Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Phân tích năng lực cạnh tranh của dược phẩm Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.73 KB, 69 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
MỞ ĐẦU
Dược phẩm là một loại hàng hóa có tính chất đặc biệt không chỉ ảnh hưởng đến
sức khỏe và tính mạng của con người, không chỉ được sử dụng phục vụ cho người
tiêu dùng là dân cư mà còn là hàng hóa thiết yếu đối với bất kỳ quốc gia nào. Phạm vi
và nhu cầu sử dụng thuốc là vô cùng lớn.
Việt Nam là nước có dân số khá đông 86 triệu người, khí hậu nóng ẩm dẫn đến
nhiều dịch bệnh. Một thị trường rộng lớn và nhiều tiềm năng nhưng ngành dược
nước ta vẫn chưa khai thác được. Phần lớn dược phẩm phải nhập khẩu, Việt Nam
mới chỉ sản xuất được các loại thuốc thông thường. Vậy công nghiệp dược Việt Nam
đang đứng ở vị trí nào?
Theo cách đánh giá của WHO (World Health Organization) công nghiệp dược
các nước được chia ra thành 4 cấp độ: cấp độ 1 (hoàn toàn nhập khẩu), cấp độ 2 (sản
xuất được một số generic, đa số phải nhập khẩu), cấp độ 3 (có công nghiệp dược nội
địa sản xuất generic, xuất khẩu được một số dược phẩm), cấp độ 4 (sản xuất được
nguyên liệu và phát minh ra thuốc mới). Công nghiệp dược Việt Nam đứng ở vị trí
2,5 – 3 theo thang phân loại 1- 4 của WHO (báo cáo của TS.Cao Minh Quang cục
trưởng cục quản lý dược Việt Nam trong hội nghị ngành dược). Dược nội địa mới
đáp ứng được hơn 50℅ nhu cầu trong nước mà chủ yếu là các loại thuốc thông
thường thiếu các loại thuốc đặc trị có giá trị cao. Phân khúc thuốc chuyên khoa chủ
yếu do dược nước ngoài chiếm giữ.
Khi Việt Nam gia nhập tổ chức WTO, thuế và các hàng rào bảo hộ khác giảm
xuống dẫn đến sự tràn ngập của dược nước ngoài không chỉ chiếm giữ phân khúc
thuốc đặc trị mà còn “lấn sân” sang phân khúc thuốc thông thường đã đẩy dược nội
địa gặp rất nhiều khó khăn. Trong thời kỳ hội nhập, mọi doanh nghiệp phải cạnh
tranh một cách công bằng, với một quốc gia đang phát triển và không có công nghệ
nguồn như Việt Nam thì việc ngành dược xác định được bước đi đúng và trọng điểm
đầu tư là yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của ngành.
Để dược phẩm Việt Nam có thể tồn tại và phát triển chúng ta cần phải trả lời
một loạt các câu hỏi sau. Đó là:
- Dược phẩm Việt Nam đang đứng ở vị trí nào: được đánh giá thông qua


các tiêu chí như doanh thu, thị phần, giá cả, chất lượng, mẫu mã, và
thương hiệu của sản phẩm?
- Các yếu tố nào tác động đến sự tồn tại và phát triển của ngành dược?
Đoàn Thị Thùy Dương Kế hoạch 48A
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Làm thế nào để dược phẩm Việt Nam phát huy được các lợi thế sẵn có,
tận dụng được cơ hội để khắc phục khó khăn đang gặp phải?
Mục đích của đề tài nghiên cứu “ Nâng cao năng lực cạnh tranh của dược
phẩm Việt Nam” là sử dụng phương pháp mô tả và phương pháp kế thừa để phân
tích thực trạng hiện nay của dược phẩm Việt Nam từ đó cung cấp thêm thông tin về
năng lực cạnh tranh của lĩnh vực dược phẩm cho công tác xây dựng chiến lược và đề
xuất các hướng ưu tiên phát triển đối với ngành dược trong tổng thể các ngành kinh
tế quốc dân; đề xuất các giải pháp tăng cường năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực
dược phẩm, góp phần tạo thêm việc làm và thu nhập cho người dân.
Do dược phẩm rất rộng nên trong đề tài này em chỉ xin đi sâu nghiên cứu về
năng lực cạnh tranh của thuốc tân dược Việt Nam.
Đề tài được cấu trúc như sau. Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo
đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về nâng cao năng lực cạnh tranh của dược phẩm
Việt Nam.
Chương II: Phân tích năng lực cạnh tranh của dược phẩm Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của dược phẩm
Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của PGS.TS Nguyễn Tiến
Dũng và các anh chị trong Ban Thông Tin và Hợp tác quốc tế, Viện Chiến lược phát
triển, Bộ Kế hoạch & Đầu tư đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Do
thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên đề tài nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu
sót. Em rất mong PGS.TS Nguyễn Tiến Dũng và các anh chị trong Ban đóng góp ý
kiến để em tiếp tục hoàn thành đề tài nghiên cứu này.

Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Đoàn Thị Thùy Dương
Đoàn Thị Thùy Dương Kế hoạch 48A
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA DƯỢC PHẨM VIỆT NAM
I. Dược phẩm và phân loại dược phẩm
1. Quan niệm về dược phẩm và phân loại
1.1. Khái niệm về dược phẩm:
Một trong các đối tượng nghiên cứu của báo cáo này là dược phẩm, vì thế cần
làm rõ khái niệm về dược phẩm. Dược phẩm có thể hiểu theo hai nghĩa, thứ nhất là
công dụng chữa bệnh và thứ hai là sản phẩm của quá trình sản xuất, được lưu thông,
phân phối và buôn bán trên thị trường.
* Thứ nhất, đứng từ góc độ công dụng mà nhìn nhận, dược phẩm là một khái
niệm khá phức tạp. Theo Bộ y tế, dược phẩm là thuốc và các hoạt động liên quan đến
thuốc.
Thuốc là chất hoặc hỗn hợp các chất dùng cho người nhằm mục đích phòng
bệnh, chữa bệnh, chẩn đoán bệnh hoặc điều chỉnh chức năng sinh lý cơ thể bao gồm
thuốc thành phẩm, nguyên liệu làm thuốc, vắc xin, sinh phẩm y tế, trừ thực phẩm
chức năng.
Vắc xin là chế phẩm chứa kháng nguyên tạo cho cơ thể khả năng đáp ứng miễn
dịch, được dùng với mục đích phòng bệnh.
Sinh phẩm y tế là sản phẩm có nguồn gốc sinh học được dùng để phòng bệnh,
chữa bệnh và chẩn đoán bệnh cho người.
Nguyên liệu làm thuốc là chất tham gia vào thành phần cấu tạo sản phẩm trong
quá trình sản xuất thuốc.
Thuốc thành phẩm là dạng thuốc đã qua tất cả các giai đoạn sản xuất, kể cả
đóng gói trong bao bì cuối cùng và dán nhãn.

Những hoạt động liên quan đến thuốc gồm các hoạt động từ khâu sơ chế, sản
xuất đến bao gói để có được thành phẩm bán trên thị trường.
* Thứ hai, “dược phẩm” là một loại hàng hóa
Dược phẩm cũng như tất cả các loại hàng hóa khác được sản xuất và kinh doanh
trên thị trường, chịu tác động của các quy luật thị trường như quy luật giá trị, quy luật
cung cầu, quy luật cạnh tranh…. Song dược phẩm là một loại hàng hóa đặc biệt có
những đặc điểm riêng khác với các loại hàng hóa thông thường khác.
Đặc điểm 1: Dược phẩm là loại sản phẩm có liên quan trực tiếp đến sức khỏe và
tính mạng của con người. Đây là sự khác biệt cơ bản nhất của dược phẩm so với các
Đoàn Thị Thùy Dương Kế hoạch 48A
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
loại hàng hóa khác. Vì vậy dược phẩm được xếp vào loại hàng hóa có điều kiện. Điều
này được hiểu là để sản xuất và kinh doanh dược phẩm thì trước khi đi vào hoạt
động, các tổ chức cá nhân kinh doanh phải đảm bảo đủ các điều kiện như con người
phải có trình độ chuyên môn về dược, doanh nghiệp phải đủ điều kiện về trang thiết
bị y tế, phải được các cơ quan thẩm quyền về y tế cấp giấy chứng nhận…. Trong quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh dược phẩm thì các tổ chức cá nhân phải chịu sự
quản lý, giám sát chặt chẽ của Nhà nước mà cụ thể là Bộ y tế (Cục quản lý dược Việt
Nam). Xuất phát từ đặc điểm này, các tổ chức cá nhân khi tiến hành sản xuất kinh
doanh dược phải luôn đặt mục tiêu chất lượng lên hàng đầu.
Đặc điểm 2: Giữa thuốc và bệnh nhân có môi giới trung gian là thầy thuốc. Cả
thầy thuốc và người bệnh đều bị thụ động, phụ thuộc vào người khác. Cứu sống
người là thiên chức xã hội giao cho người thầy thuốc, chữa trị cho những người nào
không tùy thuộc vào ý muốn bản thân thầy thuốc. Còn người tiêu dùng (bệnh nhân)
dùng thuốc không phải tự mình lựa chọn mà do thầy thuốc quyết định. Do đó khi
bệnh nhân dùng thuốc phải được sự chỉ dẫn về loại thuốc, liều lượng, cách dùng và
tác dụng có thể xảy ra trong quá trình dùng thuốc.
Đặc điểm 3: Phạm vi và nhu cầu sử dụng thuốc là rất lớn. Nhu cầu sử dụng
dược phẩm phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác nhau như: dân số, điều kiện tự nhiên,

