dõi rút ra là vấn đề giáo
dục ngôn ngữ "phải được đặt trong nhu cầu lợi ích của người thụ hưởng nền giáo dục
ấy. Chính nhu cầu lợi ích của người thụ hưởng giáo dục song ngữ nhiều khi là yếu tố
quyết định chi phối hoạt động giáo dục song ngữ. Trong thực hiện giáo dục song ngữ,
khi ngôn ngữ thứ hai là tiếng mẹ đẻ của người thụ hưởng thì lợi ích văn hoá là lợi ích nổi
trội nhất. Nếu không nắm bắt đầy đủ lợi ích này để nhận biết đầy đủ tính đa dạng của
mục đích thụ hưởng thì việc xây dựng một chương trình giáo dục ngôn ngữ sẽ ít khả
năng thu được thành công".
Sau khi nghiên cứu thực trạng giáo dục ngôn ngữ ở vùng dân tộc miền núi ba tỉnh phía
Bắc Việt Nam, Trần Trí Dõi đã đưa ra một số nhận xét đáng chú ý: " tiếng Thái của
người Thái ở Việt Nam là một ngôn ngữ của một dân tộc thiểu số chứ không phải là một
ngôn ngữ có chức năng ngôn ngữ quốc gia. Vì thế, sự phát triển đa dạng của nó theo từng
phương ngữ là điều tất yếu và không ai có quyền ngăn cản nó. Do đó, việc thống nhất
chữ viết trong sự đa dạng phương ngữ là một điều khó có thể trở thành hiện thực" Ông
viết tiếp: " Khi bày tỏ ý kiến thể hiện mục đích tiếp nhận giáo dục tiếng mẹ đẻ, người
Thái cho rằng họ học là để góp phần bảo vệ và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc Bởi vì
chỉ có chữ cổ truyền thống của người Thái mới là thứ văn tự thoả mãn đích thực vai trò
đó. Chúng tôi nghĩ rằng, các kiểu chữ cổ truyền hiện có ở các Mường Thái, chỉ cần bổ
sung thêm một vài chi tiết, sẽ là văn tự tốt nhất được sử dụng trong giáo dục tiếng mẹ đẻ
của dân tộc Thái" (Sách dã dẫn, trang 231). Cuối cùng, ông kiến nghị:
– Các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương phải có kế hoạch từng bước ổn
định, phát triển kinh tế–xã hội vùng dân tộc miền núi.
– Thay vì lấy tiêu chí ngoại ngữ có tính hình thức để thăng ngạch cán bộ công chức,
Nhà nước có thể coi trình độ sử dụng tiếng dân tộc nơi họ công tác làm chứng chỉ thay
thế khi thực hiện công việc tổ chức này. Ngoài ra, cũng nên coi việc người cán bộ ở vùng
dân tộc thiểu số sử dụng được nhiều ngôn ngữ dân tộc khác nhau là một thành tích cần
được khuyến khích trong hoạt động của họ.
– Xây dựng một kế hoạch khả thi trong hoạt động giáo dục tiếng mẹ đẻ cho đồng bào

