B GIÁO DC VÀ ÀO TO
TRNG I HC KINH T TP. H CHÍ MINH
B
B
Ù
Ù
I
I
T
T
H
H
X
X
U
U
Â
Â
N
N
D
D
U
U
N
N
G
G
HOÀN THIN CÔNG TÁC PHÂN LOI
N VÀ TRÍCH LP D PHÒNG RI RO
TÍN DNG TI NGÂN HÀNG THNG
MI C PHN SÀI GÒN THNG TÍN
LUN VN THC S KINH T
CHUYÊN NGÀNH: KINH T TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
MÃ S: 60.31.12
NGI HNG DN: PGS.TS PHM VN NNG
TP.H CHÍ MINH – NM 2011
-\
LI CAM OAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cu ca riêng tôi. Nhng
thông tin và ni dung nêu trong đ tài đu da trên nghiên cu thc t và hoàn
toàn đúng vi ngun trích dn
Tác gi đ tài: Bùi Th Xuân Dung
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
NH Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín
TCTD Tổ chức tín dụng
DPRR Dự phòng rủi ro
CVĐ Có vấn đề
NPL Tình hình nợ xấu
RRTD Rủi ro tín dụng
HTXHTDNB Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Rủi ro tín dụng là điều khó tránh khỏi trong hoạt động kinh doanh của các tổ
chức tín dụng (TCTD), nó có thể xảy ra ít hay nhiều phụ thuộc vào chất lượng tín
dụng của các TCTD. Song, chính rủi ro tín dụng đang là nỗi trăn trở của các nhà
quản trò ngân hàng; đồng hành với rủi ro, thu nhập của các TCTD chiếm gần
90% từ các khoản đầu tư thông qua hoạt động tín dụng hiện nay.
Do đó, Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã ban hành quyết đònh
493/2005-QĐ/NHNN ngày 22/4/2005 “Quy đònh về phân loại nợ, trích lập và sử
dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng” đã góp phần
tác động trực tiếp đến công tác quản lý, nâng cao chất lượng và giảm thiểu rủi
ro, xử lý kòp thời những tổn thất có thể xảy ra từ hoạt động kinh doanh Ngân
hàng.
Thông qua những kiến thức được học, tôi quyết đònh chọn đề tài “Hoàn thiện
công tác phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng tại NHTMCP Sài
Gòn Thương Tín” để từ đó thấy được tầm quan trọng của chất lượng tín dụng.
Đồng thời, tôi hy vọng đề tài này sẽ mang lại những ý kiến đóng góp cho Chi
nhánh trong việc
làm tốt công tác phân loại nợ và trích lập dự phòng. Nh vy
mới phòng ngừa và tránh những tổn thất có thể xảy ra một cách có hiệu quả.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Tìm hiểu công tác phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng tại
NHTMCP Sài Gòn Thương Tín từ đó rút ra những nhận xét, đề xuất những giải
pháp, ý kiến nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu suốt đề tài này là phương pháp quy nạp, phân tích hoạt
động kinh tế, so sánh, đối chiếu. Qua đó đề ra những giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng tín dụng để phòng ngừa rủi ro tín dụng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Do những hạn chế của nền kinh tế và của bản thân các NH mà thực trạng hoạt
động tín dụng còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Qua bài viết này, tôi muốn đưa
ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại NHTMCP
Sài Gòn Thương Tín.
1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN LOẠI N VÀ
TRÍCH LẬP DỰ PHÒNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Tổng quan về rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm về Ngân hàng thương mại
Theo Pháp lệnh Ngân hàng ngày 23/05/1990: Ngân hàng thương mại là tổ chức
kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền ký gửi từ
khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện
nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Theo luật các tổ chức tín dụng số 42/2010/QH12 năm 2010 ( có hiệu lực từ
01/01/2011), ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả
các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy đònh của
luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận.
So với pháp lệnh Ngân hàng cách đây 20 năm thì luật các TCTD năm 2010 đưa
ra khái niệm về ngân hàng thương mại ngắn gọn hơn nhưng đầy đủ hơn. Theo
đó, ngân hàng thương mại là một loại hình ngân hàng, mà ngân hàng là một loại
hình tổ chức tín dụng và tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện các họat
động ngân hàng. Tóm lại, ngân hàng thương mại là doanh nghiệp thực hiện một,
một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng và các họat động kinh doanh khác
theo quy đònh của luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Họat động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên các nghiệp vụ
sau: (i) nhận tiền gửi; (ii) cấp tín dụng; (iii) cung ứng dòch vụ thanh toán qua tài
khoản.
+ Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền
gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ
2
tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc
có hòan trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận.
+ Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền
hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả
bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh
ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
+ Cung ứng dòch vụ thanh toán qua tài khoản là việc cung ứng phương tiện
thanh toán; thực hiện dòch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy
nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dòch vụ thanh toán khác cho khách
hàng thông qua tài khoản của khách hàng.
Luật này đã nêu rất cụ thể các hoạt động của ngân hàng, bổ sung nhiều nghiệp
vụ ngân hàng mới so với pháp lệnh năm 1990, phù hợp với hoạt động thực tiễn
của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay.
