Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

SKKN Những biện pháp tích cực để nâng cao chất lượng dạy học cổ tích trong nhà trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.28 KB, 27 trang )

A- PHẦN MỞ ĐẦU
I- ĐẶT VẤN ĐỀ
1- CƠ SỞ LÝ LUẬN
Như chúng ta đã biết : Truyện cổ tích là sáng tác dân gian phổ biến, có phạm vi
lưu truyền rộng rãi nhất trong các loại truyện cổ dân gian. Nó thu hút tất cả các đối
tượng trong xã hội từ trẻ con đến người lớn, từ người mù chữ đến các học giả. Trong di
sản cổ tích của mỗi dân tộc bao giờ cũng chứa đựng những yếu tố mang tính đặc thù
dân tộc và có sự giao lưu văn hoá giữa các dân tộc. Đối với mỗi chúng ta, những câu
chuyện cổ tích đầy màu sắc kỳ ảo luôn là những giấc mơ đẹp, hướng ta đến một tương
lai tươi sáng. Truyện cổ tích đã cùng ta đi suốt cuộc đời từ tuổi ấu thơ nghe bà hay nghe
mẹ kể chuyện cổ tích, ta say sưa sống trong thế giới cổ tích thần kỳ cho tới khi đi học
rồi trưởng thành, ta luôn tìm cho mình nguồn cảm xúc và những bài học sâu sa từ những
chuyện kể " Ngày xửa ngày xưa". Trong nhà trường THCS mảng văn học dân gian
đóng một vai trò rất quan trọng, mà trong đó truyện cổ tích là một phần không thể thiếu
được đối với người học sinh. Mặc dù ở bậc tiểu học các em cũng đã được tiếp xúc với
truyện cổ tích, nhưng lên THCS các em được học kỹ hơn, tìm hiểu sâu hơn và truyện cổ
tích có sự hấp dẫn, lôi cuốn các em nhiều hơn.
Mỗi lứa tuổi, học sinh có một nhu cầu và khả năng tiếp nhận khác nhau, nhất là
đối với thể loại văn học, đặc biệt là truyện cổ tích. Học sinh ở bậc THCS mà đặc biệt là
học sinh lớp 6 lớp 7. Các em còn nghèo nàn về kinh nghiệm sống, còn kém phát triển về
mặt ý thức, tính chất dễ xúc cảm, dễ bị kích động và thiếu vắng ở các em ý thức phê
phán rõ nét đối với kết quả sáng tạo của mình. Các em đã hình dung một cách sinh động
những bức tranh do nhà văn sáng tạo. Tư duy trí tuệ chưa ở mức cao nhưng với nghệ
thuật nói chung thì các em có hứng thú đặc biệt. Truyện kể dân gian là loại hình văn học
được học sinh yêu mến quá đỗi : " Sức bay bổng của ước mơ tưởng tượng của học
sinh mạnh mẽ đến mức các em có thể sống hai cuộc sống một lúc. Cuộc sống thực sự
và cuộc sống sáng tạo nên trong mơ tưởng. Đôi lúc các em không phân biệt được
hiện thực với những kết quả của sự mơ tưởng của chính mình". Khi đọc truyện nhiều
em tìm ngay được lối thoát cho mơ ước. Mặt khác truyện lại thâm nhập vào cuộc sống
của các em học sinh ở lứa tuổi này cũng dễ thay đổi chưa ổn định. Qua những điều trên
1


đây cho thấy nhiệm vụ của người giáo viên vừa giúp học sinh nhận ra cái hay, cái đẹp
của một tác phẩm vừa khơi dậy những hứng thú và cảm xúc thực sự hay đó là đem đến
cho học sinh lý tưởng để chúng được sống trong những"ảo giác êm đẹp" đầy chất thơ
lãng mạn của người xưa.
2- CƠ SỞ THỰC TIỄN
Truyện cổ tích trong nhà trường không những có đặc thù riêng khác văn học viết
mà còn có cả những đặc thù khác hẳn với văn học dân gian ở thể tồn tại chân chính của
nó. Dạy học cổ tích, người giáo viên cần kết hợp nhiều năng lực và tiến hành nhiều loại
thao tác khác nhau mới có thể đạt một giờ dạy có kết quả tốt. Trong thực tế dạy học ở
các trường THCS hiện nay vấn đề không phải đã được sự chú ý, quan tâm của nhiều
giáo viên. Có nhiều giáo viên hướng dẫn học sinh tiếp cận với một tác phẩm văn học
dân gian giống với việc tiếp cận một tác phẩm văn học viết. Họ chưa phân biệt được sự
khác nhau giữa hai bộ phận văn học này. Theo chúng tôi, sự khác nhau đó được khái
quát bằng hai điểm chủ yếu:
Một là : Trong khi tiếp cận tác phẩm văn học ta chỉ cần dựa vào cơ sở ngôn từ
trong văn bản thì đối với tác phẩm văn học dân gian- ngoài yếu tố ngôn từ là chủ yếu ta
vẫn dựa vào yếu tố ngoài văn bản ( sự vận động của truyện trong đời sống dân gian và
diễn xướng dân gian ) để tiếp cận. Những yếu tố này có tác dụng hỗ trợ thêm cho yếu tố
ngôn từ trong văn bản làm cho ta hiểu rõ hơn, đầy đủ hơn và sâu sắc hơn tác phẩm dân
gian, đặc biệt làm cho ta cảm nhận được những vẻ đẹp mang tính chất đặc thù của văn
học dân gian.
Hai là: Khi tiếp cận văn bản ngôn từ thì hai cách tiếp cận lại hướng tới những
đối tượng không giống nhau: Tác phẩm văn học viết hướng tới những đối tượng thuộc
quy cách sáng tác của văn học viết, còn tác phẩm văn học dân gian thì hướng tới đối
tượng thuộc quy cách sáng tác văn học dân gian. Một bên chịu sự chi phối và hướng dẫn
của lý luận văn học, còn một bên chịu sự chi phối và hướng dẫn của thi pháp văn học
dân gian.
Như vậy vấn đề được coi là chìa khoá giúp ta mở cửa đi vào tiếp cận và chiếm
lĩnh kho tàng văn học dân gian Việt Nam là thi pháp văn học dân gian. Mỗi một loại
2

truyện cổ dân gian lại có những nét đặc trưng riêng biệt. Vậy vấn đề đặt ra là: Chúng ta
nên dạy - học truyện cổ tích như thế nào ?
Trong bài viết này, tôi muốn trình bày về " Những biện pháp tích cực để nâng cao
chất lượng dạy học cổ tích trong nhà trường THCS " bằng việc áp dụng vào truyện cổ
tích “Thạch Sanh" ( Ngữ văn 6 )
II- PHẠM VI ĐỀ TÀI:
Như trên đã nói, đề tài mang tên " Những biện pháp tích cực để nâng cao chất
lượng dạy học cổ tích trong nhà trường THCS " từ đó khái quát lên thành những ý
nghĩa chung của dạy học thể loại.
Việc lựa chọn truyện " Thạch Sanh" chứ không phải tác phẩm nào khác xuất phát
từ nhiều nguyên nhân: Đây là một truyện độc đáo, mở đầu cho phần truyện cổ tích ở
trong phần Ngữ văn lớp 6. Truyện có nhiều chi tiết bất ngờ, thú vị, đề cập đến mối quan
hệ giữa con người với con người và tài năng, phẩm chất bên trong của nhân vật. Ngoài
ra truyện " Thạch Sanh" sau nhiều lần chỉnh lý, thay sách vẫn được đưa vào dạy trong
chương trình THCS , điều đó cho thấy rằng giá trị và ảnh hưởng rộng lớn của tác phẩm
cũng như tính chất tiêu biểu của nó đã được khẳng định chắc chắn. Mặt khác từ năm
học 2002-2003 thực hiện chương trình thay SGK lớp 6 và đổi mới phương pháp dạy học
Ngữ văn nên việc dạy học Ngữ văn nói chung và dạy học truyện cổ tích nói riêng còn
có nhiều vấn đề bất cập. Vậy mong muốn của tôi là tìm ra được những biện pháp tích
cực để nâng cao chất lượng dạy học cổ tích đặc biệt là với truyện cổ tích "Thạch Sanh".
III- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Dựa vào lý luận dạy học và đặc trưng thể loại truyện cổ tích, đưa ra những biện
pháp tích cực và hợp lý nhất để hiểu và cảm nhận tác phẩm. Trên cơ sở đặt mỗi khía
cạnh của vấn đề vào môi trường lớp học, vào quá trình dạy học để nâng cao chất lượng
giờ dạy. Điều cốt yếu là các em học sinh sẽ được hướng dẫn để hiểu đúng về tác phẩm,
có hứng thú tìm ra cho mình một niềm tin và ước mơ từ tác phẩm - Phù hợp với tâm lý
lứa tuổi và trình độ của các em.
3
B - NỘI DUNG
CHƯƠNG I: Những đặc trưng cơ bản về cổ tích

