Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2011-2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 102 trang )



B GIÁO DC VÀ ÀO TO
TRNG I HC KINH T TP. H CHÍ MINH





N
N
G
G
U
U
Y
Y


N
N


T
T
H
H





H
H


U
U





PHÁT TRIN KINH T T NHÂN TRÊN
A BN TNH NG NAI GIAI ON
2011-2020

LUN VN THC S KINH T


CHUYÊN NGÀNH: KINH T CHÍNH TR
MÃ S: 60.31.01


NGI HNG DN: TS. LU TH KIM HOA








TP.H CHÍ MINH – NM 2012




PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ
trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
(XHCN) với nhiều thành phần, đó là: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh
tế tư nhân (KTTN), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài. Với mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN đã góp phần làm
cho nền kinh tế của đất nước ngày càng phát triển năng động. Trong đó,
KTTN (kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế cá thể, tiểu chủ) là một trong những
khu vực kinh tế mới nổi và phát triển khá năng động, góp phần không nhỏ
vào sự phát triển kinh tế chung của nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế tư nhân (KTTN) là một bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc
dân, là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Lực
lượng tham gia thành phần KTTN khá đông đảo, bao gồm: nông dân, thợ
thủ công cá thể, người buôn bán nhỏ, tiểu chủ và tư bản tư nhân. Ở thành
phần này thì chủ sở hữu tư liệu sản xuất quyết định việc tổ chức, quản lý sản
xuất, kinh doanh, phân phối sản phẩm. KTTN là một thành phần kinh tế như
các thành phần khác, đuợc pháp luật bảo vệ và bảo đảm tính pháp lý cho sự
phát triển của nó. KTTN có tác dụng là góp phần tích cực khai thác có hiệu
quả mọi nguồn lực của đất nước; tạo ra nhiều việc làm, sử dụng hiệu quả
nguồn nhân lực của đất nước; tạo ra nhiều của cải cho xã hội; đáp ứng ngày
càng cao nhu cầu tiêu dùng, sản xuất, xuất khẩu của xã hội. Bên cạnh những
mặt tích cực của KTTN thì nó cũng có những hạn chế như: tính tự phát, phát
triển thiếu tính kế hoạch, yếu kém về vốn, công nghệ, thị trường, tính cạnh
tranh, trình độ tổ chức, quản lý, v.v

Trong thời kỳ quá độ hiện nay ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam
nhất quán thực hiện chủ trương xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần nên
1

2
KTTN sẽ tồn tại lâu dài cùng với công cuộc đổi mới đất nước. Đảng Cộng
sản Việt Nam chủ trương: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển
mạnh KTTN trở thành một trong những động lực của nền kinh tế. Phát triển
mạnh các loại hình KTTN ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế theo quy
hoạch và quy định của pháp luật. Tạo điều kiện hình thành một số tập đoàn
KTTN và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước (KTNN)”
(ĐCSVN,2011,tr.209).
Vai trò của
KTTN
ở Việt Nam ngày càng đóng góp to lớn vào kết quả
phát triển chung của nền kinh tế. Nhìn chung tốc độ tăng trưởng của
KTTN

luôn luôn cao hơn tốc độ tăng của các khu vực khác, về số lượng lao động
chiếm tỷ trọng cao trong tổng số lao động đang làm việc (88,8%), vốn đầu tư
cũng
chiếm gần 1/3 tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trong thời gian qua, sự
tăng trưởng của KTTN là một trong những nhân tố quan trọng đối với sự
phát triển chung của kinh tế cả nước.
Sự tồn tại lâu dài của KTTN đã
được Đảng ta nhất quán khẳng định
trong các kỳ Đại hội VII, VIII, IX, X và được Đại hội XI của Đảng nhấn
mạnh: “Tạo điều kiện hình thành một số tập đoàn
KTTN
và tư nhân góp vốn

vào tập đoàn KTNN”
(ĐCSVN,2011,tr.209)
. Chủ trương của Đảng sẽ thúc
đẩy nhanh sự phát triển của
KTTN
, chính vì vậy nghiên cứu sự phát triển
KTTN
hiện nay có ý nghĩa cấp thiết, nhằm cung cấp cơ sở lý luận cho hoạch
định chính sách phát triển cho thành phần kinh tế này ở nước ta.
Sau 35 năm xây dựng và phát triển, Đồng Nai đã vươn lên, trở thành
một trong những tỉnh có GDP bình quân đầu người khá cao so với các tỉnh
trong cả nước, đạt 1.629 USD./người (29,6 triệu đồng) và có tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao, đạt 14,4%/năm (2005 – 2010). Cơ cấu kinh tế tiếp tục
chuyển dịch theo hướng tích cực, đúng định hướng và đạt mục tiêu đề ra. Cơ
cấu GDP theo ngành được chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công
nghiệp - xây dựng từ 57% năm 2005 lên 57,2% năm 2010; dịch vụ từ 28% lên
3
34,1% và giảm ngành nông lâm thủy từ 14,9% còn 8,7% vào năm 2010. Cơ
cấu theo thành phần kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng đóng
góp của khu vực kinh tế nhà nước trong GDP (từ 24,7% năm 2005 xuống còn
19,2% năm 2010) và tăng tỷ trọng đóng góp trong GDP của khu vực kinh tế
ngoài nhà nước (từ 75,3% lên 80,8%). Bên cạnh những đóng góp, KTTN
Đồng Nai còn gặp những khó khăn, thách thức, hiện nay KTTN Đồng Nai
phát triển chưa tương xứng với tiềm năng của nó, vì vậy cần có những giải
pháp để hỗ trợ KTTN Đồng Nai phát triển trong thời gian tới. Đó chính là lý
do vì sao tác giả chọn đề tài “Phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai giai đoạn 2011 – 2020” làm luận văn thạc sỹ kinh tế - chính trị.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề phát triển
KTTN