1.1.2 Khái niệm về rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại
Trong bất cứ hoạt động kinh doanh nào cũng tiềm ẩn những rủi ro. Rủi ro được
hiểu là những nguy cơ tiềm tàng có thể dẫn đến thiệt hại về vật chất hoặc tinh
thần. Một trong những đặc tính của rủi ro là khó xác đònh (có thể xảy ra hay
không, xảy ra lúc nào và thiệt hại ở mức độ nào). Hoạt động Ngân hàng được
đánh giá là một trong những hoạt động kinh doanh tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro
cao. Rủi ro hoạt động Ngân hàng được hiểu là những rủi ro có khả năng gây ra
những tổn thất tài chính cho Ngân hàng, dẫn đến việc làm giảm năng lực kinh
doanh và khả năng trả các khoản nợ, trong đó chủ yếu là các khoản tiền gửi.
Trong các hoạt động nghiệp vụ tài sản có của Ngân hàng thì hoạt động tín dụng
chiếm tỷ trọng lớn nhất, và cũng là hoạt động mang lại doanh thu chủ yếu cho
Ngân hàng. Tuy nhiên, Ngân hàng phải đối mặt nhiều nhất là rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng: là loại rủi ro dẫn đến tổn thất tài sản trong trường hợp khách
3
hàng vay vốn được cấp tín dụng không có khả năng thực hiện một phần hoặc
toàn bộ những cam kết nêu tại hợp đồng tín dụng đã ký với Ngân hàng.
Hiểu theo nghóa rộng, rủi ro tín dụng là tất cả những khả năng mà theo đó, Ngân
hàng sẽ không thể thu hồi đầy đủ và đúng hạn các khoản tín dụng đã cấp. Nói
cách khác, rủi ro tín dụng là việc khách hàng không trả đầy đủ những khoản nợ
đối với Ngân hàng theo đúng cam kết, dù với bất kỳ lý do gì. Rủi ro tín dụng sẽ
gây nên những thiệt hại đối với Ngân hàng, làm mất mác nguồn vốn và làm suy
giảm khả năng chi trả và khả năng thanh toán các khoản nợ. Vì thế, rủi ro trong
hoạt động tín dụng luôn là mối quan tâm hàng đầu không chỉ của bản thân các
Ngân hàng thương mại mà còn của NHNN trong việc điều hành quản lý chung
toàn hệ thống Ngân hàng.
1.1.3 Nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng:
Loại rủi ro này có thể phát sinh do những nguyên nhân khách quan hoặc chủ
quan từ phía khách hàng và Ngân hàng.
1.1.3.1 Nguyên nhân khách quan
Từ phía khách hàng: Rủi ro tín dụng phát sinh có thể do những nguyên nhân chủ
quan lẫn khách quan. Về mặt chủ quan có thể do trình độ quản lý của khách
hàng yếu kém dẫn đến sử dụng vốn vay kém hiệu quả, sử dụng vốn vay sai mục
đích làm ảnh hưởng đến khả năng trả nợ hoặc cũng có thể do khách hàng thiếu
thiện chí trong việc trả nợ, hoặc do tình hình tài chính yếu kém, thiếu minh bạch,
các báo cáo mà khách hàng đưa cho Ngân hàng không trung thực, khách hàng cố
ý che dấu sự yếu kém của mình nhằm mục đích rút được tiền của Ngân hàng.
Về mặt khách quan có thể do khách hàng gặp phải những thay đổi của môi
trường kinh doanh không thể đo lường trước được, chẳng hạn như sự thay đổi về
giá cả hay nhu cầu của thò trường, về môi trường pháp lý hay chính sách của
Chính phủ khiến doanh nghiệp lâm vào cảnh khó khăn về tài chính không thể
4
khắc phục được mặc dù có thiện chí nhưng cũng không có đủ khả năng trả nợ.
Từ môi trường kinh tế vó mô: Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chòu sự
tác động rất lớn từ sự biến động của môi trường kinh doanh không chỉ trong nước
mà còn chòu ảnh hưởng từ nền kinh tế thế giới. Khủng hoảng kinh tế xảy ra gây
cho các doanh nghiệp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó là sự thay đổi chính sách
kinh tế vó mô của Chính phủ hay NHNN có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, chẳng hạn như chính sách gia tăng dự trữ bắt
buộc, tăng lãi suất, tăng tỷ giá… thì ngay lập tức sẽ ảnh hưởng đến các doanh
nghiệp ở những mức độ nhiều ít khác nhau.
1.1.3.2 Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất: thiếu thông tin. Các Ngân hàng chưa xây dựng được kho dữ liệu thống
kê về các chỉ tiêu tài chính của từng ngành nghề để làm cơ sở so sánh, đối chiếu
với số liệu hiện tại của khách hàng. Nếu Ngân hàng có đầy đủ thông tin về các
chỉ số trung bình ngành, thì sẽ giúp việc đánh giá tình hình hoạt động cũng như
khả năng tài chính của khách hàng chính xác hơn. Việc thiếu thông tin trên đã
gây không ít khó khăn cho Ngân hàng trong việc thẩm đònh hồ sơ vay của khách
hàng, từ đó dẫn đến việc đưa ra quyết đònh cho vay không phù hợp, tiềm ẩn rủi
ro tín dụng về sau.
Thứ hai: quy trình thẩm đònh và ra quyết đònh cho vay chưa chặt chẽ cũng là
nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng. Quá trình xét duyệt cho vay nhiều nơi còn
lỏng lẻo, chỉ một cán bộ tín dụng xem xét hồ sơ rồi trình lên trưởng phòng và
giám đốc quyết đònh cho vay, như thế thì giám đốc được toàn quyền quyết đònh
theo ý kiến chủ quan của mình, dễ phát sinh tiêu cực dẫn đến rủi ro. Ngoài ra,
các Ngân hàng còn thiếu các bộ phận chuyên trách để quản lý rủi ro, quản lý
hạn mức tín dụng tối đa cho từng khách hàng thuộc từng ngành nghề khác nhau.