I- Ý nghĩa đặc trưng:
Truyện cổ tích là những truyện kể về những câu truyện tưởng tượng chung quanh
số phận, cuộc đời một số kiểu nhân vật nhất định: Kiểu nhân vật trí xảo và kiểu nhân vật
khờ khạo; Kiểu nhân vật đức hạnh và kiểu nhân vật xấu xa; kiểu nhân vật là loài vật.
Đặc điểm nổi bật nhất của truyện cổ tích là tính chất tưởng tượng của câu chuyện
kể. Đó là những câu chuyện hư cấu, bịa đặt, không có thực, không thể xảy ra trong thực
tế. Nhưng đây là tưởng tượng của cổ tích chứ không phải tưởng tượng của thơ ca. Vì
vậy cái không có thực của cổ tích thường mang tính chất hoang đường và tưởng tượng ở
đây là tạo nên tính chất kỳ lạ, khác thường của câu chuyện kể. Chính điều này làm nên
"Thế giới cổ tích" với sức lôi cuốn kỳ diệu của nó không chỉ với trẻ thơ mà cả với người
lớn. Một cô Tấm từ trong quả thị bước ra sau nhiều lần biến hoá. Một cô út phiêu lưu
trong bụng cá và trên hoang đảo. Một câu thần chú của ông bụt tạo thành cây tre trăm
đốt; Một con chim phượng hoàng ăn khế trả vàng; "Thế giới cổ tích" ấy đẹp và hấp
dẫn biết bao, đem lại cho người đọc biết bao sự thích thú, niềm tin và ước mơ. Trẻ em
cảm thấy được đến với một thế giới khác cuộc đời hàng ngày ở đó các em thường bị gò
bó theo ý người lớn, ''Một thế giới trong đó trẻ em vận động chống chọi, đem cái
thiện chí của mình ra đối kháng với cái ác ''( V.xu-khôn-lin-xki). Còn với người lớn
thì thế giới cổ tích là một thế giới khác hẳn '' cuộc đời hàng ngày tẻ nhạt, khô cằn, đầy
tiếng than của những kẻ tham lam khôn cùng và ghen ghét đến thành bản
năng ''(M.Gorơki), một thế giới trong đó '' Sự giản dị đẹp đẽ, sự dốt nát kỳ diệu của
người thời cổ được đảm bảo tươi nguyên như hoa với cả hương thơm'' (A.phơ-răng-
xơ).
Truyện cổ tích đã nảy sinh từ trong xã hội nguyên thuỷ nhưng nó phát triển chủ
yếu trong xã hội có giai cấp nên chủ đề chủ yếu của nó là chủ đề xã hội và loại xung đột
xã hội. Có thể xem đây là đề tài đặc trưng của thể loại cổ tích so với thần thoại và sử thi
lịch sử. Vì vậy, tuy là những câu chuyện hoang đường, không có thực nhưng cổ tích đã
đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa rộng lớn, sâu sa về nhân sinh và xã hội. Thêm một
4
lý do nữa để con người ngày nay yêu thích thể loại văn học dân gian này bởi vì '' trong
mỗi truyện cổ tích đều có những yếu tố thực tế ''(V.l.Lê nin).

II/ Vấn đề thi pháp trong truyện cổ tích
Cốt truyện cổ tích giầu chất tưởng tượng và không ít yếu tố kỳ lạ khác thường''
Đọc cổ tích phải nín thở, vì nếu thở mạnh sẽ làm mất hưng phấn của truyện cổ tích''
(Pau top x ki). Cổ tích bảo tồn được những vẻ đẹp nguyên sơ trong sáng của con người.
Cũng giống như cổ tích thế giới cổ tích Việt Nam có kiểu truyện kiểu nhân vật và mô
típ nghệ thuật.
Tập hợp những truyện có cùng chủ đề cốt truyện tương tự như nhau được gọi là
kiểu truyện.
Ví dụ: Kiểu truyện Tấm Cám có những truyện: Tua Gia-Tua Nhi (người Tày) Ý
ưởi-ý Noọng( người Thái), Chiếc giày vàng (người Chàm).
- Kiểu truyện người lấy vật có truyện: Sọ Dừa, lấy chồng Dê, lấy vợ Cóc
- Kiểu truyện dũng sĩ tài giỏi lấy người đẹp : Thạch Sanh
Nhân vật trong truyện cổ tích tuy hành động được cá thể rõ hơn so với truyền
thuyết nhưng chưa được tâm lý hoá. Quy cách hoạt động của nhân vật tạo thành các
kiểu nhân vật:
Kiểu nhân vật bất hạnh ( người em út, người mồ côi, người xấu xí )
Kiểu nhân vật kỳ tài ( có tài kỳ lạ, có sức khoẻ phi thường )
Kiểu nhân vật trí xảo ( thông minh kỳ lạ )
Kiểu nhân vật khờ khạo ( ngốc nghếch )
Tính cách của nhân vật được bộc lộ qua hành động: "Nhân vật trong truyện cổ
tích là hành động của nó" ( Đỗ Bình Trị ). Vì vậy cái nét riêng của nhân vật cổ tích là ở
các kiểu dạng hành động, chẳng hạn như: " Làm theo vợ dặn một cách máy móc", 'Meọ
lừa" nó chưa phải là cái nét riêng của con người.
Về mô típ nghệ thuật: Yếu tố thần kỳ là phương tiện thường dùng trong truyện cổ
tích,nhiều khi nó như một nhân tố cố định cấu kết trong câu chuyện kể, để kết dệt thành
câu chuyện. Đó là những chi tiết nghệ thuật có mặt trong truyện cổ tích của nhiều dân
tộc . Ví dụ như mô típ " Niêu cơm thần" trong truyện Thạch Sanh; "Rơi giày và ướm
5
giày" trong Tấm Cám Những mô típ đó là " Những phần tử đơn vị vừa mang tính đặc
trưng, vừa mang tính bền vững của truyện kể dân gian"

Tóm lại: Về đặc điểm nghệ thuật của truyện cổ tích chúng ta cần nắm vững
những đặc điểm sau:
1- Thời gian nghệ thuật trong truyện cổ tích bao giờ cũng là thời gian quá
khứ. Điều này thể hiện ở những câu mở đầu của truyện "Ngày xửa ngày xưa "
hoặc "Ngày xưa thời vua Hùng Vương thứ mười tám "
2- Không gian nghệ thuật trong truyện cổ tích thường phiếm định, ước lệ
chuyện xảy ra ở một làng nọ, vùng kia ít khi nói đến một địa danh cụ thể.
3- Truyện cổ tích bao giờ cũng kể theo một tuyến thẳng hay còn gọi là trực
tuyến. Người ta thường kể cuộc đời nhân vật từ bé đến lớn, sự kiện xảy ra ở địa
phương này rồi mới đến địa phương khác. Trong truyện cổ tích không có sự đồng
điệu hay tái hiện như trong truyện hiện đại.
4- Nhân vật chưa dừng lại ở mức điển hình cho một loại người, một kiểu
người nhất định, chưa khắc hoạ được con người mang tính khái quát và mang tính
cá thể rõ nét.
5- Yếu tố kỳ diệu đóng vai trò quan trọng trong truyện cổ tích. Nó vừa là thủ
pháp nghệ thuật để xây dựng câu chuyện vừa là niềm tin của nhân dân.
III- Về vấn đề phân loại truyện cổ tích
Từ trước đến nay có nhiều nhà nghiên cứu về văn học dân gian trong đó có truyện
cổ tích thì họ có nhiều cách phân chia truyện cổ tích khác nhau. Theo Trần Thanh Mai
thì truyện cổ tích gồm hai loại: Loại đấu tranh chống thiên nhiên và loại đấu tranh xã
hội. Theo Nguyễn Đổng Chí thì chia cổ tích thành ba loại: Truyện cổ tích hoang đường,
truyện cổ tích thế sự, truyện cổ tích lịch sử. Cách phân loại này đã được các tác giả giáo
trình văn học dân gian của trường Đại học Sư phạm chấp nhận. Còn theo quan điểm của
các tác giả giáo trình văn học dân gian trường Đại học Tổng hợp thì lại chia cổ tích làm
hai loại: Truyện cổ tích lịch sử và truyện cổ tích thế sự ( vì bất cứ truyện cổ tích nào
cũng mang yếu tố hoang đường nên không cần thiết để riêng một loại )
Như vậy trong vấn đề phân loại truyện cổ tích còn có nhiều điểm chưa thống
nhất. Gần đây, theo các tác giả giáo trình văn học dân gian trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn đã ít nhiều có sự điều chỉnh lại quan niệm phân loại truyện cổ tích.
6

