Mục lục 1
Lời mở đầu 4
NỘI DUNG 5
1. Cơ sở lý luận về thị trường chứng khoán 5
1.1 Khái niệm và bản chất của thị trường chứng khoán 4
1.2 Chức năng của thị trường chứng khoán 6
1.2.1 Chức năng thu hút vốn nhàn rỗi vào đầu tư phát triển 6
1.2.2 Chức năng điều tiết các nguồn vốn 6
1.2.3 Chức năng hoà nhập nền kinh tế thế giới 7
1.2.4 Chức năng điều tiết vĩ mô 7
1.2.5 Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng 7
1.2.6 Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán 7
1.2.7 Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp 8
1.3 Cấu trúc và phân loại thị trường chứng khoán 8
1.3.1Thị trường sơ cấp 8
1.3.2Thị trường thứ cấp 8
1.3.3 Thị trường chứng khoán tập trung 9
1.3.4 Thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC) 9
1.3.5 Thị trường giao ngay 10
1.3.6 Thị trường giao sau 10
1.4 Các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán 10
1.4.1 Nguyên tắc công khai 10
1.4.2 Nguyên tắc trung gian 10
1.4.3 Nguyên tắc đấu giá 11
1.5Các chủ thể tham gia vào thị trường chứng khoán 11
1.5.1 Nhà phát hành
11
1.5.2 Nhà đầu tư
12
1
1.5.3 Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán
12
1.5.4 Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán
12
1.6Cơ chế điều hành và giám sát thị trường chứng khoán 13
1.6.1 Sự cần thiết phải điều hành và giám sát thị trường chứng khoán 13
1.6.2 Cơ chế điều hành giám sát TTCK 14
2. Thực trạng của thị trường chứng khoán Việt Nam 16
2.1 Lịch sử phát triển 16
2.1.1 Lịch sử ra đời của UBCK nhà nước 16
2.1.2 Vị trí và chức năng của UBCK nhà nước 17
2.1.3 Nhiệm vụ và quyền hạn 17
2.2 Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội 19
2.2.1 Quá trình xây dựng mô hình hoạt động của TTGDCK Hà Nội 20
2.2.2 Hàng hoá giao dịch trên TTGDCK Hà Nội
21
2.3 Sở giao dịch chứng khoản TP.HCM 21
2.3.1. Nhiệm vụ 22
2.3.2. Quyền hạn 22
2.4 Thị trường chứng khoán UPCOM 23
2.5 Thị trường OTC 25
2.5.1 Khái niệm 25
2.5.2 Một số đặc trưng cơ bản
25
2.5.3 Những rủi ro thường gặp khi mua bán cổ phiếu OTC
27
2.6 Thị trường chứng khoán Việt Nam chưa thực sự là một kênh huy động vốn 28
2.7 Vai trò của các quỹ đầu tư hiện nay 30
2.7.1 Huy động vốn cho phát triển kinh tế
30
2.7.2 Bảo vệ lợi ích cho các nhà đầu tư
2
30
2.7.3 Tăng tính chuyên nghiệp trong quản lý và đầu tư
30
2.7.4 Giảm thiểu chi phí do lợi ích về quy mô
30
2.7.5 Tăng tính thanh khoản cho tài sản đầu tư
30
2.7.6 Thuận tiện cho người đầu tư
30
2.7.8 Đối với các doanh nghiệp 30
2.8 Công ty chứng khoán 32
2.8.1Khái niệm và phân loại công ty chứng khoán 32
2.8.2 Vai trò của công ty chứng khoán 32
2.8.3Thành lập công ty chứng khoán 33
2.8.4 Nguyên tắc hoạt động của công ty chứng khoán 35
2.8.5 Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán 36
2.8.6 Các nghiệp vụ chính của công ty chứng khoán 36
2.9 Vai trò của thị trường chứng khoán với nền kinh tế 38
2.9.1 Tạo vốn cho sự phát triển kinh tế 38
2.9.2 TTCK là công cụ để thúc đẩy sự phát triển và ổn định nền kinh tế 38
2.10 Các vấn đề ảnh hưởng đến sự phát triển của TTCK Việt Nam 40
2.10.1 Về khung pháp lý, thể chế chính sách 40
2.10.2 Về quy mô và hàng hóa (nguồn cung) của thị trường 41
2.10.3 Về niêm yết và giao dịch chứng khoán 42
2.10.4 Về hệ thống cơ sở nhà đầu tư (cầu đầu tư) 42
2.10.5 Về hệ thống các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán 42
2.10.6 Về tổ chức thị trường 44
2.10.7 Về hoạt động quản lý, giám sát thị trường 45
Chương 3. Các giải pháp để phát triển và phát huy hiệu quả của thị trường chứng
khoán 46
Kêt Luận 49
3
Lời mở đầu
Phát triển thị trường chứng khoán (TTCK) là việc rất quan trọng và cần thiết khi
nước ta phát triển một nền kinh tế hàng hoá. Vốn tư bản sẽ trở thành hàng hoá và tất yếu
phải có một thị trường để có thể thực hiện việc trao đổi. Với lịch sử phát triển hàng trăm
năm và được tổ chức một cách hết sức chặt chẽ, TTCK từ lâu nay đã được coi là một thể
chế tài chính bậc cao và hoàn thiện nhất của nền kinh tế thị trường, nếu thiếu nó, như
nhiều chuyên gia kinh tế học vẫn nói, nền kinh tế thị trường thiếu tính hoàn hảo.
Vai trò cơ bản của thị TTCK đối với nền kinh tế được thể hiện rất rõ bằng việc tạo
dựng một kênh huy động vốn hữu hiệu cho các doanh nghiệp (DN) từ nhiều nguồn khác
nhau, trong đó phải kể đến các nguồn vốn nước ngoài.Thực tế hiện nay, nhu cầu vè vốn
của các DN rất lớn. Mặt khác, các DN có nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh nhưng
huy động vốn lại chủ yếu từ vay vốn ngắn hạn ngân hàng, lượng vốn vay lại không được
đáp ứng đầy đủ. Từ những khó khăn đó, TTCK với tư cách là kênh huy động vốn dài hạn
sẽ tháo gỡ được những khó khăn trên.
Hiện nay, ngoài sự quan trọng và cần thiết, TTCK cũng là vấn đề thời sự, nóng
bỏng trong nền kinh tế Việt Nam. Đây cũng là vấn đề khá mới mẻ đối với người Việt
Nam.Với tư cách là một sinh viên - một nhà đầu tư tương lai, em rất quan tâm tới vấn đề
này.Vì vậy, em cũng mạnh dạn viết đề tài “Tìm hiểu thị trường chứng khoán Việt
Nam”. Do trình độ và thời gian có hạn, nên không thể tránh được những sai sót, em rất
mong nhận được ý kiến của cô giáo Ths. Nguyễn Thị Minh Quế, người đã hướng dẫn
em hoàn thành đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn!
