Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Giải pháp huy động vốn ở công ty cổ phần dịch vụ hàng không sân bay Nội Bài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.26 KB, 23 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế hiện nay vốn sản xuất kinh doanh là điều kiện tiên quyết
không thể thiếu được đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào. Nó vừa là yếu tố cần thiết
đầu tiên cho sự ra đời của một doanh nghiệp, đồng thời nó cũng là yếu tố không thể
thiếu để duy trì sự tồn tại của một doanh nghiệp. Mặt khác mỗi doanh nghiệp hoạt
động trong cơ chế thị trường đều hướng tới mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận do đó vốn là
nhân tố vô cùng quan trọng quyết định khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng
cao năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp.
Ở Việt Nam trong quá trình chuyển đổi từ DNNN sang CTCP đã tạo không ít
những cơ hội và đông lực phát triển cho các DN, sau khi chuyển sang CTCP, hầu hết
các chỉ tiêu về tài chính, kết quả hoạt động của DN như tổng tài sản, vốn chủ sở hữu,
doanh thu, lợi nhuận... đều tăng rất nhanh. Tuy nhiên, không ít các DN làm ăn kém
hiệu quả đã không thích ứng được và lâm vào tình trạng bế tắc. Thực tế này bắt nguồn
từ nhiều nguyên nhân, một trong số đó là DN bị động trong huy động vốn và công tác
quản lý vốn của DN còn nhiều hạn chế, hiệu quả sử dụng vốn thấp. Chính vì vậy, huy
động, sử dụng vốn SXKD một cách hiệu quả có ý nghĩa hết sức quan trọng để các DN
khẳng định được vị trí của mình trong có chế thị trường. Chính vì những lý do đó,
việc chủ động nghiên cứu nhằm đưa ra giải pháp huy động và sử dụng vốn là rất cần
thiết nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở mỗi DN.
Công ty cổ phần dịch vụ hàng không sân bay Nội Bài là một DN hạch toán độc
lập, đồng thời là thành viên của Tổng công ty Hàng không Việt Nam -là tổng công ty
nhà nước. Hơn một nửa số vốn điều lệ của công ty cổ phần dịch vụ hàng không thuộc
Tổng công ty hàng không Việt Nam. Trong thời gian thực tập tại Công ty, em đã chọn
cho mình đề tài và hoàn thành chuyên đề thực tập “Giải pháp huy động vốn ở công
ty cổ phần dịch vụ hàng không sân bay Nội Bài”
Chuyên đề gồm ba phần:
Chương I: Cơ sở lý luận chung về vốn sản xuất kinh doanh trong doanh
nghiệp.
Chương II: Thực trạng huy động và sử dụng vốn ở công ty cổ phần dịch
vụ hàng không sân bay Nội Bài


Chương III: Một số giải pháp huy động và sử dụng vốn ở Công ty cổ
phần dịch vụ hàng không sân bày Nội Bài
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS. TS Nguyễn Tiến Dũng đã tận tình
hướng dẫn giúp đỡ em trong thời gian thực tập nghiên cứu đề tài.
Em xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo Công ty cùng các cô chú anh chị công
tác tại công ty cổ phần dịch vụ hàng không đã giúp đỡ chỉ bảo trong công việc cũng
SV: Nguyễn Thuỳ Chăm - Lớp: KTPT48B
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
như nghiên cứu đề tài và hoàn thành bài viết này.
SV: Nguyễn Thuỳ Chăm - Lớp: KTPT48B
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN SẢN XUẤT KINH DOANH
TRONG DOANH NGHIỆP
I. Một số vấn đề lý luận chung về vốn trong doanh nghiệp
1.1 Khái niệm về vốn SXKD
1.1.1 Khái niệm
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về vốn, theo sự phát triển của lịch sử các
quan điểm về vốn xuất hiện ngày càng hoàn thiện. Mỗi trường phái kinh tế khác nhau
đưa ra những cách hiểu khác nhau về vốn.
Đứng trên quan điểm tài sản quốc gia thì vốn của doanh nghiệp được chia làm
hai loại là vốn sản xuất và vốn đầu tư.
Vốn sản xuất là giá trị của những tài sản được sử dụng làm phương tiện trực tiếp
phục vụ cho quá trình sản xuất và dịch vụ, bao gồm vốn cố định và vốn lưu động. Ở
giác độ vĩ mô vốn sản xuất luôn biểu hiện dưới dạng hiện vật, phản ánh năng lực sản
xuất của một nền kinh tế.
Vốn đầu tư là toàn bộ các khoản chi phí nhằm duy trì hoặc gia tăng mức vốn sản
xuất. Hoạt động đầu tư cho sản xuất là việc sử dụng vốn đầu tư để phục hồi năng lực