Trong nội dung trình bày của tôi về truyện cổ tích, tôi cũng thống nhất theo quan điểm
phân loại này. Đó là truyện cổ tích bao gồm ba loại:
* Truyện cổ tích động vật
* Truyện cổ tích thần kỳ
* Truyện cổ tích sinh hoạt xã hội.
Tóm lại: Truyện cổ tích là sáng tác dân gian trong loại hình tự sự mà thuộc tính
của nó là xây dựng trên những cốt truyện. Truyện cổ tích là tác phẩm nghệ thuật được
xây dựng thông qua sư hư cấu nghệ thuật thần kỳ. Nó là một thể loại hoàn chỉnh của
văn học dân gian, được hình thành một cách lịch sử. Sự hư cấu thần kỳ trong truyện cổ
tích do hiện thực đời sống quyết định và nó cũng chịu sự biến đổi theo tiến trình lịch sử.
Thế giới cổ tích là một thế giới thật đáng yêu, đặc biệt là đối với trẻ thơ. Điều hấp
dẫn, điều có ý nghĩa với người nghe truyện cổ tích trước hết và chủ yếu là cái thế giới
cổ tích ấy chứ không phải là chỗ thế giới ấy phản ánh thực tế nào. Với chúng ta, những
giáo viên trong nhà trường THCS, là đem đến cho các em những vẻ đẹp đáng yêu của
cái thế giới cổ tích ấy.
CHƯƠNG II- Khảo sát tình hình dạy học truỵên cổ tích trong
nhà trường phổ thông
I- Đối tượng khảo nghiệm:
Trường tôi có 2 lớp 6 năm 2009- 2010 trong đó có lớp 6A1 là lớp chọn học sinh
giỏi . Nhìn chung các em ở lớp 6A1 có sự tiếp thu nhanh hơn, học tốt hơn so với các em
ở lớp 6A2. Từ thực tế đó tôi chọn hai lớp 6A2 làm đối tượng để khảo nghiệm.
II- Tư liệu khảo nghiệm
Toàn bộ truyện cổ tích được học trong chương trình của lớp 6 đều được tôi lấy
làm tư liệu khảo nghiệm. Trong đó có truyện cổ tích của Việt Nam và cả truyện cổ tích
của nước ngoài.
III- Quá trình khảo nghiệm
Trong suốt quá trình dạy học phần truyện cổ tích ở mỗi bài và mỗi phần tôi đều
có những câu hỏi kiểm tra đánh giá việc nhận thức bài học của học sinh và thấy được
phương pháp dạy học của giáo viên. Nhìn chung là chúng tôi thường xuyên thay đổi
cách đưa ra câu hỏi cũng như cách thức làm bài của học sinh.

7
1- Câu hỏi chung cho các truyện cổ tích đã được học trong chương trình:( Câu hỏi
trắc nghiệm)
Truyện cổ tích này ( ) kể về cuộc đời của kiểu nhân vật nào ? (Đánh dấu x vào
câu trả lời đúng nhất).
A- Nhân vật bất hạnh:
- Người mồ côi
- Người con riêng
- Người em út
- Người có hình dạng xấu xí .
B- Nhân vật dũng sĩ và nhân vật có tài năng kỳ lạ
C- Nhân vật thông minh và nhân vật ngốc nghếch.
D- Nhân vật là động vật
2- Khi dạy truyện cổ tích “Thạch Sanh" có thể sử dụng các câu hỏi sau đây:
( có thể phát vấn hay trắc nghiệm )
a- Vì sao truyện không kết thúc ở chỗ Thạch Sanh cứu công chúa được vua ban
thưởng gả công chúa cho chàng? ( Vì nếu kết thúc ở đó thì chưa vạch mặt được cái xấu,
cái ác )
b- Từ kết thúc truyện em thấy truyện thể hiện ước mơ gì của người lao động?
(Đánh dấu X vào câu trả lời đúng ).
+ Ước mơ đổi đời
+ Ước mơ về công bằng xã hội
+ Ước mơ về cái thiện thắng cái ác
+ Không ước mơ gì cả
3- Khi dạy truyện cổ tích ở những văn bản đi sâu vào kiểu nhân vật ( như văn bản
" Em bé thông minh") giáo viên nên sử dụng những câu hỏi phù hợp với đặc điểm của
kiểu nhân vật để các em dễ tìm ra, mặt khác vừa tổng hợp, đánh giá việc nắm kiến thức
của các em. Ví dụ có thể hỏi:
Qua 4 lần thử thách, em bé đã dùng những cách gì để giải các câu đó? Em hãy
nhận xét về cách giải đố đó và rút ra đặc điểm của kiểu nhân vật thông minh ?

( Cách thức: Kiểm tra vấn đáp học sinh tham luận theo nhóm và trình bầy)
8
4- Dạy cổ tích, có thể chỉ đi sâu vào câu hỏi ở một chi tiết, một khía cạnh nào đó
mà học sinh hiểu được cả ý nghĩa của truyện.
Ví dụ: Với truyện Thạch Sanh, giáo viên sử dụng câu hỏi sau đây và liên hệ với
một số truyện khác để các em dễ tìm ra câu trả lời hợp lý.
Chi tiết vật ban phát thức ăn vô tận có trong truyện cổ tích dân gian nhiều nước
( Cái khăn, cái bàn ăn, cái túi-truyện dân gian Nga, Pháp, cái giỏ, cái đĩa truyện Mông
cổ, Xi ri ) ở mỗi dân tộc và mỗi truyện, vật ban phát thức ăn vô tận lại có ý nghĩa riêng.
ở truyện cổ tích Thạch Sanh'' Niêu cơm thần'' có ý nghĩa như thế nào?
Trả lời được các câu hỏi này là các em đã nắm được ý nghĩa của câu truyện.
5- Dạy truyện ''Cây bút thần '': Trọng tâm của văn bản là những cuộc đấu tranh
tích cực, liên tục, mạnh mẽ của Mã Lương chống lại những kẻ thù xã hội tham lam, độc
ác và xảo quyệt để bảo vệ mình và nghệ thuật chân chính. Giáo viên có thể đưa ra câu
hỏi có dạng sau:
Em hãy tóm tắt cuộc đấu tranh của Mã Lương để trừng trị bọn, tham ác bằng một
sơ đồ?( Câu hỏi này, giáo viên có thể định hướng cho học sinh.)
9
Bị bắt vẽ ∏ không vẽ ∏ bị nhốt v o chuà ồng ngựa ∏ vẽ lò sưởi, vẽ bánh để
ăn ∏ kẻ thù đến giật v cà ướp bút ∏ Vẽ thang trèo tường để thoát thân ∏
kẻ thù đuổi ∏ vẽ tuấn mã để chạy ∏ vẽ cung tên để tiêu diệt kẻ thù.
Đối với tên địa chủ
Đối với tên vua
Bắt vẽ rồng ∏ vẽ cóc ghẻ ∏ bắt vẽ phượng ∏ vẽ g trà ụi lông ∏ bị cướp bút
bị nhốt v o ngà ục ∏ Vua vẽ núi v ng ra tà ảng đá∏ vẽ thỏi v ng th nh mãng à à
xà∏ vua phải thả ra v dà ỗ d nh em và ẽ ∏ em vẽ biển cả, cá, thuyền, cho vua
v trià ều đình ra khơi ∏ vẽ gió∏( từ nhẹ - mạnh rồi bão lớn) ∏ sóng biển nổi
nên dìm chết kẻ thù.
6- Câu hỏi khảo nghiệm để có sự tích hợp giữa Văn và Tập làm văn giáo viên sử
dụng câu hỏi:

