Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Quỹ đầu tư vốn mạo hiểm quan điểm lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (597.71 KB, 110 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lời nói Đầu
Toàn thế giới đang bớc vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của khoa học
công nghệ kỹ thuật cao, tốc độ khoa học công nghệ phát triển nh vũ bão, nền kinh tế
thế giới đang dần chuyển hớng nhắm tới nền kinh tế tri thức. Trong bối cảnh đó, Việt
Nam đang chuẩn bị những hành trang để hội nhập với nền kinh tế thế giới. Với xuất
phát điểm của chúng ta là một nớc đang phát triển, lạc hậu trong lĩnh vực khoa học
kỹ thuật, đang trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nớc, quả thật chúng
ta gặp khó khăn rất nhiều trong tiến trình hội nhập nền kinh tế thế giới. Để có thể
thực hiện chiến lợc đi tắt đón đầu trong thời đại ngày nay, chúng ta chỉ còn một con
đờng vận dụng tri thức, sử dụng vốn quí nhất của con ngời vào trong lĩnh vực kinh
doanh sản xuất, sáng tạo khoa học công nghệ kỹ thuật. Nếu không phát huy sức mạnh
của tri thức thì chúng ta sẽ mãi đi theo đuôi các nớc phát triển là bãi rác công nghiệp
cho thế giới và nền kinh tế tri thức đối với Việt Nam chỉ là một giấc mơ không bao
giờ thành hiện thực.
Có thể thấy rằng việc phát triển khoa học công nghệ kỹ thuật là con đờng
ngắn nhất để Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới, là cơ
hội cho các doanh nghiệp trẻ Việt Nam cọ xát, thử sức trong môi trờng cạnh tranh
kinh tế quốc tế. Nhng đối với các dự án thuộc lĩnh vực khoa học công nghệ thì thờng
đòi hỏi vốn lớn và rủi ro laị cao, các chủ đầu t phải đủ tiềm lực tài chính và đủ năng
lực để có thể tài trợ cho các dự án thuộc loại này. Với hệ thống cơ chế tài chính nh ở
nớc ta hiện nay thì khó lòng có thể thực hiện đợc những dự án có tiềm lực lớn. Các
ngân hàng và các tổ chức tài chính hiện có ở Việt Nam thờng không đầu t vào những
dự án có độ rủi ro lớn, và chức năng của các ngân hàng cũng cha thể hiện đúng với
chức năng của nhà đầu t. Đây thực sự là khó khăn lớn nhất đối với đội ngũ các doanh
nghiệp trẻ, họ có ý tởng, có năng lực sáng tạo, có tiềm tàng phát triển nhng họ thiếu
vốn đầu t, khả năng tài chính không cho phép họ thực hiện những dự án mạo hiểm, họ
cần những tổ chức tài chính bảo trợ vốn, coi rủi ro là đầu t lớn nhất cho lợi nhuận , lợi
nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn. Hơn nữa trong xu hớng hội nhập kinh tế quốc tế
thì các doanh nghiệp trẻ Việt Nam phải có những bớc đột phá lớn về sản phẩm, thơng
hiệu của mình trên thơng trờng quốc tế, muốn vậy thì cần phải có những dự án mạo


hiểm nhng mang lại sự phát triển nhảy vọt, và điều kiện tiên quyết là khả năng tài
chính phải đợc đảm bảo. Do đó thiết nghĩ cần phải có một mô hình tài chính phù hợp
có thể đáp ứng yêu cầu vay vốn của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khoa
học công nghệ kỹ thuật cao, các doanh nghiệp trẻ có tiềm năng phát triển mạnh. Quỹ
đầu t mạo hiểm là một loại hình tài trợ tài chính tối u nhất cho doanh nghiệp Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay. Vì mục đích của quỹ đầu t mạo hiểm là đầu t vào
những doanh nghiêp mới khởi sự và những doanh nghiệp đang ở thời kỳ tăng trởng
mạnh cần vốn lớn. Quỹ đầu t mạo hiểm chấp nhận rủi ro lớn để kỳ vọng vào mức lợi
nhuận trong tơng lai cao hơn mức bình quân. Nếu không có quỹ đầu t mạo hiểm thì
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhiều dự án có giá trị cao, có tiềm năng lớn bị xếp xó hoặc cả đời dự án sẽ mãi ở trên
bàn giấy, không thể thực hiện đợc.
Với những bức xúc trong thị trờng tài chính của Việt Nam và sự thích hợp
của quỹ đầu t mạo hiểm ở Việt Nam nên tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài:
" Quỹ đầu t vốn mạo hiểm - Cơ hội cho những nhà doanh nghiệp
trẻ Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và b ớc vào
nền kinh tế tri thức"
Thông qua những cơ sở lý luận và tình hình thực tiễn của hoạt động đầu t
vốn mạo hiểm trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, kinh tế tri thức đợc trình bày
trong đề tài, tôi xin đợc nhấn mạnh về ba vấn đề trọng tâm :
Một là , Việt Nam cần phải hớng tới nền kinh tế tri thức, hội nhập vào
nền kinh tế thế giới.
Hai là , những thách thức và cơ hội mà doanh nghiệp trẻ Việt Nam gặp
phải trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Quỹ đầu t mạo hiểm - định chế tài chính tối u đối với các doanh nghiệp
trẻ, phù hợp cho mục tiêu phát triển kinh tế Việt Nam.
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là có một cái nhìn đúng đắn và
toàn diện hơn về các loại quỹ đầu t, đặc biệt là quỹ đầu t mạo hiểm, đồng thời thấy đ-
ợc tầm quan trọng của các quỹ này trong quá trình Việt nam hội nhập vào nền kinh tế

thế giới và tiến lên nền kinh tế tri thức trong tơng lai.


2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chơng I
Quỹ Đầu t vốn mạo hiểm
Quan điểm lý luận và thực tiễn
I- nền kinh tế tri thức - sự phát triển tất yếu của thời đại và yêu
cầu của hội nhập kinh tế quốc tế
1. Khái niệm nền kinh tế tri thức
Nền kinh tế tri thức ( knowledge economy ), nền kinh tế dựa trên tri thức
(knowledge based economy), nền kinh tế công nghệ cao (high-echnology economy)...
đang là những thuật ngữ thời thợng hiện nay không chỉ ở những quốc gia phát triển
mà còn ở cả những quốc gia đang phát triển. Vậy chúng ta phải hiểu nh thế nào về
những thuật ngữ này và thực chất "Nền kinh tế tri thức là gì?" Hiện nay trên thế giới
có rất nhiều cách hiểu khác nhau về nền kinh tế tri thức nhng hầu hết đều dựa trên
cách định nghĩa của OECD ( Office economic cooperation and development, tổ chức
hợp tác kinh tế và phát triển ) đợc đa ra trong báo cáo "Kinh tế dựa trên tri thức " năm
1996. Theo định nghĩa này thì nền kinh tế tri thức là một nền kinh tế trực tiếp dựa vào
việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức. Để mà hiểu đợc định nghĩa mang tính
khái quát cao đợc đa ra ở trên thì chúng ta phải xem xét nó dới các khía cạnh khác
nhau và đối với mỗi một quốc gia thì lại hiểu định nghĩa trên theo cách riêng tuỳ
thuộc vào đờng lối chính sách, cơ chế và xu hớng phát triển của quốc gia đó. Nhng
tựu chung lại chúng ta có thể hiểu định nghĩa này theo ba cách tiếp cận khác nhau,
cách tiếp cận hẹp , cách tiếp cận rộng và cách tiếp cận bao trùm.
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Những ngời theo cách tiếp cận hẹp này hiểu tri thức với nghĩa hẹp tức là đồng
nghĩa với khoa học và công nghệ hoặc hẹp hơn nữa là đồng nghĩa với cuộc cách