dân tộc mà trước hết là chuẩn bị một đội ngũ giáo viên sẵn sàng đáp ứng cho công việc
ấy.
– Xây dựng một đề tài nghiên cứu để xác lập chủ thuyết khoa học cho vấn đề dạy
tiếng mẹ đẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số.
2.3. Chính sách đối với tiếng Việt
1. Tuy là quốc gia đa dân tộc, nhưng người Kinh chiếm 85% dân số cả nước, các dân
tộc ở Việt Nam lại vốn có truyền thống đoàn kết cùng nhau. Vì thế, sau khi giành được
quyền độc lập dân tộc, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khẳng định ngay vị thế của
tiếng Việt trong nước Việt Nam mới. Như ta biết, trước Cách mạng tháng Tám, tiếng
Pháp giữ vị trí ngôn ngữ chính thức ở Việt Nam, được sử dụng trong hành chính, và giáo
dục. Tiếng Việt tuy đã phát triển nhưng cũng chỉ được dùng trong báo chí, văn học nghệ
thuật mà thôi.
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, tiếng
Việt vươn lên vị thế của ngôn ngữ quốc gia, ngôn ngữ chính thức của Việt Nam. Từ đây,
tiếng Việt được sử dụng ở tất cả các lĩnh vực hoạt động của người Việt Nam, từ công
văn, giấy tờ hành chính ở trung ương và địa phương đến giáo dục, văn hoá và khoa học,
từ công sở, trường học đến toà án, quân đội đều sử dụng tiếng Việt. Đặc biệt là, ngay từ
đầu, các trường đại học đều dùng tiếng Việt để giảng dạy và học tập. Tuy nhiên, Đảng
Cộng Sản và Nhà nước Việt Nam ý thức rõ rằng "những nhu cầu về kinh tế sẽ tự quyết
định ra một ngôn ngữ chung cho toàn quốc, ngôn ngữ mà đa số người vì lợi ích liên hệ
mậu dịch sẽ thấy là có lợi nếu biết được ngôn ngữ đó". Vì vậy, Đảng Cộng Sản và Nhà
nước Việt Nam rất thực tế trong lập pháp ngôn ngữ. Trong Hiến pháp của nước ta chưa
hề sử dụng thuật ngữ ngôn ngữ quốc gia. Nhưng vị thế ấy của tiếng Việt được thể hiện ở
những việc làm cụ thể sau:
– Bản Tuyên ngôn độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết và đọc bằng tiếng Việt.
– Điều thứ 18 trong Hiến pháp năm 1946 quy định: "Người ứng cử phải là người có
quyền bầu cử, phải ít ra là 21 tuổi, và phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ".
– Sắc lệnh 19 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày
08/9/1945, ra lệnh: "Việc học chữ quốc ngữ từ nay bắt buộc và không mất tiền cho tất cả
mọi người. Hạn trong một năm, toàn thể dân chúng Việt Nam trên 8 tuổi phải biết đọc,

biết viết chữ quốc ngữ. Quá hạn đó, một người dân Việt Nam trên 8 tuổi mà không biết
đọc và biết viết chữ quốc ngữ đó sẽ bị phạt tiền".
– Sắc lệnh 20 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ngày
08/9/1945 ra lệnh: "Trong toàn cõi Việt Nam, sẽ thiết lập cho nông dân và thợ thuyền
những lớp học bình dân buổi tối. Trong hạn 6 tháng, làng nào và đô thị nào cũng phải có
ít ra là một lớp học dạy ít nhất là 30 người".
Không dùng thuật ngữ ngôn ngữ quốc gia, các văn bản của nhà nước chỉ gọi tiếng
Việt và chữ quốc ngữ là tiếng và chữ phổ thông. Quyết định của Hội đồng Chính phủ, số
53-CP ngày 22/02/1980 viết: "Tiếng và chữ phổ thông là ngôn ngữ chung của cộng đồng
dân tộc Việt Nam. Nó là phương tiện giao lưu không thể thiếu được giữa các địa phương
và các dân tộc trong cả nước, giúp cho các địa phương và các dân tộc có thể phát triển
đồng đều các mặt kinh tế, văn hoá, khoa học kĩ thuật, v.v tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân và thực hiện quyền bình đẳng dân tộc. Vì vậy, mọi người dân Việt Nam đều có
nghĩa vụ và quyền lợi học tập và sử dụng tiếng và chữ viết phổ thông".
Mặc dù sau cách mạng nhà nước chỉ đạo "tất cả các khoa học đều dạy bằng tiếng
Việt", từ phổ thông đến đại học, nhưng về lập pháp ngôn ngữ thì Luật Phổ cập giáo dục
tiểu học (ngày 06/8/1991) mới quy định:
"Giáo dục tiểu học được thực hiện bằng tiếng Việt. Các dân tộc thiểu số có quyền sử
dụng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình cùng với tiếng Việt để thực hiện giáo dục tiểu
học".
Thuật ngữ "ngôn ngữ chính thức" chỉ được dùng trong Luật giáo dục tiểu học ngày
10/12/1998:
"Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức dùng trong nhà trường".
2. Xác lập vị thế ngôn ngữ quốc gia của tiếng Việt, Đảng và Nhà nước ta đồng thời chỉ
ra phương hướng phát triển của tiếng Việt. Đó là dân chủ hoá, quần chúng hoá.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thổi bùng niềm tự hào và tình yêu đối với tiếng Việt. Người
viết ; "Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta
phải giữ gìn nó, quý trọng nó nhằm làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp. Của mình
có mà không dùng, lại đi mượn của nước ngoài, đó chẳng là đầu óc hay ỷ lại hay sao?"
Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Việt Nam đã có nhiều cuộc vận động