Hãy sắp xếp các nhân vật sau vào các kiểu nhân vật tương ứng trong truyện cổ
tích:
Nhân vật Kiểu nhân vật
a- Sọ Dừa
b- Thạch Sanh
c- Em bé thông minh
d- Mã lương
a- Dũng sĩ
b- Có tài lạ
c- Mang lối xấu xí
d- thông minh
IV -KẾT QUẢ KHẢO NGHIỆM
Qua quá trình khảo nghiệm diễn ra theo từng phần, từng bài học, chúng tôi theo
dõi và ghi nhận kết quả riêng của từng phần. Sau khi tổng hợp lại toàn bộ kết quả chung
của học sinh hai lớp 6A1 và 6A2 chúng tôi đã thu được kết quả sau đây:
STT Lớp Số HS Hiểu bài sâu(số HS) Hiểu nhưng chưa sâu(số HS)
1
2
6A1
6A2
40
43
20/40 = 50%
18/ 43 = 42 %
20 / 40 = 50%
25 / 43 = 68%
V- PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ KẾT QUẢ KHẢO NGHIỆM.
Qua việc dạy học truyện cổ tích, việc dự giờ thăm lớp nghiên cứu tài liệu, giáo án
của các đồng nghiệp và kết quả nhận thức của học sinh, tôi nhận thấy:
Nếu giáo viên chịu khó nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo (dựa trên các phần hướng

dẫn của sách giáo viên, sách giáo khoa, tài liệu tham khảo ) để chọn lọc kiến thức, đưa
vào bài dạy những dạng câu hỏi phù hợp cho từng loại truyện, từng kiểu nhân vật ở môi
truyện thì lớp học rất sôi nổi học sinh tham gia phát biểu ý kiến và thảo luận rất tích
cực với số lượng đông. Từ đó dẫn đến việc nhận thức kiến thức của các em khá tốt. Đặc
biệt các em rút ra ý nghĩa của mỗi truyện tương đối hoàn hảo và chính xác. Các giờ học
đều gây được sự hấp dẫn, kích thích hứng thú học tập của các em học sinh.
10
CHƯƠNG III
NHỮNG PHƯƠNG PHÁP VÀ BIỆN PHÁP TÍCH CỰC ĐỂ NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG DẠY HỌC TRUYỆN CỔ TÍCH " THẠCH SANH" TRONG NHÀ TRƯỜNG.
I- CÁCH TIẾP CẬN TRUYỆN "THẠCH SANH"
1- Tiếp cận từ góc độ thể loại:
Khác với dòng văn học viết, văn học dân gian đánh dấu sự phát triển của mình
thông qua sự phát triển thể loại. Trước hết đó là thời cực thịnh của thần thoại, sau
chuyển sang truyền thuyết và cổ tích mỗi thể loại có đặc trưng riêng về nội dung và
hình thức, do đó xác đinh rõ ràng thể loại của một câu truyện, giúp ta nắm bắt nó một
cách dễ dàng. Nhưng dù có thể có những đặc trưng khu biệt thì do đặc trưng của văn
học dân gian là tính nguyên hợp nên có nhiều truyện đến nay vẫn chưa có sự phân biệt
rạch ròi. Đối với truyện "Thạch Sanh" thì từ trước đến nay vẫn được coi là truyện cổ
thần kỳ kể về nhân vật kì tài ( Trong 3 loại truyện cổ tích: Truyện cổ tích động vật;
Truyện cổ tích thần kỳ; Truyện cổ tích sinh hoạt xã hội)
Trong kho tàng truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam cũng như truyện cổ tích thế giới,
thật khó có thể tìm thấy một tác vừa lớn về đề tài, nội dung, vừa phong phú về loại hình
nhân vật, chặt chẽ, hoàn chỉnh về kết cấu nghệ thuật như truyện Thạch Sanh. Ở đây vừa
có đấu tranh với thiên nhiên chống các loài yêu quái, vừa có đấu tranh giai cấp trong xã
hội, lại vừa có đấu tranh dân tộc chống ngoại xâm 18 nước chư hầu, rồi đấu tranh cho
tình yêu đôi lứa. Chưa có nhân vật nào có hoạt động rộng lớn, gặp nhiều loại kẻ thù , lập
nhiều chiến công, có nhiều tài năng và phép lạ, nhiều phẩm chất cao đẹp như nhân vật
Thạch Sanh.
Truyện "Thạch Sanh" cũng mang đầy đủ nét đặc trưng của truyện cổ tích thần kỳ.

Truyện phản ánh ước mơ của nhân dân về lẽ công bằng trong xã hội: ở hiền gặp lành,
cái ác sẽ bị trừng trị.
2- Tiếp cận từ góc độ xã hội, sử học:
Theo khuynh hướng tiếp cận của các nhàlịch sử, xã hội thì họ không căn cứ vào
mô típ đê khẳng định giá trị tác phẩm mà chủ yếu tìm trong câu chuyện những dấu vết,
những bóng dáng hiện thực để suy luận về xã hội cổ xưa. Sự suy luận này hết sức thận
11
trọng đểv tránh sự võ đoán vì biết mô típ thường cố định qua nhiều truyện, còn nhân vật
là nhân vật chức năng.
Từ góc độ nghiên cứu này ta biết rằng cổ tích nảy sinh từ trong xã hôị nguyên
thủy nhưng phát triển trong xã hội có giai cấp, nên chủ đề chủ yếu của truyện cổ tích là
chủ đề xã hội và loại xung đột xã hội có thể được xem là đặc trưng của thể loại cổ tích
so với thần thoại và sử thi cổ đại. Vì vậy, tuy là những câu chuyện hoang đường không
có thực nhưng cổ tích đề cập đến những vấn đề vừa có ý nghĩa rộng lớn vừa có ý nghĩa
về nhân sinh xã hội. Con người ngày nay yêu thích thể loại văn học dân gian, bởi vì "
Trong xã hội cổ tích đều có yếu tố của thực tế" (Lê Nin)
Tập hợp những truyện có cùng chủ đề và cốt truyện như nhau được gọi là kiểu
truyện . Truyện "Thạch Sanh" nằm trong kiểu truyện nhân vật dũng sĩ, kì tài. Chúng ta
cũng cần chú ý đến mô típ nghệ thuật của truyện cổ tích tức là chú ý đến " những phần
tử đơn vị vừa mang tính đặc trưng vừa mang tính bền vững của truyện kể dân gian". Nó
mang tính Phôncơlo đậm đặc và góp phần tạo nên sắc thái dân gian của truyện.
Hoàn cảnh lịch sử của nước ta rất đặc biệt, người dân luôn chịu ách đô hộ thống
trị của những thế lực phong kiến, áp bức. Người dân có chịu bằng lòng với thân phận
hèn kém của mình? Truyện cổ tích" Thạch Sanh" là truyện cổ tích ca ngợi người dũng sĩ
diệt Chằn Tinh, Đại Bàng cứu người bị hại, vạch mặt kr vong ân bội nghĩa, chiến thắng
quân xâm lược, thể hiện ước mơ, niềm tin, đạo đức, công lí xã hội và lí tưởng nhân đạo,
yêu hoà bình của nhân dân ta.
3- Tóm lại:
Văn học dân gian là một bộ phận văn học quan trọng, cùng với văn học viết,
nó tạo nên một nền văn học của dân tộc. trong lịch sử phát triển của văn học dân