sản xuất cũ và tạo thêm năng lực sản xuất mới, nói một cách khác đó là quá trình thực
hiện tái sản xuất các loại tài sản sản xuất. Như vậy, vốn đầu tư trong thời kì này sẽ trở
thành vốn SXKD của doanh nghiệp trong thời kì sản xuất sau. Vốn đầu tư là điều kiện
là cơ sở hình thành nên vốn sản xuất.
Xét chung thì vốn SXKD trong doanh nghiệp được biểu hiện là giá trị của toàn
bộ tài sản do doanh nghiệp quản lý và sử dụng tại một thời điểm nhất định. Mỗi đồng
vốn phải gắn liền với một chủ sỡ hữu nhất định. Tiền tệ là hình thái vốn ban đầu của
doanh nghiệp, nhưng chưa hẳn có tiền là có vốn. Tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn.
Để tiền là vốn phải có những tiêu chuẩn như: phải đến một lượng nhất định, phải luôn
vận động sinh lời...
1.1.2 Đặc trưng của vốn XSKD
Vốn kinh doanh đại diện cho một lượng giá trị nhất định bao gồm tài sản cố định
hoặc là tài sản lưu động.
Vốn kinh doanh luôn luôn vận động để sinh lời. Trong quá trình vận động, hình
thái biểu hiện của vốn luôn thay đổi giữa hiện vật và giá trị, nhưng sau mỗi vòng tuần
hoàn vốn phải tồn tại dưới hình thái tiền và quan trọng hơn là giá trị của vốn phải lớn
lên hay ta gọi đây là hoạt động sinh lời của vốn.
SV: Nguyễn Thuỳ Chăm - Lớp: KTPT48B
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Vốn kinh doanh không tách rời chủ sở hữu trong quá trình vận động. Bất kì một
lượng vốn kinh doanh dù lớn hay nhỏ đều gắn liền với mọt chủ sở hữu nhất định. Có
như vậy trong quá trình quản lý, bảo tồn cũng như phát triển vốn mới có hiệu quả vì
nó gắn liền trách nhiệm của chủ sở hữu với quyền sử dụng vốn.
Vốn kinh doanh có giá trị về mặt thời gian. Trong quá trình huy động và sử dụng
vốn, bên cạnh yếu tố về lượng là tính tương thích về thời gian của vốn. Sau mỗi chu
kì SXKD, lượng vốn ban đầu bỏ ra không những giữ nguyên được sức mua hay giá trị
thực của nó mà còn lớn lên về mặt quy mô. Hay ta nói vốn có giá trị về mặt thời gian.
Vốn phải được tập trung tích tụ đến một lượng nhất định mới có khả năng phát
huy tác dụng. Tiền cho dù có nhiều nhưng tồn tại rải rác khắp nơi thì cũng không thể