4
NỘI DUNG
Chương1: Cơ sở lý luận về thị trường chứng khoán
1.1 Khái niệm và bản chất của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được quan niệm là
nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Chứng khoán
được hiểu với nghĩa các loại giấy tờ có giá hoặc các bút toán ghi sổ xác nhận quyền và lợi
ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán. Thị trường chứng khoán là sản phẩm cao
cấp của nền kinh tế thị trường. Hàng hóa của thị trường này rất khác với hàng hóa thông
thường, mặc dù chúng cũng có giá trị và giá trị sử dụng, nhưng chúng lưu thông không
như lưu thông tiền tệ. Lưu thông ở đây là chuyển quyền sở hữu tư bản (vốn), chuyển từ tư
bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. Việc mua bán trao đổi chứng khoán được tiến hành ở
thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát
hành, và ở những thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được
phát hành ở thị trường sơ cấp.
Như vậy, xét về mặt hình thức, thị trường chứng khoán chỉ là nơi diễn ra các hoạt
động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể
nắm giữ chứng khoán
Thị trường chứng khoán là một thị trường mà ở nơi đó người ta mua bán, chuyển
nhượng, trao đổi chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời. Tuy nhiên, đó có thể là TTCK
tập trung hoặc phi tập trung.
Tính tập trung ở đây là muốn nói đến việc các giao dịch được tổ chức tập
trungtheo một địa điểm vật chất.Hình thái điển hình của TTCK tập trung là Sở giao dịch
chứng khoán ( Stock exchange). Tại Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK), các giao dịch
được tập trung tại một địa điểm; các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào
quá tập trung tại một địa điểm; các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào
quá trình ghép lệnh để hình thành nên giá giao dịch.
TTCK phi tập trung còn gọi là thị trường OTC (over the counter). Trên thị trường
OTC, các giao dịch được tiến hành qua mạng lưới các công ty chứng khoán phân
tán trên khắp quốc gia và được nối với nhau bằng mạng điện tử. Giá trên thị
trường này được hình thành trên phương thức thỏa thuận
1.2 Chức năng của thị trường chứng khoán
5
1.2.1 Chức năng thu hút vốn nhàn rỗi vào đầu tư phát triển
Chúng ta đã biết muốn đầu tư phát triển thì phải tự tích luỹ hoặc huy động từ bên
ngoài.Vốn huy động từ bên ngoài bao gồm vốn vay tín dụng của các tổ chức tài chính và
phát hành cổ phiêú, trái phiếu.
Ưu điểm của phát hành trái phiêú, cổ phiếu đối với dân chúng là họ dễ dàng đầu tư
vào bất cứ DN nào họ muốn hoặc mua bán kiếm lợi. Còn đối với các DN là họ không
phải trả lãi suất hàng tháng và không phải trả nợ gốc khi bị thua kỗ.
Do tính chất của chu kỳ kinh doanh nên vốn tạm thời nhàn rỗi trong các DN là rất
lớn, bên cạnh, còn có một lượng vốn lớn nằm rải rác trong dân chưa được huy động. Tất
cả những tiềm năng này sẽ được phát huy hiệu quả nếu có thị trường chứng khoán .Vì thị
trường chứng khoán với cơ sở pháp lý hoàn chỉnh và bộ má quản lý hữu hiệu, với sự phổ
biến và hướng dẫn rộng rãi , người dân sẽ dễ dàng sử dụng nguồn tiết kiệm của họ hơn.
Đây là tác nhân kích thích ý thức tiết kiệm và tạo thãi quen đầu tư trong công
chúng.Ngoài ra, trong xã hội cồn có các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi như: quỹ bảo hiểm,
quỹ phóc lợi tập thể…một phần vốn của quỹ này được gửi vào Nhân hàng để thực hiện
vệc thanh toán, phần còn lại, những người quản lý quỹ luôn tự hỏi làm thế nào cho vốn
của họ có khả năng sinh lãi nhiều nhất và vừa an toàn vừa có tính tạm thời…và thị trường
chứng khoán có khả năng đáp ứng yêu cầu này.
Tóm lại, thị trường chứng khoán có chức năng thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi
trong xã hội để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, mở rộng quy mô doanh nghiệp góp
phần giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp.
1.2.2 Chức năng điều tiết các nguồn vốn
Phải thừa nhận rằng, một DN không phải lúc nào cũng thiếu hoặc thừa vốn. Thừa
hay thiếu là phụ thuộc vào tính chất của chu kỳ kinh doanh.Khi cần đầu tư mua nguyên
vật liệu, công cụ dụng cụ, các khoản phải thu lớn, thì đây là lúc mà DN đang thiếu vốn.
Khi quá trình sản xuất kết thúc, sản phẩm được bán ra và thu vốn về, các khoản phải thu
được thu về, lúc này DN lại tạm thời thừa vốn.
Trên thị trường vốn, luôn luôn có sự điều tiết vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu. Ở đây thị
trường chứng khoán đóng vai trò rất quan trọng.
1.2.3 Chức năng hoà nhập nền kinh tế thế giới
Một DN có thể thu hút vốn bất vứ nơi nào và bằng con đường nào mà họ có thể
thu hút một cách dễ dàng thông qua thị trường chứng khoán. Nhờ vào hệ thống máy tính
6
mà thị trường chứng khoán cho phép bất cứ ai, ở nơi nào trên thế giới và mua một loại cổ
phiếu của bất kỳ một công ty nào mà họ thích. Từ đó hình thành mối liên hệ tiền tệ quốc
tế, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển nguồn vốn giữa các nước, thực hiện quan hệ vay mượn
lâu dài trên thế giới tạo điều kiện cho việc hoà nhập nền kinh tế thế giới.
1.2.4 Chức năng điều tiết vĩ mô
Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và
chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng
trưởng; ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh
tế. Vì thế, TTCK được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng
giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô.
Thông qua TTCK, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra
nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có
thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư
đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế.
1.2.5 Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội
lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời
hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại hàng hoá phù hợp với khả
năng, mục tiêu và sở thích của mình. Chính vì vậy thị trường chứng khoán làm tăng đáng
kể mức tiết kiệm quốc gia.
1.2.6 Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền
mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là một trong
những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy
tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu quả
thì tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường càng cao.
1.2.7 Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
Thông qua chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng
hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của doanh nghiệp được
nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
1.3 Cấu trúc và phân loại thị trường chứng khoán
7
Xét về sự lưu thông của chứng khoán trên thị trường, hay căn cứ vào sự luân
chuyển các nguồn vốn, thị trường chứng khoán được chia thành thị trường sơ cấp và
thị trường thứ cấp
1.3.1Thị trường sơ cấp
Là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị trường này, vốn từ
nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng
khoán mới phát hành.