ở nước ta là một trong những vấn đề được
nhiều nhà khoa học quan tâm. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu
đề cập về tính tất yếu khách quan của nền
KTTN
, vai trò, vị trí, những giải
pháp phát triển
KTTN
trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường định hứớng xã hội chủ nghĩa. Ở Đồng Nai cũng có nhiều đề tài nghiên
cứu về phát triển kinh tế - xã hội nói chung và
KTTN
nói riêng.
Hiện nay, qua tham khảo, tác giả thấy có một số tài liệu viết về những
vấn đề liên quan đến
KTTN
ở Việt Nam, nhìn chung có các hướng sau đây:
* Hướng thứ nhất là các sách tham khảo về kinh tế tế tư nhân như:
- Sở hữu lý luận và vận dụng ở Việt Nam của Nguyễn Văn Thức do Nhà
xuất bản khoa học xã hội xuất bản năm 2004, tác phẩm trình bày và phân tích
những vấn đề lý luận và thực tiễn của sở hữu tư liệu sản xuất trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ đổi mới.
- Kinh tế tư nhân Việt Nam sau hai thập kỷ
đổi mới thực trạng và
những vấn đề
của
Đinh Thị Thơm (chủ biên),
tác phẩm chủ yếu nhấn mạnh
đến quá
trình tồn tại và phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam sau hai mươi
năm đổi mới, phân tích những thành tựu đạt được, những yếu kém cần khắc

4
phục, nêu giải pháp phát triển kinh tế tư nhân.
- Kinh tế tư nhân Việt Nam trong tiến trình hội nhập của PGS.TS.Trịnh
Thị Hoa Mai, trong công trình nghiên cứu này tác giả đã phân tích đánh giá vai
trò của khu vực
KTTN
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
gắn với tiến trình hội nhập, đồng thời đề xuất những giải pháp phát triển
KTTN

Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế.
-
Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị
trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
của GS.TS.Nguyễn Thanh Tuyền,
PGS.TS.Nguyễn Quốc Tế, TS.Lương
Minh Cừ (đồng chủ biên, năm
2003),
tác phẩm này tập hợp 46 bài viết hội thảo khoa học nhằm phân tích và
làm rõ những luận cứ khoa học về sự tồn tại khách quan của sở hữu tư nhân

KTTN, từ đó đề ra những giải pháp phát triển trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Kinh tế tư nhân trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay của Trung tâm
khoa học xã hội và nhân văn quốc gia - Viện thông tin khoa học xã hội, tác
phẩm phân tích những đặc điểm của toàn cầu hóa, và chỉ ra sự biến đổi trong
nhận thức về phát triển
KTTN
trong giai đoạn toàn cầu hóa.

-
Phát triển kinh tế tư nhân ở Hà
Nội
của
TS.Nguyễn Minh Phong
(chủ biên),
tác phẩm phân tích đặc điểm, thực trạng và những vấn đề đặt
ra, những quan điểm
và giải pháp cho sự phát triển
KTTN
ở Hà Nội.
* Hướng thứ hai là các đề tài khoa học đã nghiệm thu như:
- Quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ do PGS.TS.Hồ Trọng Viện chủ
nhiệm.
Đề tài đề cập đến thực trạng
những giải pháp
nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước đối với KTTN
trên địa bàn TP.HCM.
- Vai trò, thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế tư nhân trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, do
TS.Nguyễn Minh Tuấn làm chủ nhiệm, đề tài phân tích, đánh giá những đóng
5
góp của
KTTN
vào phát triển kinh tế - xã hội của TP.HCM, những khó k
hăn,
hạn chế trong quá trình phát triển đồng thời chỉ ra giải pháp nhằm thúc
đẩy

sự phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn TP.HCM.
* Hướng thứ ba là các hội thảo, các bài viết trên các tạp chí khoa học
như:
- Hội thảo khoa học, chủ đề:
Các giải pháp khuyến khích và phát
triển Kinh tế tư
nhân trên địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam của Ủy ban
nhân dân TP.Hồ Chí Minh – Khoa Kinh tế thuộc Đại học Quốc gia
TP.HCM.
- Hàng loạt các bài viết:
Phát triển đội ngũ doanh nhân khu vực kinh
tế tư nhân hiện nay của Đoàn Hiền (TCCSĐT); Mấy suy nghĩ về Đảng viên
làm kinh tế tư nhân của Đàm Kiếm Lập; Một số suy nghĩ về việc đảng viên
làm kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Lê
Minh Phụng; Phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh hội nhập quốc
tế của Phạm Chi Lan v.v…
Nhìn chung các công trình đã nghiên cứu nhiều vấn đề liên quan đến
KTTN và phát triển KTTN, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một
cách đầy đủ, hệ thống, toàn
diện về phát triển KTTN trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai trong những năm tới.
Nội dung nghiên cứu trong luận văn là những cơ sở
lý luận về
KTTN trong nền kinh tế thị trường (KTTT)
, thực trạng phát triển
KTTN
cũng như dự báo xu hướng và những giải pháp phát triển của nó trên
địa bàn tỉnh Đồng Nai. Đây là nội dung có ý nghĩa cả về lý luận lẫn thực tiễn
của công cuộc đổi mới đất nước mà luận văn lựa chọn nghiên cứu.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ và giới hạn nghiên cứu của luận văn

3.1. Mục tiêu
Mục tiêu của luận văn là trên cơ sở làm rõ những nội dung cơ bản lý
luận về
KTTN trong nền KTTT
, thực trạng phát triển
KTTN
ở Đồng Nai từ
đó đưa ra những giải pháp phát triển
KTTN
tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn
2011 – 2020.
6
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn phải thực hiện tốt những nhiệm
vụ cơ bản sau:
- Thứ nhất là, trình bày khái quát, hệ thống những cơ sở lý luận về
KTTN
trong nền
KTTT
ở Việt Nam.
- Thứ hai là, trên cơ sở kết quả khảo sát, trình bày và phân tích thực
trạng phát triển
KTTN
ở Đồng Nai, từ đó chỉ ra những thành tựu, hạn chế và
nguyên nhân của những hạn chế để nhằm phát triển KTTN trong thời gian tới.
- Thứ ba là, dựa vào cơ sở lý luận về
KTTN trong nền KTTT
, thực
trạng phát triển
KTTN