mức gia tăng thu nhập của người dân…. Tùy theo điều kiện kinh tế mà mỗi người có
nhu cầu thuốc khác nhau. Thông thường, những người có thu nhập cao thích lựa chọn
các loại thuốc ngoại (giá thành cao) trong khi đó những người có thu nhập thấp thì
lựa chọn các sản phẩm có giá thấp hơn (thuốc nội).
→ Đứng từ góc độ thị trường mà xem xét, những đặc điểm nêu trên của dược
phẩm có thể dẫn tới a) Độc quyền trong sản xuất và kinh doanh dược phẩm; b) Bí
mật công nghiệp trong chế biến và sản xuất; c) Năng lực cạnh tranh của dược phẩm
không chỉ phụ thuộc vào chất lượng, giá cả, mà còn phụ thuộc vào trình độ chuyên
môn của đội ngũ thày thuốc của từng quốc gia.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh, cần giảm độc quyền, công khai về công
nghệ, đồng thời nâng cao năng lực và nhận thức của đội ngũ thày thuốc.
1.2. Phân loại dược phẩm (đứng từ góc độ sản xuất)
Do thị trường dược phẩm hiện nay quá rộng lớn (có thể xem như rừng thuốc) ta
không thể nào nhớ hết từng món thuốc. Do đó việc phân loại dược phẩm là rất quan
trọng. Phân loại dược phẩm giúp người tiêu dùng đặc biệt là các bác sĩ, y tá… biết
được một thuốc nằm trong nhóm thuốc nào, biết tính chất chung của nhóm thuốc đó,
Đoàn Thị Thùy Dương Kế hoạch 48A
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
từ đó có thể suy ra tính chất của một thuốc cụ thể để lựa chọn trong sử dụng. Dưới
đây là 3 cách phân loại dược phẩm Việt Nam cơ bản nhất.
Theo cách thức sử dụng, dược phẩm chia thành hai loại: thuốc OTC (hàng
không kê toa, chủ yếu bán ở các nhà thuốc bán lẻ) và thuốc điều trị (thuốc có kê toa,
sử dụng trong bệnh viện và các trung tâm y tế).
Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay, thống kê thuốc kê toa và thuốc không kê toa
chỉ mang ý nghĩa tương đối do các loại thuốc điều trị vẫn được bán tự do trên thị
trường. Do đó với cách phân loại này có thể tạm thống kê theo thuốc phân phối vào
hệ thống bệnh viện và thuốc phân phối ra thị trường. Theo thống kê của Cục quản lý
dược Việt Nam, năm 2008, giá trị tiền thuốc sử dụng trong bệnh viện là 12.322 tỷ
VND (tương đương 760 triệu USD), chiếm khoảng 50% giá trị tiền thuốc toàn thị

trường.
Theo bản quyền chế tác thuốc, dược phẩm được chia thành: thuốc generic (hết
bản quyền sở hữu thuốc gốc) và hàng patent (có bản quyền).
Hiện nay, ngành dược trong nước đang chủ yếu sản xuất thuốc generic có giá trị
không cao và chiếm tới 69% tổng thị trường thuốc với các chủng loại liên quan nhiều
đến thuốc kháng sinh, thuốc thông thường (vitamin, giảm đau, hạ sốt).
Theo tây y hay y học cổ truyền, dược phẩm được chia thành: thuốc tân dược
(gồm các loại thuốc được sản xuất từ các chất hóa học tổng hợp và thuốc có sự kết
hợp dược liệu với các hoạt chất hóa học tổng hợp) và thuốc đông y (gồm các loại
thuốc được sản xuất từ nguyên liệu có nguồn gốc tự nhiên từ động vật, thực vật hoặc
khoáng chất, được bào chế theo lý luận và phương pháp y học cổ truyền của các nước
phương Đông)
Do sản phẩm dược phẩm là khá rộng nên đề tài nghiên cứu này chỉ tập trung
vào nghiên cứu khái quát về năng lực cạnh tranh của thuốc tân dược Việt Nam, hay
nói một cách khác là tân dược được sản xuất trong nước.
Tân dược là gì đứng từ góc độ là sản phẩm của sản xuất ? Khác với thuốc đông
y, tân dược thường được sản xuất trong các nhà máy, đòi hỏi độ chính xác cao, trình
độ công nghệ cao. Phần lớn các dây truyền sản xuất tân dược được tự động hóa...
Như vậy, trình độ sản xuất cũng là một yếu tố quan trọng đối với năng lực cạnh
tranh của tân dược.
Đoàn Thị Thùy Dương Kế hoạch 48A
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
2. Quan niệm về cạnh tranh và các cấp độ của cạnh tranh
2.1. Quan niệm về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
Cạnh tranh: Theo ngôn ngữ dân gian, cạnh tranh là sự ganh đua giữa các nhà
doanh nghiệp trong việc giành giật và giữ chân khách hàng nhằm nâng cao vị thế của
mình trên thị trường, để đạt được một mục tiêu kinh doanh cụ thể như lợi nhuận,
doanh số hoặc thị phần.
Cạnh tranh được các nhà kinh tế học chia thành cạnh tranh hoàn hảo và cạnh

tranh không hoàn hảo, cạnh tranh dọc và cạnh tranh ngang. Cạnh tranh được nẩy sinh
từ các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể của nền kinh tế thị trường cùng theo đuổi mục
đích tối đa hóa lợi nhuận. Cạnh tranh là động lực phát triển của nền kinh tế, thúc đẩy
thị trường phát triển, từ đó thúc đẩy xã hội phát triển. Theo thời gian, tính chất cạnh
tranh trong nền kinh tế sẽ ngày càng quyết liệt hơn.
Năng lực cạnh tranh: Năng lực cạnh tranh được nhắc đến rất nhiều trên báo chí
cũng như các phương tiện thông tin đại chúng khác. Song, năng lực cạnh tranh vẫn là
một khái niệm lỏng lẻo, có nhiều cách hiểu thậm chí rất khác nhau. Theo học giả kinh
tế Michael Porter, là một người nổi tiếng trong lĩnh vực kinh tế ông cũng không đưa
ra định nghĩa về năng lực cạnh tranh. Ông cho rằng: không có một định nghĩa thật sự
về năng lực cạnh tranh và không có lý thuyết nào giải thích nó được chấp nhận một
cách phổ biến .
Theo tạp chí kinh tế và phát triển, số 84 tháng 6 năm 2004, Ths. Phạm Đình
Huỳnh có đưa ra khái niệm như sau: “ Năng lực cạnh tranh là khả năng đạt được và
duy trì thị phần có lãi ”.
Còn theo OECD thì năng lực cạnh tranh là sức sản xuất ra thu nhập tương đối
cao trên cơ sở sử dụng các yếu tố sản xuất có hiệu quả làm cho doanh nghiệp, các
ngành, các địa phương, các quốc gia và khu vực phát triển bền vững trong điều kiện
cạnh tranh quốc tế.
Từ những khái niệm chung về năng lực cạnh tranh của hàng hóa nêu trên, cho
thấy năng lượng cạnh tranh phụ thuộc vào điều kiện, bối cảnh phát triển của đất nước
trong từng thời kỳ, có thể đánh giá bằng các chỉ tiêu kinh tế xã hội cụ thể như:
- Thị phần của sản phẩm trên thị trường so với sản phẩm cùng loại;
- Động thái thay đổi thị phần theo thời gian.
Năng lực cạnh tranh có thể chia làm ba loại, năng lực cạnh tranh quốc gia, năng
lược cạnh tranh doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh sản phẩm. Trên thực tế, năng
năng cạnh tranh của sản phẩm là chung nhất, là thước đo đánh giá năng lực cạnh
Đoàn Thị Thùy Dương Kế hoạch 48A
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