Vai trò của thị trường sơ cấp:
- Giúp các công ty huy động được vốn thông qua phát hành chứng khoán
- Thực hiện quá trình chu chuyển vốn, trực tiếp thu hút và đưa các nguồn tiền tạm thời
nhàn rỗi trong dân chúng vào đầu tư, chuyển tiền sang dạng vốn dài hạn
1.3.2Thị trường thứ cấp
Là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Thị
trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành.
Thị trường thứ cấp là nơi trao đổi, mua bán các chứng khoán đã được phát hành. Nhà
đầu tư mua đi bán lại chứng khoán nhằm vào một trong các mục đích: cất giữ tài sản tài
chính, nhận một khoản thu nhập cố định hàng năm, hưởng chênh lệch giá.
Như vậy, thị trường thứ cấp không cung cấp dịch vốn cho các doanh nghiệp, thì có
lợi gì? Không có thị trường thứ cấp, thì không có thị trường sơ cấp: nếu chứng khoán
phát hành ra mà không lưu chuyển được trên thị trường thứ cấp, thì nhà đầu tư cũng
không quan tâm đến việc mua, nắm giữ chứng khoán phát hành (nhất là cổ phiếu, một
loại chứng khoán vô thời hạn). Cổ phiếu của một tổ chức niêm yết trên thị trường chứng
khoán khi được mua bán nhiều là phản ánh lòng tin của người đầu tư vào tổ chức đó; do
đó khi tổ chức niêm yết muốn tăng vốn, họ có thể tiếp tục phát hành cổ phiếu hoặc trái
phiếu đợt mới. Vì vậy, thông thường, khi thị trường đang lên (chỉ số giá cổ phiếu đang ở
xu hướng tăng), thì các công ty dễ dàng phát hành với khối lượng lớn. Khi thị trường
đang xuống, thì các công ty rất khó phát hành chứng khoán. Ngược lại, nếu tổ chức phát
hành các cổ phiếu có chất lượng cao ở thị trường sơ cấp thì việc mua bán trên thị trường
8
thứ cấp mới sôi động, nếu phát hành cổ phiếu không có chất lượng thì cổ phiếu đó không
giao dịch được trên thị trường thứ cấp.
Xét về phương diện pháp lý thị trường chứng khoán được chia thành thị trường
tập trung và thị trường phi tập trung
1.3.3 Thị trường chứng khoán tập trung
Là thị trường hoạt động theo đúng các quy định của pháp luật, là nơi mua bán các
loại chứng khoán đã được đăng biểu hay đặc biệt được biệt lệ.
Chứng khoán đăng biểu là chứng khoán đã được cơ quan có thẩm quyền cho phép bảo
đảm, phân phối và mua bán qua trung gian các kinh kỷ và công ty kinh kỷ, tứ là đã hội đủ
tiêu chuẩn quy định.
Chứng khoán biệt lệ là chứng khoán do chính phủ hoặc các cơ quan công quyền phát
hành và bảo đảm. Loại chứngkhoánnày được miễn giấp phép của cơ quan có thẩm
quyền.
1.3.4 Thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC)
Là thị trường mua bán chứng khoán nằm ngoài sở giao dịch, không có địa điểm
tập trung những nhà môi giới, những người kinh doanh chứng khoán như tại sở giao dịch.
các giao dịch ở đây chủ yếu là dựa vào sự thoả thuận giữa người mua và người bán,
không có sự kiểm soát từ Hội đồng Chứng khoán.
các loại chứng khoán mua bán ở đây thường những chứng khoán không được đăng biểu,
ít người biết đến hoặc ít được mua bán.
Nếu xét về phương thức giao dịch thì thị trường chứng khoán được chia là thị
trường giao ngay và thị trường giao sau
1.3.5 Thị trường giao ngay:
Là thị trường mua bán chứng khoán theo giá tại thời điểm giao dịch nhưng việc
thực hiện thanh toán và giao hàng có thể diễn ra sau dó một vài ngày theo thoả thuận.
1.3.6 Thị trường giao sau:
Là thị trường mua bán chứng khoán theo một loại hợp đồng định sẵn, giá cả được
thoả thuận trong ngày giao dịch , nhưng việc thanh toán và giao hàng xảy ra trong một
thời hạn ở tương lai.
9
Ngoài ra, nếu căn cứ vào đặc điểm hàng hoá lưu hành thì thị trường chứng khoán còn
chia thành thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các công cụ phái sinh.
1.4 Các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán
1.4.1 Nguyên tắc công khai:
Tất cả các hoạt động trên thị truờng chứng khoán đều phải đảm bảo tính công khai
vì chứng khoán là hàng hóa trừu tượng, nhà đầu tư không thể kiểm tra trực tiếp các chứng
khoán như hàng hóa thông thường mà phải dựa trên cơ sở các thông tin có liên quan. Sở
giao dịch chứng khoán công bố các thông tin về giao dịch chứng khoán trên thị trường.
Các tổ chức niêm yết công bố công khai các thông tin tài chính định kỳ hàng năm của
công ty, các sự kiện bất thuờng xảy ra đối với công ty, nắm giữ cổ phiếu của giám đốc,
nguời quản lý, cổ đông đa số. Các thông tin càng được công bố công khai minh bạch, thì
càng thu hút đuợc nhà đầu tư tham gia vào thị trường chứng khoán.
Việc công khai thông tin trên thị trường chứng khoán phải thỏa mãn các yêu cầu:
Chính xác, kịp thời, dễ tiếp cận.
1.4.2 Nguyên tắc trung gian
Mọi hoạt động giao dịch, mua bán chứng khoán trên thị truờng chứng khoán đều
đuợc thực hiện thông qua các trung gian, hay còn gọi là các nhà môi giới. Các nhà môi
giới thực hiện giao dịch theo lệnh của khách hàng và huởng hoa hồng. Ngoài ra, nhà môi
giới còn có thể cung cấp các dịch vụ khác như cung cấp thông tin và tu vấn cho khách
hàng trong việc đầu tư
Theo nguyên tắc trung gian, các nhà đầu tư không thể trực tiếp thoả thuận với nhau để
mua bán chứng khoán. Họ đều phải thông qua các nhà môi giới của mình để đặt lệnh.
Các nhà môi giới sẽ nhập lệnh vào hệ thống để khớp lệnh.
1.4.3 Nguyên tắc đấu giá
Giá chứng khoán đuợc xác định thông qua việc đấu giá giữa các lệnh mua và các
lệnh bán. Tất cả các thành viên tham gia thị truờng đều không thể can thiệp vào việc xác
định giá này. Có hai hình thức đấu giá là đấu giá trực tiếp và đấu giá tự động.
- Đấu giá trực tiếp: là việc các nhà môi giới gặp nhau trên sàn giao dịch và trực tiếp đấu
giá.
10
- Đấu giá tự động: là việc các lệnh giao dịch từ các nhà môi giới đuợc nhập vào hệ thống
máy chủ của Sở giao dịch chứng khoán. Hệ thống máy chủ này sẽ xác định mức giá sao
cho tại mức giá này, chứng khoán giao dịch với khối luợng cao nhất.