, luận văn đưa ra những giải pháp phát triển
KTTN
của
Đồng Nai trong những năm 2011 – 2020.
3.3. Giới hạn nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu những cơ sở lý luận về
KTTN trong
nền KTTT
, thực trạng và giải pháp phát triển
KTTN
từ 2011 – 2020 trong
phạm vi địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Thời gian nghiên cứu: KTTN giai đoạn từ đổi mới đến năm 2010
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Để thực hiện những yêu cầu trên, luận văn dựa vào thế
giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển
KTTN
.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp Duy vật
biện chứng, Duy vật lịch sử, đồng thời trong quá trình nghiên cứu và trình bày
luận văn còn sử dụng các phương pháp như: thống kê; lịch sử và lôgíc; phân
tích và tổng hợp; quy nạp và diễn dịch, tác giả luận văn tiếp cận vấn đề
nghiên cứu dưới góc độ kinh tế - chính trị.
5. Điểm mới của luận văn
Luận văn dự báo những cơ hội, thách thức và đưa ra những giải pháp
phát triển
KTTN
ở Đồng Nai từ năm 2011 đến năm 2020.
7

6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Về ý nghĩa khoa học, luận văn góp phần làm rõ nội dung cơ bản của lý
luận về
KTTN
, bài học kinh nghiệm về phát triển
KTTN
trong giai đoạn hiện
nay tại một số nước ở Châu Á và các địa phương lân cận.
Về ý nghĩa thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn sau khi bảo vệ
được Hội đồng công nhận có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác
giảng dạy và nghiên cứu về kinh tế - chính trị. Đồng thời, những bài học kinh
nghiệm, những giải pháp mà luận văn nêu ra có thể nhằm đẩy mạnh phát triển
KTTN
ở Đồng Nai trong thời gian tới.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu thành ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về Kinh tế tư nhân trong nền KTTT;
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Đồng Nai trong công
cuộc đổi mới đất nước;
Chương 3: Giải pháp phát triển kinh tế tư nhân tỉnh Đồng Nai giai đoạn
2011 – 2020.












8
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN
1.1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh về kinh tế tư nhân
Trong quá trình xây dựng học thuyết kinh tế của mình, C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã bàn đến
KTTN
. Trong các tác phẩm, họ đề cập
mức độ đậm nhạt khác nhau, nhưng nhìn chung đều thống nhất ở điểm chung

KTTN
là một lĩnh vực kinh tế như các lĩnh vực kinh tế khác cấu thành nền
kinh tế quốc dân. Theo đó,
KTTN
bao gồm: kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế
tư bản tư nhân.
Khi bàn về hình thức kinh tế cá thể, tiểu chủ, nhất là tiểu nông,
Ph.Ăngghen đã viết: “Tiểu nông là người mà chúng ta nói ở đây, sở hữu hoặc
đi thuê – và nhất là người sở hữu – một mảnh ruộng đất không lớn hơn số
ruộng đất mà họ thường có thể cày cấy cùng với gia đình họ, và cũng không
bé hơn số ruộng đất cần thiết để nuôi gia đình họ. Cũng như người tiểu thủ
công, người tiểu nông này là một người lao động, anh ta khác với người vô
sản hiện đại ở chỗ là anh ta còn sở hữu những tư liệu lao động, như vậy anh ta
là tàn dư của một phương thức đã lỗi thời” (C.Mac-Ph.Angghen,1984,tr.567)

.
Như vậy, theo như Ph.Ăgghen thì kinh tế cá thể, tiểu chủ là một loại hình kinh
tế tàn dư của phương thức sản xuất đã lỗi thời trong lịch sử. Tuy nhiên, nó
vẫn phát huy tác dụng trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, ở đó thể
hiện mối quan hệ kinh tế không bóc lột, họ cũng như giai cấp công nhân, đều
là những người lao động chân chính.
Còn kinh tế tư bản tư nhân là một hình thức kinh tế thuộc phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa, nó không có cùng bản chất với kinh tế cá thể, tiểu
9
chủ. Đó là một hình thức bóc lột của nhà tư bản đối với người làm thuê.
Ph.Ăngghen đã viết như sau: “Vậy sản xuất tư bản tư nhân nghĩa là gì? Là sản
xuất của người kinh doanh riêng biệt; và sản xuất ấy há chẳng ngày càng trở
thành một ngoại lệ đó sao? Sản xuất tư bản chủ nghĩa của những công ty cổ
phần đã không còn là một nền sản xuất tư nhân nữa, mà là một nền sản xuất
cho một số đông cổ đông”(V.I.Lênin,1978,tr.493)
.
Như vậy, theo Ph.Ăngghen
kinh tế tư bản tư nhân là một hình thức kinh tế tư bản chủ nghĩa mang tính
ngoại lệ ở chỗ, đó là phân biệt chủ thể sở hữu của những nhà tư bản đối với tư
liệu sản xuất.
Theo quan điểm của Mác, bản chất của xoá bỏ chế độ tư hữu là xóa bỏ
chế độ kinh tế trong đó một thiểu số người nắm tư liệu sản xuất dùng để bóc
lột, nô dịch đa số người lao động làm thuê. C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết:
“Chủ nghĩa cộng sản không tước của ai cái khả năng chiếm hữu những sản
phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy
để nô dịch lao động của người khác” (C.Mac-Angghen,1995,tr.618)
.