Vấn đề chỉ tiêu kế hoạch tín dụng cũng gây khó khăn, do phải chạy theo số
5
lượng dư nợ mà đôi khi Ngân hàng cũng đã bỏ qua việc coi trọng chất lượng tín
dụng.
Thứ ba: yếu tố con người. Con người đóng vai trò quyết đònh đến sự thành công
hay thất bại của việc kinh doanh. Trước tiên là vấn đề trình độ và năng lực của
cán bộ
Ngân hàng, do năng lực yếu kém nên đánh giá sai về năng lực của khách hàng
vay cũng như đánh giá sai về hiệu quả phương án vay vốn của khách hàng, dẫn
đến tình trạng khách hàng không trả được nợ vay. Cán bộ Ngân hàng còn quá
chủ quan tin tưởng vào khách hàng nên không thực hiện đúng theo quy trình
giám sát khoản vay trước và sau khi cho vay, không phát hiện kòp thời các khoản
tiền vay được sử dụng sai mục đích, quá tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo lãnh,
coi đó là vật đảm bảo chắc chắn cho sự thu hồi cả gốc và lãi tiền vay. Ngoài ra,
rủi ro tín dụng còn xảy ra do cán bộ Ngân hàng mất phẩm chất đạo đức, cố ý
làm trái quy đònh của NHNN về xét duyệt cho vay, móc nối với khách hàng để
làm những chuyện phi pháp.
Tóm lại, rủi ro tín dụng phát sinh do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng cho
dù từ nguyên nhân nào đi nữa thì việc này cũng ảnh hưởng, gây rất nhiều khó
khăn, trước mắt là cho bản thân Ngân hàng và nếu tổn thất nhiều thì cũng sẽ ảnh
hưởng đến toàn bộ nền kinh tế.
1.1.4 nh hưởng của rủi ro tín dụng
1.1.4.1 nh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
Với chức năng trung gian tín dụng, nguồn vốn cho vay của Ngân hàng chủ yếu
từ nguồn vốn huy động tiền nhàn rỗi trong dân cư. Vì thế, khi rủi ro tín dụng xảy
ra, đồng nghóa Ngân hàng không thu hồi được số tiền đã cho vay, cả gốc và lãi,
trong khi Ngân hàng bắt buộc phải hoàn trả vốn gốc và tiền lãi cho các khoản
tiền đã huy động, điều này làm mất cân đối trong việc thu chi, ảnh hưởng xấu
6
đến khả năng thanh khoản của Ngân hàng. Tùy theo khoản tiền cho vay không
thể thu hồi nhiều hay ít mà nó ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản đến mức độ
nào, làm cho năng lực tài chính của Ngân hàng sụt giảm, và chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu
sẽ làm ảnh hưởng đến uy tín và khả năng cạnh tranh của Ngân hàng mà đặc biệt
là trong giai đoạn cạnh tranh khốc liệt như hiện nay. Nếu Ngân hàng có trích lập
dự phòng rủi ro tín dụng thì rủi ro sẽ làm gia tăng dự phòng, gia tăng chi phí hoạt
động, làm giảm lợi nhuận, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng kém hiệu quả.
Nếu rủi ro gây ra thất thoát quá lớn có khả năng dẫn Ngân hàng đến thua lỗ
hoặc đưa đến bờ vực phá sản nếu không có biện pháp xử lý, khắc phục kòp thời.
1.1.4.2 nh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế
Ngân hàng là doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh tiền tệ và cung cấp sản phẩm
dòch vụ, phục vụ khách hàng cá nhân, doanh nghiệp và mọi thành phần kinh tế.
Ngân hàng hoạt động kinh doanh chủ yếu dựa vào uy tín, khả năng tài chính của
mình và là nơi đáng tin cậy để khách hàng “gửi trọn niềm tin”. Khách hàng đến
với Ngân hàng do có niềm tin vào sự an toàn của Ngân hàng, bất kể là khách
hàng gửi tiền, vay tiền hay sử dụng các dòch vụ khác của Ngân hàng. Vì thế, khi
Ngân hàng gặp phải rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng mà có ảnh hưởng lớn đến
hoạt động của Ngân hàng sẽ làm cho niềm tin của khách hàng về Ngân hàng đó
bò lung lay, khách hàng sẽ lập tức đến rút tiền gửi để bảo toàn vốn của mình, và
tâm lý bất an sẽ lây lan đến nhiều người, khách hàng sẽ ồ ạt đến rút tiền gửi làm
cho Ngân hàng đang gặp khó khăn về thanh khoản càng khó khăn hơn, điều này
càng làm cho khách hàng hoang mang lo sợ, tình hình càng trở nên trầm trọng
hơn, đời sống của người dân bò xáo trộn, mọi người không thể yên tâm làm việc,
gây mất trật tự xã hội. Đặc biệt, không chỉ khách hàng của một Ngân hàng có
rủi ro mất niềm tin vào Ngân hàng, mà lúc này sẽ có ảnh hưởng dây chuyền đến
tất cả khách hàng của các Ngân hàng khác, và như thế cả hệ thống Ngân hàng
7
đều rơi vào tình trạng khó khăn chung, gây khủng hoảng kinh tế.