tộc, không phải lúc nào văn học dân gian cũng có vị trí xứng đáng cảu nó. Dưới
xã hội phong kiến văn học dân gian thường được coi là thứ văn hóa thấp kém,
không được quan tâm một cách đúng mức. Trong xã hội của chúng ta ngày nay
đặc biệt là trong hoạt động sư phạm dạy học chúng ta cần lựa chọn khai thác
những đặc trưng cơ bản cuả văn học dân gian. Trong truyện cổ tích thì đều hấp
dẫn, có ý nghĩa quan trọng với mọi người là thế giới cổ tích chứ không phải là
chỗ thế giới ấy phản ánh thực tế nào.
12
Truyện " Thạch Sanh" được xếp ở loại truyện cổ tích thần kỳ. Trong truyện
cổ tích những chi tiết lỳ lạ làm thay đổi số phận của nhân vật bất hạnh mà thông
minh kỳ tài. Truyện được chọn giảng cho học sinh khối 6 - THCS. Lứa tuổi học
sinh mới lớn, mới tiếp xúc với các môn học ở bậc học THCS nên các em rất hồn
nhiên, ngây thơ, thích khám phá những điều mới lạ trong từng môn học, từng giờ
học, từng tác phẩm văn học Như vậy không phải điều gì mà truyện đề cập đến
ta cũng đưa ra để học sinh tìm hiểu; những vấn đề được lựa chọn phải phù hợp với
học sinh về tâm lý, lứa tuổi, trình độ Đặc biệt là chú ý đến mục tiêu giáo dục và
mục tiêu bài học. Với "Thạch Sanh" chúng ta cần chú ý đến phẩm chất tài năng
đặc biệt cuả nhân vật mồ côi từ tấm bé, nhà là gốc đa cổ thụ, mình trần chỉ có
manh khố che thân, sinh nhai bằng nghề kiếm củi. Thạch Sanh còn là người thật
thà cả tin nên đã bị mẹ con Lí Thông lợi dụng đẩy chàng vào các cuộc chiến với
với các loại yêu quái cả trên cạn, dưới nước, hang sâu nhưng cuối cùng được sống
cuộc đời hạnh phúc.Truyện Thạch Sanh đề cao giá trị chân chính của con người.
Một điều không thể thiếu trong giờ học cổ tích là cả thày và trò đều sống trong
không khí cổ tích và cần tạo nên một không khí đặc thù của giờ dạy học cổ tích.
II- CÁCH THỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRUYỆN " THẠCH SANH"
1- Tạo không khí cổ tích
Một trong những đặc trưng lớn nhất của văn học dân gian trong đó có truyện cổ
tích là tính truyền miệng. Phương thức tồn tại của " Thạch Sanh" là gắn liền với đời
sông sinh hoạt quần chúng nhân dân, diễn xướng không gian gia đình, ông bà cha mẹ kể
cho con cháu nghe, nó tạo nên một không khí ấm cúng thần tiên cho đứa trẻ bước vào

thế giới cổ tích. Câu chuyện được kể có khi chỉ để ru ngủ bé nhưng thấm trong đó là
những bài học bổ ích những ước mơ thầm kín mà bay bổng. Giấc mơ chập chờn của đứa
trẻ có hoàng tử và nàng công chúa, có con người mô côi nghèo khổ mà tốt bụng, có
chàng dũng sĩ, có những con vật đáng yêu
Nói đến không khí cổ tích chúng ta còn hòa nhập trực tiếp với không khí của thế
giới bên trong câu chuyện. Nó vừa là một cái gì xa xăm, phiếm định của "ngày xửa
13
ngày xưa" của " Làng nọ " " Vương quốc nọ " lại vừa có bao nhiêu con người thân mật
gần gũi, trong kinh nghiệm của người bà, trong trí tưởng tượng của đứa cháu.Chính vì
vậy mà từ trước tới nay, tuổi hợp nhất với cổ tích là tuổi trẻ nhỏ và tuổi già, cả hai đều
có sự cách biệt với thể giới thực, với cuộc đời nhiều sự lo toan bon chen bằng mọt
không khí xa xăm nửa hư nửa thực cổ tích.
Đối với môi trường lớp học, người giáo viên muốn nâng cao chất lượng giờ dạy
học của mình cần khôi phục lại càng phong phú càng tốt không khí dân gian trong lớp
học. Giờ dạy ngữ văn cổ tích, giáo viên tự mình kể hay hướng dẫn học sinh kể không
nên cầm sách đọc mà kể lại cốt truyện chứ không phải là lời giáo viên cũng như học
sinh cần nắm chắc cốt truyện, yêu thích có cảm xúc thực sự để trong khi kể thổi được
tâm hồn mình vào đó. Do đó giáo viên có thể tự mình kể cho học sinh nghe, song cũng
cần để các em kể lại theo cách của mình, điều này giúp cho giáo viên xác định cảm xúc,
thú vị của học sinh và kích thích học sinh suy nghĩ và rung động theo chủ quan của
mình. Kể chuyện là cách tối ưu và không thể khác được là tạo lập lại không khí cổ tích
trong lớp học. Có thể còn có nhiều vấn đề khác khác nữa để tạo lập không khí cổ tích
trong lớp học.(nhưng có điều trong không gian của lớp học không cho phép) nên giáo
viên có thể khắc phục bằng cách: Trong khi kể chuyện nên đi nhẹ nhàng, thong
thả hoặc là giáo viên có thể bỏ qua phần kiểm tra bài cũ ( để thực hiện sau hay dưới
hình thức khác ) để vào bài dạy cổ tích ngay, xua đi được không khí căng thẳng khi
kiểm tra bài cũ. Lời giới thiệu vào bài của giáo viên cũng rất cần thiết quan trọng,
những câu chữ " Ngày xửa ngày xưa, có một người " cần được dẫn ra nhẹ nhàng hợp
lý. Với truyện Thạch Sanh giáo viên có thể đi từ nhân vật kì tài với những chiến công
hiển hách chiếnđấu với các loại yêu quái khơi gợi ở các em một không khí huyền thoại

nửa thực, nửa hư lung linh đầy chất tưởng tượng.
Trong dạy học Ngữ văn theo hướng tích cực hóa thì học sinh không phải trật tự
mà phải là sự chú ý, các em cần chủ động tích cức tham gia vào bài học đưa ra nhận xét
đánh giá của riêng mình. Tiến trình dạy học như vậy sẽ đạt được hiệu quả cao vừa giữ
gìn được bản chất của văn học vừa có tính chất giáo dục.
Tạo dựng lại không khí cổ tích trong giờ học Ngữ văn là khâu hết sức quan trọng,
song nó chưa phải là đích cuối cùng, cũng như kể chuyện mới chỉ diẽn ra ở phần đầu
giờ học. Không khí cổ tích là môi trường thuận lợi để đưa học sinh vào thế giới câu
14
chuyện và bằng con mắt để cảm nhận, học tập. Từ không khí ấy, giáo viên và học sinh
sẽ khai thác cái hay, cái đẹp trong nội dung nghệ thuật của tác phẩm.
2- Tiếp cận " Thạch Sanh" theo thi pháp truyện cổ tích thần kỳ
Trước hết là yếu tố thần kỳ: "Thạch Sanh" là truyện cổ tích thần kỳ, nên yếu tố
thần kỳ là đặc trưng thi pháp quan trọng nhất, nó vừa khu biệt tác phẩm với các thể loại
khác vừa khu biệt với các nhóm khác nhau trong thể loại cổ tích.
Nằm trong mạch cổ tích với triết lý chính nghĩa chiến thắng gian tà nhưng Thạch
Sanh có vẻ đẹp riêng độc đáo. Nét độc đáo ấy nằm ngay trong nhân vật chính nghĩa đem
đến những điểm mới lạ trong chủ đề truyện. Điều này có liên quan đến yếu tố thần kỳ
của truyện. ở đây yếu tố thần kỳ thấm sâu vào tổ chức kết cấu của tác phẩm từ đầu đến
cuối, nhưng lại không có nhân vật thần kỳ, riêng biệt như Bụt trong 'Tấm cám" "Cây tre
trăm đốt" hay chim thần trong" Cây khế" Yếu tố thần kỳ nằm ngay trong nhân vật
chính: Thạc Sanh là người trần có nguồn gốc thần tiên. Thạch Sanh được miêu tả kĩ về
nguồn gốc: Vốn là Thái tử, con trai Ngọc Hoàng Thượng đế đầu thai vào gia đình ông
bà Thạch Nghĩa, nhân vật có nguồn gốc thần tiên, phi thường, cụ thể. Nó thật kỳ lạ
nhưng lại là mô típ quen thuộc trong truyện dân gian ( sự ra đời của Thánh Gióng,
Thạch Sanh). Đây là điều người xưa suy nghĩ muốn cho nhân vật ra đời kỳ lạ để sau
này làm những việc kỳ lạ, trở thành những con người khác thường xuất chúng. Giáo
viên cần hướng dẫn để học sinh thấy rằng: Nhân dân đã quan tâm đến số phận, địa vị
của những người bất hạnh, đau khổ khi sáng tác truyện này. Bên cạnh đó truyện Thach
Sanh đã đặt nhân vật vào một loạt tình huống thử thách để nhân vật bộc lộ tài năng. Có