Các nguyên tắc trên đây nhằm đảm bảo cho giá cả chứng khoán đuợc hình thành
một cách thống nhất, công bằng cho tất cả các bên giao dịch. Do đó, ở hầu hết các nuớc
trên thế giới hiện nay, mỗi nước chỉ có một Sở giao dịch chứng khoán duy nhất (tuy
nhiên, người dân mọi miền đất nuớc đều có thể tiếp cận thị trường thông qua các phòng
giao dịch của công ty chứng khoán mở tới các điểm dân cư).Một số nước khác còn tồn tại
vài Sở giao dịch chứng khoán do lịch sử để lại thì đều nối mạng với nhau hoặc giao dịch
những chứng khoán riêng biệt.
1.5 Các chủ thể tham gia vào thị trường chứng khoán
Các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường chứng khoán có thể được chia thành
các nhóm sau: nhà phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan đến chứng khoán.
1.5.1 Nhà phát hành
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng
khoán. Nhà phát hành là người cung cấp các chứng khoán - hàng hoá của thị trường
chứng khoán.
- Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu Chính phủ và trái
phiếu địa phương.
- Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
- Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu, chứng
chỉ thụ hưởng phục vụ cho hoạt động của họ.
1.5.2 Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị trường chứng
khoán. Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ
chức.
- Các nhà đầu tư cá nhân là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua
bán trên thị trường chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận
11
- Các nhà đầu tư có tổ chức hay còn gọi là các định chế đầu tư, thường xuyên mua
bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường, các tổ chức này thường có các bộ phận
chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm để nghiên cứu thị trường và đưa ra
các quyết định đầu tư.
1.5.3 Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán
- Công ty chứng khoán: là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán có thể
đảm nhận một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính là bảo lãnh phát hành, môi giới,
tự doanh, quản lý quỹ đầu tư và tư vấn chứng khoán
- Quỹ đầu tư chứng khoán
- Các trung gian tài chính
1.5.4 Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán
- Uỷ ban chứng khoán Nhà nước: là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng
quản lý nhà nước đối với TTCK ở Việt nam.
- Sở giao dịch chứng khoán: là cơ quan thực hiện vận hành thị trường và ban hành
những quyết định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán trên Sở phù hợp
với các quy định của luật pháp và UBCK.
- Sở giao dịch chứng khoán
- Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
- Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán
- Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán là tổ chức phụ trợ, phục vụ các giao dịch chứng
khoán.
- Các tổ chức tài trợ chứng khoán
- Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực
thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và theo những điều khoản đã cam kết
của công ty phát hành đối với một đợt phát hành cụ thể
1.6 Cơ chế điều hành và giám sát thị trường chứng khoán
1.6.1 Sự cần thiết phải điều hành và giám sát thị trường chứng khoán
Điều hành thị trường là các hoạt động được tiến hành để duy trì sự vận hành bình
thường của thị trường được tiến hành bởi các chủ thể có quyền lực nhất định
12
Giám sát thị trường là việc tiến hành theo dõi, kiểm tra các hoạt động diễn ra trên
thị trường nhằm ngăn chặn, phát hiện và xử lý kịp thời các vi phạm, đảm bảo tính công
bằng và hiệu quả của thị trường.
Thị trường chứng khoán luôn tồn tại tính hai mặt, mặt tích cực và mặt tiêu cực.
Các mặt tiêu cực của TTCK có thể gây tác động xấu đến thị trường và các hoạt động kinh
tế xã hội khác. Cụ thể đó là các gian lận, lừa đảo trong giao dịch chứng khoán như mua
bán có thông tin nội gián, làm giá chứng khoán Vì vậy cần phải có một cơ chế điều
hành và giám sát chặt chẽ mọi hoạt động của thị trường.
TTCK là thị trường vốn dài hạn, nơi tập trung các nguồn vốn cho đầu tư và phát
triển kinh tế, do đó có tác động rất lớn đến môi trường đầu tư nói riêng và nền kinh tế nói
chung. TTCK cũng là một thị trường cao cấp tập trung nhiều đối tượng tham gia với sự
hiểu biết, lợi ích và nguồn lực khác nhau, các giao dịch được thực hiện với tổng giá trị
lớn. Do đó TTCK cũng là nơi dễ xảy ra các hoạt động kiếm lời bằng cách gian lận, không
công bằng, gây tổn thất cho các nhà đầu tư, cho thị trường và toàn bộ nền kinh tế.
Với vai trò quan trọng và tính phức tạp của mình, việc TTCK được điều hành và
giám sát chặt chẽ là điều vô cùng cần thiết để đảm bảo tính công bằng, hiệu quả của hoạt
động đầu tư, bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, dung hoà lợi ích của tất cả các bên tham
gia vào thị trường, tận dụng và huy động được các nguồn vốn để phát triển kinh tế. Mỗi
thị trường cần một cơ chế giám sát và điều hành riêng phù hợp với đặc trưng của thị
trường đó.
1.6.2 Cơ chế điều hành giám sát TTCK
Tùy theo chính sách phát triển thị trường và thực tế phát triển TTCK của mỗi quốc
gia mà việc quản lí và giám sát TTCK được thực hiện bởi các chủ thể khác nhau. Thông
thường tham gia quản lí giám sát TTCK bao gồm: Nhà nước (thông qua các cơ quan chức
năng như UBCKNN, NHNN ), các tổ chức tự quản (Sở giao dịch, Hiệp hội các nhà kinh
doanh chứng khoán ).
1.6.2.1 Các cơ quan quản lý của chính phủ
- Cơ quan quản lí nhà nước đối với TTCK
13
Sự quản lí của nhà nước đối với TTCK là nhân tố rất quan trọng để đảm bảo cho thị
trường hoạt động trật tự, công bằng, đúng pháp luật. Tuy nhiên mô hình quản lí nhà nước
đối với TTCK ở các nước đều có những điểm khác nhau. Nhìn nhận khái quát có thể thấy
có hai loại mô hình về cơ quan quản lí nhà nước đối với TTCK: Một số nước giao nhiệm
vụ quản lí nhà nước đối với TTCK cho một bộ của Chính phủ, thường là bộ Tài chính
(Nhật Bản, Hàn Quốc ), một số nước thành lập cơ quan độc lập trực thuộc Chính phủ:
Ủy ban chứng khoán (Mĩ ). Bên cạnh bộ Tài chính hoặc Ủy ban chứng khoán, một số bộ
ngành khác cũng có chức năng tham gia quản lí TTCK ở một lĩnh vực thuộc thẩm quyền.