Khi nói về KTTN, V.I.Lênin cũng đã bàn nhiều đến vấn đề này, trong
đó nhấn mạnh phát triển kinh tế tư bản tư nhân. Hồi đó, ở nước Nga,

V.I.Lênin đã chủ trương thực hiện kinh tế NEP, V.I.Lênin cho rằng, từ trình
độ xuất phát về kinh tế, kỹ thuật thấp như nước Nga phải học tập các nhà tư
bản, phải làm phần việc mà nhà tư bản cần làm là xây dựng chủ nghĩa tư bản
nhà nước. Theo V.I.Lênin, ở Liên Xô là một nước tiểu nông, lực lượng cơ bản
là nông dân, vì vậy, mấu chốt cơ bản nhất, cấp thiết nhất là: “phục hồi ngay
những lực lượng sản xuất của kinh tế nông dân” (V.I.Lênin,1978,tr.263).
Theo Người, không nên xoá bỏ KTTN vì nó có vai trò và tác dụng nhất định,
Người viết: “tìm cách ngăn cấm, triệt để mọi sự phát triển của sự trao đổi tư
nhân, không phải là quốc doanh, tức là của thương mại, tức là của chủ nghĩa
tư bản, một sự phát triển không thể tránh khỏi được khi có hàng triệu người
sản xuất nhỏ. Chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối với đảng nào muốn
10
áp dụng nó. Dại dột, vì về phương diện kinh tế chính sách ấy là không thể nào
thực hiện được; tự sát, vì những đảng nào định thi hành một chính sách như
thế, nhất định sẽ bị phá sản” (V.I.Lênin,1978,tr.267).
Trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng đã bàn về KTTN. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho rằng, trong giai
đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần,
trong đó vai trò KTTN không kém phần quan trọng, bởi vì nước ta xuất phát
từ một nước nông nghiệp kém phát triển. Người viết: “… đặc điểm to nhất
của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” (Hồ
Chí Minh,1996,tr.247). Người cho rằng: “Trong chế độ dân chủ mới, có năm
loại kinh tế khác nhau:
A - Kinh tế quốc doanh (thuộc CNXH, vì nó là của chung của nhân dân).
B – Các hợp tác xã (nó là nửa CNXH, và sẽ tiến lên CNXH).
C – Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp
tác xã, tức là nửa CNXH).
D – Tư bản tư nhân.
E – Tư bản nhà nước.

Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển cao hơn cả,
cho nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo
hướng chủ nghĩa tư bản”

(Hồ Chí Minh,1996,tr.247-248).
Như vậy, trong năm thành phần kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi
KTTN bao gồm: “ C– Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể
tiến dần vào hợp tác xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội).
D – Tư bản tư nhân.”
Đây là những thành phần kinh tế sẽ tồn tại trong suốt thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Trong các thành phần kinh tế, Người đã phân tích rất rõ
11
mối quan hệ giữa kinh tế quốc doanh, tập thể với KTTN. Người viết: “Chính
sách kinh tế của Đảng và Chính phủ gồm có mấy điều:
1. Công tư đều lợi: Kinh tế quốc doanh là công. Là nền tảng và sức
lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới (…).
Tư là nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và thợ thủ
công nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước
nhà. Cho nên chính phủ cần phải giúp đỡ họ phát triển. Nhưng họ phải
phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải phù hợp lợi ích của đại đa
số nhân dân.
2. Chủ thợ đều lợi: Nhà tư bản thì không khỏi bóc lột. Nhưng chính
phủ ngăn cấm họ bóc lột công nhân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi
của công nhân. Đồng thời, vì lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng để cho chủ
một số lợi hợp lý, không yêu cầu quá mức.
Chủ và thợ đều tự giác tự động, tăng gia sản xuất lợi cả đôi bên.”

(Hồ
Chí Minh,1996,tr.247-252).
Trong tư tưởng của Người hoàn toàn xa lạ với thái độ đối lập với

KTTN, trái lại, Người xác định rất rõ vai trò của KTTN trong tiến trình phát
triển kinh tế đất nước. Đồng thời với việc xác định phân loại các thành phần
kinh tế, Người cũng xác định các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất:
“ - Sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân.
- Sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
- Sở hữu của người lao động riêng lẻ.
- Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản.” (Hồ Chí
Minh,1996,tr.588).
Như vậy, trong tư tưởng của Người đã thừa nhận sở hữu về tư liệu sản
xuất của thành phần KTTN. Người cũng có thái độ dứt khoát đề ra chủ trương
phát triển các thành phần thuộc KTTN như sau:
12
“ – Đối với người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác. Nhà
nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và
giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất
theo nguyên tắc tự nguyện.
- Đối với những nhà tư sản công thương Nhà nước không xoá bỏ quyền
sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ; mà ra sức hướng dẫn họ
hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế
của Nhà nước. Đồng thời Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ cải tạo theo chủ
nghĩa xã hội bằng hình thức công tư hợp doanh và những hình thức cải tạo
khác” (Hồ Chí Minh,1996,tr.589).
Như vậy, trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện quan
điểm rất rõ ràng về vị trí, vai trò của KTTN và Người đặc biệt quan tâm đến
vấn đề xây dựng chủ trương, chính sách phát triển KTTN góp phần phát triển
kinh tế của quốc gia.
1.1.2. Kinh tế tư nhân và Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về phát triển kinh tế tư nhân
1.1.2.1. Kinh tế tư nhân
Kinh tế tư nhân là một phạm trù kinh tế mà trong công cuộc đổi mới

Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt quan tâm. Để hiểu rõ
KTTN
chúng ta cần
tìm hiểu về sở hữu tư nhân trong mối quan hệ với
KTTN
. Vì chế độ sở hữu
nó có ý nghĩa quyết định đến việc hình thành các thành phần kinh tế, các hình
thức tổ chức kinh tế xã hội.
KTTN
gắn liến với sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất nên chúng ta cần phải làm rõ về sở hữu tư nhân.
Sở hữu là một vấn đề xuất hiện khi lực lượng sản xuất phát triển.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, con người luôn tìm cách chiếm hữu
những của cải tự nhiên để thỏa mãn nhu cầu của mình. Chiếm hữu những của
cải ấy nói lên mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản
xuất vật chất. Trình độ phát triển của chiếm hữu thể hiện ở cách thức, phương
13
tiện thực hiện và kết quả mà nó thu được, nói lên trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Tuy nhiên, để mỗi cá nhân chiếm hữu được những tư liệu sản
xuất cho mình, con người phải liên kết với nhau tạo thành quan hệ xã hội
trong quá trình thực hiện chiếm hữu. Trong quan hệ xã hội ấy, các thành viên
trong cộng đồng thừa nhận lẫn nhau về cơ sở và kết quả của sự chiếm hữu của
các thành viên trong cộng đồng, đó chính là sở hữu.
Như vậy, “sở hữu là hình thức chiếm hữu của cải vật chất do lịch sử
quy định, trong đó thể hiện quan hệ giữa con người với con người trong quá
trình sản xuất xã hội. Sự phát triển của các hình thức sở hữu là do sự phát
triển của lực lượng sản xuất quyết định” (Từ điển Triết học,1975,1986,tr.507).
Phạm trù sở hữu có ba mặt: đối tượng sở hữu, chủ sở hữu, quan hệ sở hữu.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định:
“Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều

hình thức sở hữu và nhiều thành
phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập
thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà
nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài” (ĐCSVN,2006,tr.83). Theo đó, chế
độ sở hữu quy định việc hình thành các hình thức sở hữu, các thành phần
kinh tế.
Hiện nay, có nhiều quan điểm cho rằng thực tế có ba hình thức sở
hữu cơ bản, đó là sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp. Như vậy,
sở hữu tư nhân là một trong những hình thức sở hữu ở nước ta, vậy sở hữu tư
nhân là gì?

Sở hữu tư nhân có nhiều cách hiểu khác nhau. Chẳng hạn, trong bộ
Luật dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều 211 quy định:
“Sở hữu tư nhân là sở hữu cá nhân đối với tài sản hợp pháp của mình. Sở hữu
tư nhân bao gồm: sở hữu cá nhân, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân”. Sở
hữu cá nhân là hình thức sở hữu mà có một cá nhân cụ thể và chủ thể này có
quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối tượng sở hữu của mình trong
khuôn khổ luật pháp. Sở hữu tư nhân được hiểu là quan hệ sở hữu xác nhận
14
quyền hợp pháp của tư nhân trong việc chiếm hữu, quyết định cách thức tổ
chức sản xuất - kinh doanh, chi phối và hưởng lợi từ kết quả của quá trình sản
xuất - kinh doanh đó. Sở hữu tư nhân ra đời và tồn tại trong các hình thái kinh
tế - xã hội khác nhau như xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư
bản chủ nghĩa và cho đến ngày nay thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì sở
hữu tư nhân vẫn còn tồn tại và phát triển lâu dài.
Trên cơ sở tồn tại của hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất dẫn
đến hình thành thành phần KTTN trong nền kinh tế xã hội. Vậy kinh tế tư
nhân là gì?
Kinh tế tư nhân là một phạm trù không mới mẻ trong nền kinh tế hàng
hóa hiện nay.

KTTN
là những đơn vị kinh tế được tổ chức dựa trên sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất.
KTTN
hoàn toàn tự chủ về vốn, về quản lý, phân
phối, lựa chọn hình thức sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh trước pháp luật. Theo quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam, KTTN là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc
dân, KTTN gồm: kinh tế các thể, kinh tế tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân.
Trong Văn kiện Hội nghị lần thứ Năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
IX viết: “Kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư
nhân, hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá
thể và các loại hình doanh
nghiệp của tư nhân…” (ĐCSVN,2002,tr.55).
Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cũng đã xác định
KTTN gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân. Như vậy, KTTN là
thành
phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, bao gồm kinh tế cá
thể, tiểu chủ và
kinh tế tư bản tư nhân hoạt động dưới hình thức hộ kinh
doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân.
Theo quan
điểm trên KTTN ở Việt Nam có hai loại hình sau:
-
Một là
, kinh tế cá thể, tiểu chủ: bao gồm những đơn vị kinh tế hoạt
động trên cơ sở tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, với qui mô nhỏ hơn các loại
15
hình doanh nghiệp của tư nhân, chủ yếu sử dụng lao động trong gia đình, là
đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về kết quả

tài chính của mình. Kinh tế cá thể, tiểu chủ tồn tại độc lập dưới các hình thức:
xưởng thợ gia đình, hộ kinh doanh thương mại, dịch vụ, hộ làm kinh tế
trang
trại, hộ sản xuất nông nghiệp hoặc tham gia liên doanh, liên kết với các
loại
hình kinh tế khác.
- Hai là, kinh tế tư bản tư nhân gồm những đơn vị kinh tế hoạt động trên
cơ sở tư hữu lớn về tư liệu sản xuất với qui mô lớn hơn cá thể, tiểu chủ, có thuê
mướn lao động. Kinh tế tư bản tư nhân tồn tại dưới các loại hình doanh nghiệp
như: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công
ty hợp danh.
1.1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển
kinh tế tư nhân
Từ khi đổi mới, KTTN chưa được chính thức coi như một thành phần
kinh tế của nền kinh tế quốc dân. Nhưng trong nhận thức, Đảng ta khẳng định
nhất quán lâu dài xây dựng, phát triển kinh tế nhiều thành phần, và đã thừa
nhận những yếu tố, bộ phận cấu thành KTTN.
* Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI xác định nền kinh tế
có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ và Văn kiện
viết: “Ở nước ta, các thành phần đó là:
- Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực
tập thể, cùng với các bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với các thành phần đó.
- Các thành phần kinh tế khác gồm: kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa (thợ
thủ công, nông dân cá thể, những người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá
thể); kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, mà
hình thức cao là công tư hợp doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một
bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng núi cao khác”
(ĐCSVN,2006,tr.57-58).
16
* Văn kiện Đại hội VII: “Kinh tế tư nhân được phát triển, đặc biệt