mạng khoa học công nghệ hiện đại bao gồm bốn công nghệ trụ cột là: công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học, công nghiệp không gian vũ trụ và công nghệ vật liệu
mới, theo cách tiếp cận này họ nhấn mạnh vào vai trò to lớn và độc nhất của công
nghệ thông tin.
Ngợc lại với cách tiếp cận trên, thì cách tiếp cận rộng lại dựa trên cách hiểu
rộng về tri thức tức là mọi hiểu biết của con ngơì đối với bản thân và thế giới, OECD
đã phân ra bốn loại tri thức quan trọng , đó là biết cái gì, biết tại sao, biết nh thế nào
và biết ai. Kinh tế tri thức không chỉ có nguyên nhân từ sự tiến bộ vợt bậc của các
công nghệ mới mà là kết quả của một tập hợp ba nhóm nguyên nhân trực tiếp tác
động tơng tác và tự tăng cờng lẫn nhau bao gồm tiến bộ khoa học kỹ thuật, nền kinh
tế toàn cầu hoá cạnh tranh quyết liệt và các biến đổi về van hoá chính trị t tởng cuả
chủ nghĩa t bản hiện đại.
Còn đối với cách tiếp cận bao trùm thì kinh tế tri thức thực chất là một loại
môi trờng kinh tế văn hoá xã hội mới, có những đặc tính phù hợp và tạo thuận lợi
nhất cho việc học hỏi, đổi mới và sáng tạo. Trong môi trờng đó, tri thức tất yếu sẽ trở
thành nhân tố sản xuất quan trọng nhất đóng góp vào sự phát triển kinh tế. Do vậy,
cốt lõi của việc phát triển một nền kinh tế tri thức không phải đơn thuần là phát triển
khoa học công nghệ mà là phát triển một nền văn hoá đổi mơí, sáng tạo để tạo thuận
lợi nhất cho việc sản xuất, khai thác và sử dụng mọi loại tri thức, mọi hiểu biết của
nhân loại.
Có lẽ là cách tiếp cận bao trùm đã phần nào bao gồm cả hai cách tiếp cận trên
nên nó đợc chấp nhận nhiều nhất và phổ biến nhất. Và theo tôi chúng ta có thể hiểu
nền kinh tế tri thức theo cách hiểu ngắn gọn, đơn giản và dễ hiểu nh sau: Nền kinh tế
tri thức là một nền kinh tế đợc dẫn dắt bởi tri thức, là một nền kinh tế mà việc sản
sinh và khai thác tri thức có vai trò nổi trội trong quá trình tạo ra của cải.
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
2/ Nền kinh tế tri thức là sự phát triển tất yếu của thời đại , là yêu cầu
của hội nhập kinh tế quốc tế.
Nền kinh tế thế giới chuyển từ nền nông nghiệp truyền thống sang nền kinh

tế công nghiệp với sự mở màn thời kỳ tiền cách mạng công nghiệp ở nớc Anh từ năm
1700 đến năm 1820 với sự phát triển của công nghiệp vải sợi, sự phát minh ra máy
hơi nớc của James Watt thời kỳ 1776 - 1781 khởi điểm cho sự phát triển máy móc
công nghiệp. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (`1820 - 1870), cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ hai (1870-1913), đã có những thành tựu đợc áp dụng rộng
rãi trên toàn thế giới và đã mang lại kết quả to lớn làm tiền đề cho sự phát triển của
khoa học công nghệ. Và từ năm 1950 trở về đây với sự phát triển kinh tế đặc biệt ở
các nớc công nghiệp phát triển, sự phát triển của trí tuệ, của khoa học công nghệ, của
kiến thức tổ chức quản lý, nền kinh tế do giá trị của tri thức tạo ra ngày càng tăng.
Kinh tế thế giới đã chuyển từ thời kỳ nông nghiệp sang tiền công nghiệp rồi sang
công nghiệp và tất yếu bây giờ nó sẽ phát triển lên một hình thức cao hơn nữa, phải
chăng đó chính là nền kinh tế dựa trên khoa học kỹ thuật công nghệ cao.
Thực ra vai trò của tri thức trong nền kinh tế không chỉ bây giờ mới đợc nhân
loại nói tới mà nó đã đợc đề cập đến từ rất sớm. Từ năm 1650, nhà tiên tri tài năng
của nớc Anh, William Patter, đã viết : " Của cải mang tính tợng trng sẽ thay thế cho
của cải thật" và để chứng minh cho lời nói của ông thì năm 1690, chiếc máy hơi nớc
đầu tiên trên thế giới đã ra đời ngay tại nớc Anh. Tiếp theo, sau ông là Francis Bacon,
nhà t tởng lớn ngời Anh khẳng định: " Tri thức là sức mạnh ". Winston Churchill từng
nói về việc thiết lập một quốc gia hùng mạnh bằng tri thức. Ngay tại nớc Mỹ năm
1970, các ông trùm kinh tế còn cho rằng công nghiệp nặng cần có xí nghiệp và điều
đó sẽ mãi không thể thay đổi. Nhng chỉ ít năm sau chính họ đã phải thừa nhận: " Tri
thức mới là chìa khoá để mở cổng để bá quyền kinh tế ". Và Alvin Toffler, học giả
ngời Mỹ, một trong những nhà tơng lai học nổi tiếng của thế giới ở thế kỷ XX. Năm
1970, ông cho ra mắt bạn đọc cuốn " Cú sốc tơng lai " (Future shock), Trong cuốn
này ông trình bày về quá trình biến đổi của công nghiệp đối với các tổ chức và con
ngơì, dự báo hiệu quả của cuộc cách mạng sinh hoá, của cải cách giáo dục, khả năng
kiềm chế và sự biến đổi sao cho có lợi. Đến năm 1980, ông lại cho ra đời cuốn " Làn
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
sóng thứ ba " (The third Wave), lần này ông phân tích các hớng biến đổi mang tính

chất khoa học kỹ thuật, ông nhấn mạnh vai trò của khoa học kỹ thuật, cho rằng máy
móc hiện đại sẽ thay thế cho sức lực của con ngời. Và 10 năm sau, năm 1990, trong
cuốn " Thăng trầm quyền lực " (Power shift ) hay còn gọi là "Tơng lai thế giới " ông
khẳng định vai trò then chốt của tri thức là tạo ra sự biến đổi toàn diện kinh tế thế
giới. Theo ông, bạo lực chỉ là dạng phẩm chất thấp, của cải thuộc bậc trung còn tri
thức mới là phẩm chất cao nhất, nó chuyển hoá liên tục tránh đựoc lãng phí sức lực và
tiền của. Có thể nói những dự báo của ông đã và đang nhanh chóng trở thành hiện
thực, sách của ông trở thành sách bán chạy nhất "Best sell".
Thế kỷ XX là thế kỷ khoa học công nghệ tiến nhanh cha từng thấy, giá trị sản
xuất vật chất tăng hàng chục lần so với thế kỷ trớc. Năm 1903, việc giải phóng năng
lợng hạt nhân của ông bà Mari Quyri đã tạo bớc nhảy vọt trong việc tìm ra một năng
lợng mới cho loài ngời, xuất hiện điện tử, tàu phá băng nguyên tử ... Cuộc cách mạng
sinh học tạo ra những giống mới dẫn tới bớc phát triển mới trong nông nghiệp, thụ
tinh trong ống nghiệm, năm 1967 ghép đợc tim con ngời . Cuối thế kỷ XX đã giải mã
đợc gien của loài ngời , thực hiện sinh sản vô tính , chế tạo ra các thần dợc. Cuộc
cách mạng về vật liệu mới, nổi bật là vật liệu compozit đang đợc sử dụng rộng rãi
trong các ngành chế tạo máy, các ngành kỹ thuật cao... Cuộc cách mạng về công
nghệ vũ trụ với nhiều thành tựu to lớn: Phóng vệ tinh nhân tạo năm 1957 , phóng tên
lửa thăm dò mặt trăng năm 1959, đa con ngời lên mặt trăng năm 1969 và khám phá
sao hoả...
Đặc biệt là cuộc cách mạng thông tin. Năm 1832 máy điện tín ra đời mà cha
đẻ là Samuel Morse .Năm 1836 đờng dây điện báo xuất hiện lần đầu tiên ở Mỹ. Năm
1960, các xí nghiệp ở Mỹ đều trang bị máy điện toán. Điện thoại ra đời năm 1901,
truyền ảnh từ xa ra đời năm 1905, truyền hình từ xa ra đời năm 1914, vô tuyến truyền
hình ra đời năm 1926, đến năm 1951 có vô tuyến truyền hình màu, máy tính ra đời
năm 1949, nay là máy tính nối mạng và sự phát triển cực nhanh của Internet.Trong
vài thập kỷ gần đây, máy vi tính và mạng Internet là công cụ không thể thiếu đợc
trong các công ty, nhà máy. Sự ra đơì của Internet đã gắn liền cả thế giới với nhau,
buôn bán xuyên quốc gia đã trở nên dễ dàng hơn và thuận tiện hơn. Thơng mại điện
6