Ví dụ: Ngân hàng Trung ương quản lí các NHTM thực hiện các hoạt động kinh doanh có
liên quan đến chứng khoán như hoạt động thanh toán bù trừ, Bộ Tư pháp có trách nhiệm
xử lí các hành vi gian lận trên TTCK
1.6.2.2 Các tổ chức trung gian
Về mặt lịch sử việc điều hành và giám sát TTCK ban đầu được thực hiện bởi các
tổ chức tự quản sau đó mới có sự can thiệp của chính phủ. Các tổ chức tự quản được hình
thành cùng với sự phát triển của TTCK, thực hiện chức năng điều hành và giám sát
TTCK nhằm bảo vệ lợi ích chung của toàn thị trường. Các tổ chức tự quản thực hiện
chức năng điều hành và giám sát trên cơ sở tuân thủ các quy định của tổ chức và quản lý
giám sát của chính phủ và hoạt động theo 2 nguyên tắc
Một là: Các quyết định điều hành và giám sát đưa ra phải đúng đắn, phù hợp với
hoàn cảnh thực tế, hoạt động giám sát thị trường phải có hiệu quả.
Hai là: Chi phí điều hành giám sát thị trường phải thu được từ các hoạt động trên
thị trường chứ không phải do ngân sách cấp.
Sở giao dịch chứng khoán : Là tổ chức tự quản bao gồm các công ty chứng khoán
thành viên, trực tiếp điều hành và giám sát các hoạt động giao dịch chứng khoán thực
hiện trên sở.
SGDCK là nơi giao dịch các chứng khoán đã được niêm yết. Nhiệm vụ của Sở
giao dịch là tổ chức vận hành thị trường thông qua các bộ phận chức năng như: quản lí
niêm yết, quản lí giao dịch, quản lí công bố thông tin, thanh tra giám sát trên cơ sở các
văn bản pháp luật của nhà nước và các quy định của Sở.
Sở giao dịch ở nhiều nước là tổ chức tự định chế bao gồm các công ty chứng
khoán thành viên, trực tiếp điều hành và giám sát các hoạt động giao dịch chứng khoán.
14
Khi phát hiện ra các hành vi vi phạm quy chế thị trường, SGD tiến hành xử lí, áp dụng
các biện pháp cưỡng chế thích hợp. Trường hợp phát hiện có hành vi vi phạm nghiêm
trọng các quy định của ngành chứng khoán, Sở có trách nhiệm báo cáo lên Ủy ban chứng
khoán để giải quyết. Hoạt động điều hành và giám sát của SGD phải được thực hiện trên
cơ sở phù hợp với các quy định pháp luật có liên quan.
Hiệp hội các nhà kinh doanh KDCK là tổ chức của các CTCK và một số thành
viên khác hoạt động trong ngành công nghiệp chứng khoán được thành lập với mục đích
bảo vệ lợi ích cho các công ty thành viên nói riêng và cho toàn ngành chứng khoán nói
chung. Hiệp hội các nhà KDCK thường là tổ chức tự điều hành, tham gia quản lí giám sát
thị trường theo một số nội dung chủ yếu sau:
+ Ban hành các quy định đối với thành viên và có trách nhiệm giám sát việc thực hiện các
quy định của các thành viên Hiệp hội.
+ Thu nhận các khiếu nại của khách hàng đối với các CTCK thành viên. Xử lí các vi
phạm của thành viên theo quy chế của Hiệp hội.
+ Đề xuất các kiến nghị đối với các cơ quan quản lí Nhà nước về các biện pháp phát triển thị
trường.
Chương 2: Thực trạng của thị trường chứng khoán Việt Nam
2.1Lịch sử phát triển
2.1.1 Lịch sử ra đời của UBCK nhà nước
Xây dựng và phát triển TTCK là mục tiêu đã được Đảng và Chính phủ Việt Nam
định hướng từ những năm đầu thập kỷ 90 (thế kỷ 20) nhằm xác lập một kênh huy động
vốn mới cho đầu tư phát triển. Việc nghiên cứu, xây dựng đề án thành lập TTCK đã được
nhiều cơ quan Nhà nước, các Viện nghiên cứu phối hợp đề xuất với Chính phủ.
Một trong những bước đi đầu tiên có ý nghĩa khởi đầu cho việc xây dựng TTCK ở
Việt Nam là việc thành lập Ban Nghiên cứu xây dựng và phát triển thị trường vốn thuộc
Ngân hàng Nhà nước (Quyết định số 207/QĐ-TCCB ngày 6/11/1993 của Thống đốc
15
Ngân hàng nhà nước) với nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng đề án và chuẩn bị các điều kiện
để thành lập TTCK theo bước đi thích hợp. Theo sự uỷ quyền của Chính phủ, Ngân hàng
Nhà nước (NHNN) đã phối hợp với Bộ Tài chính tổ chức nghiên cứu về các lĩnh vực liên
quan đến hoạt động của TTCK, đề xuất với Chính phủ về mô hình TTCK Việt Nam, đào
tạo kiến thức cơ bản về chứng khoán và TTCK cho một bộ phận nhân lực quản lý và vận
hành thị trường trong tương lai; nghiên cứu, khảo sát thực tế một số TTCK trong khu vực
và trên thế giới… Tuy nhiên, với tư cách là một tổ chức thuộc NHNN nên phạm vi
nghiên cứu, xây dựng đề án và mô hình TTCK khó phát triển trong khi TTCK là một lĩnh
vực cần có sự phối hợp, liên kết của nhiều ngành, nhiều tổ chức.
Vì vậy, tháng 9/1994, Chính phủ quyết định thành lập Ban soạn thảo Pháp lệnh về
chứng khoán và TTCK. Trên cơ sở Đề án của Ban soạn thảo kết hợp với đề án của
NHNN và ý kiến của các Bộ, ngành liên quan ngày 29/6/1995, Thủ tướng Chính phủ đã
có Quyết định số 361/QĐ-TTg thành lập Ban Chuẩn bị tổ chức TTCK giúp Thủ tướng
Chính phủ chỉ đạo chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc xây dựng TTCK ở Việt Nam.
Đây là bước đi có ý nghĩa rất quan trọng nhằm thúc đẩy quá trình hình thành
TTCK, làm tiền đề cho sự ra đời cơ quan quản lý nhà nước với chức năng hoàn chỉnh và
đầy đủ hơn.
Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) được thành lập ngày 28/11/1996
theo Nghị định số 75/CP của Chính phủ, là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng
tổ chức và quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Việc thành lập
cơ quan quản lý thị trường chứng khoán (TTCK) trước khi thị trường ra đời là bước đi
phù hợp với chủ trương xây dựng và phát triển TTCK ở Việt Nam, có ý nghĩa quyết định
cho sự ra đời của TTCK sau đó hơn 3 năm.
Với vị thế là cơ quan quản lý chuyên ngành về chứng khoán và TTCK, UBCKNN
có vai trò rất quan trọng trong việc chuẩn bị các điều kiện cho sự ra đời của TTCK, đồng
thời tổ chức và quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK với mục tiêu chính là tạo môi
trường thuận lợi cho việc huy động vốn cho đầu tư phát triển, đảm bảo cho TTCK hoạt
động có tổ chức, an toàn, công khai, công bằng và hiệu quả, bảo vệ quyền lợi và lợi ích
hợp pháp của các nhà đầu tư.