nhiều tình huống: Đó là việc Thạch Sanh chiếm Chằn Tinh, trừ hại cho dân, thu được bộ
cung tên bằng vàng; diệt Đại bàng, cứu công chúa; diệt Hồ tinh cứu Thái tử con vua
Thuỷ tề, được nhà vua tặng cây đàn thần; đuổi quân xâm lược 18 nước chư hầu bằng
tiếng đàn và niêu cơm kì diệu. Tất cả các tình huống đó đều là thử thách ghê gứm đối
vớiThạch Sanh. Đây là điều khiến người đọc theo dõi phải hồi hộp. Tài năng của chàng
Thạch Sanh đã được bộc lộ khiến người đọc bất ngờ, thú vị, sung sướng hả hê. Không
cần nhờ đến sự giúp đỡ của tiên, bụt mà bằng tài năng của chính mình, đã cưới được
công chúa, xóa được mặc cảm ngăn cách giữa người giàu và người nghèo, giữa trên và
dưới trong hôn nhân. Giáo viên hướng dẫn học sinh nhận thức được đây là điều mà
15
nhân dân ta hằng ao ước mặc dù nó được thực hịên bằng chính những yếu tố thần kỳ.
Còn rất nhiều yếu tố kỳ lạ trong truyện mà khi dạy truyện Thạch Sanh giáo viên cần
khai thác: Những chi tiết bất ngờ thú vị (tiếng đàn, niêu cơm thần kì ) để học sinh cảm
nhận được cái hay thể hiện ước mơ của nhân dân.Đây là một vấn đề rất khó đối với giáo
viên, so với phương pháp khai thác cũ thì nó có phần phức tạp hơn.Song nếu giáo viên
dẫn dắt, gợi mở học sinh một cách khéo léo thì lại là một vấn đề rất hay và phát huy
được tính tích cực chủ động học tập của học sinh.
Khi sáng tác ra yếu tố kỳ diệu như là một thi pháp lớn của cổ tích, tác giả dân
gian không hề đặt ra vấn đề hợp lý. Nếu ta cứ đòi hỏi về sự hợp lý thì chắc rằng sẽ
không có cổ tích. Cái thần kỳ nằm ở chi tiết, nhân vật song toàn bộ truyện cổ tích cũng
là một sự thần kỳ lớn. Cốt truyện bắt nguồn từ tưởng tượng, mà tưởng tượng dân gian
thì vô cùng phong phú. Những diễn biến, những bước ngoặt, những con người là thật
mà không phải là thật. Tất cả những cái đó tạo nên tâm hồn lãng mạn bay bổng của dân
gian.
Tiếp sau yếu tố thần kỳ, khi tiếp cận truyện cổ tích, chúng ta cần chú ý đến nhân
vật chức năng. Đây là khái niệm của riêng văn học cổ, khi mà trình độ tư duy hình
tượng và khả năng xây dựng hình tượng nghệ thuật của con người còn hạn chế. Vậy nên
nhân vật cổ tích mang đậm tính văn hóa hơn là thẩm mỹ. Nhân vật không có tính cách
riêng, không có sự phát triển tâm lý, chưa được cá thể hóa và tính cách của nhân vật chỉ
được bộc lộ qua hành động " Nhân vật trong truyện cổ tích là hành động của nó". Nhân

vật chức năng được xây dựng chủ yếu nhằm thuyết minh cho một tư tưởng nào đó, là
nơi để các tác giả gửi gắm quan niệm, cảm xúc về hiện thực, là sự hiện thực hóa một
triết lý trừu tượng nào đó.
Đối với truyện Thạch Sanh chúng ta cần hướng dẫn học sinh xác định được kiểu
nhân vật chức năng –Thạch Sanh. Từ đó phát huy trí thông minh tích cực chủ động của
học sinh. Học sinh tìm ra những yếu tố tạo nên vẻ đẹp tuyệt vời về tài năng và phẩm
chất đẹp đẽ bên trong. Đó cũng chính là tiếp cận tác phẩm theo thi pháp truyện cổ tích
thần kỳ. Đó là những yếu tố giúp cho nhân vật phát triển tài năng, phẩm chất của con
người đẹp đẽ hơn. Đây cũng là mô típ biến hình trong truyện dân gian Nhân vật Thạch
Sanh trở thành những kiểu mẫu hoàn hảo nhất về mọi mặt. Sự biến đổi của nhân vật Sọ
Dừa chính là quan điểm dân chủ, thái độ trân trọng, khẳng định của nhân dân đối với
16
những con người bị coi là "hèn kém" trong xã hội có giai cấp. Đó là ước mơ của nhân
dân một sự đổi đời, một sự thay đổi số phận trong xã hội cũ . Và sau đó là sự đề cao con
người theo một tinh thần nhân đạo cao cả.
Nhờ vậy ở truyện Thạch Sanh giá trị chân chính của con người không chỉ
thể hiện ở nhân vật Sọ Dừa mà còn thể hiện ở nhân vật cô út. Nhờ cô út giá trị của Sọ
dừa mới có thể phát lộ thăng hoa.
III- LỰA CHỌN GIÁ TRỊ CỦA "THẠCH SANH" ĐỂ DẠY HỌC CHO HỌC SINH
Trên đây là những lý luận chung mà người giáo viên cần nắm được để nâng cao
chất lượng dạy học cổ tích "Thạch Sanh ". Chúng tôi đã đặt ra nhiều vấn đề và trong
cách giải quyết những vấn đề ấy cố gắng tạo ra những biện pháp tích cực để nâng cao
chất lượng giờ dạy học cổ tích. Từ đó ta đưa ra những khả năng lựa chọn để dạy học
trên lớp nắm được giá trị ,cốt lõi của truyện phù hợp với đối tượng của học sinh.
Theo phân phối chương trình năm 2009- 2010 truyện cổ tích Thạch Sanh dạy
trong hai tiết với học sinh lớp 6. Dựa vào đặc điểm tâm lý, lứa tuổi học sinh và thời gian
cho phép, giáo viên cần định hướng, giúp học sinh phát huy được tính tích cực, giữ vai
trò chủ thể tiếp nhận tự mình "nhập vào" truyện chứ không chỉ thụ động tiếp nhận. Và
trong thời gian đó thày và trò cùng đi vào giá trị lớn nhất của tác phẩm đó là: Truyện ca
ngợi người anh hùng – nghệ sĩ dân gian thật thà, trung hậu, nhân ái,sức khoẻ, tài năng

vô địch, lập nhiều chiến công phi thường vì dân, vì nước. Thạch Sanh – biểu tượng
tuyệt đép của con người Việt Nam trong cuộc sống lao động và chiến đấu, trong tình
yêu và hạnh phúc gia đình.
Để đạt được mục tiêu ấy, người giáo viên có thể vận dụng nhiều phương biện
pháp khác nhau. Sau đây là một phương án thiết kế bài soạn:
IV-PHƯƠNG ÁN THIẾT KẾ BÀI SOẠN
17

Tiết 21- 22 Văn bản : THẠCH SANH
(Truyện cổ tích)
A.MỤC TIÊU CẦN ĐẠT:
1. Kiến thức Qua bài học HS hiểu được:Thạch Sanh là truyện cổ tích ca ngợi người
dũng sĩ diệt chăn Tinh, đại bàng, cứu người bị hại, vạch mặt kẻ vong ân bội nghĩa, chiến
thắng quân xâm lược, thể hiện ước mơ, niềm tin, đạo đức, công lí, xã hội và lí tưởng
nhân đạo, yêu hoà bình của nhân dân ta.
2. Kĩ năng
- Rèn luyện kĩ năng kể chuyện cổ tích một cách diễn cảm., kể tóm tắt truyện
3. Thái độ:
Giáo dục HS yêu cái thiện, niềm tin vào đạo đức, công lí
B.CHUẨN BỊ TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC
- Giáo viên: chuẩn bị kế hoạch bài học , đọc các tài liệu tham khảo có liên quan đến bài
dạy, tranh Thạch sanh , bảng phụ
- Học sinh: đọc văn bản và trả lời các câu hỏi trong SGK
C. TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
* Ổn định tổ chức
* Kiểm tra bài cũ
Kể truyện Sự tích hồ Gươm ? nêu ý nghĩa câu chuyện ?
* Tổ chức dạy học bài mới
* Giới thiệu bài mới.
Thạch Sanh là một trong những truyện cổ tích tiêu biểu của kho tàng truyện cổ

tích Việt Nam được nhân dân ta yêu thích. Đây là truyện cổ tích về người dũng sĩ diệt
chằn Tinh, diệt đại bàng cứu người bị hại, vạch mặt kẻ vong ân bội nghĩa Truyện thể
hiện ước mơ, niềm tin vào đạo đức, công lí xã hội và lí tưởng nhân đạo, yêu hòa bình
của nhân dân ta. Cuộc đời và những chiến công của Thạch Sanh cùng với sự hấp dẫn
của cốt truyện và của những chi tiết thần kì đã làm xúc động, say mê rất nhiều thế hệ
người đọc, người nghe.
Nội dung hoạt động Hoạt động của thầy và trò
18
I. Giới thiệu chung
- Thạch Sanh là truyện cổ tích tiêu biểu
trong kho tàng truyện cổ tích VNam.
- Thạch Sanh thuộc loại truyện cổ tích thần
kì.
II.Đọc, hiểu văn bản
1.Đọc:
Gợi không khí cổ tích, phân biệt giọng kể
và giọng nhân vật.
2. Chú thích :
Lưu ý chú thích :3, 6, 7, 8, 9, 11, 12, 13
3. Kết cấu, bố cục truyện.
* Mở bài : Lai lịch, nguồn gốc của nhân vật
chính Thạch Sanh.
* Thân bài : gồm các chặng
- Thạch Sanh kết nghĩa với Lý Thông.
- Thạch Sanh diện chăn Tinh bị Lý Thông
cướp công.
- Thạch Sanh diệt đại bàng cứu công chúa
lại bị cướp công.
- Thạch Sanh diệt hồ tinh, cứu Thái tử, bị vụ
oan, vào tù.