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tử là một hình thức buôn bán phổ biến ở trên thế giới. Máy rút tiền tự động, các cửa
hàng bán đồ tự động và thanh toán bàng thẻ tín dụng điện tử không còn xa lạ đối với
con ngời . Ngày nay, công nghệ không dây đã phát triển lên tới đỉnh cao thể hiện ở sự
bùng nổ sử dụng máy điện thoại di động, các đời điện thoại di động không ngừng đợc
nâng cấp và cải tiến. Công nghệ sinh học cũng đang trên đà phát triển với sự ra đời
của cừu Dolly, theo thống kê đã có đúa trẻ thứ 1000 đợc sinh ra trong ống nghiệm,
việc cấy ghép gen đã có thể thực hiện đợc. Qua đó có thể thấy khoa học kỹ thuật
công nghệ đã phát triển không ngừng và đạt đựơc nhiều thành tựu đáng kể. Đó chính
là tri thức , là công nghệ tri thức. Hơn nữa, con ngời với t chất năng động, sáng tạo,
luôn luôn muốn tìm tòi, khám phá ra những cái mới và không bao giờ tự hài lòng với
những gì mình đang có. Yêu cầu của con ngời ngày càng trở nên đa dạng, phong phú,
phức tạp, muốn đáp ứng đợc thì càng phải nâng cao sự tích luỹ tri thức trong sản
phẩm, phải tạo ra đợc những sản phẩm có tính năng đa dạng, chất lợng tốt, giá rẻ và
chứa hàm lợng tri thức cao.
Từ giữa thế kỷ XX đến cuối thế kỷ XX , có thể nói đây là thời kỳ phát triển
có tính chất bớc ngoặt của yếu tố tri thức với t cách là một yếu tố của lực lợng sản
xuất và nó đợc bắt đầu ở nớc Mỹ - một quốc gia đứng vị trí thứ nhất trong nền kinh tế
toàn cầu. Trớc đây con ngời khai thác tài nguyên thiên nhiên, lấy đó làm nguồn lực
để phát triển kinh tế nhng tài nguyên cũng chỉ có giới hạn , khai thác mãi thì cũng
phải cạn kiệt do đó con ngời cần phải phát triển khoa học kỹ thuật để tạo ra những vật
liệu cần thiết cho sản xuất mà không phải lấy từ thiên nhiên. Tới đây thì khoa học kỹ
thuật đã trở thành nhân tố quyết định cho sự phát triển của nền kinh tế. Nhờ có khoa
học kỹ thuật mà vòng đời của sản phẩm đợc rút ngắn, hàm lợng chất xám và vốn chứa
đựng trong tri thức tăng cao.
Xu hớng toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ cùng
với sự bùng nổ về khoa học công nghệ thông tin. Nhờ có công nghệ thông tin mà quá
trình giao thơng giữa các quốc gia trở nên dễ dàng hơn nhiều, ngành công nghệ khoa
học kỹ thuật của nhiều quốc gia nh Mỹ, Anh , Pháp, Đức... đang ở đỉnh cao, do đó
muốn đạt tới yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế thì các quốc gia khác phải bắt kịp tốc

độ phát triển các ngành khoa học công nghệ vì giờ đây nó chính là nguồn gốc của sự
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
giàu có và hùng mạnh của mỗi quốc gia và cũng chỉ có con đờng đó mới giúp cho các
nớc nhỏ , các nớc đang phát triển mới có điều kiện hội nhập vào nền kinh tế quốc tế.
Có thể nói tốc độ phát triển công nghệ thông tin là chìa khoá cho sự thành công. Trớc
đây, giá trị đồng nghĩa với khối lợng, số lợng nhng giờ đây giá trị có nghĩa là chất l-
ợng, một con chíp bé tẹo có thể cấy ghép vào mạch máu con ngời lại có giá trị gấp
mấy chục lần một chiếc máy vi tính chứa đựng vô số những vi mạch điện tử. Càng
nhỏ càng đắt tiền, đó là khẩu hiệu thời đại công nghệ kỹ thuật, một chiếc điện thoại
di động bé bằng nửa lòng bàn tay lại có giá trị gấp nhiều lần so với một chiếc di động
to bằng cục gạch. Câu hỏi cần đặt ra ở đây là tại sao những sản phẩm tốn nhiều vật
chất hơn lại có giá trị ít hơn nhiều so với những sản phẩm mà sử dụng rất ít t liệu sản
xuất, tại sao những sản phẩm đời sau lại sử dụng ít t liệu sản xuất hơn những sản
phẩm đời trớc. Câu trả lời duy nhất cho vấn đề này là yêu cầu của con ngời ngày càng
cao, xu hớng tiêu dùng những sản phẩm chứa nhiều hàm lợng giá trị tri thức càng đợc
a chuộng. Giá trị của sản phẩm đợc đánh giá dựa theo hàm lợng tri thức chứa đựng
trong nó, theo công năng , tiện ích và u điểm của sản phẩm so với các sản phẩm cùng
loại. Chỉ có những thành tựu của khoa học công nghệ thông tin, công nghệ kỹ thuật
cao mới có thể tạo ra đợc những sản phẩm u việt nh vậy, đây cũng là câu trả lời cho
sự phát triển nhảy vọt của Nhật Bản - một đất nớc không đợc u đãi về tài nguyên
thiên nhiên, nhng nó trở thành cờng quốc đứng thứ ba trên thế giới là dựa vào tri thức
dựa vào những thành tựu khoa học công nghệ . Nhật Bản đã có những chiến lợc phát
triển khoa học công nghệ rất hợp lý và hiệu quả. Cũng giống nh Nhật Bản, Hàn Quốc
trong vài thập kỷ gần đây đã vơn lên thành một trong những nớc có nền công nghệ
thông tin phát triển vào bậc nhất trên thế giới. Vậy, để hội nhập kinh tế quốc tế, hoà
mình vào dòng chảy chung của toàn cầu thì các nớc đang phát triển mà điển hình là
Việt Nam chúng ta càng cần phải phát huy mạnh mẽ hơn nữa khoa học công nghệ
thông tin. Khi hội nhập vào nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới có nghĩa là
cùng chung một sân chơi, mạnh đợc yếu thua, đây là một thách thức to lớn đối với