Ngoài ra, Ngân hàng còn là nơi cung cấp vốn cho hoạt động sản xuất kinh
doanh, cung cấp dòch vụ phục vụ hoạt động kinh doanh của doanh nhgiệp. Khi
Ngân hàng gặp khó khăn, ngừng hoạt động sẽ làm ảnh hưởng đến hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp thiếu vốn sẽ thu hẹp sản xuất, chi
phí sản xuất gia tăng do phải tìm nguồn vốn giá cao khác, gia tăng giá thành sản
phẩm, đời sống công nhân lao động không được đảm bảo. Tác động đó ảnh
hưởng đến toàn bộ nền kinh tế, làm nền kinh tế bò suy thoái, giá cả tăng, sức
mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn đònh.
Bên cạnh đó, rủi ro tín dụng cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới vì ngày
nay nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Tóm lại, rủi ro là điều không ai muốn xảy ra, bất kể đó là loại rủi ro gì, nhưng
thực tế rủi ro vẫn xảy ra, cho dù là nguyên nhân khách quan hay chủ quan nó
cũng gây ra những thiệt hại cho cả Ngân hàng lẫn khách hàng và cho cả nền
kinh tế nói chung. Thiệt hại nhiều hay ít tùy thuộc vào mức độ rủi ro, rủi ro càng
nhiều, thiệt hại càng ít và ngược lại. Do đó, vấn đề kiểm soát rủi ro tín dụng
luôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu không chỉ của bản thân từng Ngân hàng
mà còn là nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước.
1.1.5 Đánh giá rủi ro tín dụng
Để đánh giá rủi ro tín dụng, người ta dựa trên các chỉ tiêu cơ bản sau:
Tỷ lệ nợ quá hạn = Dư nợ quá hạn
Tổng dư nợ cho vay
Tỷ lệ nợ xấu = Dư nợ xấu
Tổng dư nợ cho vay
Tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ nợ xấu càng cao thì rủi ro tín dụng càng cao, hệ số này
8
đo lường mức độ rủi ro hoạt động tín dụng của Ngân hàng.
Hệ số rủi ro tín dụng = Tổng dư nợ cho vay
Tổng tài sản Có
Hệ số này phản ánh tỷ trọng của khoản mục tín dụng trong tổng tài sản Có,
khoản mục tín dụng trong tài sản Có càng lớn thì lợi nhuận càng cao nhưng đồng
thời rủi ro tín dụng cũng sẽ gia tăng.
1.1.6 Biện pháp quản lý rủi ro tín dụng
1.1.6.1 Quản lý rủi ro tín dụng theo thông lệ quốc tế
Trong bối cảnh hội nhập với nền kinh tế thế giới thì việc tiếp cận với các chuẩn
mực quốc tế là điều tất yếu. Hiện nay các nước đang áp dụng IAS 39 hay Basel
II.
Basel II là hiệp ước quốc tế về tiêu chuẩn an toàn vốn, tăng cường quản trò toàn
cầu hóa tài chính cũng như việc khai thác tối đa tiềm năng lợi nhuận và hạn chế
rủi ro.
Mục tiêu của Basel II là nâng cao chất lượng và sự ổn đònh của hệ thống Ngân
hàng quốc tế; tạo lập và duy trì một sân chơi bình đẳng cho các Ngân hàng hoạt
động trên bình diện quốc tế; đẩy mạnh việc chấp nhận các thông lệ nghiêm ngặt
hơn trong quản lý rủi ro.
Hiệp ước này bao gồm một loạt các chuẩn mực giám sát nhằm hoàn thiện các
kỹ thuật quản trò rủi ro và được cấu trúc theo 3 trụ cột.
Trụ cột thứ nhất: yêu cầu vốn tối thiểu. Một ngân hàng được xem là đủ vốn khi
có tỷ lệ thỏa đáng về vốn ( CAR) tối thiểu bằng 8%.
CAR = Vốn Ngân hàng
Tài sản có rủi ro quy đổi ( RWA)
Các ngân hàng cần phải duy trì một lượng vốn đủ lớn để trang trải cho các hoạt
9
động chòu rủi ro của mình, bao gồm rủi ro tín dụng, rủi ro thò trường và rủi ro
hoạt động.
Rủi ro thò trường gồm rủi ro thò trường chung và rủi ro thò trường cụ thể. Rủi ro
thò trường chung đề cập đến những thay đổi về giá trò thò trường do có sự biến
động lớn trên thò trường. Rủi ro thò trường cụ thể là những thay đổi về giá trò một
loại tài sản nhất đònh do ảnh hưởng của tỷ giá, lãi suất, ngoại hối, chứng khoán…
Rủi ro hoạt động, Basel II đònh nghóa là rủi ro xảy ra tổn thất do các qui trình,
hệ thống hay nhân viên trong nội bộ ngân hàng vận hành không tốt hoặc do các
nguyên nhân khách quan bên ngoài. Đây là một trong những rủi ro trầm trọng
mà ngân hàng thường phải đối mặt trong quá trình hoạt động.
Trụ cột thứ hai: liên quan tới việc hoạch đònh chính sách Ngân hàng.
Trụ cột này tập trung vào việc xây dựng hệ thống quản lý rủi ro. Quy trình kiểm
soát trong Basel II không chỉ để đảm bảo rằng ngân hàng có đủ vốn để giải
quyết tất cả
các rủi ro trong hoạt động kinh doanh mà còn khuyến khích ngân hàng phát triển
và sử dụng các kỹ thuật quản lý rủi ro tốt hơn.
Trụ cột thứ ba: các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng
theo nguyên tắc thò trường. Trong đó nhấn mạnh đến việc công bố các loại thông
tin về rủi ro, dự trữ, vốn.