-Thạch Sanh giải oan.
- Thạch Sanh chiến thắng quân 18 nước chư
hầu
* Kết truyện :
- Thạch Sanh cưới công chúa, lên ngôi vua
4. Phân tích văn bản
a. Nhân vật Thạch Sanh - Người dũng sĩ
dân gian.
a.1 Xuất thân :
? Thế nào là truyện cổ tích ? Các loại
truyện cổ tích mà em biết.
? Truyện Thạch Sanh thuộc loại truyện
cổ tích nào
Giáo viên hướng dẫn đọc-> đọc mẫu
một đoạn  Học sinh đọc  nhận xét
cách đọc, kể của học sinh
GV lưu ý chú thích :3, 6, 7, 8, 9, 11, 12,
13
? Ngoài các chú thích trong SGK em
thấy có từ nào khó hiểu ?
? Theo em truyện được kể theo trình tự
nào ? (Trình tự thời gian, sự việc)
? Bố cục gồm mấy phần ?
( GV treo bảng phụ ghi bố cục )
HS tóm tắt các sự việc chính theo bố cục
? Nhân vật chính của truyện là ai ?
? Thuộc kiểu nhân vật gì trong truyện cổ
19
-*Bình thường:
+ Là con của 1 gia đình nông dân tốt bụng.

+ Sống nghèo khổ bằng nghề kiếm củi.
- *Khác thường :
+ Do Ngọc Hoàng sai Thái tử xuống đầu
thai làm con.
+ Thạch Sanh được thiên thần dạy cho đủ
các môn võ nghệ và mọi phép thần thông.
- *Ý nghĩa :
+ Thạch Sanh là con của người dân thường,
cuộc đời và số phận rất gần gũi với nhân
dân.
+ Tô đậm tính chất kì lạ, đẹp đẽ cho nhân
vật lí tưởng  tăng sức hấp dẫn cho câu
chuyện. Ra đời kì lạ, khác thường  lập
chiến công. Những người bình thường cũng
là những con người có phẩm chất, khả năng
kì lạ, khác thường.
a.2. Những chiến công thần diệu của
Thạch Sanh.
- Chém chăn tinh, trừ hại cho dân, thu được
bộ cung tên vàng.
- Diệt đại bàng, cứu công chúa.
- Diệt hồ tinh, cứu thái tử con vua Thủy Tề,
được nhà vua tặng cây đàn thần.
- Đuổi quân xâm lược 18 nước chư hầu
bằng tiếng đàn, niêu cơm kì diệu.
 Kẻ thù càng hung ác, xảo quyệt, thử
thách càng to lớn, chiến công càng rực rỡ vẻ
vang, chính nghĩa càng sáng tỏ.
tích ?
? Nguồn gốc xuất thân của Thạch Sanh

có gì bình thường và khác thường ?
? Ý nghĩa của việc giới thiệu đó ?
GV treo tranh
? Trong đời mình, Thạch Sanh đã lập
bao nhiêu chiến công ?
Thử thống kế các chiến công đó ?
? Có thể nhận xét như thế nào về những
chiến công của chàng ?
(Mục đích, tính chất, mức độ, nguyên
nhân thắng lợi)
(Học sinh làm việc theo nhóm.Nhìn
20
* Thạch Sanh là người dũng sĩ dân gian
bách chiến, bách thắng vì :
- Mục đích chiến đấu của chàng là luôn
sáng ngời chính nghĩa : cứu người bị hại,
cứu dân, bảo vệ đất nước.
- Có sức khỏe tài năng vô địch
- Có trong tay những vũ khí, phương tiện
chiến đấu kì diệu.
* Đức tính quí báu của Thạch Sanh:
- Sự thật thà, chất phác.
- Sự dũng cảm, tài năng.
- Lòng nhân đạo, yêu hòa bình.
 Đây cũng những phẩm chất rất tiêu biểu
cho nhân dân ta  truyện được nhân dân
yêu thích.
* Cây đàn thần : giúp nhân vật được giải
oan, giải thoát (cứu công chúa, vạch mặt Lý
Thông) của tình yêu, công lí  chi tiết

thần kì  ước mơ thực hiện công lí trong
xã hội của nhân dân.
*Tiếng đàn: làm quân xâm lược xin hàng
đại diện cho cái thiện, tình yêu chuộng
hòa bình của nhân dân  cảm hóa kẻ thù 
lòng nhân ái, ước vọng đoàn kết.
* Niêu cơm : có khả năng phi thường 
quân giặc khâm phục  tấm lòng nhân đạo,
tình yêu hòa bình của nhân dân ta.
 Thạch Sanh là người nhân hậu, độ lượng,
trong sáng vô cùng.
Luôn tin người, sẵn sàng giúp đỡ người
bị hại, không bao giờ nghĩ tới việc người
tranh ,kể lại,và nhận xét từng chiến
công của Thạch Sanh.)
Thảo luận nhóm:
? Có ý kiến cho rằng.
“Thạch Sanh là người dũng sĩ dân
gian bách chiến, bách thắng” Em có
nhận xét gì về ý kiến đó ? Nguyên
nhân nào dẫn đến chiến công của
Thạch Sanh
? Qua những thử thách, chiến công,
Thạch Sanh đã bộc lộ những đức tính gì
đáng quí ?
? Chúng ta cho rằng, cây đàn thần, niêu
cơm là 2 thứ vũ khí, phương tiện, kì diệu
nhất. Vì sao vậy ?
? Ý nghĩa của tiếng đàn kì diệu, niêu
cơm thần kì ở trong truyện ?

Thạch Sanh tài giỏi là vậy ? Nhưng tại
sao trong quan hệ với Lý Thông, Thạch
21
đền ơn.
 Với yêu quái thẳng tay trừng trị, với con
người thì độ lượng, nhân ái.
Giáo viên : trong truyện cổ tích nhân vật
chính diện, phản diện luôn tương phản, đối
lập về hành động và tính cách  đây là đặc
điểm xây dựng nhân vật của thể loại.
- Sự đối lập giữa Thạch Sanh và Lý Thông
là sự đối lập giữa thật thà và xảo trá, vị tha
và ích kỉ, thiện và ác.
b. Số phận các nhân vật khác trong
truyện.
- Công chúa kết hôn cùng Thạch Sanh .
- Thạch Sanh lên nối ngôi vua.
- Mẹ con Lý Thông tham lam, độc ác, xảo
quyệt, tàn nhẫn mặc dù được Thạch Sanh
tha tội chết nhưng đã bị lưới tầm sét của
thần lôi và cũng là của công lý nhân dân
trừng trị  hóa thành bọ hung đời đời sống
dơ bẩn  trừng trị tương xứng với thủ
đoạn, tội ác mà chúng gây ra.
 Cách kết thúc có hậu  thể hiện công lí
xã hội ‘ở hiền gặp lành, ác giả, ác báo’ ước
mơ của nhân dân về một sự đổi mới.
III. Tổng kết
1. Những nét đặc sắc tư tưởng, nghệ thuật
của truyện " Thạch Sanh ":