các nớc đang phát triển vì phải đối mặt với nhiều đối thủ cạnh tranh quốc tế có trình
độ khoa học công nghệ vợt trội nhng đồng thời cũng là cơ hội, tạo ra động lực thúc
đẩy sự phát triển của những nớc này. Do đó muốn trụ vững đợc trên thơng trờng quốc
tế thì sản phẩm của các doanh nghiệp mới tham gia thị trờng quốc tế ít ra cũng phải
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ngang tầm với các sản phẩm khác trên thị trờng. Mặt khác khi hội nhập kinh tế quốc
tế , các nớc đang phát triển nh Việt Nam có thể xâm nhập vào thị trờng các nớc khác
nhng cũng đồng nghĩa với việc thị trờng trong nớc bị chia sẻ, nếu không giữ vững và
củng cố đợc thị phần trong nớc thì chúng ta đã bị thua ngay trên sân nhà , chơi trên
sân nhà còn thua thì nói gì đến việc chơi trên sân bạn , điều này có nghĩa là khả năng
cạnh tranh của chúng ta quá hạn chế. Để cải thiện tình trạng này không còn cách nào
khác là phải phát triển khoa học công nghệ, sử dụng khoa học công nghệ một cách
hợp lý và có hiệu quả, phải đầu t chất xám trong sản phẩm, sản phẩm đợc sản xuất ra
phải chứa đựng hàm lợng tri thức cao, phải có khả năng cạnh tranh. Vì vậy, với yêu
cầu hội nhập kinh tế thế giới và toàn cầu hoá thì Việt Nam nói riêng và các nớc đang
phát triển nói chung phải đánh giá đợc tầm quan trọng của tri thức trong việc sản
xuất, ứng dụng triệt để các thành tựu khoa học công nghệ sẵn có, không ngừng
nghiên cứu, sáng tạo các công nghệ mới, hiện đại đáp ứng đợc nhu cầu ngày càng cao
của nhân loại
Tri thức còn đợc vận dụng vào trong quản lý, tổ chức, tri thức trở thành nguồn
lực căn bản của kinh tế quốc gia . Tri thức quyết định tăng trởng kinh tế và nhất là
trong giai đoạn hiện nay , nguồn tài nguyên thiên nhiên trên thế giới đang cạn kiệt
dần thì vai trò của tri thức càng đợc nhấn mạnh. Trong nền kinh tế tri thức nguồn tài
nguyên trí lực và khoa học kỹ thuật công nghệ trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp ,
lực lợng có vai trò quan trọng hàng đầu .Vậy, sự xuất hiện nền kinh tế tri thức là một
quá trình , một thực tế tất yếu chứ không phải là ngẫu nhiên . Kinh tế tri thức là sự
phát triển tất yếu của thời đại.
II- Quá trình hình thành quỹ đầu t mạo hiểm
1/ Quỹ đầu t - quỹ đầu t mạo hiểm

9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nền kinh tế muốn tăng trởng nhanh, nhất thiết phải có nhiều vốn đầu t. Vấn
đề đặt ra là làm thế nào để các tổ chức, cá nhân có vốn nhàn rỗi và các nhà doanh
nghiệp có ý tởng kinh doanh, có các dự án kinh doanh nhng thiếu vốn đầu t gặp nhau
đợc, cùng hợp tác với nhau, cùng nhau tìm kiếm các cơ hội kinh doanh có lợi nhất.
Để làm "cầu nối " giữa bên cần vốn với bên có vốn nhàn rỗi, nhiều loại hình định chế
tài chính trung gian đã ra đời. Một trong những định chế tài chính trung gian có ảnh
hởng nhiều đến các hoạt động đầu t trong nền kinh tế, đó là " quỹ đầu t".
Quỹ đầu t là một tổ chức dạng doanh nghiệp đợc hình thành từ vốn góp của
ngời đầu t bằng cách phát hành và bán chứng chỉ quỹ. Là một dạng doanh nghiệp đặc
biệt, quỹ đầu t không dùng vốn của mình để mua máy móc thiết bị, các yếu tố sản
xuất để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, mà dùng vốn để đầu t trực tiếp
và đầu t gián tiếp.
Đầu t trực tiếp là việc các quỹ đầu t dùng vốn của mình để thâm nhập trực
tiếp vào các công ty, các dự án bằng cách góp cổ phần, mua cổ phiếu phát hành lần
đầu với t cách là cổ đông sáng lập nh các sáng lập viên khác.
Đầu t gián tiếp là việc quỹ đầu t tự dùng vốn của mình tham gia vào thị trờng
chứng khoán với t cách của một nhà kinh doanh chứng khoán, mua đi bán lại các
chứng khoán, nhằm hởng chênh lệch giá hay cổ tức từ các công ty hoặc lợi tức trái
phiếu. Tuy nhiên quỹ đầu t không phải là thành viên của thị trờng chứng khoán tập
trung. Các quỹ đầu t có thể dùng vốn của mình cho các chủ doanh nghiệp vay để đầu
t vào các dự án theo những thoả thuận nhất định. Nguồn vốn hình thành quỹ đầu t rất
phong phú và đa dạng. Các tập đoàn t bản, các công ty, dân chúng... có vốn nhàn rỗi
dù nhiều hay ít đều có thể trở thành các chủ sở hữu của quỹ đầu t bằng việc mua các
chứng chỉ quỹ đầu t do quỹ đầu t phát hành.
Hiện nay có rất nhiều loại hình quỹ đầu t nh : quỹ đầu t chứng khoán, quỹ
đầu t hỗn hợp, quỹ hỗ trợ đầu t, quỹ đầu t mạo hiểm... Nhng trong đề tà này tôi chỉ
xin nghiên cứu về quỹ đầu t mạo hiểm. Vậy để hiểu rõ từng khía cạnh của quỹ đầu t
mạo hiểm thì trớc tiên chúng ta phải hiểu quỹ đầu t mạo hiểm là gì và bản chất của

nó.
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, nhiều nớc đã áp dụng hình
thức huy động vốn đầu t mạo hiểm để cung cấp cho các dự án, chơng trình. Điển hình
trong hoạt động này là ngời Mỹ, họ đã phát triển mạnh hình thức vốn mạo hiểm
(Venture capital), đáp ứng một cách nhanh chóng và hiệu quả cho các dự án của
mình. Hiện nay tại Mỹ đã hình thành một thị trờng vốn mạo hiểm khổng lồ, có khả
năng tài trợ cho nhiều dự án, đặc biệt là những nghiên cứu công nghệ cao. Vậy vốn
mạo hiểm là gì và vai trò của chúng nh thế nào trong hệ thống tài chính của các quốc
gia trên thế giới hiện nay?
Theo một nghiên cứu gần đây của Chơng trình dự án phát triển sông Mê
Kông (năm 1998) thì có hai định nghĩa về vốn mạo hiểm, một theo nghĩa rộng và
một theo nghĩa hẹp." Theo nghĩa rộng thì vốn mạo hiểm là nguồn tài chính cung
cấp cho các công ty t nhân dới hình thức vốn cổ phần hoặc các khoản đầu t gần
giống nh vốn cổ phần có thời hạn trung bình (3 - 5 năm)". Số cổ phần giành đợc
trong các công ty nhận đợc vốn đầu t loại này có thể chiếm tỷ phần ít ỏi hoặc chiếm
đa số áp đảo. Nh chúng ta đã biết, đầu t là hoạt động bỏ vốn ra tập trung vào một mục
đích nào đó nhằm mu cầu một khoản thu về lớn hơn trong tơng lai, nhng khác với đầu
t thông thờng, mục tiêu của đầu t mạo hiểm là kiếm đợc khoản thu nhập vốn cao hơn
mức trung bình. Khoản thu này trở thành hiện thực sau khi khoản đầu t đó đợc bán
cho một nhà kinh doanh chứng khoán hoặc bán cho công chúng (bán cho công chúng
là hiện tợng phổ biến xảy ra ở các nớc châu á. Bên cạnh việc cung cấp vốn, các
chuyên gia quản lý vốn mạo hiểm còn t vấn ở tầm chiến lợc, cho các công ty nhận
vốn đầu t khi họ bớc sang giai đoạn tăng trởng kế tiếp và thậm chí chuẩn bị sẵn sàng
để công ty đợc chuyển giao cho các cổ đông khác.
Định nghĩa hẹp, xác định vốn mạo hiểm là các khoản đầu t vốn cổ phần t
nhân trung hạn vào các công ty nhận vốn cha trởng thành. Nói cách khác, công ty
nhận vốn đầu t đang trong giai đoạn đầu (manh nha) của quá trình phát triển sản
phẩm, phát triển năng lực sản xuất hoặc bắt đầu mở rộng cung cấp hàng hoá, dịch vụ.