tranh của doanh nghiệp, còn năng lực cạnh tranh của quốc gia là do đóng góp từ năng
lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Nhận định này, sẽ được làm rõ thêm trong mục
các cấp độ cạnh tranh sau đây.
2.2. Các cấp độ của cạnh tranh
Một nền kinh tế muốn có năng lực cạnh tranh cao phải có nhiều doanh nghiệp
có năng lực cạnh tranh cao, với nhiều sản phẩm và dịch vụ có lợi thế cạnh tranh trên
thị trường.
2.2.1. Năng lực cạnh tranh cấp quốc gia
Năng lực cạnh tranh quốc gia là yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của
tất cả các sản phẩm trên thị trường nội địa và xuất khẩu. Có rất nhiều cách hiểu về
năng lực cạnh tranh cấp quốc gia
Theo Asia Development Outlook 2003 là khả năng cạnh tranh của một nước để
sản xuất các hàng hóa và dịch vụ đáp ứng được thử thách của thị trường quốc tế.
Đồng thời, duy trì và mở rộng được thu nhập thực tế của công dân nước đó. Mặt
khác, năng lực cạnh tranh quốc gia phản ánh khả năng của một nước để tạo ra việc
sản xuất sản phẩm, phân phối sản phẩm và dịch vụ trong thương mại quốc tế, trong
khi kiếm được thu nhập tăng lên từ nguồn lực của nó.
Theo diễn đàn kinh tế thế giới 1997 (WEF), thì năng lực cạnh tranh quốc gia
được hiểu là “sức mạnh thể hiện trong hiệu quả kinh tế vĩ mô, đó là năng lực của một
nền kinh tế đạt được và duy trì mức tăng trưởng bền vững, thu hút đầu tư, bảo đảm
ổn định kinh tế xã hội, nâng cao đời sống người dân trên cơ sở xác định các chính
sách, thể chế bền vững tương đối và các đặc trưng kinh tế khác”
Theo diễn đàn kinh tế thế giới WEF, năng lực cạnh tranh của quốc gia được đo
bằng tám chỉ tiêu: mức độ mở của nền kinh tế, vai trò của Nhà nước, vai trò của thị
trường tài chính, môi trường công nghệ, kết cấu hạ tầng, chất lượng quản trị kinh
doanh, hiệu quả và tính linh họat của thị trường lao động, môi trường pháp lý.
2.2.2. Năng lực cạnh tranh ngành
Một quốc gia muốn có nền kinh tế phát triển, có năng lực cạnh tranh cao thì
quốc gia đó cần phải có nhiều doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao. Có thể hiểu
năng lực cạnh tranh ngành (hay doanh nghiệp) là

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng khả năng duy trì và mở
rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong
nước và nước ngoài. Ngoài ra, còn thông qua một số tiêu chí khác như: nguồn lực về
vốn, công nghệ, con người, quản lý; chất lượng và giá cả sản phẩm; hệ thống phân
Đoàn Thị Thùy Dương Kế hoạch 48A
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
phối và dịch vụ sau bán hàng của doanh nghiệp; chiến lược kinh doanh của doanh
nghiệp.
Theo mô hình kim cương của Micheal Porter, lợi thế cạnh tranh của một doanh
nghiệp, một ngành không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố bên trong nội bộ doanh
nghiệp mà còn phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài trong môi trường kinh doanh quốc
gia bao gồm: các điều kiện về yếu tố sản xuất, sức cầu về hàng hóa, các ngành phụ
trợ, môi trường cạnh tranh ngành và vai trò của Chính Phủ.
2.2.3. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Năng lực cạnh tranh của ngành hay doanh nghiệp lại được thể hiện thông qua
năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ của nó. Đây cũng là cái thể hiện rõ nhất
năng lực cạnh tranh của các chủ thể nói chung.
Theo tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 317, tháng 10 năm 2004 của TS Nguyễn
Văn Thanh: “Năng lực cạnh tranh cấp sản phẩm được hiểu là khả năng sản phẩm có
được nhằm duy trì được vị thế của nó một cách lâu dài trên thị trường cạnh tranh”
Năng lực cạnh tranh sản phẩm được nhận biết thông qua lợi thế cạnh tranh của
sản phẩm đó với các sản phẩm khác cùng loại.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm có thể được đánh giá thông qua: giá sản
phẩm, sự vượt trội về chất lượng sản phẩm, mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm, thương
hiệu… so với đối thủ cạnh tranh trên cùng một phân đoạn thị trường vào cùng một
thời điểm.
2.2.4. Mối quan hệ giữa ba cấp cạnh tranh
Có thể nói ba cấp độ của năng lực cạnh tranh mặc dù có sự độc lập tương đối
nhưng giữa chúng vẫn tồn tại mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau. Năng lực cạnh

tranh của sản phẩm là yếu tố cơ bản, cốt lõi tạo nên năng lực cạnh tranh của ngành
(doanh nghiệp), và tổng hợp lại góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia.
Ngược lại năng lực cạnh tranh của quốc gia sẽ tạo điều kiện nâng cao năng lực cạnh
tranh ngành (doanh nghiệp), và chính năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp khi được
nâng cao sẽ tạo nên sức hút, sự hấp dẫn với sản phẩm, dịch vụ của người tiêu dùng từ
đó tạo nên năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Như trên đã trình bày, năng lực cạnh tranh sản phẩm là quan trọng nhất, vì thế
báo cáo này tập trung vào trình bày các kết quả nghiên cứu về năng lực cạnh tranh
của sản phẩm (lấy ví dụ là thuốc tân dược).
Đoàn Thị Thùy Dương Kế hoạch 48A
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố thuộc môi
trường vĩ mô, các nhân tố thuộc nội bộ ngành cũng như các yếu tố trong bản thân nội
tại doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm.
3.1. Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô
* Các yếu tố kinh tế: Các yếu tố kinh tế thuộc môi trường vĩ mô như: tốc độ
tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân đầu người, lãi suất ngân hàng, tỷ giá hối
đoái….có ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Lãi suất ngân hàng: lãi suất ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh
tranh của sản phẩm. Tỷ lệ lãi suất là rất quan trọng khi người sản xuất cũng như
người tiêu dùng thường xuyên vay tiền để thanh toán các khoản mua bán hàng hóa
của mình. Đồng thời, lãi suất còn quyết định mức chi phí về vốn và do đó quyết định
mức đầu tư. Nếu lãi suất ngân hàng cho vay cao sẽ dẫn đến chi phí đầu vào tăng lên,
giá thành sản phẩm cũng vì thế tăng lên. Do đó năng lực cạnh tranh của hàng hóa sẽ
giảm đi nhất là khi đối thủ cạnh tranh có tiềm lực mạnh về vốn. Và ngược lại, nếu lãi
suất ngân hàng thấp sẽ làm giảm chi phí đầu vào, giá thành sản phẩm hạ, tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp có khả năng mở rộng sản xuất và cạnh tranh với các đối
thủ khác trên thị trường bằng công cụ giá.

Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là sự so sánh về giá trị của đồng tiền trong
nước với đồng tiền của quốc gia khác. Thay đổi tỷ giá hối đoái có tác động trực tiếp
đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm đặc biệt đối với các sản phẩm phải nhập khẩu
nguyên liệu đầu vào hay các sản phẩm có lợi thế về xuất khẩu. Nếu đồng nội tệ lên
giá, sẽ khuyến khích nhập khẩu vì hàng nhập khẩu sẽ giảm và như vậy khả năng cạnh
tranh của các sản phẩm trong nước sẽ bị giảm ngay trên thị trường trong nước; đồng
thời xuất khẩu sẽ giảm do sản phẩm trong nước tăng giá. Và ngược lại, khi đồng nội
tệ giảm giá thì khả năng cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường nội địa và thị trường
xuất khẩu cũng sẽ tăng lên.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân đầu người: nền kinh tế phát
triển, thu nhập bình quân đầu người cao dẫn đến khả năng tiêu thụ hàng hóa cao. Nền
kinh tế phát triển cùng với các yếu tố như lãi suất ngân hàng, tỷ giá hối đoái,… ổn
định sẽ tạo cơ hội tốt cho các doanh nghiệp mở rộng kinh doanh, thu hút đầu tư nước
ngoài. Từ đó dẫn tới nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
* Các yếu tố chính trị, pháp luật
Đoàn Thị Thùy Dương Kế hoạch 48A
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Yếu tố chính trị, pháp luật được thể hiện ở mức độ ổn định chính trị của quốc
gia, cơ sở hành lang pháp lý…. Các sản phẩm muốn được đưa ra tiêu thụ trên thị
trường phải tuân theo các quy định của Chính phủ về chất lượng, mẫu mã…Những
quy định này có thể là cơ hội hoặc mối đe dọa với các sản phẩm. Đây cũng là yếu tố
ảnh hưởng lớn đến quyết định đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
mức đầu tư vốn của nước ngoài vào việc phát triển sản phẩm đồng thời ảnh hưởng
đến mức độ chi mua hàng hóa của người tiêu dùng.
* Các yếu tố về văn hóa xã hội
Tất cả các doanh nghiệp đều phải phân tích các yếu tố xã hội để nhận biết các
cơ hội và nguy cơ có thể xảy ra đối với sản phẩm của mình. Khi một hay nhiều yếu tố
thay đổi chúng có thể tác động đến các sản phẩm như trình độ dân trí, tập quán thị
hiếu của người tiêu dùng, truyền thống văn hóa dân tộc… Các yếu tố văn hóa xã hội