trong lĩnh vực sản xuất, theo sự quản lý, hướng dẫn của Nhà nước; trong đó,
kinh tế cá thể tiểu chủ có phạm vi hoạt động tương đối rộng ở những nơi chưa
có điều kiện tổ chức kinh tế tập thể, hướng kinh tế tư bản tư nhân phát triển
theo con đường tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức” (ĐCSVN,1991,tr.69).
Sau đó, trong Hội nghị lần thứ hai, Ban chấp hành Trung ương khoá VII tiếp
tục khẳng định: Phát triển kinh tế hộ cá thể, tư nhân trong nông nghiệp là một
chính sách nhất quán, lâu dài trong thời kỳ quá độ!
* Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII viết: “Kinh tế cá
thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng lâu dài. Giúp đỡ kinh tế các thể, tiểu chủ giải
quyết các khó khăn về vốn, về khoa học và công nghệ, về thị trường tiêu thụ
sản phẩm. Hướng dẫn kinh tế cá thể, tiểu chủ, vì lợi ích thiết thân và nhu cầu
phát triển của sản xuất, từng bước đi vào làm ăn hợp tác một cách tự nguyện,
làm vệ tinh cho các doanh nghiệp nhà nước hay hợp tác xã. Kinh tế tư bản tư
nhân có khả năng góp phần xây dựng đất nước. Khuyến khích tư bản tư nhân
đầu tư vào sản xuất, yên tâm làm ăn lâu dài; bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích
hợp pháp, tạo điều kiện thuận lợi đi đôi với tăng cường quản lý, hướng dẫn
làm ăn đúng pháp luật, có lợi cho quốc kế dân sinh” (ĐCSVN,1996,tr.96).
Từ những chủ trương đúng đắn, phù hợp, KTTN càng có bước phát
triển mới góp phần phát triển kinh tế đất nước, giải phóng đáng kể lực lượng
sản xuất của cả nước, bộ mặt kinh tế - xã hội ngày càng thay da đổi thịt. Bên
cạnh sự phát triển của các thành phần kinh tế khác, KTTN cũng đóng góp vào
tích lũy ngân sách nhà nước. Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nhấn mạnh: “Kinh tế cá thể tiểu chủ cả ở
nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và
giúp đỡ để phát triển; khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện,
làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn. Khuyến khích phát
triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong các ngành nghề sản xuất, kinh
17
doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về
chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định

hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; khuyến khích
chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động, liên
doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Xây dựng
mối quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động”
(ĐCSVN,2001,tr.98-99). Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ IX, Ban chấp hành trung ương Đảng đã tổ chức Hội nghị lần thứ hai, nhấn
mạnh thêm: “Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế
quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa”
(ĐCSVN,2002,tr.57).
Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ X tiếp tục khẳng định
phát triển KTTN và coi nó là một bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc dân.
KTTN gồm: kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân. Đảng ta
nhấn mạnh về vai trò của KTTN như sau: “Kinh tế tư nhân có vai trò quan
trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế.” (ĐCSVN,2006,tr.83).
Về mặt thực tiễn KTTN là khu vực kinh tế năng động, hiệu quả năm 2005
chiếm 37,7% GDP của cả nước và hiện nay khu vực này phát triển rất hiệu
quả trở thành động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trong quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, khái niệm
kinh tế tư nhân được sử dụng dùng để chỉ các bộ phận: kinh tế cá thể, kinh tế
tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân. Như vậy, cách sử dụng khái niệm này có sự
linh hoạt hơn, đó là KTTN bao hàm cả kinh tế tư bản tư nhân, tạo điều kiện để
chúng ta phát triển mở rộng các lực lượng xã hội có điều kiện tham gia phát
triển KTTN.
Đến nay, trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng cũng tiếp tục khẳng định nhất quán đường lối, chủ trương phát triển
18
KTTN. Lần này, Đại hội Đảng cũng nhận thấy, trong quá trình xây dựng và
phát triển KTTN còn gặp phải những khó khăn về vốn, khoa học công nghệ,
pháp lý, v.v… cho nên Đảng và Nhà nước sẽ tiếp tục hỗ trợ cho KTTN phát

triển tốt hơn nữa trong giai đoạn phát triển tiếp sau. Văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ XI viết: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh
KTTN trở thành một trong những động lực mạnh của nền kinh tế. Phát triển
mạnh các loại hình kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế theo
quy hoạch và quy định của pháp luật. Tạo điều kiện để hình thành một số tập
đoàn kinh tế tư nhân và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước”
(ĐCSVN,2011,tr.209)

. Theo đó, KTTN sẽ ngày càng có điều kiện phát triển
cùng các thành phần kinh tế khác, KTTN được khuyến khích phát triển thành
các tập đoàn kinh tế lớn trên các lĩnh vực, các ngành, có điều kiện nâng cao
sức cạnh tranh của nền kinh tế nước nhà với các nền kinh tế thế giới.
Như vậy, cả về mặt lý luận và chủ trương đường lối của Đảng ta là
thống nhất về phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó
KTTN
bao gồm:
kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, là một bộ phận quan trọng sẽ
phát triển lâu dài trong thời kỳ xây dựng CNXH.
Trong quá trình cải tạo, xây dựng CNXH ở nước ta, Đảng ta đã nhận
định: “trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thật sự thừa
nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời
gian tương đối dài”

(ĐCSVN,1986,tr.23).
Sau khi đổi mới, chúng ta đã có những thay đổi về tư duy kinh tế một
cách đầy đủ hơn. Mặc dù, thời gian đầu còn chập chững trong việc phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần, song thực tiễn đổi mới đất nước đã chứng minh
đường lối đó là đúng đắn. Các thành phần kinh tế ngày càng khẳng định vị trí,
vai trò của mình trong cơ cấu nền kinh tế.


19
1.1.3. Tính tất yếu tồn tại, đặc điểm và vai trò của kinh tế tư nhân ở
Việt Nam.
1.1.3.1. Tính tất yếu tồn tại:
- Thứ nhất là:
Theo qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất đặt ra yêu cầu quan hệ sản xuất phải phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong nền kinh tế nước ta hiện
nay trình độ lực lượng
sản xuất còn lạc hậu, kém phát triển, không đồng
đều giữa các ngành, các vùng và trong nội bộ từng vùng cho nên hình
thành nền kinh tế nhiều thành phần là tất yếu khách quan, trong đó có
KTTN
.