Trong giai đoạn đầu phát triển, các công ty hiện nay ngày càng phát triển nhanh, có
xu hớng rút ngắn lịch sử phát triển và có quy mô nhỏ hơn so với đa số các khoản đầu
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
t đợc nêu trong định nghĩa rộng, rủi ro cũng có xu hớng cao hơn. Vì thế , các chuyên
gia quản lý vốn mạo hiểm sẽ tìm kiếm các khoản thu nhập vốn tiềm năng cao hơn. Sự
khác biệt giữa hai định nghĩa trên ở một góc độ nào đó là mức độ trởng thành của các
công ty nhận vốn đầu t.
Chúng ta cũng có thể hiểu quỹ đầu t mạo hiểm duới góc độ khác và theo tôi
cách định nghĩa này dễ hiểu và thể hiện rõ chức năng của quỹ đầu t mạo hiểm hơn cả.
Quỹ đầu t mạo hiểm là hình thức huy động vốn

để đầu t tiền và kỹ năng vào các
công ty mới khởi sự có tiềm năng phát triển cao hoặc các công ty đang ở giai đoạn
tăng trởng cao. (Thông thờng các công ty này là những công ty cha đợc niêm yết và
cổ phiếu cha đợc mua bán trên các sàn giao dịch chứng khoán). Theo định nghĩa này
thì ngoài việc đầu t tiền, công ty quản lý quỹ còn đầu t kỹ năng quản lý vào các công
ty thuộc danh mục để đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động các công ty này.

2/ Lịch sử ra đời của quỹ đầu t mạo hiểm

Quỹ vốn mạo hiểm đầu tiên đợc thành lập năm 1946 ở Mỹ tại thành phố
Boston, có tên gọi là công ty Nghiên cứu và Phát triển Mỹ (ARD Coporation) đã đợc
hình thành dới hình thức một quỹ hỗ tơng dạng đóng (closed end). Sự ra đời của quỹ
này gắn liền với sự phát triển của thung lũng Silicon. Quỹ này đợc hình thành để
kiếm các dự án đầu t có nhiều tiềm năng đem lại thu nhập cao. Công ty Digital
Equipment Inc đã mang lại hơn 50% lợi nhuận của quỹ này. Nhiều quỹ vốn mạo
hiểm đã ra đời tiếp sau đó. Cũng vào khoảng thời gian này, các tổ chức của chính phủ
bảo trợ cho các doanh nghiệp nhỏ đợc thành lập nh SBA và SBIC nhng quy mô vốn
đầu t cho từng doanh nghiệp vẫn còn nhỏ.

Tuy nhiên, đã có những thay đổi quan trọng trong lãnh vực này vào những
năm 1970 khi có một đạo luật về giảm thuế đánh trên lợi nhuận do tăng vốn (capital
gain tax) đợc ban hành. Một yếu tố thứ hai đã tác động đến sự phát triển các quỹ vốn
mạo hiểm khi vào năm 1979 sau khi Bộ Lao động Hoa kỳ điều chỉnh lại các quy định
liên quan đến việc đầu t của các quỹ hu trí, đã thúc đẩy những khoản vốn từ quỹ hu
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trí đầu t cho các doang nghiệp mới cần vốn mạo hiểm để đòi lại các khoản lơị nhuận
cao trong danh mục đầu t đa dạng hoá.
Cũng vào thời kỳ này và những năm đầu thập niên 1980 và 1990 đã có sự
tăng vọt về các khoản vốn đầu t mạo hiểm song hành với các cuộc phát hành lần đầu
ra công chúng, cùng với các diễn biến tăng giá cổ phiếu ngoạn mục trên thị trờng cổ
phiếu. Trong khoảng thời gian này, dù có tốc độ tăng trởng rất nhanh, khối lợng vốn
mạo hiểm chỉ đạt 10 đến 15 tỷ USD trong những năm 1980. Sau đó vào những năm
1990, những thiên thần đầu t (thiên thần đầu t là thuật ngữ chỉ các nhà đầu t vốn mạo
hiểm cho những dự án ngay từ khi thai nghén hoặc mới hình thành, đặc biệt là các dự
án đi liền với các phát minh, sáng chế còn quá mới mẻ với các nhà tài chính chuyên
nghiệp vì cha đủ thông tin cần thiết về các phát minh... những khoản đầu t này rất
khó thẩm định về hiệu quả kinh tế và khó gọi vốn trong những thời kỳ mới hình
thành) đã bỏ ra khoảng 30 tỷ USD cho các dự án vốn mạo hiểm. Theo một nghiên
cứu của Wetzel hàng năm có khoàng 50 tỷ USD đợc các quỹ vốn mạo hiểm đầu t cho
các dự án trên toàn cầu. Tại vơng quốc Anh các quỹ vốn mạo hiểm với vốn trên 5 tỷ
USD đã tập hợp thành Hiệp hội các quỹ vốn mạo hiểm Anh Quốc (British venture
capital association).
Riêng chính phủ Hoa Kỳ đã đầu t khoảng 63 tỷ USD cho các dự án mạo
hiểm, nhng tập trung chủ yếu vào các trờng đại học. Đối với các ngành công nghiệp
nhỏ, vốn mạo hiểm đã đóng vai trò tác động quan trọng. Trong khoảng 10 năm kết
thúc vào năm 1988, trên 305 cuộc phát hành lần đầu ra công chúng (IPO), là của
công ty có vốn mạo hiểm, điều này có nghĩa là các công ty đó đợc các quỹ vốn mạo
hiểm cấp vốn trong thời kỳ đầu và vẫn tiếp tục đầu t vào các doanh nghiệp phát hành

này trong các giai đoạn phát triển tiếp theo. Quỹ đầu t mạo hiểm đã đợc hình thành
phát triển mạnh mẽ, đang trở thành một nghành công nghiệp tại Mỹ, Anh và
Đức...Còn tại Châu á, quỹ đầu t mạo hiểm cũng đã xuất hiện lần đầu tiên ở
Singapore. Năm 1985 với sự hoạt động rất tích cực của Uỷ ban phát triển kinh tế
nhằm thức đẩy sự vận động của hoạt động tài chính hỗ trợ cho nguồn vốn đầu t rủi ro.
Tại Hàn Quốc, Thái Lan và Đài Loan, hình thức đầu t này cũng đã xuất hiện từ rất
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
sớm. Năm 1690, tại Hàn quốc, các nhà đầu t đã liên kết với nhau và thành lập ra 13
câu lạc bộ các nhà đầu t, họ chọn lựa những doanh nghiệp đợc đánh giá là có tiềm
năng phát triển nhất trong số các doanh nghiệp mới đợc thành lập để đầu t vốn liếng
và kinh nghiệm hoạt động của mình. Năm 1996, Fuji Bank của Nhật đã thiết lập ra bộ
phận đợc gọi là "Phòng tín dụng cho các doanh nghiệp mới ", chức năng của ban này
là hỗ trợ thực hiện gia tăng đầu t cho các hãng kinh doanh mới thành lập, tìm kiếm
những hãng có tiềm năng phát triển cao và giúp đỡ họ trong việc mở rộng sản xuất
kinh doanh.
Lịch sử phát triển của quỹ đầu t mạo hiểm khá là lâu dài và hoạt động với
phạm vi tơng đối rộng, từ Mỹ, Anh... và ở cả Châu á nh Nhật, Singapore, Hàn Quốc...
Hoạt động của các quỹ này đã mang lại những hiệu quả to lớn cho nền kinh tế của
các nớc phát triển và kinh tế thế giới. Do đó, quỹ đầu t mạo hiểm không phải là xa lạ
đối với nhân loại mà mặt khác nó còn là hình thức đầu t rất hiệu quả.