16
2.1.2 Vị trí và chức năng của UBCK nhà nước
Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính, thực hiện chức
năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính quản lý nhà nước về chứng khoán và thị
trường chứng khoán; trực tiếp quản lý, giám sát hoạt động chứng khoán và thị trường
chứng khoán; quản lý các hoạt động dịch vụ thuộc lĩnh vực chứng khoán, thị trường
chứng khoán theo quy định của pháp luật.
Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước có tư cách pháp nhân, con dấu có hình Quốc huy,
tài khoản riêng tại Kho bạc Nhà nước và trụ sở tại thành phố Hà Nội.
2.1.3 Nhiệm vụ và quyền hạn
Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Trình Bộ trưởng Bộ Tài chính để trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết
định: Các dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị
quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; dự thảo nghị định của Chính phủ; dự thảo quyết
định của Thủ tướng Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán; Chiến lược,
quy hoạch, chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình hành động, đề án, dự án quan
trọng về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Trình Bộ trưởng Bộ Tài chính xem xét, quyết định: Dự thảo thông tư và các văn bản
khác về chứng khoán và thị trường chứng khoán; Kế hoạch phát triển thị trường chứng
khoán hàng năm.
- Ban hành văn bản hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ, văn bản quy phạm nội bộ, văn
bản cá biệt thuộc phạm vi quản lý của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước.
- Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
chương trình, dự án, đề án thuộc lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán sau khi
được cấp có thẩm quyền ban hành hoặc phê duyệt.
- Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
- Cấp, gia hạn, đình chỉ, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận liên quan đến hoạt động
chứng khoán và thị trường chứng khoán; chấp thuận những thay đổi liên quan đến hoạt
động chứng khoán và thị trường chứng khoán.
17
- Quản lý, giám sát hoạt động của các Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Giao dịch
chứng khoán, Trung tâm Lưu ký chứng khoán và các tổ chức phụ trợ; tạm đình chỉ hoạt
động giao dịch, hoạt động lưu ký của các Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Giao
dịch chứng khoán, Trung tâm Lưu ký chứng khoán trong trường hợp có dấu hiệu ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; chấp thuận các quy định, quy chế
của các Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Giao dịch chứng khoán, Trung tâm lưu ký
chứng khoán; chấp thuận việc đưa vào giao dịch các loại chứng khoán mới, thay đổi và
áp dụng phương thức giao dịch mới, đưa vào vận hành hệ thống giao dịch mới.
- Thanh tra, giám sát, xử lý vi phạm hành chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt
động chứng khoán và thị trường chứng khoán.
- Thực hiện công tác thống kê, dự báo về hoạt động chứng khoán và thị trường chứng
khoán; tổ chức quản lý và ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa hoạt động trong
lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.
- Tổ chức nghiên cứu khoa học; tổ chức, phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức quản lý chứng khoán và nhân viên
hành nghề chứng khoán; phổ cập kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán
cho công chúng.
- Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán theo
phân công, phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tài chính và quy định của pháp luật.
- Hướng dẫn các tổ chức hiệp hội chứng khoán thực hiện mục đích, tôn chỉ và Điều lệ
hoạt động của hiệp hội; kiểm tra việc thực hiện các quy định của Nhà nước, xử lý hoặc
kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý các vi phạm pháp luật của các hiệp hội
chứng khoán theo phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tài chính và quy định của pháp luật.
- Thực hiện chế độ báo cáo về chứng khoán và thị trường chứng khoán theo quy định
của pháp luật và phân công, phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
- Quản lý tổ chức bộ máy, biên chế; thực hiện chế độ tiền lương và các chế độ, chính
sách đãi ngộ, thi đua khen thưởng, kỷ luật, đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức,
viên chức thuộc phạm vi quản lý của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước theo phân cấp của
Bộ trưởng Bộ Tài chính và quy định của pháp luật; thực hiện phòng, chống tham nhũng,
18
tiêu cực và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong việc sử dụng tài sản, kinh phí được
giao theo quy định của pháp luật.
- Thực hiện cải cách hành chính theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành
chính được Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt.
- Quản lý kinh phí do ngân sách nhà nước cấp và các nguồn kinh phí khác, tài sản được
giao; thực hiện chế độ tự chủ về biên chế và kinh phí hoạt động theo quy định của cấp có
thẩm quyền.
- Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác do Bộ trưởng Bộ Tài chính giao và theo quy
định của pháp luật.
2.2 Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
Ngày 11 tháng 07 năm 1998, Chính phủ ra Quyết định số 127/1998/QÐ-TTg thành lập
hai Trung tâm giao dịch chứng khoán trực thuộc Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Theo
đó, Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, là đơn vị sự nghiệp có thu, có tư cách pháp
nhân, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng, kinh phí hoạt động do ngân sách Nhà nước
cấp. Biên chế của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội thuộc biên chế của Uỷ ban
Chứng khoán Nhà nước.
TTGDCK Hà Nội có các nhiệm vụ chủ yếu sau:
1. Tổ chức, quản lý, điều hành việc mua bán chứng khoán;
2. Quản lý, điều hành hệ thống giao dịch chứng khoán;
3. Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ việc mua bán chứng khoán, dịch vụ lưu ký chứng
khoán;
4. Thực hiện đăng ký chứng khoán.
2.2.1 Quá trình xây dựng mô hình hoạt động của TTGDCK Hà Nội:
Việc xây dựng mô hình hoạt động cụ thể cho Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà
Nội có ý nghĩa rất quan trọng, vừa phải đáp ứng những nhu cầu cấp thiết của nền kinh kế,
vừa phải phù hợp với quy mô và lộ trình phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam.
Ngày 05/8/2003 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chiến lược phát triển TTCK
Việt Nam đến 2010. Theo đó, xây dựng thị trường giao dịch cổ phiếu của các doanh
19
nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội, chuẩn bị điều kiện để sau 2010 chuyển thành Thị trường
giao dịch chứng khoán phi tập trung (OTC).
Tháng 6/2004, Bộ tài chính ra Thông báo số 136/TB/BTC nêu kết luận của Lãnh đạo
Bộ về mô hình tổ chức và xây dựng thị trường giao dịch chứng khoán Việt Nam. Trong
đó, định hướng xây dựng Trung tâm GDCK Hà Nội thành một thị trường giao dịch phi
tập trung (OTC) đơn giản, gọn nhẹ, theo đó, Trung tâm GDCK Hà Nội sẽ phát triển
theo hai giai đoạn:
Giai đoạn đầu, từ 2005 đến 2007 - thực hiện đấu giá cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước
cổ phần hoá và đấu thầu trái phiếu chính phủ đồng thời tổ chức giao dịch chứng khoán
chưa niêm yết theo cơ chế đăng ký giao dịch.