thường biến đổi hoặc tiến triển chậm nên đôi khi thường khó nhận biết. Cùng với sự
phát triển kinh tế, sự biến động về các yếu tố văn hóa xã hội ngày càng có tác động
mạnh hơn đến sự ra đời và tiêu thụ của các sản phẩm.
Đây là yếu tố không những có tác động đáng kể tới sự lựa chọn và tiêu dùng
hàng hóa của người tiêu dùng mà còn tác động lớn đến các quyết định của doanh
nghiệp khi lựa chọn biểu tượng logo, mẫu mã, kiểu dáng cho sản phẩm…
*. Yếu tố về môi trường kinh doanh quốc tế
Mỗi doanh nghiệp là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân, mỗi nền kinh tế lại
là một bộ phận cấu thành nền kinh tế thế giới. Những thay đổi về môi trường quốc tế
có thể xuất hiện cả những cơ hội cũng như nguy cơ về việc mở rộng thị trường tiêu
thụ sản phẩm trong nước và ngoài nước. Hiện nay, trong thời kì hội nhập kinh tế
quốc tế khi Việt Nam đã gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực như
ASEAN, WTO…thì các doanh nghiệp mà đặc biệt là sản phẩm của ta sẽ chịu tác
động lớn của hệ thống luật pháp thế giới. Môi trường kinh doanh quốc tế là cơ hội để
sản phẩm Việt Nam có thể vươn ra thị trường rộng lớn nhưng cũng là những thách
thức khó khăn buộc các doanh nghiệp phải nâng cao được năng lực cạnh tranh cho
sản phẩm của mình.
3.2. Các yếu tố thuộc nội bộ ngành
Theo Michael Porter của trường quản trị kinh doanh Harvard thì trong nội bộ
ngành chúng ta quan tâm đến các khía cạnh sau:
* Áp lực từ phía khách hàng: Khách hàng được xem như là sự đe dọa mang tính
cạnh tranh khi họ đẩy giá cả xuống hoặc khi họ yêu cầu chất lượng sản phẩm và dịch
Đoàn Thị Thùy Dương Kế hoạch 48A
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vụ tốt hơn làm cho chi phí sản phẩm tăng lên. Ngược lại, nếu người mua có những
yếu thế sẽ tạo cơ hội để tăng giá sản phẩm mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đây
là yếu tố quyết định trực tiếp việc sản phẩm có năng lực cạnh tranh lớn hay không.
* Áp lực từ nhà cung cấp: Nhà cung cấp là những cá nhân hoặc tổ chức trong
nước hay ngoài nước chuyên cung cấp vật tư thiết bị, nguồn nhân lực, tài chính…để

một doanh nghiệp có thể hoạt động. Việc nhà cung cấp đẩy mức giá lên cao sẽ đẩy
giá sản phẩm tăng lên làm giảm năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Đồng thời nhà
cung cấp là một trong những nhân tố quan trọng quyết định chất lượng của sản phẩm.
Vì vậy, để giảm áp lực từ phía nhà cung cấp đồng thời để tránh rủi ro thì các doanh
nghiệp cần phải quan hệ với các tổ chức cung cấp các nguồn hàng khác nhau. Đây là
một yếu tố ảnh hưởng lớn đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
* Áp lực từ sản phẩm cạnh tranh: Sản phẩm cạnh tranh là những sản phẩm cùng
loại, có cùng tính năng tác dụng của các đối thủ cạnh tranh và cùng được tiêu thụ trên
một thị trường. Nếu trên thị trường có càng nhiều sản phẩm cạnh tranh và các sản
phẩm có sức cạnh tranh thực sự thì càng gây sức ép cho sản phẩm của doanh nghiệp.
Sản phẩm có thể cạnh tranh bằng giá hoặc bằng các yếu tố như chất lượng, mẫu mã,
thương hiệu… Mà hiện nay khi đời sống ngày càng được nâng cao thì sự cạnh tranh
bằng các yếu tố chất lượng, mẫu mã, thương hiệu càng mạnh mẽ hơn so với cạnh
tranh bằng giá. Vì vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm thì các doanh
nghiệp phải thường xuyên đầu tư đổi mới công nghệ.
* Áp lực từ đối thủ tiềm ẩn: Đối thủ tiềm ẩn là các doanh nghiệp hiện không ở
trong ngành nhưng sản xuất cùng một loại sản phẩm và có khả năng tham gia hoạt
động kinh doanh trong ngành đó. Khi có đối thủ mới tham gia trong ngành có thể là
yếu tố làm giảm năng lực cạnh tranh của sản phẩm hiện đang trong ngành từ đó làm
giảm lợi nhuận của của doanh nghiệp do họ dựa vào khai thác các năng lực sản xuất
mới với mong muốn giành được một phần thị phần.Do đó, để bảo vệ cho vị trí cạnh
tranh của sản phẩm doanh nghiệp thường quan tâm đến việc duy trì hàng rào hợp
pháp ngăn sự xâm nhập từ bên ngoài.
Theo nhà kinh tế học Joe Bain, ông xác định ba yếu tố trở ngại chủ yếu đối với
việc nhảy vào một ngành kinh doanh: sự ưa chuộng sản phẩm, ưu thế về chi phí thấp,
tính hiệu quả của sản xuất lớn. Nếu các doanh nghiệp có được những lợi thế này sẽ
giữ được vị trí cạnh tranh cho sản phẩm của mình và buộc sản phẩm của các doanh
nghiệp mới thâm nhập vào đương đầu với những khó khăn lớn.
Đoàn Thị Thùy Dương Kế hoạch 48A
11

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
* Áp lực từ các doanh nghiệp trong nội bộ ngành: Sự cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp trong ngành là yếu tố quan trọng tạo ra cơ hội hoặc đe dọa cho các doanh
nghiệp. Nếu sự cạnh tranh là yếu thì sẽ là cơ hội để nâng giá sản phẩm tăng lợi nhuận
cho doanh nghiệp. còn ngược lại, nếu sự cạnh tranh là gay gắt thì các doanh nghiệp
sẽ hạ giá sản phẩm để cạnh tranh về giá do đó có nguy cơ làm giảm lợi nhuận của
doanh nghiệp.
3.3. Các yếu tố thuộc nội bộ doanh nghiệp
* Nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực được coi là vấn đề vô cùng quan trọng đối
với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp và sản phẩm. Một nguồn nhân lực kém
không đáp ứng được nhu cầu của thị trường sẽ là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự thất
bại của doanh nghiệp. Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp được chia thành hai cấp.
Đội ngũ quản lý: gồm ban lãnh đạo và đội ngũ trực tiếp quản lý sản xuất, kinh
doanh sản phẩm. Đây là đội ngũ có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả sản xuất kinh
doanh và xu hướng phát triển sản phẩm trong tương lai. Nếu họ là những người có
kinh nghiệm, có khả năng nhìn xa trông rộng và đưa ra các quyết định đúng đắn thì
doanh nghiệp đó sẽ có những sản phẩm có sức cạnh tranh cao.
Đội ngũ trực tiếp tham gia sản xuất kinh doanh: đội ngũ này chi phối trực tiếp
đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm thông qua các yếu tố như: năng suất lao động,
trình độ tay nghề, kỉ luật lao động, ý thức trách nhiệm, sự sáng tạo của họ…. Các yếu
tố này kết hợp với yếu tố khoa học công nghệ sẽ ảnh hưởng đến số lượng, chất
lượng, giá thành sản phẩm… góp phần quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh của
sản phẩm.
* Quy mô sản xuất kinh doanh:
Cơ sở hạ tầng: là yếu tố hỗ trợ quan trọng giúp tạo nên năng lực cạnh tranh của
sản phẩm. Cơ sở hạ tầng hiện đại sẽ làm tăng năng suất lao động, hiệu quả sản xuất
cao hơn, hao phí nhỏ… dẫn tới số lượng sản phẩm tăng, chi phí cận biên giảm và như
vậy giá thành sản phẩm hạ nhờ đó nâng sức cạnh tranh của sản phẩm so với đối thủ.
Khoa học công nghệ: đây là yếu tố đại diện cho sự sáng tạo, tiên tiến, cho sản
phẩm mới cũng như loại bỏ những sản phẩm cũ, lạc hậu; tạo cho doanh nghiệp chỗ

đứng vững chắc trên thị trường. Một sản phẩm mới ra đời không thể thiếu được sự
đóng góp của quá trình nghiên cứu và phát triển ( R&D) sản phẩm. Công nghệ hiện
đại sẽ giúp doanh nghiệp tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã phù hợp với
thị hiếu của người tiêu dùng, giá thành hạ do năng suất lao động tăng, hao phí nhỏ…
Đoàn Thị Thùy Dương Kế hoạch 48A
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
* Tình hình tài chính: tài chính là yếu tố có vai trò quan trọng đảm bảo cho việc
duy trì, mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Nếu một doanh
nghiệp có tình hình tài chính tốt, khả năng huy động vốn lớn sẽ cho phép doanh
nghiệp có điều kiện để mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ, đa dạng hóa
đổi mới, nâng cao chất lượng của sản phẩm; có khả năng thực hiện tốt công tác bán
hàng và dịch vụ sau bán… tạo nên khả năng cạnh tranh cao hơn cho sản phẩm.
II. Các tiêu chí và phương pháp đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm
1. Phương pháp luận phân tích và đánh giá năng lực cạnh tranh
1.1. Đánh giá hiện trạng năng lực cạnh tranh của sản phẩm dược
a) Vị trí của đánh giá hiện trạng năng lược cạnh tranh: Nâng cao năng lực cạnh
tranh là vấn đề rất phức tạp và khó khăn, dựa trên mối quan hệ biện chứng giữa
nguyên nhân và kết quả. Nguyên nhân là cái có trước, nên nguyên nhân tạo ra năng
lực cạnh tranh phải tìm ở hiện trạng, trước khi đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh. Vì thế, cần tìm nguyên nhân dẫn tới năng lực cạnh tranh từ hiện
trạng trong mối quan hệ với ngành nghề sản xuất kinh doanh dược phẩm.
b) Vai trò của đánh giá hiện trạng ngành dược và năng lực cạnh tranh: Phát hiện
mối quan hệ năng lực cạnh tranh với các yếu tố ảnh hưởng chủ yếu như công nghệ
sản xuất, kinh doanh, quản lý, tổ chức. Đánh giá hiện trạng là cơ sở để tìm ra nguyên
nhân dẫn đến sự hình thành năng lực cạnh tranh và tìm ra những giải pháp thích hợp
để đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh.
Ưu điểm và hạn chế của đánh giá hiện trạng: Từ những phân tích nêu trên cho
thấy ưu điểm của đánh giá hiện trạng là nó chỉ rõ được mối quan hệ nguyên nhân, kết
quả ở hiện tại. Từ hiện trạng tổng hợp được các hệ số, thể hiện mối quan hệ qua thực