3/ Tổ chức, quy trình hình thành và quy trình đầu t quỹ vốn mạo
hiểm
3.1> Tổ chức của các công ty vốn mạo hiểm
Sự thành công của các quỹ vốn mạo hiểm lệ thuộc vào khả năng giải đáp tính
phức tạp của các dự án mới. Các nhà quản trị vốn mạo hiểm, bên cạnh khả năng phát
hiện ra những dự án tiềm năng có mức tăng trởng cao, phải có năng lực tổ chức quản
trị các đầu t này một cách hiệu quả. Thông thờng việc theo dõi các dự án nh vậy rất
tốn kém trong chi phí quản trị tổng hợp các danh mục đầu t của quỹ vốn mạo hiểm.

Ngoài ra, nhà quản trị phải có năng lực đàm phán hợp đồng để phát triển mở rộng, tái
bố trí nhân sự phù hợp cho từng giai đoạn phát triển nhằm đạt đợc mục đích cuối
cùng của nhiệm vụ là đạt mức tăng trởng cao trong toàn quý. Khác với quỹ đóng
thông thờng, loại quỹ vốn mạo hiểm hạn chế thời gian và bắt buộc thành viên tổng
quát phải liên tục tìm kiếm các đầu t tốt để gia tăng giá trị và hoàn thành chỉ tiêu đề
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ra. Khác với quỹ đóng, dòng vốn chạy vào quỹ vốn mạo hiểm là thuộc nhu cầu thị tr-
ờng, cho phép quỹ phát triển mở rộng khi có thời cơ đầu t tuỳ theo đề nghị của thành
viên tổng quát.
Do những yêu cầu đối với thành viên của quỹ vốn đầu t mạo hiểm nh trên nên
các nhà quản trị đã chọn lọc ra mô hình thành viên hợp danh trách nhiệm hữu hạn
cho cac quỹ vốn mạo hiểm. Hình thức sở hữu này giảm thiểu các vấn đề nảy sinh
trong quá trình đầu t vào dự án mới bởi vì với hình thức này, các nhà đầu t có thể
tham gia nhiều quỹ với những mục tiêu đa dạng. Trong khi đó, thành viên tổng quát
đợc thoải mái quyết định đầu t vào các dự án sẽ mang lại giá trị cao cho quỹ. Sau
cùng cơ cấu của quỹ cho phép sử dụng hiệu quả tính thanh khoản mà chỉ có các nhà
đầu t định chế lớn mới có. Nó cho phép nhà quản lý quỹ yên tâm vì không có những
biến động dòng vốn vào và dòng vốn chảy ra. Các nhà quản lý quỹ có thể cam kết
tham gia vào các dự án tốt và ngợc lại đôi khi phải ngồi chờ vì không có dự án tốt để
đầu t. Dạng thức ban đầu này vẫn còn những hạn chế khiến cho các nhà tài chính lựa
chọn một mô hình hoàn thiện hơn cho các quỹ vốn mạo hiểm nh sau:
Theo mô hình Venture Capital Limited Partnership, Hợp danh trách nhiệm
hữu hạn vốn mạo hiểm chỉ có hai loại thành viên là: Thành viên tổng quát và thành
viên trách nhiệm hữu hạn.
Thành viên tổng quát ( General Partnes)
Các thành viên tổng quát là ngời lập ra quỹ vốn mạo hiểm bằng cách gọi vốn từ
thành viên hợp danh trách nhiệm hữu hạn. Các thành viên tổng quát có trách nhiệm tổ
chức đầu t vốn gọi đợc. Sau khi có nguồn vốn, các thành viên tổng quát tìm kiếm
sàng lọc các cơ hội đầu t, và khi gặp đợc cơ hội tốt, các cổ đông này đàm phán tổ

chức đầu t.
Việc tham gia đầu t vốn vào một dự án cũng có nghĩa là các thành viên tổng quát
phải tốn thì giờ và công sức để theo dõi, giám sát và t vấn cho các dự án đầu t mới.
Quan điểm về cách tổ chức đầu t và tham gia giám sát có khác nhau tùy từng nhóm
quỹ vốn mạo hiểm.
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Sau cùng thành viên tổng quát phải tổ chức thu hoạch thành quả đầu t bằng cách
tổ chức phát hành ra công chúng hay tổ chức bán dự án, doanh nghiệp cho một công
ty đầu t, đồng thời điều động nhân lực quản trị qua các dự án đầu t mới vì các dự án
cũ đã đợc phát hành ra công chúng và thông thờng có lực lợng quản lý mới.
Các thành viên tổng quát phải báo cáo thờng xuyên việc đầu t sử dụng vốn, đặc
biệt là mức lợi nhuận. Họ nhận đợc trị giá 2% đến 3% trị giá quỹ vốn đã thực góp để
sử dụng vào chi phí điều hành quỹ. Ngoài ra, theo thông lệ các nhà quản lý quỹ (cổ
đông tổng quát) đợc hởng từ 20% đến 30% lợi nhuận tăng trởng trên số vốn đã đợc
đầu t.
Phần lớn các thành viên tổng quát thờng tụ tập dới dạng hợp danh TNHH hay một
công ty TNHH để có thể liên tục điều hành, đàm phán, ký kết và thực hiện các nhiệm
vụ đầu t cho dù có thể có một thành viên muốn ra đi khỏi quỹ vốn.
Sơ đồ 1:Cơ cấu và qui trình hình thành của tổ chức quỹ vốn mạo hiểm
16
Thành lập công
ty quản trị
TNHH
Đóng góp công
sức và quản lý
quỹ vốn
Phí quản lý 2-
3% mỗi năm
Chia 20-30%

lợi nhuận (do
tăng vốn)
Thành viên tổng quát
Tổ chức nguồn vốn
Chọn lọc đầu t
Đàm phán đầu t
Giám sát t vấn
Thu hoạch đầu t
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Thành viên trách nhiệm hữu hạn (Limited Partners)
Thành viên trách nhiệm hữu hạn của các quỹ vốn mạo hiểm thờng là:
- Quỹ hu trí
- Công ty bảo hiểm
- Nguồn vốn tài trợ
- Doanh nghiệp lớn
17
Quỹ vốn mạo hiểm
Đóng góp vào
quỹ vốn
Chia 70%-80% lợi
nhuận (do tăng
vốn)
Cung cấp vốn công
sức (quản trị)
Thu nhập tài
chính
Thành viên trách nhiệm hữu hạn
Quỹ hu trí
Công ty bảo hiểm nhân thọ
Tài trợ của các tổ chức phi chính phủ