Tóm lại, quá trình phát triển của Basel và những hiệp ước mà tổ chức này đưa
ra yêu cầu các NHTM ngày càng hoạt động một cách minh bạch hơn, đảm bảo
vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và như thế sẽ giảm thiểu được rủi ro.
NHNN và các NHTM VN cũng đang từng bước áp dụng các chuẩn mực của
Basel II. Và mới đây, NHNN đã ban hành quy đònh mới về các tỷ lệ bảo đảm an
toàn trong hoạt động của TCTD (Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày
20/05/2010). Đây là bước tiến quan trọng trong việc từng bước áp dụng các
10
chuẩn mực Basel II tại VN. Về phía các NHTM VN, Basel II đã có ảnh hưởng
lớn trong việc nâng cao năng lực quản trò điều hành, nhất là năng lực quản lý rủi
ro. Bên cạnh việc tuân thủ các quy đònh bắt buộc của NHNN, thì các NHTM
cũng đang rất nỗ lực để hoàn thiện hơn nữa hệ thống quản trò rủi ro của Ngân
hàng mình cho phù hợp với điều kiện hoạt động cụ thể của mỗi Ngân hàng và
từng bước tiếp cận với các chuẩn mực của basel II.
1.1.6.2 Quy đònh về hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ
Việc xây dựng một hệ thống kiểm soát nội bộ hiệu quả là yêu cầu cấp thiết để
đảm bảo hoạt động Ngân hàng được an toàn, hạn chế rủi ro, từ đó tăng cường
khả năng cạnh tranh của các Ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh hội nhập. Vì
thế, NHNN đã ban hành Quyết đònh số 03/1998/QĐ-NHNN3 ngày 03/01/1998
về “Quy chế về kiểm tra, kiểm toán nội bộ của các TCTD” và quyết đònh này
được thay thế bằng Quyết đònh số 37/2006/QĐ-NHNN ngày 01/08/2006, kèm
theo đó là quyết đònh số 36/2006/QĐ-NHNN ngày 01/08/2006 ban hành “Quy
chế về kiểm soát nội bộ của TCTD”.
Gần đây nhất là luật TCTD năm 2010 số 47/2010/QH12 quy đònh các TCTD
phải xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ. Theo điều 40 của luật này, hệ thống
kiểm soát nội bộ là tập hợp các cơ chế, chính sách, quy trình, quy đònh nội bộ và
cơ cấu của TCTD được xây dựng phù hợp với hướng dẫn của NHNN và được tổ
chức thực hiện nhằm bảo đảm phòng ngừa, phát hiện, xử lý kòp thời rủi ro và đạt
được yêu cầu đặt ra.
Mục đích tối thiểu được đặt ra đối với hệ thống kiểm soát nội bộ là:
- Hiệu quả và an toàn trong hoạt động
- Bảo đảm hệ thống thông tin tài chính và thông tin quản lý trung thực,
hợp lí, đầy đủ và kòp thời
- Bảo đảm tuân thủ pháp luật và các quy chế, quy trình, quy đònh nội bộ.
11
Hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ của TCTD phải được kiểm toán nội
bộ, tổ chức kiểm toán độc lập đánh giá đònh kỳ.
Do đó, điều 41 luật TCTD năm 2010 số 47/2010/QH12 đã quy đònh các TCTD
phải thành lập kiểm toán nội bộ chuyên trách thực hiện kiểm toán nội bộ TCTD.
Kiểm toán nội bộ thực hiện rà soát, đánh giá độc lập, khách quan đối với hệ
thống kiểm soát nội bộ, đánh giá độc lập về tính thích hợp và sự tuân thủ quy
đònh, chính sách nội bộ, thủ tục, quy trình đã được thiết lập trong TCTD; đưa ra
kiến nghò nhằm nâng cao hiệu quả của các hệ thống, quy trình, quy đònh, góp
phần bảo đảm TCTD hoạt động an toàn, hiệu quả, đúng pháp luật.
1.1.6.3 Quy đònh về các tỷ lệ bảo đảm an toàn
Hiện nay, NHNN đã ban hành thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010
quy đònh về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của các TCTD. Thông tư
này có hiệu lực từ ngày 01/10/2010 và quy đònh các tỷ lệ bảo đảm an toàn về:
+ Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
+ Giới hạn tín dụng
+ Tỷ lệ khả năng chi trả
+ Giới hạn góp vốn, mua cổ phần
+ Tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động.
Thông tư yêu cầu các TCTD phải đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) ở
mức 9% (là tỷ lệ giữa vốn tự có và tổng tài sản Có đã nhân với hệ số rủi ro) là
phù hợp với chuẩn mực quốc tế (Basel II quy đònh 8%), đồng thời thông tư cũng
quy đònh hệ số rủi ro ở các mức 0%, 20%, 50%, 100%, 150%,250%. Quy đònh
mới này yêu cầu các TCTD giám sát chặt chẽ hơn danh mục tài sản Có để đảm
bảo tỷ lệ vốn tối thiểu theo quy đònh của NHNN và cũng để giảm thiểu rủi ro
cho ngân hàng. Đặc biệt đối với các khoản cho vay để đầu tư chứng khoán; cho
vay các công ty chứng khoán; các khoản cho vay nhằm mục đích kinh doanh bất
12
động sản được quy đònh hệ số rủi ro 250% (hệ số rủi ro cao nhất). Việc nâng cao
hệ số rủi ro như hiện nay làm cho các TCTD khó khăn trong việc đáp ứng tỷ lệ
an toàn vốn tối thiểu, do đó đòi hỏi TCTD phải có giải pháp kinh doanh hợp lý
và hiệu quả.