- Thứ hai là:
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
trong xã hội tồn tại đan xen cả yếu tố cũ và yếu tố mới. Trong quá trình hình
thành, phát triển các thành phần kinh tế sẽ xuất hiện những thành phần kinh tế
mới, cũng như những bộ phận, những yếu tố của thời kỳ trước để lại. KTTN
bao gồm kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân là những bộ
phận có cả trong thời kỳ trước và vừa nảy sinh trong công cuộc đổi mới.
- Thứ ba là:
Thực tế phát triển kinh tế ở các nước trên thế giới cũng
như ở Việt Nam, nền
KTTT
nói chung và kinh tế thị trường định hướng
XHCN nói riêng đã tạo ra sự phát triển mạnh mẽ trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Trong nền
KTTT

định hướng XHCN ở Việt Nam thì KTTN càng
ngày phát triển và có những đóng góp rất lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội.
- Thứ tư là:
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, sự phát triển
KTTN là xu hướng phát triển khách quan của kinh tế thế giới và xu hướng ấy
đang tác động vào các nước. Việt Nam trong quá trình hội nhập với nền kinh
tế thế giới thì KTTN là một trong những thành phần rất quan trọng thu hút
đầu tư của nước ngoài cũng như thúc đẩy sự phát triển CNH, HĐH đất nước.


20
1.1.3.2. Đặc điểm kinh tế tư nhân Việt Nam
- KTTN ở nước ta là sản phẩm của đổi mới, là kết quả của chính sách
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, là bộ phận hữu cơ của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- KTTN hình thành từ nhiều nguồn vốn khác nhau như vốn tích lũy sẵn
có, vốn huy động từ người thân, vốn tích lũy từ sản xuất kinh doanh, vốn vay
từ nhà nước hoặc từ sự hỗ trợ của nhà nước và các tổ chức khác. Nguồn vốn
còn hạn chế, chưa nhiều để có cơ hội phát triển mạnh thành các doanh nghiệp
lớn, hay tập đoàn KTTN đủ mạnh để cạnh tranh trên thị trường.
- KTTN có tốc độ phát triển nhanh nhưng còn mang tính tự phát cao và
nguồn lực còn yếu, lực lượng còn mỏng. Công nghệ sản xuất lạc hậu, chưa
ứng dụng nhiều khoa học kỹ thuật hiện đại.
- KTTN còn hạn chế về trình độ tổ chức, quản lý, cũng như phát triển
thương hiệu, cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài.
- Sản xuất, kinh doanh còn manh mún, nhỏ lẻ chưa có kế hoạch chiến
lược lâu dài, một bộ phận chạy theo lợi ích trước mắt vi phạm pháp luật.
KTTN ở Việt Nam là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu của nền
kinh tế thị trường. Mặc dù KTTN còn có những hạn chế nhất định, nhưng nếu
được tổ chức, quản lý tốt nó sẽ phát huy được vai trò của nó.

1.1.3.3. Vai trò của kinh tế tư nhân
Theo tác giả, hiện nay KTTN có vai trò là cùng với các thành phần kinh
tế khác góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển sản
xuất xã hội. Điều này được thể hiện:
- KTTN có tác dụng kích thích, cạnh tranh và thúc đẩy lực lượng lớn
tham gia vào sản xuất xã hội. Từ đó góp phần vào ổn định, phát triển kinh tế -
xã hội nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
- KTTN gắn liền với lợi ích cá nhân khá chặt chẽ nên tạo ra một động
lực to lớn trong lực lượng lao động xã hội, từ đó làm cho hoạt động kinh
21
doanh diễn ra năng động hơn, hiệu quả hơn. Nguồn lực lớn nhất hiện nay là
vốn, tài sản của cá nhân trong nước rất lớn, cho nên nếu tổ chức, động viên tốt
sẽ tạo ra hiệu ứng tích cực kích thích mọi người dân tham gia vào quá trình
sản xuất, phát huy được năng lực nội sinh của đất nước, thúc đẩy sản xuất
phát triển nhanh hơn, quy mô lớn hơn, tạo tích lũy xã hội ngày càng tăng.
- Hiện nay KTTN có nhiều tầng lớp, giai cấp tham gia và có tinh thần
tự tôn dân tộc, có ý thức trách nhiệm cao với đất nước. Trong xu thế toàn cầu
hóa hiện nay, vấn đề các giai cấp, tầng lớp cùng nhau nổ lực phát triển kinh tế
là một trong những nguyên nhân rất quan trọng cho xây dựng, củng cổ khối
đại đoàn kết toàn dân tộc vì sự nghiệp đổi mới hiện nay của đất nước.
- Sự phát triển KTTN đã tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa KTTN với các
thành phần kinh tế khác thành một nền kinh tế vững mạnh đủ sức để cạnh
tranh với các nước trên thế giới, khác tạo ra một khối thống nhất đủ điều kiện
cùng nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
- KTTN phát triển sẽ tạo ra nhiều loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cho
xã hội, huy động mọi nguồn lực trong nhân dân để thúc đẩy kinh tế phát triển.
Sự phát triển của KTTN sẽ tạo ra sự đa dạng, phong phú về ngành nghề, lĩnh
vực sản xuất, kinh doanh, nhiều doanh nghiệp ra đời tạo ra nhiều việc làm,
góp phần cùng nhà nước giải quyết việc làm trong nhân dân.
KTTN ở Việt Nam là một trong những thành phần kinh tế tồn tại

khách quan, nhưng nó sẽ tồn tại đến bao giờ? KTTN tồn tại với tư cách là
hiện thực sinh động của nền kinh tế thị trường, nó sẽ tồn tại lâu dài trong sự
phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam. KTTN ở Việt Nam sẽ tồn tại đến chừng
nào mà bản thân nó không còn phát huy tác dụng nữa trong nền kinh tế thì tự
bản thân nó sẽ dần dần mất đi.