Các doanh nghiệp
Các gia đình tỷ phú
Các công ty đầu t
Các thiên thần đầu t
Các công ty quản trị
danh mục đầu t
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Cá nhân
- Nguồn vốn nớc ngoài
Tỉ lệ góp vốn quỹ đầu t mạo hiểm
Nớc ngoài 6%
Cá nhân 12%
Quỹ hu trí 46%
Bảo hiểm 12%
Doanh nghiệp 5%
Tài trợ 19%
Lý do chính của sự tham gia của các loại thành viên này là:
Sự đầu t lâu dài và ổn định. Phần lớn các nhà đầu t loại trên đây có thể tham gia
ổn định trong một dự án gọi vốn dài hạn.
Sự phân bổ lợi nhuận tỉ lệ theo vốn góp. Các định chế đầu t không phải thúc bách
lắm trong việc đòi hỏi lợi nhuận phân chia vào đúng ngày.
Các nhà đầu t vào quỹ vốn mạo hiểm thờng đòi hỏi có thời gian để cân nhắc tính
toán, trớc khi phát hành lần đầu ra công chúng và họ có thể đợc vào hay ra quỹ
theo thời điểm tự tính toán.
Một quan tâm lớn đối với các thành viên tổng quát là tìm đợc cổ đông có thể
tham gia lâu dài vào quỹ. Các định chế nói trên thờng có khả năng đáp ứng yêu cầu
đó
Quan tâm lớn thứ hai là khả năng góp vốn đúng thời điểm gọi vốn (capital
call).
18

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Việc góp vốn đúng thời điểm cho phép các nhà quản trị chớp đợc thời cơ đầu
t vào các dự án tốt. Ngợc lại, đôi khi sự góp vốn trễ có thể hủy hoại uy tín và quá
trình đầu t của một nhóm thành viên quỹ vốn mạo hiểm.

3.2> Qui trình hình thành một quỹ vốn đầu t mạo hiểm.
Có thể nói xây dựng đợc một quỹ vốn mạo hiểm là một quá trình tốn kém
nhiều mặt. Các thành viên tổng quát thờng phải mất nhiều thì giờ, công sức và chi phí
để tiếp thị, thuyết phục các nhà đầu t tiềm năng tham gia vào quỹ, cũng nh xây dựng
niềm tin vào lợi nhuận của những đầu t và quyền đợc quản lý quỹ.
Quá trình hình thành một quỹ vốn đầu t mạo hiểm thờng trải qua các giai
đoạn nh sau:
Các thành viên tổng quát cảm nhận và phát hiện các cơ hội đầu t có tiềm năng
phát triển tốt đẹp, có mức tăng trởng nhanh và triển vọng lợi nhuận cao. Thông th-
ờng thì các thành viên tổng quát phải bỏ ra nhiều công sức, thời gian, chi phí, để
xây dựng hồ sơ dự án, chuẩn bị nền tảng cho triển khai dự án và phát hiện các
nguồn vốn tơng lai khả thi.
Các thành viên tự thẩm định dự án để lựa chọn sản phẩm, thị trờng, các chiến lợc
phát triển cũng nh lựa chọn hình thức tổ chức doanh nghiệp phù hợp và cách tổ
chức tiếp nhận các nguồn tài chính để đi đến quyết định thực hiện.
Xây dựng mô hình tổ chức và tính pháp lý của quỹ vốn, ví dụ công ty đầu t hay
quỹ hỗ tơng hay quỹ đầu t dạng đóng mở...
Sau bớc này các thành viên xem xét và ra quyết định về mức vốn, số lần gọi vốn
(tranches), mô hình chi tiết thể thức đầu t, cơ cấu thành phần quỹ vốn, HĐ quản
trị, HĐ điều hành. Vì phần lớn các thành viên là những định chế tài chính đầu t
nên họ trở thành những ngời tham gia xem xét thận trọng (nh qui trình Due
diligenee) các chi tiết thành lập để góp phần bảo đảm cho thành công của quỹ.
Các thành viên ra quyết định về các chiến lợc thực hiện và chiến lợc chiếm lĩnh thị
trờng.
19

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lập LCKTKT hay dự án khả thi sau cùng của từng dự án trong quỹ.
Tổ chức huy động vốn, ấn định ngày đóng quỹ... Hợp đồng với các đối tác cung
cấp vốn.
Triển khai công việc đầu t theo kế hoạch và chiến lợc đề ra.
Hội đồng điều hành và các thành viên tổng quát theo dõi việc triển khai, quản lý
kinh doanh, giám sát các dự án, góp ý t vấn và kiểm tra định kỳ. Thu nhận các báo
cáo hoạt động và báo cáo kiểm toán.
Tiếp tục công việc điều hành cho đến khi thu hoạch.
Tất cả các chi tiết trên đều đợc đa vào hợp đồng thành lập quỹ vốn mạo hiểm.
3.3> Qui trình đầu t vốn mạo hiểm.
3.3.1 Giai đoạn hình thành
Thông thờng, một quỹ hình thành phải mất một số thời gian nhiều tháng. Trong
thời gian này, các thành viên tổng quát nghiên cứu và tìm kiếm dự án đầu t và tìm các
nguồn cấp vốn cho quỹ. Cũng trong giai đoạn này, thành viên tổng quát lo tiến hành
các thủ tục cam kết đầu t và cam kết đóng vốn, tiến hành các thủ tục chuẩn bị về pháp
lý cho quỹ đầu t.
Qui trình đầu t một quỹ vốn mạo hiểm
Phát triển khái niệm quỹ
20
Củng cố các cam kết
đầu t
Xúc tác cho thỏa thuận
vận hành
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chọn lọc
dự án đầu
t
Thẩm định và
tiến hành các

thẩm tra D.D
Thơng thuyết
các thơng vụ và
các giai đoạn
Tiếp tục các
lần gọi vốn
Đầu t nguồn
vốn vào dự án
3.3.2 Giai đoạn gọi vốn
Thời kỳ đóng quỹ, gọi vốn, đặc biệt là ngày đóng quỹ có thể đợc coi là ngày
sinh nhật đầu tiên của quỹ vốn mạo hiểm. Việc đóng đầy đủ vốn theo đăng ký có thể
kéo dài hai, ba năm, vì vậy có thể xây dựng một thời biểu nhiều ngày đóng quỹ (fund
closing date). Vào ngày đóng quỹ đầu tiên, một số các nhà đầu t có mặt và đợc những
quyền lợi ngang nhau căn cứ tỉ lệ góp vốn. Quyền lợi đó tiếp tục đợc duy trì trong
quá trình đóng vốn trừ khi từng thành viên quyết định thay đổi vị trí và bán đi cổ
21
Đóng quỹ gọi vốn lần đầu
Giám sát và tạo giá trị
Hỗ trợ của HĐQT/BGĐ
Đánh giá HĐ và kiểm tra
Tuyển cán bộ quản lý
Hỗ trợ quan hệ với bên ngoài
Hỗ trợ dàn xếp bổ xung tài chính
Thu hoạch đầu t
IPO
Thủ đắc
EBO
Thanh lý
Quá trình phân phối
Tiền mặt