Thông tư cũng ban hành cụ thể mức giới hạn tín dụng cấp cho một khách hàng
hoặc một nhóm khách hàng liên quan căn cứ vào tỷ lệ phần trăm trên vốn tự có
của ngân hàng. Đặc biệt là các khoản cấp tín dụng với mục đích kinh doanh
chứng khoán bò hạn chế nhiều. Cụ thể, yêu cầu TCTD không được cho vay
không có bảo đảm để đầu tư, kinh doanh chứng khoán hay không được cấp tín
dụng cho công ty trực thuộc là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh chứng
khoán… Các TCTD tuân thủ theo những quy đònh trên sẽ hạn chế rủi ro trong
hoạt động tín dụng.
1.1.6.4 Quy đònh về phân loại nợ và trích lập dự phòng
Một trong những yêu cầu của hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng là việc TCTD
phải thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro. Phân loại nợ nhằm xếp
một khoản nợ vào một nhóm nhất đònh dựa trên việc đánh giá về khả năng thu
hồi khoản nợ ấy, và trích lập dự phòng theo tỉ lệ quy đònh. Khoản dự phòng này
được hạch toán vào chi phí hoạt động.
Nói chung, để hạn chế rủi ro tín dụng có ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế
xã hội, NHNN đã đề ra rất nhiều biện pháp kiểm soát rủi ro, chủ yếu yêu cầu
các
TCTD tự giác trong việc kiểm soát hoạt động của mình. Tuy nhiên, rủi ro là
việc ngoài ý muốn, nằm ngoài khả năng kiểm soát, do đó để hạn chế thiệt hại,
các TCTD phải thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro.
1.2 Tổng quan về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng tại các
Ngân hàng thương mại Việt Nam
13
1.2.1 Mục tiêu của phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
Phân loại nợ là quá trình Ngân hàng xem xét lại danh mục các khoản nợ và
phân chia chúng thành các mục hoặc các nhóm khác nhau dựa trên mức độ rủi ro
hoặc các đặc điểm liên quan khác nhau của những khoản nợ đó. Quá trình liên
tục xem xét và phân loại nợ sẽ giúp cho Ngân hàng theo dõi được chất lượng
của các danh mục nợ và có những hành động khắc phục kòp thời như trích lập dự
phòng để đối phó với tình hình xấu đi của các khoản nợ. Xét về mặt kế toán, nợ
là xấu và những dự phòng cần thiết cần được trích lập nếu như Ngân hàng không
thu lại được một phần hay toàn bộ số tiền khi đáo hạn (bao gồm cả gốc và lãi)
theo những điều khoản của hợp đồng vay. Các nhà quản lý Ngân hàng phải đánh
giá được những tổn thất tín dụng đối với các khoản cho vay, đây là quá trình đòi
hỏi sự đánh giá đúng đắn vì kết quả của phân loại nợ sẽ ngược lại với mục tiêu
lợi nhuận của Ngân hàng vì số tiền trích lập dự phòng sẽ hạch toán vào chi phí
của Ngân hàng, do đó trích lập dự phòng càng nhiều thì lợi nhuận càng giảm và
ngược lại.
1.2.2 Văn bản pháp lý về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
Điều 82 luật TCTD năm 1997 và điều 131 luật các TCTD năm 2010 yêu cầu
TCTD phải dự phòng rủi ro trong hoạt động Ngân hàng. Số tiền dự phòng được
trích lập căn cứ vào việc phân loại tài sản “Có”, mức trích, phương pháp lập
khoản dự phòng và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro do NHNN quy đònh.
Theo quyết đònh 488/2000/QĐ-NHNN5 ngày 27/11/2000 của NHNN, tài sản
“Có” của hoạt động cấp tín dụng được phân thành 4 nhóm, mỗi nhóm có mức
trích lập khác nhau. Những khoản nợ trong hạn (kể cả những khoản nợ được gia
hạn) có mức
trích lập dự phòng 0%; những khoản cho vay có bảo đảm bằng tài sản quá hạn
trả nợ dưới 181 ngày, hoặc những khoản cho vay không có tài sản bảo đảm quá
14
hạn trả nợ dưới 91 ngày có mức trích lập dự phòng 20%; những khoản cho vay
có bảo đảm bằng tài sản quá hạn từ 180 ngày đến dưới 361 ngày, hoặc những
khoản cho vay không có tài sản bảo đảm quá hạn trả nợ từ 91 ngày đến dưới 181
ngày có mức trích lập dự phòng là 50%; những khoản cho vay có bảo đảm bằng
tài sản quá hạn trả nợ từ 361 ngày trở lên, hoặc những khoản cho vay không có
tài sản bảo đảm quá hạn trả nợ từ 181 ngày trở lên có mức trích dự phòng 100%.
Theo đó, những khoản nợ vay được gia hạn nợ cũng đã thể hiện khả năng trả nợ
của khách hàng suy giảm, nguy cơ rủi ro cho Ngân hàng nhưng lại được xem là
nợ tốt, mức trích lập dự phòng 0%, điều này chưa hợp lý. Bên cạnh đó, quy đònh
này cũng chưa thực sự quan tâm đến công tác phân loại nợ ngay từ khi khoản nợ
đó chưa quá hạn, đồng thời cũng không xác đònh được vai trò của tài sản bảo
đảm đối với việc trích lập dự phòng, do đó không khuyến khích được các Ngân
hàng thực hiện các biện pháp cho vay có bảo đảm bằng tài sản.