22
1.1.4. Nội dung phát triển kinh tế tư nhân và những nhân tố tác
động đến phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta.
1.1.4.1. Nội dung phát triển kinh tế tư nhân:
Là quá trình tăng lên cả về chất và lượng của khu vực KTTN. Tăng
lên về số lượng nghĩa là ở đó có sự tăng trưởng về số lượng các doanh nghiêp,
quy mô doanh nghiệp được mở rộng, lao động tăng lên, mặt bằng sản xuất
kinh doanh được mở rộng, máy móc thiết bị được đầu tư. Tăng lên về chất là
tăng về hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp, trình độ quản lý được nâng
lên, trình độ sản xuất kinh doanh phát triển lên một bước mới, thị trường
không ngừng được mở rộng, giá trị đóng góp cho nền kinh tế của khu vực
KTTN ngày càng tăng lên.
- Sự phát triển số lượng, quy mô: Hộ cá thể, Doanh nghiệp là một bộ
phận cấu thành của KTTN, do vậy số lượng hộ cá thể và các doanh nghiệp
ngày càng nhiều chứng tỏ KTTN ngày càng phát triển. Phát triển KTTN là
phải có sự tăng trưởng nghĩa là sự gia tăng về số lượng, quy mô hộ cá thể và
các doanh nghiệp trong khu vực KTTN. Sự phát triển về quy mô, số lượng hộ
cá thể, các doanh nghiệp là một trong những tiêu chí quan trọng để nghiên
cứu đánh giá sự phát triển kinh tế tư nhân.
- Vấn đề tăng quy mô vốn, mặt bằng sản xuất kinh doanh: Ngoài
những chỉ tiêu về số lượng đơn vị được cấp phép, số đơn vị thực tế hoạt động,
một yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới sự tồn tại và phát triển của các doanh
nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN trong thời gian vừa

qua đó là yếu tố về vốn kinh doanh và mặt bằng sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
- Vấn đề năng lực, trình độ quản lý hộ, doanh nghiệp: KTTN phát
triển phụ thuộc rất lớn vào khả năng nhạy bén, thích nghi với cơ chế mới của
đội ngũ cán bộ quản lý, điều hành. Đây cũng là một tiêu chí đánh giá, nhận
biết sự phát triển của doanh nghiệp.
23
1.1.4.2. Những nhân tố tác động đến phát triển kinh tế tư nhân ở
nước ta:
Sự phát triển của KTTN ở nước ta phụ thuộc vào nhiều nhân tố. Trong
đó cần chú ý một số nhân tố chủ yếu tác động trực tiếp là:
Thứ nhất, nhân tố có tính quyết định, là đường lối tiếp tục và kiên trì
đổi mới của Đảng. Khu vực KTTN ở nước ta trong điều kiện hiện nay, phát
triển thuận lợi hay khó khăn; yên tâm hay thiếu yên tâm; trình độ cao hay
thấp đều do đường lối của Đảng quyết định. Qua các kỳ đại hội từ Đại hội
VII (6/1991) đến Đại hội X, Đảng ta đã khẳng định: chủ nghĩa xã hội dựa
trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu và sản xuất hàng hóa không
đối lập với chủ nghĩa xã hội mà trái lại cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng thì kinh tế tư nhân
có vai trò quan trọng là động lực của nền kinh tế. Mặt khác, trên thế giới, nền
kinh tế thị trường và sản xuất hiện đại không loại trừ các hình thức sản xuất
nhỏ và vừa và các hình thức sở hữu phi công hữu, ngược lại sở hữu tư nhân
và kinh tế tư nhân trở thành cơ sở thiết yếu cho sự phát triển.
Thứ hai, vai trò quản lý kinh tế của nhà nước trong nền KTTT là nhân
tố tác động trực tiếp đến sự phát triển của KTTN thông qua những việc làm
cơ bản: (i) Thiết lập khuôn khổ pháp luật về kinh tế; (ii) Tạo lập môi trường
thuận lợi cho sản xuất kinh doanh, nhất là duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, ổn
định chính trị, ổn định xã hội; (iii) Bảo đảm kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế;
(iv) Hỗ trợ phát triển và (v) Cải cách khu vực hành chính công.
Thứ ba, nguồn lực của khu vực KTTN (vốn, công nghệ, lao động, tài

nguyên thiên nhiên) là nhân tố nội tại, bên trong quyết định sự phát triển của
KTTN trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Điều đó thể hiện như sau:
- Sau thời gian được phục hồi và phát triển lực lượng sản xuất trong
khu vực KTTN đã lớn mạnh, rộng khắp. Một số doanh nghiệp đã đứng vững
trên thị trường nội địa và quốc tế. KTTN là lực lượng kinh tế của dân, do dân
24
tự đầu tư và sản xuất kinh doanh, dân chịu trách nhiệm nên thích ứng nhanh
với nền kinh tế thị trường …. tạo ra nguồn vốn nhân lực dồi dào, tích lũy tri
thức công nghệ cho sự phát triển.
- Thu nhập bình quân đầu người gia tăng hàng năm, tỉ lệ tiết kiệm trong
dân cư gia tăng do đó vốn đầu tư tiềm tàng trong dân cư cho phát triển KTTN
ngày càng gia tăng.
- Cùng với việc sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên, những tiến bộ
về công nghệ đã được khu vực KTTN ứng dụng nhằm đổi mới và nâng cao
chất lượng sản phẩm và đổi mới qui trình sản xuất góp phần nâng cao cạnh
tranh của khu vực KTTN.
Thứ tư, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, nhất là
trong thế kỷ 21, là nguồn gốc của toàn cầu hóa về kinh tế và hội nhập kinh tế
quốc tế, tạo điều kiện ra đời nền kinh tế tri thức. Trong đó, khoa học và công
nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Thứ năm, đổi mới quan niệm về vai trò chủ đạo và đẩy nhanh tiến trình
cải cách, doanh nghiệp nhà nước là nhân tố thúc đẩy sự phát triển KTTN trên
cơ sở cạnh tranh bình đẳng, tăng động lực phát triển. Hiện nay, doanh nghiệp
nhà nước ở nước ta tuy đã trải qua tiến trình sắp xếp lại và cổ phần hóa nhưng
việc nắm giữ đại bộ phận nguồn lực phát triển dẫn đến độc quyền làm cho các
doanh nghiệp tư nhân hoạt động khó khăn.
1.2. KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1.2.1. Thực trạng kinh tế tư nhân ở Việt Nam:
Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, KTTN có điều kiện để phát triển.

Năm 1991, cả nước có 494 doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu
hạn, Công ty cổ phần thì đến năm 2000 con số này lên tới 31.000 doanh
nghiệp,
từ khi có Luật Doanh nghiệp (năm 2005), từ chỗ chỉ có 4.086 DNTN
đăng ký thành lập theo Luật Doanh nghiệp và Luật Doanh nghiệp tư nhân

×