trở thành vốn được. Chỉ khi nào lượng tiền được tích tụ đến một khối lượng nhất định
có thể thực hiện một dự án kinh doanh để sinh lời.
Vốn là một loại hàng hóa đặc biệt có thể trao đổi trên thị trường tài chính hay thị
trường chứng khoán. Tại đó, chủ sở hữu thực sự của vốn có thể bán quyền sử dụng
vốn cho những người cần vốn và họ nhận được chi phí của vốn tương ứng với phần
lãi xuất trên mỗi khoản tiền vay.
1.2. Vai trò của vốn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh có ba yếu tố quan trọng quyết định trực
tiếp tới kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là lao động, vốn và khoa học
công nghệ. Thì vốn là yếu tố đầu vào quan trọng nhất quyết định tới hiệu quả sản xuất
kinh doanh và sự tốn tại phát triển của doanh nghiệp.
 Vốn quyết định sự thành lập ban đầu của doanh nghiệp: Bất kể một doanh
nghiệp nào muốn khởi sự kinh doanh hợp pháp thì đều phải có một lượng vốn nhất
định. Lượng vốn này không chỉ là phương tiện cho doanh nghiệp tiến hành những
hoạt động đầu tiên trong quá trình chuẩn bị thành lập doanh nghiệp như nghiên cứu
thị trường, tuyển dụng nhân công, chuẩn bị mặt bằng… mà còn là điều kiện xác nhận
tư cách pháp nhân của doanh nghiệp thông qua hoạt động đăng kí kinh doanh.
 Duy trì hoạt động SXKD diễn ra bình thường và liên tục: một chu kì SXKD
của DN chia làm 3 giai đoạn: mua sắm _ sản xuất _ tiêu thụ. Ở mỗi giai đoạn nào
cũng cần có vốn để hoạt động. Sản xuất thì cần có vốn để mua nguyên vật liệu, thiết
bị máy móc kết hợp với lao động để làm ra sản phẩm. Trong quá trình tiêu thụ thì lại
cần vốn để xúc tiến các hoạt động như quảng cáo, khuyến mại, vận chuyển, chăm sóc
khách hàng… nếu một giai đoạn bị ngừng trệ không xúc tiến kịp thời thì hoạt động
SXKD của DN sẽ bị gián đoạn làm ảnh hưởng tới hiệu quả SXKD của DN.
 Quyết định trực tiếp tới sự tồn tại của DN: Nền kinh tế thị trường luôn biến
SV: Nguyễn Thuỳ Chăm - Lớp: KTPT48B
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đổi nhanh chóng và sự cạnh tranh giữa các ngành, các doanh nghiệp ngày càng trở
nên gay gắt. Vì vậy một DN muốn đứng vững và có chỗ đứng trên thị trường đòi hỏi

DN phải luôn đổi mới theo sự thay đổi mạnh mẽ của KHCN. Ứng dụng CN hiện đại
tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa mẫu mã, đặc biệt là nâng cao
năng xuất lao động, giảm thiểu chi phí. Muốn vậy thì doanh nghiệp cần phải có vốn.
Vốn là yếu tố quyết định trực tiếp đến hoạt động đổi mới của DN.
1.3. Phân loại vốn
Mỗi loại vốn có các đặc trưng đặc điểm khác nhau, vì vậy muốn quản lý tốt các
nguồn vốn ta phải phân loại các nguồn vốn. Có nhiều tiêu thức để phân loại vốn SXKD
1.3.1 Phân loạiTheo phương thức luân chuyển
Theo phương thức phân loại này có 2 loại vốn: Vốn cố định và vốn lưu động
 Vốn cố định:
Vốn cố định của DN là bộ phận vốn được sử dụng để hình thành tài sản cố định
và các khoản đầu tư tài chính dài hạn của doanh nghiệp. Nó chính là biểu hiện bằng
tiền của toàn bộ tài sản cố định và các khoản đầu tư dài hạn của doanh nghiệp.
Đặc điểm của VCĐ trong sản xuất kinh doanh:
VCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ SXKD, điều này do đặc điểm của TSCĐ được
sử dụng lâu dài, trong nhiều chu kỳ SXKD quyết định.
VCĐ luân chuyển từng phần vào giá trị sản phẩm trong các chu kỳ SXKD. Khi
tham gia vào quá trình sản xuất, một bộ phận VCĐ được luân chuyển và cấu thành
chi phí sản xuất sản phẩm (dưới hình thức khấu hao) tương ứng với phần giá trị hao
mòn của TSCĐ.
Sau nhiều chu kỳ sản xuất, VCĐ mới hoàn thành một vòng luân chuyển. Sau
mỗi chu kỳ sản xuất, phần vốn được luân chuyển vào giá trị dần dần tăng lên song
phần vốn đầu tư ban đầu vào TSCĐ lại giảm xuống cho đến khi hết thời gian sử dụng,
giá trị của nó được chuyển dịch hết vào giá trị sản phẩm thì VCĐ mới hoàn thành một
vòng luân chuyển.
VCĐ được chia thành hai loại là VCĐ hữu hình và VCĐ vô hình:
 VCĐ hữu hình: là biểu hiện bằng tiền của những TSCĐ có hình thái vật chất
cụ thể, có đủ những tiêu chuẩn về thời gian luân chuyển và giá trị, bao gồm: nhà
xưởng, máy móc, thiết bị, phương tiện truyền tải, phương tiện truyền dẫn…
 VCĐ vô hình: là biểu hiện bằng tiền của những TSCĐ không có hình thái vật