Vì thế, NHNN đã ban hành quyết đònh 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005
thay thế quyết đònh 488/2000/QĐ-NHNN5 về việc “Quy đònh về phân loại nợ,
trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng
của TCTD” và quyết đònh 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 về việc sửa đổi,
bổ sung một số điều của quy đònh về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự
phòng. Theo đó, dự phòng rủi ro là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho
những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng không thực hiện nghóa vụ theo cam
kết. Và dự phòng rủi ro này được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí
hoạt động.
1.2.3 Quy tắc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
1.2.3.1 Quy tắc phân loại nợ
QĐ 493/2005/QĐ-NHNN đưa ra hai hình thức phân loại nợ là đònh tính và đònh
lượng, kèm theo là các tiêu chí phân loại nợ, tương ứng với mỗi hình thức có 5
15
nhóm nợ với tỷ lệ trích lập dự phòng ở cả hai hình thức phân loại nợ là như nhau.
Nợ nhóm 1 được xem là nợ đủ tiêu chuẩn, nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5 được xem
là nợ không đủ tiêu chuẩn.
a/ Phân loại nợ theo phương pháp đònh lượng (Điều 6 QĐ 493/2005/QĐ-NHNN)
Các khoản nợ vay được phân thành 5 nhóm như sau:
Nhóm 1: (Nợ đủ tiêu chuẩn)
- Các khoản nợ trong hạn và TCTD đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả
gốc và lãi đúng hạn;
- Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và TCTD đánh giá là có khả năng thu hồi
đầy đủ gốc và lãi bò quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại.
Nhóm 2: (Nợ cần chú ý)
- Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày;
- Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là doanh
nghiệp, tổ chức thì TCTD phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về khả năng trả nợ
đầy đủ nợ gốc và lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu).
Nhóm 3: (Nợ dưới tiêu chuẩn)
- Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh
kỳ hạn trả nợ lần đầu được phân loại vào nhóm 2;
- Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả
lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.
Nhóm 4: (Nợ nghi ngờ)
- Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời
hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai.
16
Nhóm 5: (Nợ có khả năng mất vốn)
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo
thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ
được cơ cấu lại lần thứ hai;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bò quá
hạn hoặc đã quá hạn;
- Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý.
Đối với các khoản nợ bò quá hạn hay cơ cấu lại thời hạn trả nợ đã phân loại vào
nhóm nợ có rủi ro cao thì sau khi trả nợ đầy đủ, khoản nợ vay đó cần có thời
gian thử thách trước khi đưa trở về nhóm nợ có rủi ro thấp hơn, cụ thể: khách
hàng trả đầy đủ phần nợ gốc và lãi bò quá hạn và nợ gốc và lãi của các kỳ trả nợ
tiếp theo trong thời gian tối thiểu 06 tháng đối với khoản nợ trung và dài hạn, 03
tháng đối với khoản nợ ngắn hạn, kể từ ngày bắt đầu trả đầy đủ nợ gốc và lãi bò
quá hạn hoặc theo thời hạn được cơ cấu lại.
Toàn bộ dư nợ của một khách hàng tại một TCTD phải được phân loại vào cùng
một nhóm nợ. Nếu khách hàng có từ 02 khoản nợ trở lên tại TCTD mà có bất kỳ
một khoản nợ nào bò phân loại vào nhóm có rủi ro cao hơn các khoản nợ khác thì
TCTD phải phân loại lại các khoản nợ còn lại của khách hàng vào nhóm có rủi
ro cao nhất đó.
Ngoài ra, các khoản bảo lãnh, chấp nhận thanh toán và cam kết cho vay không
hủy ngang vô điều kiện và có thời điểm thực hiện cụ thể, TCTD phải phân loại
vào các nhóm trên tùy theo đánh giá của TCTD và trích lập dự phòng theo quy
đònh.
b/ Phân loại nợ theo phương pháp đònh tính (Điều 7 QĐ 493/2005/QĐ-NHNN)
17
Ngoài cách phân loại nợ theo phương pháp đònh lượng như trên, NHNN còn
khuyến khích các TCTD thực hiện phân loại nợ theo phương pháp đònh tính. Để
thực hiện được theo phương pháp này đòi hỏi TCTD phải xây dựng được hệ
thống xếp hạng tín dụng nội bộ phù hợp với hoạt động kinh doanh, đối tượng
khách hàng, tính chất rủi ro của khoản nợ và xây dựng chính sách dự phòng rủi
ro được NHNN chấp thuận.
Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ (HTXHTDNB) là công cụ đo lường rủi ro tín
dụng đối với từng khách hàng theo phương pháp dựa vào một thang điểm thống
nhất đánh giá các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính của khách hàng. Kết quả
chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng được sử dụng để xem xét cấp tín
dụng, phân loại nợ và quản lý rủi ro theo danh mục khách hàng.
o Một số các yếu tố phi tài chính thường được sử dụng trong HTXHTDNB gồm:
- Quy mô hoạt động của khách hàng ( vốn, số lượng lao động,doanh thu,
tổng tài sản…)
- Trình độ quản lý của khách hàng ( năng lực điều hành, khả năng xử lý
các vấn đề như bãi công, hệ thống kiểm soát nội bộ… )
- Mức chòu đựng các thay đổi thò trường của khách hàng;
- Danh tiếng, uy tín, chất lượng nhân lực và năng suất lao dộng của khách
hàng;
- Lónh vực hoạt động kinh doanh của khách hàng;
- Các chỉ số về tốc độ tăng trưởng về vốn, tài sản, nợ, doanh thu, lợi
nhuận qua từng kỳ.