- Quy mô tầm vóc sâu, rộng nhất
- Đội hình nhân vật đông dảo nhất.
Sanh luôn tỏ ra ngờ nghệch, dại khờ,
trung hậu quá đỗi ?
? Tại sao chàng luôn bị lừa mà vẫn
không hề oán giận ?
? Có phải Thạch Sanh không biết căm
thù ?
Học sinh thảo luận, phát biểu
? Em có nhận xét gì về sự đối lập tính
cách, hành động cảu 2 nhân vật Thạch
Sanh và Lý Thông.
Tiểu kết : giáo viên khái quát những
phẩm chất của nhân vật Thạch Sanh.
Thạch Sanh là biểu tượng tuyệt đẹp của
con người Việt Nam trong cuộc sống lao
động và chiến đấu trong tình yêu và
hạnh phúc gia đình.
? Em hãy cho biết truyện có kết cục như
thế nào ? Em có nhận xét gì về kết cục
ấy ?
Khái quát những đặc sắc tư tưởng - nghệ
thuật của truyện " Thạch Sanh "
22
- Kết cấu, cốt truyện mạch lạc, sắp xếp tình
tiết rất khéo léo, hoàn chỉnh.
- Hai nhân vật đối lập, tương phản hầu như
xuyên suốt truyện Thạch Sanh và Lý Thông
tạo cho cốt truyện vững chắc, tâp trung.
- Các chi tiết, yếu tố thần kì có ý nghĩa tư

tưởng- thẩm mĩ.
2.Ý nghĩa truyện :
- Ngợi ca những chiến công rực rỡ và những
phẩm chất cao đẹp của người anh hùng –
dũng sĩ dân gian, đồng thời thể hiện ước mơ
đạo lí nhân dân : Thiện thắng ác, chính
nghĩa thắng gian tà, hòa bình thắng chiến
tranh, các dân tộc sống trong hòa bình và
yên ổn, làm ăn.
3.Ghi nhớ ( SGK-67 )
?Nêu ý nghĩa của truyện ?
Học sinh đọc lại ghi nhớ SGK.
*.LUYỆN TẬP
Kể diễn cảm truyện Thạch Sanh
Phát biểu cảm nghĩ của em về một chi tiết kì ảo trong truyện mà em thích nhất.
* HƯỚNG DẪN HỌC Ở NHÀ.
Kể lại truyện Thạch Sanh. Nêu ý nghĩa truyện.
Chuẩn bị bài : Chữa lỗi dùng từ

V. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Sau khi vận dụng đề tài này vào thực tế giảng dạy truyện cổ tích Thạch Sanh, tôi
đã dạy thực nghiệm đối với cả hai lớp 6 A1, 6A2. Để biết được kết quả của việc vận
dụng kinh nghiệm, tôi lại tiến hành khảo sát ở hai lớp 6A1 và 6A2, cách khảo sát được
tiến hành như ở phần điều tra thực trạng, tức là cho các em làm bài kiểm tra nhanh. Kết
quả cho thấy rất khả quan: Số học sinh hiểu bài sâu (bài kiểm tra đạt từ 8 điểm trở lên)
đạt 76 %; số học sinh hiểu bài (bài kiểm tra đạt 6,5 điểm -> 7,5 điểm) đạt 20 %; số học
23
sinh hiểu bài nhưng chưa sâu (bài kiểm tra đạt 5 điểm ->6 điểm ) đạt 4 %; không có học
sinh nào chưa hiểu bài ( điểm dưới 4 không có )
VI. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:

Qua thời gian nghiên cứu và áp dụng đề tài này vào việc giảng dạy truyện cổ tích
cho học sinh lớp 6 là một phương pháp hay, dễ áp dụng. Để có được kết quả cao trong
giảng dạy, thực nghiệm đề tài này, bản thân tôi rút ra một số kinh nghiệm như sau:
+ Với giáo viên:
- Giáo viên phải là người yêu nghề, luôn say mê tìm tòi nghiên cứu tìm ra những cách
dạy phù hợp, hiệu quả với từng thể loại văn học nói chung và truyện cổ tích nói riêng.
Nắm vững những đặc trưng cơ bản của truyện cổ tích, cũng như các phương pháp cơ
bản dạy thể loại này.
+ Với học sinh:
- Các em phải là những người thực sự say mê môn học, ham hiểu biết, ham đọc
sách. Ngoài những truyện cổ tích được học trong chương trình SGK các em cần tìm tòi
đọc thêm những truyện cổ tích khác trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam
- Chuẩn bị bài chu đáo ở nhà trước khi đến lớp theo sự hướng dẫn của giáo viên.
- Trong lớp tập trung nghe giảng, ghi chép
VII. PHẠM VI ÁP DỤNG ĐỀ TÀI:
Để áp dụng kinh nghiệm này được tốt, tôi xin mạnh dạn đề ra một vài yêu cầu.
Cụ thể: Tất cả giáo viên ngữ văn THCS, nhất là giáo viên trực tiếp giảng dạy ở khối lớp
6, đối tượng học sinh lớp 6. Vì phần truyện cổ tích được dạy trong chương trình Ngữ
văn 6.
VIII.VẤN ĐỀ TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
Việc dạy học truyện cổ tích trong chương trình Ngữ văn THCS, bước đầu đã có
những thành công đáng kể, song khi vận dụng cũng gặp không ít khó khăn:
- Chương trình Ngữ văn lớp 6, đưa vào học 4 văn bản truyện cổ tích trong đó có
ba truyện cổ tích Việt Nam và một truyện cổ tích Trung Quốc (Cây bút thần). Nhưng
24
trong ba truyện cổ tích Việt Nam được học thì Truyện Sọ Dừa chuyển thành văn bản
đọc thêm. Nên áp dụng đề tài cần có sự linh hoạt.
- Ngoài những tác phẩm được học trong chương trình học sinh cần có ý thức tự
học và đọc thêm các văn bản truyện cổ tích ngoài chương trình theo sự hướng dẫn của
giáo viên.

C- PHẦN KẾT LUẬN
Dạy văn là dạy cái hay cái đẹp cho học sinh biết yêu cái đẹp, hướng tới cái hay,
cái đẹp. Dạy cổ tích còn hơn thế có nhĩa là dạy học sinh biết ước mơ cái đẹp, biết khát
khao biến ước mơ đó thành hiện thực. Con người ta sống thì phải có ước mơ, phải có
một cái gì đấy cao đẹp đre mà hướng tới. Cho nên từ trước cho tới nay và sẽ mãi sau
này, cổ tích gắn bó như một phần thiêng liêng trong tâm hồn từ tuổi thơ cho đến người
già. Xác định được điều đó mỗi người giáo viên chúng ta cần hiểu rõ đặc trưng của thể
loại này : Đây là loại truyện cổ kể về những câu chuyện tưởng tượng xung quanh một số
kiểu nhân vật Cốt truyện của cổ tích giàu chất tưởng tượng và không ít yếu tố kì lạ
khác thường .Cổ tích bảo tồn được những vẻ đẹp nguyên sơ trong sáng của con người
.Thế giới trong truyện cổ tích có thể nói là lý tưởng và giàu vẻ đẹp nghệ thuật ,nó như
hồi ức lặng im về một thời xa xăm . Từ đó mỗi giáo viên cũng cần xác định được biện
pháp tích cực để dạy truyện cổ tích trong nhà trường : Đó là sự đối chiếu với các dị bản
trong và ngoài nước; Đến với nội dung cổ tích chúng ta cần tạo được một tâm thế từ
tình huống dân gian cho người dạy , người học ; Phân tích nhân vật theo cốt truyện tự
nhiên (dù là cổ tích nào cũng phải hình thành cốt truyện )
Phân tích các chi tiết, phát hiện chi tiết,so sánh như một thủ pháp nghệ thuật ;Tiến
hành kể chuyện thay cho đọc diễn cảm ; Sử dụng nhiều loại câu hỏi hình dung tưởng
tượng ,tái tạo và câu hỏi phân tích. Câu hỏi hiểu chi tiết cần sử dụng ở mức đơn giản ;
Câu hỏi phân tích cần ít nhưng tinh tế; Câu hỏi quan điểm cần có để người đọc thể hiện
được thái độ riêng của mình .
Trên đây chúng tôi đã trình bày một số phương pháp tích cực để nâng cao chất
lượng dạy học cổ tích “Thạch Sanh'' trong chương trình ngữ văn lớp 6 nhà trường
T.H.C.S sự hiểu biết của chúng tôi phần nào vẫn còn hạn hẹp và chưa sâu sắc. Chính vì
điều đó, tôi rất mong có sự tham gia góp ý của các thày cô giáo và các bạn bè đồng
nghiệp để mỗi chúng ta có cách nhìn nhận và tiếp cận, tiếp cận với môn học tốt hơn,
25

×