chất, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư, chi trả, cho phí nhằm có được những
lợi ích hoặc các nguồn có tính chất kinh tế mà giá trị của nó xuất phát từ những những
đặc quyền của doanh nghiệp như quyền sử dụng đất, bản quyền, phát minh sáng chế,
SV: Nguyễn Thuỳ Chăm - Lớp: KTPT48B
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhãn hiệu hàng hóa, phần mềm máy vi tính, giấy phép, giấy nhượng quyền…
 Vốn lưu động
Để hiểu vốn lưu động ta xem xét các cách phân loại vốn lưu động sau:
 Phân loại theo hình thái biểu hiện: Theo tiêu thức này, vốn lưu động được
chia thành: vốn bằng tiền và vốn trong thanh toán, vốn vật tư hàng hóa, vốn về chi phí
trả trước.
• Vốn bằng tiền và vốn trong thanh toán
Vốn bằng tiền: Gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển, kể
cả kim loại quý (Vàng, bạc, đá quý…)
Vốn trong thanh toán: Các khoản nợ phải thu của khách hàng, các khoản tạm
ứng, các khoản phải thu khác…
• Vốn vật tư hàng hóa (hay còn gọi là hàng tồn kho) bao gồm: nguyên, nhiên vật
liệu, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ lao động, sản phẩm dở dang và thành phẩm.
• Vốn về chi phí trả trước: Là những khoản chi phí lớn hơn thực tế đã phát sinh
có liên quan đến nhiều chu kỳ kinh doanh nên được phân bổ vào giá thành sản phẩm
của nhiều chu kỳ kinh doanh như: chi phí sửa chữa lớn TSCĐ, chi phí thuê tài sản, chi
phí nghiên cứu thí nghiệm, cải tiến kỹ thuật, chi phí xây dựng, lắp đặt các công trình
tạm thời, chi phí về ván khuôn, giàn giáo, phải lắp dùng trong xây dựng cơ bản…
 Phân loại vốn theo vai trò của vốn lưu động đối với quá trình sản xuất kinh
doanh. Theo cách phân loại này vốn lưu động được chia thành 3 loại: Vốn lưu động
trong khâu dự trữ; Vốn lưu động trong khâu sản xuất và vốn lưu động trong khâu lưu
thông.
• Vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất: Bao gồm giá trị các khoản nguyên,
vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu động lực, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ

lao động nhỏ.
• Vốn lưu động trong khâu sản xuất: Bao gồm giá trị sản phẩm dở dang và vốn
về chi phí trả trước.
• Vốn lưu động trong khâu lưu thông: Bao gồm giá trị thành phẩm, vốn bằng
tiền, các khoản đầu tư ngắn hạn (đầu tư chứng khoán ngắn hạn, cho vay ngắn hạn…)
các khoản vốn trong thanh toán (các khoản phải thu, tạm ứng…)
Như vậy, vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản lưu động của
doanh nghiệp. Nó là một bộ phận của vốn kinh doanh được ứng ra để hình thành nên
TSLĐ của doanh nghiệp nhằm đảm bảo cho quá trình SXKD được tiến hành thường
xuyên, liên tục. VLĐ được biểu hiện chủ yếu là vốn bằng tiền, đầu tư ngắn hạn, phải
thu của khách hàng, vật tư hàng hóa và tài sản lưu động khác. Do đặc điểm của TSLĐ
SV: Nguyễn Thuỳ Chăm - Lớp: KTPT48B
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
chi phối.
VLĐ của doanh nghiệp có những đặc điểm sau:
VLĐ tham gia vào một chu kỳ SXKD, luôn luôn thay đổi hình thái biểu hiện, từ
hình thái vốn bằng tiền chuyển sang hình thái vốn sản xuất như vật tư, hàng hóa và
kết thúc quá trình tiêu thụ sản phẩm, VLĐ lại trở về hình thái ban đầu là vốn tiền tệ.
Sự vận động của VLĐ từ hình thái ban đầu qua các hình thái khác đến khi trở về hình
thái ban đầu gọi là sự tuần hoàn của VLĐ. Do quá trình SXKD của doanh nghiệp diễn
ra thường xuyên, liên tục nên sự tuần hoàn của VLĐ cũng lặp đi lặp lại có tính chu
kỳ.
Trong quá trình SXKD, VLĐ chuyển dịch một lần vào giá trị sản phẩm mới.
VLĐ hoàn thành một vòng tuần hoàn khi doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm và thu
được tiền bán hàng.
1.3.2 Phân loại theo nguồn huy động
Trong doanh nghiệp, vốn đều bao gồm hai bộ phận: Vốn chủ sở hữu và Nợ. Mỗi
bộ phận này được cấu thành bởi nhiều khoản mục khác nhau tùy theo tính chất của
chúng. Tuy nhiên, việc lựa chọn nguồn vốn trong các doanh nghiệp khác nhau sẽ