nhằm phát triển tiếng Việt. Trước hết, đó là cuộc vận động cải tiến chữ quốc ngữ. Đề
cương văn hoá Việt Nam của Đảng Cộng sản Đông Dương coi cải tiến chữ quốc ngữ là
"nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hoá Mác-xít Đông Dương và những nhà văn hoá
Việt Nam". Tháng 9 năm 1960, Hội nghị về vấn đề cải tiến chữ quốc ngữ đã được tổ
chức tại Hà Nội. Hội nghị đã thành lập Ban nghiên cứu cải tiến chữ quốc ngữ. Tuy nhiên,
cho đến nay, vấn đề có nên cải tiến chữ Quốc ngữ hay không và nếu cải tiến thì cải tiến
như thế nào vẫn còn đang được tranh luận.
Thứ hai là cuộc vận động giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt ngay khi đang tiến hành
cuộc chiến tranh thống nhất đất nước, Nhà nước đã tổ chức Hội nghị bàn về vấn đề giữ
gìn sự trong sáng của tiếng Việt từ ngày 07–10/02/1966. Ba khâu cần phải làm để giữ gìn
sự trong sáng của tiếng Việt là:
– Giữ gìn và phát triển vốn chữ của tiếng ta
– Nói và viết đúng phép tắc của tiếng ta
– Giữ gìn bản sắc, tinh hoa, phong cách của tiếng ta trong mọi thể văn (văn nghệ,
chính trị, khoa học, kĩ thuật, ).
Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhận định: "Đây là một công việc lâu dài, phải kiên trì,
phải nhìn xa, thấy rộng, phải làm từng bước với tất cả ý thức trách nhiệm của mỗi người
chúng ta, với lòng tự hào về tiếng nói của dân tộc và với lòng phấn khởi và tin tưởng
đang góp phần của mình vào một công việc vừa quan trọng vừa tốt đẹp vô cùng"
Thứ ba là cuộc vận động chuẩn hoá tiếng Việt. Sau khi đất nước thống nhất, cuối năm
1979 đầu những năm 1980, Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam đã phối hợp với Viện
Khoa học Giáo dục, Bộ Giáo dục tổ chức một số cuộc hội thảo về vấn đề chuẩn hoá tiếng
Việt và đã thành lập hai Hội đồng: Hội đồng chuẩn hoá chính tả do Giáo sư Phạm Huy
Thông làm chủ tịch và Hội đồng chuẩn hoá thuật ngữ do Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn làm
chủ tịch. Kết quả là Quyết nghị của Hội đồng chuẩn hoá chính tả và Hội đồng chuẩn hoá
thuật ngữ đã được ban hành ngày 01/7/1983. Trước đó, Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt
Nam và Bộ Giáo dục cũng đã thông qua Một số quy định về chính tả trong sách giáo
khoa cải cách giáo dục (ngày 30/11/1980). Trên cơ sở đó, ngày 05/3/1984, Bộ trưởng Bộ
Giáo dục đã ra quyết định số 240-QĐ ban hành Quy định về chính tả tiếng Việt và về
thuật ngữ tiếng Việt áp dụng cho các sách giáo khoa, báo và văn bản của ngành giáo dục.

Để bảo vệ tiếng Việt, Nhà nước cũng có những văn bản nhằm uốn nắn những cách sử
dụng tiếng Việt chưa hợp lí. Nghị định của Chính phủ số 194-CP ngày 31/12/1994 về
hoạt động quảng cáo trên lãnh thổ Việt Nam quy định:
– Tiếng nói và chữ viết trong quảng cáo phải là tiếng nói và chữ viết Việt Nam, trừ các
trường hợp:
a) Những sách báo, ấn phẩm được phép xuất bản bằng tiếng nước ngoài.
b) Những chương trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng nước ngoài.
c) Những nhãn hiệu hàng hoá viết tắt và viết bằng tiếng nước ngoài. Tên giao dịch
quốc tế của các cơ sở sản xuất kinh doanh–dịch vụ đã được các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền cho phép. Những từ ngữ đã được quốc tế hoá hoặc những từ ngữ mà tiếng
Việt không thay thế được.
Đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, Đảng và Nhà nước Việt Nam còn quan tâm nhiều
hơn nữa. Quyết định của Phủ thủ tướng số 153-CP ngày 20/8/1969 viết:

×