tế làm định mức cho dự báo năng lực cạnh tranh. Tuy vậy hạn chế của đánh giá hiện
trạng là vật chất luôn luôn biến động, lịch sử không phải là bài học tốt cho đánh giá
năng lực cạnh tranh trong tương lai. Vì vậy, cần có một số giải pháp để khắc phục
những hạn chế này.
Nguyên tắc vận dụng đánh giá hiện trạng vào phân tích và đánh giá năng lực
cạnh tranh là phải phát hiện cái mới và điều chỉnh cái cũ cho phù hợp với môi trường
cạnh tranh ngày càng tăng.
Đánh giá hiện trạng phải mang tính hệ thống, có nghĩa là lấy năng lực cạnh
tranh làm mục tiêu chung của hệ thống, trên cơ sở đó xem xét các phân hệ ảnh hưởng
hay quyết định đến mục tiêu một cách toàn diện. Các phân hệ chính của hệ thống
phân tích và đánh giá năng lực cạnh tranh bao gồm khu vực sản xuất dược phẩm, linh
Đoàn Thị Thùy Dương Kế hoạch 48A
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vực kinh doanh và phân phối (thương mại), khu thể chế kinh tế của nhà nước và của
thị trường, cơ chế chính sách ưu tiên của nhà nước.
1.2. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Có rất nhiều các chỉ tiêu để đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm cả về
định lượng lẫn định tính. Nhưng ta có thể kể tới một số chỉ tiêu quen thuộc như sau:
1.2.1. Mức doanh thu của sản phẩm qua từng năm
Doanh thu là chỉ tiêu tổng hợp thể hiện sản lượng và giá bán sản phẩm qua các
năm. Thông qua chỉ tiêu doanh thu từng năm, ta có thể biết được kết quả kinh doanh
là tăng hay giảm, có chiều hướng tốt hay xấu. Nhưng để xét xem việc kinh doanh sản
phẩm đó có hiệu quả hay không thì cần phải xét đến chi phí để sản xuất ra sản phẩm,
từ đó biết được lợi nhuận mà doanh nghiệp thu lại được. Doanh thu nhiều hơn và có
tốc độ tăng nhanh hơn tốc độ tăng của chi phí sẽ là cơ sở để các doanh nghiệp ra
quyết định mở rộng đầu tư sản xuất sản phẩm đó. Một sản phẩm duy trì được doanh
thu và lợi nhuận tăng cao thì đồng nghĩa với việc sản phẩm đó có năng lực cạnh tranh
cao và ngược lại. Đây là một trong những chỉ tiêu cơ bản nhất để đánh giá năng lực
cạnh tranh của sản phẩm khi tham gia thị trường.

1.2.2. Thị phần của sản phẩm trên thị trường qua từng năm
Thị phần thể hiện khả năng chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm. Một sản phẩm
có thị phần lớn và tăng dần sẽ là một sản phẩm có uy tín với người tiêu dùng, được
nhiều người tiêu dùng lựa chọn.
Thị phần đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Thị phần càng lớn thì
năng lực cạnh tranh của sản phẩm càng cao và ngược lại. Tuy nhiên với các sản phẩm
mới xâm nhập thị trường thì không thể lấy chỉ tiêu này để đánh giá được mà phải kết
hợp thêm chỉ tiêu Tốc độ tăng trưởng của doanh thu hay thị phần.
Nếu sản phẩm có tốc độ tăng thị phần cao thì sản phẩm có năng lực cạnh tranh
cao và ngược lại.
1.2.3. Chất lượng sản phẩm so với sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh
Khi đời sống của người dân ngày càng nâng cao hay đối với những nước có thu
nhập cao thì giá cả không phải mối quan tâm hàng đầu của họ nữa. Người tiêu dùng
quan tâm nhiều đến chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm là sự kết hợp hài hòa
của năng suất lao động, trình độ công nghệ, mức độa an toàn của sản phẩm, các biện
pháp bảo vệ thực vật… Mặt khác, khi hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra, để nâng cao
sức cạnh tranh của sản phẩm thì yếu tố chất lượng sản phẩm đóng góp quan trọng cho
sự tồn tại của sản phẩm trên thị trường. Sản phẩm đó không chỉ đạt tiêu chuẩn quốc
Đoàn Thị Thùy Dương Kế hoạch 48A
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
gia mà phải đạt tiêu chuẩn quốc tế. Khi đó, chất lượng sản phẩm nói lên năng lực
cạnh tranh của sản phẩm.
1.2.4. Giá cả sản phẩm
Đây là chỉ tiêu định lượng mà ta dễ dàng nhận thấy nhất.
Nếu các nhân tố khác không đổi thì sản phẩm nào có được giá bán thấp hơn sẽ
có được năng lực cạnh tranh tốt hơn. Các nhân tố ảnh hưởng đến giá thành của sản
phẩm là chi phí sản xuất, nhu cầu về sản phẩm…Trong đó chi phí sản xuất là yếu tố
nảh hưởng lớn nhất đến giá bán sản phẩm. Chi phí sản xuất thấp hơn sẽ làm giá bán
sản phẩm thấp hơn, nó sẽ có sức cạnh tranh tốt hơn về giá. Vì vậy, giá là một công cụ

cạnh tranh hữu hiệu trên thị trường.
1.2.5. Mức hấp dẫn của sản phẩm về mẫu mã, kiểu dáng…so với đối thủ cạnh
tranh
Được đánh giá thông qua kiểu dáng, màu sắc, bao bì sản phẩm. Trong cuộc
sống hiện đại thì tiêu chí này ngày càng có vai trò quan trọng. Một sản phẩm có mẫu
mã, màu sắc, kiểu dáng đẹp sẽ có sức hấp dẫn lớn đối với khách hàng. Mặc dù đây
chỉ là chi tiêu định tính nhưng là yếu tố không thể thiếu tạo nên sức cạnh tranh của
sản phẩm.
1.2.6. Thương hiệu của sản phẩm
Thương hiệu là một khái niệm khá trừu tượng, nó “ vô hình ” nhưng là cái đích
mà sản phẩm luôn muốn hướng tới.
Một sản phẩm chỉ có được thương hiệu khi có được lòng tin và ấn tượng tốt của
khách hàng. Người tiêu dùng yên tâm khi sử dụng và họ sẵn sàng trả giá cao hơn.
Thương hiệu là một phương tiện giúp nhà sản xuất hay các nhà phân phối làm nổi bật
tính riêng biệt cũng như ưu thế của sản phẩm của mình so với đối thủ cạnh tranh.
Một thương hiệu thành công là một thương hiệu luôn có lượng lớn khách hàng trung
thành.
Vì vậy thương hiệu có ý nghĩa to lớn đối với năng lực cạnh tranh của sản phẩm
và ngày càng trở nên quan trọng trong điều kiện hội nhập.
2. Phương pháp đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Phương pháp hệ số lợi thế so sánh biểu lộ (RCA)
ii
ii
NX
NX
RCA
+

=
Trong đó:

X
i
: là kim ngạch xuất khẩu mặt hàng i.
Đoàn Thị Thùy Dương Kế hoạch 48A
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
N
i
: là kim ngạch nhập khẩu mặt hàng i.
-1 ≤ RCA ≤ 1
Nếu RCA = -1 thì nước đó chỉ có nhập khẩu mà không xuất khẩu sản phẩm i:
sản phẩm i của nước đó không có năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế
Nếu RCA = 1 thì nước đó chỉ có xuất khẩu mà không nhập khẩu sản phẩm i: sản
phẩm i của nước đó có năng lực cạnh tranh mạnh trên thị trường quốc tế.
Nếu RCA > 0 thì sản phẩm i của nước đó có năng lực cạnh tranh.
Nếu RCA < 0 thì sản phẩm i của nước đó không có năng lực cạnh tranh.
Nếu RCA ≈ 0 thì tình trạng không rõ ràng.
Phương pháp đánh giá theo hệ số cạnh tranh có ưu điểm đơn giản, dễ thực hiện
và không cần nhiều số liệu. Tuy nhiên, hệ số này chỉ hoàn toàn dựa vào kim ngạch
xuất nhập khẩu mà không tính toán tới hàng loạt các yếu tố tác động tới năng lực
cạnh tranh của sản phẩm như: các chính sách của Chính Phủ (thuế quan, hạn ngạch,
trợ cấp hỗ trợ xuất nhập khẩu…)
III. Vai trò và ý nghĩa của việc nâng cao năng lực cạnh tranh trong lĩnh
vực dược phẩm
1. Việt Nam là nước đông dân, nhiều loại bệnh tật cần có một ngành dược tầm
cỡ đủ sức cạnh tranh trên thế giới
Việt Nam nằm trong cực đông nam của bán đảo Đông Dương, vùng nhiệt đới
gió mùa nóng ẩm với ba mặt giáp biển. Do đó nước ta có khí hậu nhiệt đới gió mùa,
độ ẩm tương đối trung bình khoảng 84% một năm, lượng mưa hàng năm ở mọi vùng
đều lớn dao động từ 120 – 300 cm và một số nơi có thể gây ra lũ. Địa hình tương đối