không giống nhau, nó phụ thuộc vào các nhân tố như: Trạng thái của nền kinh tế,
ngành kinh doanh hay lĩnh vực hoạt động của DN, quy mô và cơ cấu tổ chức của
doanh nghiệp, trình độ khoa học – kỹ thuật và trình độ quản lý; chiến lược phát triển
và chiến lược đầu tư của doanh nghiệp, thái độ của chủ doanh nghiệp, chính sách
thuế…
Nhưng có đặc điểm chung đối với mọi loại hình doanh nghiệp là vốn chủ sở hữu
bao gồm các bộ phận chủ yếu: Vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia, tăng vốn bằng
phát hành cổ phiếu mới.
 Nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp
Nguồn vốn chủ sở hữu là số vốn của các chủ sở hữu mà doanh nghiệp không
phải cam kết thanh toán. Nguồn vốn chủ sở hữu do chủ doanh nghiệp và các nhà đầu
tư góp vốn hoặc hình thành từ kết quả kinh doanh.
Một doanh nghiệp có thể có một hoặc nhiều chủ sở hữu vốn. Đối với Công ty cổ
phần thì chủ sở hữu vốn là các cổ đông.
Vốn chủ sở hữu bao gồm: Vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia và phát hành
cổ phiếu.
 Vốn góp ban đầu
Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ DN cũng phải có một số vốn ban
đầu nhất định do các cổ đông – chủ sở hữu góp. Tùy theo hình thức sở hữu của DN
SV: Nguyễn Thuỳ Chăm - Lớp: KTPT48B
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
mà hình thức hình thành và tính chất của vốn đóng góp ban đầu là khác nhau.
Với Công ty cổ phần, vốn do các cổ đông đóng góp là yếu tố quyết định để hình
thành công ty. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của Công ty và chỉ chịu trách nhiệm hữu
hạn trên giá trị số cổ phần mà họ nắm giữ. Tuy nhiên, các CTCP cũng có một số dạng
tương đối khác nhau, do đó cách thức huy động vốn cổ phần cũng khác nhau.
 Lợi nhuận để lại
Quy mô số vốn ban đầu của chủ doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng, và số
vốn này cần được tăng theo quy mô phát triển của DN. Trong quá trình hoạt động

SXKD, nếu DN hoạt động có hiệu quả thì DN sẽ có những điều kiện thuận lợi để tăng
trưởng nguốn vốn. Nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi nhuận
được sử dụng tái đầu tư, mở rộng SXKD của DN.
Nguồn vốn nội bộ là một phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá
hấp dẫn của các DN, vì doanh nghiệp giảm được chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào
bên ngoài. Rất nhiều DN coi trọng chính sách tái đầu tư từ lợi nhuận để lại, họ đặt ra
mục tiêu phải có một khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm tự đáp ứng nhu cầu
vốn ngày càng tăng.
Nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện được nếu như
doanh nghiệp đã và đang hoạt động và có lợi nhuận, được phép tiếp tục đầu tư.
Đối với các CTCP thì việc để lại lợi nhuận liên quan đến một số yếu tố rất nhạy
cảm. Khi Công ty để lại một phần lợi nhuận trong năm cho tái đầu tư, tức là không
dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần, các cổ đông không nhận được cổ tức nhưng
bù lại họ có quyền sở hữu số vốn cổ phần tăng lên của Công ty.
 Phát hành cổ phiếu
Công ty huy động vốn khi thành lập hoặc để mở rộng kinh doanh công ty có thể
phát hành cổ phiếu. Nguồn huy động bằng phát hành cổ phiếu không cấu thành một
khoản nợ. Công ty không phải có trách nhiệm hoàn trả cũng như áp lực về khả năng
cân đối thanh toán của Công ty cũng sẽ giảm đi rất nhiều. Khi một Công ty gọi là vốn,
số vốn đó được chia thành nhiều phần nhỏ bằng nhau gọi là cổ phần. Người mua cổ
phần gọi là cổ đông, cổ đông được cấp một giấy chứng nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ
phiếu và chỉ có Công ty cổ phần mới phát hành cổ phiếu. Phát hành cổ phiếu là hình
thức làm tăng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp thông qua mối quan hệ với thị trường
chứng khoán đồng thời làm tăng số lượng chủ sở hữu của Công ty.
Có hai loại cổ phiếu phổ biến là: cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu tiên.
Cổ phiếu thường: các cổ đông sở hữu cổ phiếu thường có quyền hạn trách nhiệm
đối với công ty như: được chia cổ tức theo kết quả kinh doanh, được quyền bầu cử
SV: Nguyễn Thuỳ Chăm - Lớp: KTPT48B
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