Giai đoạn sau 2007 - Phát triển TTGDCK Hà Nội thành thị trường phi tập trung phù
hợp với quy mô phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Mô hình hoạt động của TTGDCK Hà Nội đã từng bước được cụ thể hoá. Gần đây, Bộ
Tài chính đã ra Quyết định số 244/2004/QÐ-BTC ban hành Quy chế tạm thời tổ chức
giao dịch chứng khoán tại TTGDCK Hà Nội. Như vậy, có thể nói cơ sở pháp lý ban đầu
cho hoạt động của TTGDCK Hà Nội đã được thiết lập.
Theo đó, có thể khái quát các nội dung hoạt động chính trong giai đoạn đầu của
TTGDCK Hà Nội như sau:
- Tổ chức đấu giá cổ phần cho các doanh nghiệp : TTGDCK Hà Nội cung cấp các
phương tiện để thực hiện đấu giá cổ phần, đặc biệt là cổ phần của các doanh nghiệp nhà
nước cổ phần hoá, theo tinh thần Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty
nhà nước thành công ty cổ phần vừa được Chính phủ ban hành và thông tư số
126/2004/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định 187/2004/NÐ-CP.
Trong đó quy định các doanh nghiệp khi cổ phần hoá phải bán đấu giá công khai ra bên
ngoài tối thiểu 20% vốn điều lệ. Trường hợp doanh nghiệp cổ phần hóa có khối lượng cổ
phần bán ra trên 10 tỷ đồng phải tổ chức đấu giá cổ phần tại TTGDCK để thu hút người
đầu tư, các trường hợp khác cũng được khuyến khích đấu giá qua TTGDCK.
20
- Tổ chức đấu thầu trái phiếu : TTGDCK Hà Nội tổ chức đấu thầu trái phiếu, bao gồm
các loại trái phiếu chính phủ, trái phiếu được chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền
địa phương, trái phiếu công trình …
- Tổ chức giao dịch chứng khoán theo cơ chế đăng ký giao dịch
2.2.2 Hàng hoá giao dịch trên TTGDCK Hà Nội:
- Các loại chứng khoán của các công ty cổ phần có vốn điều lệ từ 5 tỷ đồng trở lên, chưa
thực hiện niêm yết tại TTGDCKTP. HCM, hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm
đăng ký giao dịch phải có lãi, số cổ đông tối thiểu là 50 người (kể cả trong và ngoài
doanh nghiệp).
- Các loại trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương
Phương thức giao dịch áp dụng tại TTGDCK Hà Nội:
+ Phương thức giao dịch thoả thuận.
+ Phương thức giao dịch báo giá trung tâm.
Ngày 8.3.2005 TTGDCK Hà Nội chính thức khai trương hoạt động, đánh dấu một bước
phát triển mới của thị trường chứng khoán Việt Nam.
2.3 Sở giao dịch chứng khoản TP.HCM
Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh tiền thân là Trung tâm Giao
dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, được chuyển đổi theo Quyết định 599/QĐ-
TTg ngày 11/05/2007 của Thủ tướng Chính phủ.
Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh là pháp nhân thuộc sở hữu
Nhà nước, được tổ chức theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, hoạt
động theo Luật Chứng khoán, Luật Doanh nghiệp, Điều lệ của Sở Giao dịch chứng khoán
và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Tên gọi đầy đủ: Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh.
- Tên giao dịch quốc tế: Hochiminh Stock Exchange.
- Tên viết tắt: HOSE.
Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.Hồ Chí Minh có quyền hạn và nghĩa vụ như sau:
2.3.1. Nhiệm vụ
21
- Bảo đảm hoạt động giao dịch chứng khoán trên thị trường được tiến hành công
khai, công bằng, trật tự và hiệu quả;
- Thực hiện chế độ kế toán, kiểm toán, thống kê, nghĩa vụ tài chính theo quy định
của pháp luật;
- Thực hiện công bố thông tin về giao dịch chứng khoán, thông tin về tổ chức
niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán, thông tin về công ty chứng khoán, công ty quản
lý quỹ, quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán và thông tin giám sát hoạt
động của thị trường chứng khoán;
- Cung cấp thông tin và phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong
công tác điều tra và phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán và thị
trường chứng khoán;
- Phối hợp thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức về chứng khoán và
thị trường chứng khoán cho nhà đầu tư;
- Bồi thường thiệt hại cho thành viên giao dịch trong trường hợp Sở giao dịch
chứng khoán gây thiệt hại cho thành viên giao dịch, trừ trường hợp bất khả kháng.
2.3.2. Quyền hạn
- Ban hành các quy chế về niêm yết chứng khoán, giao dịch chứng khoán, công bố
thông tin và thành viên giao dịch sau khi được Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước chấp
thuận.
- Tổ chức và điều hành hoạt động giao dịch chứng khoán tại Sở giao dịch chứng
khoán;
- Tạm ngừng, đình chỉ hoặc huỷ bỏ giao dịch chứng khoán theo Quy chế giao dịch
chứng khoán của Sở giao dịch chứng khoán trong trường hợp cần thiết để bảo vệ nhà đầu
tư;
- Chấp thuận, huỷ bỏ niêm yết chứng khoán và giám sát việc duy trì điều kiện
niêm yết chứng khoán của các tổ chức niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán;
- Chấp thuận, huỷ bỏ tư cách thành viên giao dịch; giám sát hoạt động giao dịch
chứng khoán của các thành viên giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán;
22
- Giám sát hoạt động công bố thông tin của các tổ chức niêm yết, thành viên giao
dịch tại Sở giao dịch chứng khoán;
- Cung cấp thông tin thị trường và các thông tin liên quan đến chứng khoán niêm
yết;
- Thu phí theo quy định của Bộ Tài chính;
- Làm trung gian hòa giải theo yêu cầu của thành viên giao dịch khi phát sinh
tranh chấp liên quan đến hoạt động giao dịch chứng khoán.
2.4 Thị trường chứng khoán UPCOM
Upcom (Unlisted Public Company Market) là tên gọi của thị trường giao dịch
chứng khoán của các công ty đại chúng chưa niêm yết được tổ chức tại Trung tâm Giao
dịch Chứng khoán Hà Nội.
Thị trường này được tổ chức để nhà đầu tư có thể mua, bán các loại cổ phiếu của
các công ty đại chúng chưa niêm yết, hoặc hủy niêm yết tại SGDCK TP.HCM hoặc TT
GDCK Hà Nội với mục đích tạo môi trường giao dịch công bằng, minh bạch, an toàn
giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu tư, tăng tính thanh khoản cho các chứng khoán chưa niêm
yết và tăng khả năng huy động vốn cho các doanh nghiệp. Đối với thị trường UpCom,
nhà đầu tư giao dịch tại công ty chứng khoán theo phương thức thỏa thuận. Kết quả giao
dịch được chuyển qua hệ thống UpCom để chuyển đến Trung tâm lưu ký chứng khoán
thực hiện thanh toán.