cao nhiều đồi núi, cao nguyên đặc biệt diện tích rừng và vùng rừng chiếm khoảng
30% diện tích. Với đặc điểm vị trí địa lý và khí hậu như vậy dẫn đến Việt Nam
thường có nhiều dịch bệnh xuất hiện. Vì vậy nhu cầu thuốc là rất lớn.
Theo kết quả cuộc tổng điều tra dân số diễn ra vào giữa năm 2009, nước ta hiện
nay có khoảng 86 triệu dân và dân số vẫn không ngừng tăng. Đồng thời, khi đời sống
ngày càng được nâng cao người tiêu dùng càng chú trọng nhiều hơn đến chăm sóc
sức khỏe. Không phải chỉ khi có bệnh người ta mới tìm đến thuốc mà ngay cả khi
khỏe mạnh các loại thuốc dùng phòng chống bệnh tật hay tăng cường sức khỏe cũng
được sử dụng rất nhiều. Do đó, Việt Nam là một thị trường rộng lớn có nhiều tiềm
năng mà ngành dược cần khai thác.
Đoàn Thị Thùy Dương Kế hoạch 48A
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
2. Sự phát triển của ngành dược phẩm góp phần tạo thêm việc làm và thu nhập
cho người dân
Như đã nói ở trên, Việt Nam là một trong những quốc gia đông dân của thế giới
và có tốc độ tăng dân số khá cao. Số lượng người ở độ tuổi lao động hàng năm lớn và
không ngừng tăng. Điều đó tạo nên một áp lực rất lớn cho nền kinh tế khi số lượng
việc làm thì không quá nhiều trong khi lực lượng lao động lại quá đông. Việc dư thừa
lao động trong xã hội sẽ dẫn đến các hậu quả sau:
Thứ nhất, hiện tượng thất nghiệp ở những người đã qua đào tạo làm hao tổn lớn
thời gian, tiền bạc… của cá nhân cũng như Nhà nước. Đây là một sự lãng phí nguồn
lực nghiêm trọng.
Thứ hai, hiện tượng thất nghiệp ở những người lao động thủ công. Hiện tượng
này sẽ làm cho chênh lệch thu nhập trong xã hội ngày càng cao. Số lượng này lớn có
thể gây ra sự mất an ninh trật tự xã hội bởi các tệ nạn như: cờ bạc, trộm cắp…
Vì vậy, giải quyết lượng lao động dư thừa là vô cùng quan trọng, và phát triển
dược phẩm sẽ là một trong những hướng giải quyết vấn đề đó.
3. Năng lực cạnh tranh của dược phẩm Việt Nam còn thấp so với các đối thủ
cạnh tranh.

Hiện nay, mặc dù dược phẩm mà đặc biệt là thuốc tân dược Việt Nam đã có
nhiều bước tiến lớn trong sự phát triển nhưng vẫn còn đang phải “ loay hoay ” trên
thị trường. Nước ta mới chỉ sản xuất được các loại thuốc thông thường như hạ sốt,
giảm đau,…còn các loại thuốc đặc trị vẫn phải nhập của nước ngoài với mức giá cao.
Do đó trên thị trường dược phẩm Việt Nam, thuốc nội không thể cạnh tranh được với
thuốc ngoại cả về chất lượng, chủng loại, mẫu mã…
Đồng thời, như đã nói ở trên, dược phẩm là một mặt hàng quan trọng liên quan
trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng của con người và Việt Nam là một thị trường rộng
lớn nhiều tiềm năng.
Vì vậy, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của dược phẩm Việt Nam là nhiệm
vụ rất quan trọng cần phải giải quyết.
4. Yêu cầu hội nhập đối với các mặt hàng nói chung và dược phẩm nói riêng
ngày càng cao
Ngày 25-7-1995, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các
quốc gia Ðông-Nam Á (ASEAN) và ký Nghị định thư tham gia Chương trình ưu đãi
thuế quan có hiệu lực chung (CEPT)/Hiệp định khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA) (CEPT/AFTA). Chúng ta cũng là một trong số 25 thành viên sáng lập Diễn
Đoàn Thị Thùy Dương Kế hoạch 48A
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM) vào tháng 3-1996 và tham gia Diễn đàn Hợp tác Kinh tế
châu Á - Thái Bình Dương (APEC) từ tháng 11-1998. Việt Nam đang tích cực đàm
phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Và vào ngày 7 tháng 11 năm
2006 Việt Nam đã chính thức gia nhập vào cuộc chơi toàn cầu này. Điều này đã mở
ra cho nền kinh tế Việt Nam những cơ hội và thách thức mới. Trong đó dược phẩm
cũng không nằm ngoại lệ.
Sau khi gia nhập WTO,bên cạnh nhiều điều kiện hội nhập sâu vào trong nền
kinh tế thế giới, Việt Nam sẽ phải chịu sự cạnh tranh diễn ra gay gắt hơn, với nhiều
"đối thủ" hơn, trên bình diện rộng hơn, sâu hơn. Đồng thời, Việt Nam phải cam kết
mở cửa thị trường, giảm thuế và các hàng rào bảo hộ khác, minh bạch hóa chính

sách. Dược phẩm là một loại hàng hóa đặc biệt nên đi kèm theo nó là rất nhiều các
quy định của thế giới về tiêu chuẩn chất lượng mà trong điều kiện hiện nay thì các
doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh dược phẩm đáp ứng được không nhiều. Và thực tế
đó đã khiến cho dược phẩm trong nước gặp không ít khó khăn.
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DƯỢC PHẨM
VIỆT NAM
I. Quá trình hình thành và phát triển của dược phẩm
1. Giai đoạn trước năm 1954
Đây là giai đoạn mà đói nghèo, bệnh tật, thất học, sinh đẻ nhiều là cái vòng
luẩn quẩn của người Việt Nam. Trước tình hình đó, Ngành Y tế đã xác định được
hướng đi của ngành: tất cả phục vụ cho tiền tuyến, tổ chức và hoạt động của ngành
phải hướng về nông thôn nơi sinh sống của 90% dân số, phòng bệnh là chính, tự lực
cánh sinh và dựa vào dân. Trong cuộc chiến tranh đầy khó khăn, gian khổ kéo dài
suốt 9 năm, Ngành Y tế cách mạng vẫn duy trì và không ngừng phát triển các hoạt
động chuyên môn, động viên nhân dân tham gia các phong trào vệ sinh phòng bệnh,
sử dụng nhiều hình thức thích hợp để tuyên truyền giáo dục cho nhân dân những
kiến thức trong việc giữ gìn sức khỏe. Các viện vi trùng học tiếp tục sản xuất các
loại vaccin phòng bệnh tả, đậu mùa, thương hàn, đảm bảo tiêm chủng cho toàn dân
các vùng tự do, vùng sau lưng địch. Các bệnh viện, trường đại học, trung học, được
di chuyển vào sâu trong rừng, sơ tán phân tán vào nhà dân hoặc được xây dựng
trong các hang động để không làm gián đoạn công tác cấp cứu, khám chữa bệnh,
Đoàn Thị Thùy Dương Kế hoạch 48A
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
công tác đào tạo cán bộ. Các phòng bào chế vẫn tiếp tục sản xuất thuốc thông
thường bằng nguyên liệu tại chỗ và các loại thuốc tê, thuốc mê góp phần đáng kể
vào việc xử lý vết thương chiến tranh. Một số cơ sở tự sản xuất được bơm tiêm, kim
tiêm, kìm, kẹp...
Năm 1950 lần đầu tiên những lọ pênixilin được sản xuất từ phòng bào chế
Trường Đại học Y khoa ở Việt Bắc đã mang lại nhiều kết quả trong việc chống