o Một số các chỉ tiêu tài chính thường được sử dụng trong HTXHTDNB gồm:
1/ Các chỉ tiêu phản ánh hoạt động kinh doanh cho biết tình hình sử dụng nguồn
lực của khách hàng:
- Doanh thu thuần / các khoản phải thu
18
- Kỳ thu tiền bình quân: các khoản phải thu / doanh thu bình quân hàng
ngày
- Vòng quay hàng tồn kho: giá vốn hàng bán / hàng tồn kho bình quân
trong kỳ
- Hiệu suất sử dụng TSCĐ: Doanh thu thuần / tài sản cố đònh
- Hiệu suất sử dụng toàn bộ tài sản: Doanh thu thuần / tổng tài sản
- Hiệu suất sử dụng vốn: Doanh thu thuần / vốn chủ sở hữu
2/ Các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh khoản cho biết khả năng đáp ứng các
khoản nợ của doanh nghiệp:
- Khả năng thanh khoản hiện tại: tài sản ngắn hạn / nợ ngắn hạn
- Khả năng thanh toán nhanh: ( tài sản ngắn hạn-hàng tồn kho)/ nợ ngắn
hạn
- Tỷ lệ doanh thu trên vốn ngắn hạn: Doanh thu thuần / ( tài sản ngắn hạn
– nợ ngắn hạn)
- Tỷ lệ tài sản dài hạn trên vốn chủ sở hữu và nợ dài hạn
3/ Các chỉ tiêu phản ánh mức độ cân nợ để đánh giá mức độ doanh nghiệp sử
dụng vốn vay cho các hoạt động kinh doanh của mình, gồm:
- Tỷ lệ nợ phải trả trên tài sản: Tổng nợ / tổng tài sản
- Tỷ lệ nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu: Tổng nợ / Vốn chủ sở hữu
- Tỷ lệ nợ dài hạn trên vốn chủ sở hữu: Tổng nợ dài hạn / vốn chủ sở hữu
- Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ với ngân hàng: nợ quá hạn / tổng dư nợ
với tất cả các ngân hàng
- Tỷ lệ lợi nhuận giữ lại trên tổng tài sản: lợi nhuận giữ lại / tổng tài sản
4/ Các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời để đánh giá hiệu quả sản xuất, kinh
doanh và khả năng quản lý của doanh nghiệp:
- Tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu: lợi nhuận / doanh thu thuần
19
- Tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản: lợi nhuận ròng / tổng tài sản
- Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu: lợi nhuận sau thuế / vốn chủ sở hữu
- Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản: vốn chủ sở hữu / tổng tài sản
5/ Các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán tiền lãi:
- Thu nhập trước lãi và thuế / chi phí trả lãi
- Thu nhập trước thuế / chi phí trả lãi
Căn cứ vào kết quả xếp hạng tín dụng nội bộ, các khoản nợ vay cũng được phân
thành 05 nhóm nợ như sau:
Nhóm 01: (Nợ đủ tiêu chuẩn) gồm các khoản nợ được TCTD đánh giá là có khả
năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn.
Nhóm 02: (Nợ cần chú ý) gồm các khoản nợ được TCTD đánh giá là có khả
năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả
năng trả nợ.
Nhóm 03: (Nợ dưới tiêu chuẩn) gồm các khoản nợ được TCTD đánh giá là
không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được
TCTD đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi.
Nhóm 04: ( Nợ nghi ngờ) gồm các khoản nợ được TCTD đánh giá là khả năng
tổn thất cao.
Nhóm 05: (Nợ có khả năng mất vốn) gồm các khoản nợ được TCTD đánh giá là
không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với các nhóm nợ được phân loại theo phương
pháp đònh tính giống như tỷ lệ trích lập theo phương pháp đònh lượng.
Số tiền dự phòng cụ thể phải trích được tính theo công thức sau:
R = max{0,(A-C)} x r
Trong đó: R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích
A: giá trò của khoản nợ
20
C: giá trò của tài sản bảo đảm
r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể
Tài sản bảo đảm đưa vào để khấu trừ khi tính số tiền dự phòng cụ thể phải đáp
ứng các điều kiện sau:
- TCTD có quyền phát mại tài sản bảo đảm theo hợp đồng bảo đảm khi khách
hàng không thực hiện nghóa vụ theo cam kết;
- Thời gian tiến hành phát mại tài sản bảo đảm theo dự kiến của TCTD là không
quá 01 năm với tài sản bảo đảm không phải là bất động sản và không quá 02
năm đối với
tài sản bảo đảm là bất động sản, kể từ khi bắt đầu tiến hành việc phát mại tài
sản bảo đảm.
Tỷ lệ khấu trừ để xác đònh giá trò khấu trừ của tài sản bảo đảm do TCTD tự xác
đònh nhưng không được vượt quá tỷ lệ khấu trừ tối đa quy đònh sau đây:
Tỷ lệ khấu trừ của tài sản bảo đảm
Loại tài sản bảo đảm
Tỷ lệ khấu trừ
tối đa ( %)
Số dư trên tài khoản tiền gửi, sổ tiết kiệm, giấy tờ có giá
bằng đồng Việt Nam do TCTD phát hành
100%
Tín phiếu kho bạc, vàng, số dư trên tài khoản tiền gửi, sổ tiết
kiệm, giấy tờ có giá bằng ngoại tệ do TCTD phát hành
95%
Trái phiếu chính phủ:
- Có thời hạn còn lại từ 01 năm trở xuống
- Có thời hạn còn lại từ 01 năm đến 05 năm
- Có thời hạn còn lại trên 05 năm
95%
85%
80%