Khác với giao dịch trên thị trường niêm yết là giao dịch khớp lệnh tự động, khi
người mua và người bán nhập lệnh mà có sự tương đồng về giá thì hệ thống sẽ tự khớp
lệnh; giao dịch trên thị trường UPCoM được thực hiện bởi sự thỏa thuận gián tiếp giữa
những người bán, người mua thông qua công ty chứng khoán.Muốn giao dịch trên sàn
này, trước hết, nhà đầu tư phải đăng ký giao dịch tại công ty chứng khoán thành viên của
UPCoM và đăng ký lưu ký chứng khoán tại trung tâm lưu ký. Sau đó, tùy theo nhu cầu,
nhà đầu tư có thể đăng ký giao dịch thỏa thuận thông thường hay giao dịch thỏa thuận
điện tử.Trong trường hợp bạn đã có tài khoản giao dịch chứng khoán trên thị trường niêm
yết, bạn không cần mở thêm tài khoản mới và sử dụng tài khoản đó để giao dịch chứng
khoán trên các thị trường. Khi muốn thực hiện giao dịch, bạn đặt lệnh mua/bán thông qua
các công ty chứng khoán. Công ty chứng khoán sẽ giúp bạn thực hiện giao dịch và thông
23
báo kết quả giao dịch cho bạn.Nếu nhà đầu tư tự tìm được đối tác chuyển nhượng, hay
chuyển nhượng trực tiếp với công ty chứng khoán thì sau khi thỏa thuận xong giá và khối
lượng, công ty chứng khoán sẽ nhập kết quả giao dịch vào hệ thống của HASTC. Đây gọi
là giao dich thỏa thuận thông thường.
Trong trường hợp công ty chứng khoán không đáp ứng được ngay nhu cầu chào
mua hay chào bán của khách hàng thì công ty chứng khoán sẽ nhập lệnh yêu cầu của
khách hàng vào hệ thống của HASTC. Đồng thời công ty chứng khoán cũng theo dõi các
lệnh chào mua, chào bán có trên hệ thống (do công ty chứng khoán khác nhập vào) để lựa
chọn lệnh phù hợp và thực hiện lệnh giao dịch cho khách hàng. Đây gọi là giao dịch thỏa
thuận điện tử.
Khác với thị trường niêm yết, tại thị trường UPCoM, các công ty chứng khoán khi
chọn lệnh của các công ty khác nhập vào, nếu muốn thỏa thuận giá khác hay khối lượng
khác thì có thể liên lạc trực tiếp với công ty chứng khoán đã nhập lệnh chào mua, chào
bán. Sau đó có thể hủy lệnh vừa chào để đưa lệnh mới đã thỏa thuận xong vào hệ thống,
như vậy, giao dịch đã được công nhận.
UPCoM có chỉ số tổng hợp, được công bố tương tự như VN-Index, HASTC-Index. Trên
UPCoM, biên độ giao động giá là +/- 10% (trong khi tại sàn Hà Nội là +/- 7%, sàn
TPHCM là +/-5%).
Chứng khoán sau khi mua bán thì được thanh toán theo phương thức T+3, giống
như trên thị trường niêm yết hiện nay (nghĩa là 3 ngày sau khi giao dịch thì chứng khoán
hay tiền mặt sẽ về đến tài khoản của khách hàng).
Trong một ngày giao dịch, nhà đầu tư không được mua bán cùng một loại cổ phiếu
và khối lượng giao dịch tối thiểu là 10 cổ phiếu. Giá tham chiếu trên sàn UPCoM là bình
quân gia quyền giao dịch thỏa thuận điện tử của ngày giao dịch gần nhất.
Thời gian giao dịch của UPCoM là cả hai buổi các ngày làm việc trong tuần. Buổi sáng
từ 10 giờ đến 11 giờ 30 phút và buổi chiều là từ 13 giờ 30 phút đến 15 giờ.
2.5 Thị trường OTC
2.5.1 Khái niệm
Thị trường OTC hay còn gọi là thị trường phi tập trung, là thị trường được tổ chức không
dựa vào một mặt bằng giao dịch cố định như thị trường sàn giao dịch (thị trường giao
24
dịch tập trung), mà dựa vào một hệ thống vận hành theo cơ chế chào giá cạnh tranh và
thương lượng thông qua sự trợ giúp của các phương tiện thông tin. Thị trường OTC
không có một không gian giao dịch tập trung. Thị trường này thường được các CTCK
cùng nhau duy trì, việc giao dịch và thông tin được dựa vào hệ thống điện thoại và
Internet với sự trợ giúp của các thiết bị đầu cuối.
Tính thanh khoản của các loại chứng khoán trên thị trường OTC thường thấp hơn thị
trường giao dịch tập trung, chứa đựng nhiều rủi ro hơn, song cũng có thể đem lại nhiều
lợi nhuận hơn.
2.5.2 Một số đặc trưng cơ bản
NĐT và tổ chức của các NĐT: việc tham gia thị trường OTC rất đơn giản. Tuy
nhiên, hoạt động của các NĐT trên thị trường không phải là độc lập, mà thường lập thành
các nhóm, hội, diễn đàn để trao đổi thông tin với nhau.
Hàng hoá của thị trường: là các loại cổ phiếu của các DN cổ phần, có triển vọng
phát triển, chuẩn bị niêm yết trên thị trường giao dịch tập trung hoặc có những lợi thế
thương mại riêng biệt.
Việc mua bán cổ phiếu trên thị trường OTC được thực hiện theo phương thức
“thuận mua, vừa bán” mà không bị bất cứ một lực bên ngoài nào (giới hạn giá, lượng cổ
phiếu…) tác động. Nói chung, cơ chế mua - bán các loại chứng khoán trên thị trường
OTC theo cơ chế thị trường.
Phương thức mua bán, giao dịch:
+ Bên mua và bên bán trực tiếp gặp nhau để thương lượng, quyết định việc mua - bán
chứng khoán. Đây là phương thức phổ biến hiện nay tại Việt Nam.
+ Bên mua và bên bán có thể giao dịch thông qua các nhà môi giới chứng khoán. Hiện
nay, phương thức này ít phổ biến hơn, nhưng xu hướng phát triển của thị trường thì trong
tương lai, phương thức này sẽ chiếm ưu thế hơn so với phương thức trực tiếp mua - bán.
Thu thập thông tin của các loại cổ phiếu: để mua chứng khoán trên thị trường
OTC, NĐT thường tìm kiếm thông tin từ các nguồn như:
+ Thông tin từ các báo cáo tài chính (BCTC): nhìn chung, các CTCP chưa niêm yết
không có BCTC được kiểm toán. Do những mục đích khác nhau mà DN có nhiều hệ
thống sổ sách kế toán, BCTC. Mặt khác, việc có được một bản BCTC của DN đối với
một người bình thường là điều không hề đơn giản, nhất là trong điều kiện mà ngay bản
thân DN không biết thông tin nào nên công bố, thông tin nào không nên. Do đó, việc thu
25