nhiễm trùng các vết thương. ở chiến trường miền Nam xuất hiện phương pháp trị
liệu Filatov, toa thuốc Nam căn bản góp phần to lớn vào việc giải quyết các khó
khăn về thuốc.
2. Giai đoạn 1954 – 1975
Trong 10 năm, 1954 - 1964, Ngành Y tế đã tập trung xây dựng và phát triển y
tế ở nông thôn làm cho bộ mặt nông thôn ở miền Bắc thay đổi rõ rệt. Năm 1961 lần
đầu tiên chúng ta sản xuất được vaccin sabin phòng bệnh bại liệt, rồi vaccin BCG để
đến ngày nay chúng ta có quyền tự hào đã thanh toán được bệnh đậu mùa (1987) và
bệnh bại liệt (2000).
Nhưng năm 1964, đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân
ở miền Bắc vô cùng ác liệt. Trước tình hình đó Ngành Y tế đã xác định được con
đường đi thích hợp là phải chuyển hướng và hoạt động của ngành từ thời bình sang
thời chiến, làm thế nào để công việc cấp cứu, mổ xẻ được tiến hành ngay tại chỗ. Cơ
sở y tế cũng nằm trong mục tiêu đánh phá của máy bay Mỹ nên phải sơ tán, phân tán
về nông thôn. Phòng mổ, nhà hộ sinh phải đưa xuống hầm hào dưới mặt đất hoặc
vào các hang đá. Ngành Y tế đã tăng cường cán bộ, phương tiện, đưa những kỹ thuật
cơ bản về cho xã, sản xuất huyến thanh tại huyện, phát động phong trào vệ sinh yêu
nước chống Mỹ trong cả nước.
Miền Bắc vừa lo giải quyết các vấn đề về cấp cứu phòng không, chống chiến
tranh phá hoại, vừa hết lòng chi viện cho miền Nam về cán bộ, thuốc men, trang
thiết bị. Lực lượng y tế cách mạng ở miền Nam, sau một thời gian dài hoạt động bí
mật,đã xuất hiện công khai sau khi Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền
Nam Việt Nam được thành lập. Với tinh thần tự lực tự cường, với sự chi viện của
miền Bắc, mặc dầu phải chịu đựng những hy sinh, tổn thất to lớn về cán bộ và cơ sở
vật chất, y tế cách mạng miền Nam ngày càng lớn mạnh và phát triển rộng khắp
Thực trạng của ngành dược phẩm Việt Nam.
3. Giai đoạn từ 1975 đến nay
Đoàn Thị Thùy Dương Kế hoạch 48A
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Bước vào thời kỳ đổi mới, Ngành Y tế phải đối phó với những tác động của
nền kinh tế thị trường, từng bước tháo gỡ khó khăn để thích ứng với cơ chế thị
trường, đáp ứng được mong muốn của người dân ngày càng nhiều và càng cao về
chăm sóc sức khỏe đã bị giảm sút sau 30 năm chiến tranh. Do xác định được phương
châm: đa dạng hoá các hoạt động của ngành, xã hội hoá công tác y tế, nên đến nay
công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân đã tiến được một bước dài, bao gồm một hệ
thống các cơ sở y tế nhà nước, y tế tư nhân, hướng tới việc phục vụ nhân dân với số
lượng nhiều hơn và chất lượng cao hơn, hiệu quả hơn và công bằng hơn. Phương
pháp quản lý các cơ sở khám chữa bệnh của Nhà nước cũng thay đổi bằng cách thu
một phần viện phí của người bệnh, xây dựng hệ thống bảo hiểm y tế, cho phép mở
rộng bệnh viện tư, phòng khám tư, nhà thuốc tư. Nhiều tổ chức cá nhân đứng ra
thành lập quỹ hỗ trợ bệnh nhân nghèo, nhà nước cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người
nghèo, cấp thuốc miễn phí cho người nghèo...
Sáu bệnh truyền nhiễm ở trẻ em trước đây đứng đầu danh sách các bệnh có tỷ
lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong cao, nay nhờ việc tiêm chủng rộng rãi chúng ta đã
thanh toán được bệnh bại liệt, khống chế được bệnh uốn ván sơ sinh, ho gà, bạch
hầu. Từ việc tiêm phòng sáu loại vaccin do ta tự sản xuất: viêm gan siêu vi trùng và
viêm não Nhật Bản, các chương trình phòng chống bệnh sốt rét, bệnh lao, bướu cổ
do thiếu Iốt, nhiễm HIV/AIDS, thanh toán bệnh phong đạt kết quả khả quan.
Nhìn chung, trong quá trình hình thành và phát triển, ngành dược Việt Nam đã
cố gắng khắc phục những khó khăn và trở ngại trong từng giai đoạn để hoàn thành
nhiệm vụ của mình.
II. Thực trạng dược phẩm Việt Nam
Như đã nói ở trên, sản phẩm dược phẩm rất đa dạng, theo xuất sứ có thể chia
dược phẩm thành hai loại: thuốc đông y và thuốc tân dược và đề tài này nghiên cứu
về thuốc tân dược của Việt Nam.
1. Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam.
Năm 2008 là một năm đầy biến động của nền kinh tế toàn cầu. “Khủng hoảng
tài chính”, “giảm phát kinh tế”, “phá sản”, vv ... là những cụm từ được nhắc đến
nhiều nhất trong gần 100 năm qua. Năm 2009 nhiều biện pháp nhằm thúc đẩy sự phát

triển kinh tế được áp dụng nhưng nhìn chung nền kinh tế toàn cầu vẫn đang trong giai
đoạn dần hồi phục. Việt Nam đã là thành viên của WTO, cho nên mặc dù Việt Nam
mới hội nhập nhưng cũng đã chịu những ảnh hưởng sâu sắc. Cũng như nhiều ngành
khác, các doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm gặp rất nhiều khó khăn do diễn biến
Đoàn Thị Thùy Dương Kế hoạch 48A
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
phức tạp của thời tiết, dịch bệnh, và việc ảnh hưởng của sự suy giảm kinh tế toàn cầu.
Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều chuyên gia dược Việt Nam được xem là đang
nằm trong giai đoạn tăng trưởng.
Tình hình tiêu dùng thuốc tân dược của Việt Nam.
Trong những năm gần đây, khi đời sống ngày càng được nâng cao thì người dân
ngày càng gia tăng các khoản chi tiêu về dịch vụ y tế, đặc biệt là chi tiêu cho dược
phẩm.
Bảng 1: Tiêu dùng thuốc trong nước giai đoạn 2001 – 2008
Năm Tổng trị giá tiền thuốc sử dụng
(1.000USD)
Bình quân tiền thuốc đầu
người
(USD)
2001 472.356 6,0
2002 525.807 6,7
2003 608.699 7,6
2004 707.535 8,6
2005 817.396 9,85
2006 956.353 11,23
2007 1.136.353 13,39
2008 1.425.657 16,45
Nguồn: Cục quản lý dược Việt Nam
Thông qua tiêu dùng thuốc trong nước như bảng trên ta có thể thấy rằng giai

đoạn từ 2001-2008, tiêu thụ thuốc tân dược của Việt Nam đạt mức tăng trưởng bình
quân hàng năm là 19,9%. Nếu như năm 2002 mới chỉ tăng 11,3% so với năm trước
đó, thì đến năm 2008 đã tăng 25,5% so với năm 2007. Tổng doanh thu toàn thị
trường năm 2008 đạt mức 1,4 tỷ USD, chiếm 1,6% GDP của cả nước. Nếu như năm
2001 việc chi tiêu cho tiền thuốc theo đầu người mới chỉ ở mức 6,0 đô la Mỹ, thì năm
2008 con số này đã lên tới 16,45 đô la Mỹ, tăng gấp gần 3 lần năm 2001. Nếu so sánh
với phần thu nhập tăng thêm, thì có thể nhận thấy rằng người dân đang có xu hướng
chi tiêu ngày càng nhiều hơn cho dược phẩm.
Tình hình sản xuất thuốc:
Trước nhu cầu sử dụng dược phẩm ngày càng gia tăng đã làm cho ngành dược
phẩm đẩy mạnh sản xuất. Trong giai đoạn từ 2001 – 2008, công nghiệp dược nội địa
phát triển vững chắc cả về lượng và chất, sản lượng thuốc tân dược trong nước cũng
đã có tăng trưởng vượt bậc. Sản lượng thuốc nội địa đã tăng từ 170,390 triệu đô la
Mỹ ( 2001 ) lên đến 715,435 triệu đô la Mỹ chiếm khoảng 50,18% thị trường dược
Đoàn Thị Thùy Dương Kế hoạch 48A
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
phẩm năm 2008. Hiện nay, sản xuất dược trong nước đã đảm bảo đáp ứng được
khoảng 50,2% nhu cầu trong nước
Hoạt động sản xuất thuốc trong nước đã bắt đầu có nhiều tiến triển. Các cơ sở
sản xuất kinh doanh thuốc đã có thể dần dần bắt kịp với nhu cầu tiêu dùng dược
phẩm trong nước. Đồng thời tốc độ tăng trưởng sản xuất và kinh doanh cũng tăng lên
từ 2001 đến 2007 (126,34%). Do khủng hoảng kinh tế toàn cầu diễn ra nên năm 2008
tốc độ tăng trưởng giảm so với năm 2007 còn 119,11%. Vượt qua khủng hoảng, chắc
rằng với tốc độ tăng trưởng như vậy trong tương lai dược phẩm Việt Nam sẽ đạt
được mức tăng trưởng song hành với mức tăng về nhu cầu sử dụng dược phẩm của
người dân.
Bên cạnh việc tăng trưởng về sản lượng sản xuất, các doanh nghiệp dược cũng
đẩy mạnh việc đa dạng hóa các dòng sản phẩm. Trong 3 năm trở lại đây, mỗi năm có
khoảng 2.000 loại thuốc mới đăng ký và được cấp phép đăng ký lưu hành, trong khi