ứng cử vào bộ máy quản trị và kiểm soát công ty, và chịu trách nhiệm về sự thua lỗ
hay phá sản của công ty tương ứng với số vốn mình góp.
Cổ phiếu ưu tiên: là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu trong một Công ty, đồng
thời cho phép người nắm giữ loại cổ phiếu này được hưởng một số quyền lợi ưu tiên
hơn so với cổ đông phổ thông. Thông thường cổ phiếu này chỉ chiếm một khối lượng
nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành. Cổ phiếu ưu đãi thường ấn định mức cổ
tức cố định và người nắm giữ cổ phiếu ưu tiên có quyền được nhận tiền lãi trước các
cổ đông thường. Nếu số lãi chỉ đủ để trả cho cổ đông ưu tiên thì các cổ đông thường
sẽ không được nhận cổ tức.
 Nợ và các phương thức huy động nợ của doanh nghiệp
Trong hoạt động SXKD việc tái đầu tư SX, mở rộng quy mô diễn ra liên tục,
nhưng một doanh nghiệp dù lớn đến đâu cũng không thể tự đảm bảo được nguồn lực
cho quá trình mở rộng đó bằng chính nguồn vốn chủ sở hữu của mình. Vì vậy, doanh
nghiệp sẽ đi vay, đi chiếm dụng của các đơn vị, tổ chức khác và DN có nghĩa vụ
thanh toán theo đúng thỏa thuận.
Nguồn vốn tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại: nguồn vốn vay ngân
hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển
của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền Kinh tế quốc dân
Phát hành trái phiếu Công ty: Trái phiếu là một tên chung của các giấy tờ vay nợ
dài hạn và trung hạn. Khi phát hành trái phiếu đồng nghĩa với việc doanh nghiệp sẽ có
thêm môt khoản nợ và có trách nhiệm thanh toán khi đến hạn.
II. Một số vấn đề về huy động vốn sản xuất kinh doanh
2.1Khái niệm về huy động vốn
Huy động vốn là một nội dung quan trọng trong hoạt động tài chính của DN
nhằm thu hút nguồn lực tài chính từ bên trong và bên ngoài DN thông qua một số
kênh huy động như thị trường vốn, thị trường tài chính, trung gian tài chính và một số
biện pháp khác, nhằm đáp ứng nhu cầu SXKD của mình. Hiệu quả huy động là khái
niệm dùng để đánh giá chất lượng Công tác huy động vốn xét về mặt thời gian, chi
phí cũng như giá trị của vốn huy động. Tính hiệu quả trong huy động vốn được xác
định bằng mức độ đáp ứng mục tiêu của việc huy động vốn có thể đạt được bao

nhiêu phần trăm mục tiêu đặt ra, cũng như so sánh chi phí của nguồn vốn đó mang
lại.
Trong quá trình huy động vốn các DN phải luôn xét tới tính hiệu quả của nó, bởi
hiệu quả huy động vốn liên quan trực tiếp tới hiệu quả sử dụng vốn và qua đó quyết
định đến kết quả sản xuất kinh doanh, doanh thu, lợi nhuận và khả năng thanh toán
SV: Nguyễn Thuỳ Chăm - Lớp: KTPT48B
9

×