vào thời điểm năm 2003 mỗi năm chỉ có khoảng 700 sản phẩm mới được đăng ký
mỗi năm. Hiện nay cả nước có 171 doanh nghiệp sản xuất dược phẩm, trong đó 92
doanh nghiệp sản xuất tân dược, còn lại là các doanh nghiệp về đông dược. Ngoài ra
còn có 6 doanh nghiệp sản xuất vaccine và sinh phẩm y tế. Trong thời gian vừa qua,
đa số doanh nghiệp dược đã tích lũy được nguồn vốn khá lớn từ việc gia tăng sản
lượng tiêu thụ và thu hút nguồn vốn đầu tư của nước ngoài, nhờ vậy mà các doanh
nghiệp trong nước có đủ khả năng để tiếp tục đầu tư nâng cao năng lực sản xuất.
Chủng loại và chất lượng sản phẩm.
Thuốc sản xuất trong nước đang cố gắng thoát ra khỏi những danh mục hoạt
chất generic, hướng tới những nhóm thuốc đang tăng tỷ lệ sử dụng, thuốc chuyên
khoa (như : thuốc tim mạch, tiểu đường, thần kinh, nội tiết, ...). Các dạng bào chế
cũng được phát triển hơn (như : thuốc tác dụng kéo dài, thuốc tiêm đông khô, thuốc
sủi bọt, ...).
Chất lượng thuốc trong nước đã được cải thiện rõ rệt. Theo thống kê của Bộ y
tế, đến cuối năm 2009 số nhà máy sản xuất dược phẩm trong nước đạt tiêu chuẩn
GMP (Good Manufacturing Practice – Thực hành tốt sản xuất thuốc) là 92 nhà máy.
Thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ bắt đầu chú trọng đến các tiêu chuẩn
này trong vài ba năm gần đây, nhưng cũng đang nỗ lực để gia tăng sức cạnh tranh
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm dược nội địa. Ngoài thực hiện theo
tiêu chuẩn GMP, chất lượng dược phẩm còn được quản lý theo ISO 9001:2000 (hệ
Đoàn Thị Thùy Dương Kế hoạch 48A
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thống tiêu chuẩn quốc tế về quản lý), ISO 14000:2004 (hệ thống tiêu chuẩn quốc tế
về môi trường),…
Mặc dù đang trong giai đoạn phát triển, nhưng dược phẩm Việt Nam vẫn phải
phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài. Do ngành công nghiệp hóa dược
của Việt Nam còn hạn chế, nên có đến 90% nguyên liệu cho sản xuất thuốc tân dược
phải nhập khẩu. Với việc phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, sản
xuất dược nội địa có thể sẽ gặp nhiều rủi ro như rủi ro về giá cả nguyên liệu, rủi ro về

chất lượng nguyên liệu…
Hệ thống phân phối sản phẩm
Dược phẩm tiếp cận người tiêu dùng qua hệ thống điều trị và hệ thống phân
phối thương mại
Hệ thống điều trị bao gồm các bệnh viện, các cơ sở điều trị tại các cấp. Tổng số
cơ sở khám chữa bệnh tại Việt Nam năm 2007 là 13.438 đơn vị - Đây là kênh phân
phối mà hầu hết các công ty dược luôn mong muốn và quan tâm phát triển do số
lượng tiêu thụ rất lớn. Các doanh nghiệp dược tiếp cận và mở rộng thị trường thông
qua hình thức chi hoa hồng hoặc chiết khấu cho các bác sĩ và dược sĩ của các bệnh
viện.
Bảng 2: Các cơ sở trong hệ thống điều trị
Năm 2006 2007
Bệnh viện 903 956
Phòng khám đa khoa khu vực 847 829
Bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng 51 51
Trạm y tế xã, phường 10672 10851
Trạm y tế của cơ quan, xí nghiệp 710 710
Các cơ sở khác 49 41
Tổng 13232 13438
Nguồn: Bộ Y tế
Hệ thống thương mại: bao gồm các chi nhánh, đại lý, nhà phân phối và các nhà
thuốc. Hiện nay các doanh nghiệp dược trong nước đang nỗ lực xây dựng kênh phân
phối thương mại để giảm bớt sự phụ thuộc vào kênh phân phối điều trị vốn đang bị
cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Hệ thống phân phối này chủ yếu đang là sân chơi của
các nhà phân phối nội địa trong khi chỉ có ba nhà phân phối nước ngoài ở thị trường
là Zeullig Pharma, Diethelm, Megaproduct.
Bảng 3: Cơ cấu hệ thống phân phối thương mại.
Năm 2005 2006 2007
Công ty thương mại 680 800 800
Đoàn Thị Thùy Dương Kế hoạch 48A

23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Công ty xuất nhập khẩu 79 89 90
Công ty sản xuất 174 178 180
Nhà cung ứng nước ngoài 270 320 370
Các điểm bán lẻ 29.541 39.319 39.016
Nguồn: Bộ Y tế
Với kênh phân phối thương mại, thương hiệu sản phẩm được người tiêu dùng
nhận diện tốt hơn nhất là trong điều kiện thị trường của Việt Nam khi mà sản phẩm
của các doanh nghiệp trong nước chủ yếu là thuốc phổ thông (generic). Hiện nay,
Việt Nam có rất ít các nhà thuốc, đại lý đạt tiêu chuẩn GPP ( Thực hành tốt phân phối
thuốc ).
R&D nội địa chưa phát triển
Công nghiệp hóa dược của Việt Nam còn khá yếu với công nghệ lạc hậu do
ngành công nghiệp hóa dược chưa thực sự được chú trọng đầu tư. Dược Việt Nam
mới chỉ tập trung vào công nghiệp bào chế, trùng lắp trong dòng sản phẩm, chưa chú
trọng phát triển nguồn dược liệu, ít chú ý vào các loại thuốc chuyên khoa đặc trị.
Hiện tại, dược phẩm Việt Nam mới chỉ đang ở giai đoạn bậc 2.5 trên thang đo tối đa
bậc 5 về tiến bộ công nghệ. Ở giai đoạn này, hầu như thuốc sản xuất là loại generic
(các thuốc đã hết bản quyền công nghệ gốc). Với việc sản xuất hàng generic, có thể
cho rằng dược nước ta nghiên cứu và sản xuất sản phẩm mới chỉ dừng lại ở mức
‘R&C’ (nghiên cứu và sao chép).
Thống kê chi phí của một số doanh nghiệp dược đầu ngành dưới đây đã phản
ánh thực tế những hạn chế về R&D dược phẩm nói chung.
Bảng 4: Chi phí cho R&D của một số doanh nghiệp
Công ty DHG IMP DCL
% chi phí nghiên cứu/doanh thu 1% 5% 2%
Số nhân viên nghiên cứu 33 25 25
Nguồn: Tạp chí thương mại
2. Kết quả hoạt động xuất – nhập khẩu dược phẩm Việt Nam

Cùng với tốc độ phát triển kinh tế của cả nước, dược phẩm Việt nam đã không
ngừng phát triển, đổi mới công tác quản lý, nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao
năng lực cạnh tranh, hiệu quả hoạt động và xây dựng thương hiệu trên thị trường.
Lượng thuốc sản xuất trong nước đã đáp ứng được 50.2% nhu cầu tiêu dùng (năm
2009) và dành cho xuất khẩu sang các nước và vùng lãnh thổ trong khu vực và trên
Đoàn Thị Thùy Dương Kế hoạch 48A
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thế giới. Mặc dù doanh thu xuất khẩu thuốc của doanh nghiệp dược nước ta còn nhỏ
nhưng đây là nền tảng để thúc đẩy phát triển ngành dược và tiến tới xây dựng thương
hiệu dược phẩm của Việt Nam.
Về xuất khẩu:
Theo Cục quản lý dược Việt Nam, xuất khẩu dược phẩm trong những năm gần
đây cũng có nhiều khởi sắc, tổng giá trị xuất khẩu năm 2007 đạt 22,1 triệu USD, tăng
22,1% so với năm 2006 và năm 2008 trị giá tiền thuốc xuất khẩu đạt 33,32 triệu USD
thấp hơn 17,1% so với kế hoạch năm 2008 (39,0 triệu) do ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới. Tuy nhiên, so với giá trị sản xuất thuốc trong nước, con số này
còn quá khiêm tốn. Xuất khẩu dược phẩm năm 2008 chỉ mới đạt tỷ trọng 5,6% so với
tổng giá trị dược phẩm sản xuất trong nước. Các doanh nghiệp đã cố gắng duy trì
củng cố và phát triển các thị trường xuất khẩu truyền thống như khu vực Châu Âu:
Nga, Ukraina, Moldova, một số nước Đông Âu cũ; khu vực Châu Á: Lào,
Campuchia, Myanma, Malayxia; khu vực Châu Phi: Congo, Nigeria...
Công ty Dược Hậu Giang cho biết, mấy năm trở lại đây công ty này đã xuất
khẩu được một số đơn hàng sang Nga, Campuchia, tuy nhiên số lượng xuất khẩu còn
rất nhỏ. Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của công ty là Kim Tiền Thảo, thuốc kháng
sinh, một số loại vitamin tổng hợp và một số mặt hàng khác theo yêu cầu của đối tác.
Các đối tác của công ty chủ yếu là các Việt kiều, mua hàng của công ty rồi bán các
nước sở tại.
Hình 1: Biểu đồ xu hướng về kim ngạch xuất khẩu dược phẩm Việt Nam.
Đoàn Thị Thùy Dương Kế hoạch 48A

25

×