Cổ phiếu
Các hình thức khác
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
phần của mình. Một lịch trình nhiều lần đóng quỹ cho phép nhà đầu t thấy đợc số tiền
đóng vốn đợc đầu t nh thế nào vào các danh mục đầu t và giá trị thị trờng của của
từng danh mục ở từng thời kỳ.
3.3.3 Giai đoạn đầu t
Thời kỳ đầu t vào các danh mục và dự án, các thành viên tổng quát chọn lọc,
thẩm định dự án, thơng thuyết mua cổ phần hay tham gia vốn vào các dự án. Qui
trình này xảy ra liên tục trong hai đến ba năm. Để đầu t hết vốn, các nhà quản lý quỹ
phải làm việc với hiệu năng rất cao cũng nh với chất lợng kỹ thuật đầu t cao để đảm
bảo lợi nhuận nh cam kết ban đầu. Trong quá trình này tiếp tục có những đợt gọi vốn
thêm (tranches) để đáp ứng nhu cầu đầu t.
3.3.4 Giai đoạn tăng cao giá trị.
Sau khi đã thực hiện đầu t vào các danh mục, các thành viên tổng quát tiếp tục
xây dựng bộ máy quản trị quỹ và đặt thêm quan hệ với các tổ chức tài chính, kinh
doanh để thao tác tăng thêm giá trị vốn quỹ. Phần lớn quỹ vốn mạo hiểm muốn thu
hoạch lợi nhuận sau năm năm đầu t. Vì vậy thời gian hoạt động tích cực của một quỹ
là bốn hay năm năm.
Do các dự án đợc quỹ đầu t mạo hiểm tài trợ thờng là các dự án có độ rủi ro cao
nên các nhà đầu t vốn mạo hiểm hiếm khi đầu t vào các công ty trẻ toàn bộ lợng vốn
đợc dự kiến, họ sẽ cung cấp vốn theo nhiều giai đoạn. Trong từng giai đoạn họ cân
nhắc lợng vốn đầu t sao cho vừa đủ để cuối giai đoạn đầu t, doanh nghiệp đủ sức phát
triển đến điểm tăng trởng tiêp theo trong chuỗi tăng trởng dự kiến của doanh nghiệp.
Sau mỗi giai đoạn, nhà đầu t vốn mạo hiểm sẽ tính toán tỉ lệ hoàn vốn đầu t,
mức sinh lời, triển vọng kinh doanh .Nếu khả năng tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp không khả thi nhà đầu t sẽ từ chối bổ sung quỹ.
Là các nhà đầu t dài hạn, phần lớn các nhà đầu t vốn mạo hiểm không dự kiến
lãi phát sinh trong vòng 3-7 năm đầu tiên của quá trình tài trợ. Vốn đầu t ban đầu chỉ
là sự bắt đầu mối quan hệ dài hạn giữa nhà đầu t vốn mạo hiểm và doanh nghiệp mới.

22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Sau giai đoạn đầu nếu doanh nghiệp tiếp tục phát triển, nhà đầu t sẽ bổ sung vốn cho
từng giai đoạn tiếp theo của quá trình kinh doanh nh: thử nghiệm thị trờng, sản xuất
thí điểm, marketing thị trờng, nghiên cứu và điều chỉnh các sai sót kỹ thuật của sản
phẩm làm tiền đề cho sản xuất qui mô và xuất khẩu chiếm lĩnh thị trờng. Rõ ràng,
việc cân nhắc thời điểm và lợng vốn cung cấp cho từng giai đoạn đòi hỏi các nhà đầu
t vốn mạo hiểm phải có trình độ và nhạy bén.
3.3.5 Giai đoạn thoát t.
Sau đó, là cơ hội thoát khỏi dự án đầu t ( exit) bằng cách phát hành lần đầu ra
công chúng (IPO) hay bán lại toàn bộ cho một tổ chức hoặc cá nhân muốn mua toàn
bộ dự án. Việc thu hoạch của nhà đầu t cá thể thể hiện bằng tiền mặt hoặc là các cổ
phiếu khả mãi trên thị trờng vốn.
Thời gian thu hoạch thờng kéo dài 2, 3 năm. Thời gian từ khi chuẩn bị, góp
vốn, đầu t và thu hoạch của mỗi quỹ có thể khác nhau vì thời gian của các dự án
trong danh mục đầu t có thể biến thiên khác nhau. Tuy nhiên mục tiêu đầu t và thu
hoạch vẫn gói gọn trong 7 đến 10 năm là tối đa.
Cơ cấu ngành đầu t của quỹ vốn mạo hiểm
Tiêu dùng 7%
Dịch vụ kinh doanh 5%
Bán dẫn 1%
Máy tính 3%
Viễn thông liên lạc 22%
Công nghệ sinh học 2%
Điện tử 4%
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Dụng cụ y tế 5%
Công nghệ thông tin 24%
Dợc phẩm 2%

Công nghiệp 5%
Chăm sóc sức khoẻ 11%
Môi trờng 1%
Phân phối bán lẻ 3%
III- Tính tất yếu của quỹ đầu t mạo hiểm trong nền kinh tế tri
thức
1. Vai trò của quỹ vốn mạo hiểm
Đã gần 50 năm nay các nhà đầu t mạo hiểm đã góp phần vào sự phát triển của
các ngành công nghiệp kỹ thuật cao của Mỹ. Rất nhiều công ty thành đạt nhất của
Mỹ đã lớn mạnh bằng sự trợ giúp của các quỹ đầu t mạo hiểm nh: Intel, Apple,
Microsoft, Fedex, Sun Microsystem, Netscape... Vai trò của quỹ đầu t mạo hiểm đợc
thể hiện nh thế nào.
Khác với ngân hàng đầu t hoặc quỹ tơng hỗ chỉ giữ mối quan hệ giao dịch với
doanh nghiệp nhận đầu t, các công ty vốn mạo hiểm luôn luôn đóng vai trò quyết
định đối với doanh nghiệp nhận đầu t, nếu không đồng vốn bỏ ra sẽ khó mang lại
hiệu quả mong đợi. Đó là vì cấp vốn cho doanh nghiệp với điều kiện thông thờng
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
không yêu cầu hoàn vốn và trả lãi mà chỉ đòi hỏi nắm một số cổ phần, có khi còn yêu
cầu nắm quyền quyết định tổ chức và chiến lợc kinh doanh của doanh nghiệp. Có
công ty còn đòi kiểm soát tới 60% vốn cổ phần (tất nhiên số cổ phần này chỉ có giá
trị khi đầu t thành công còn khi thất bại thì họ chẳng còn gì). Mục đích và vai trò của
quỹ đầu t mạo hiểm là làm sao cho doanh nghiệp sớm đợc niêm yết trên thị trờng
chứng khoán và khi doanh nghiệp đã có tên trên thị trờng chứng khoán rồi thì nhiệm
vụ tiếp theo của quỹ là đẩy giá trị cổ phiếu của doanh nghiệp lên tới mức cao nhất có
thể. Chính vì vậy, các quỹ mạo hiểm thờng tham gia quản lý, điều hành các công ty
thuộc danh mục đầu t. Các quỹ còn có vai trò t vấn cho các doanh nghiệp trong việc
sử dụng tài sản để đạt khả năng sinh lời lớn nhất. Đây cũng chính là điểm khác biệt
của quỹ đầu t mạo hiểm so với các quỹ đàu t khác nh quỹ đầu t chứng khoán. Quỹ
đầu t chứng khoán đợc tổ chức để thu hút sự tham gia rộng rãi của công chúng đầu t

trên thị trờng, các quỹ này thờng đầu t vào tài sản có mức độ rủi ro vừa phải.
Song song với quá trình tài trợ vốn mạo hiểm, nhà đầu t còn cung cấp các kỹ
năng quản lý cho các doanh nghiệp trẻ. Phần lớn các doanh nghiệp thành công ở
thung lũng Silicon không phải là doanh nghiệp do các thành viên sáng lập điều hành
mà do các nhà quản lý xuất sắc có kinh nghiệm đợc các nhà đầu t vốn mạo hiểm bổ
nhiệm. Hơn nữa, các nhà đầu t vốn mạo hiểm quản lý và hạn chế rủi ro của bạn bằng
cách đa dạng hoá đầu t vào nhiều doanh nghiệp có mức rủi ro khác nhau, do đó các
nhà đầu t vốn mạo hiểm bù các khoản lỗ đầu t khi tài trợ cho một số doanh nghiệp
bằng một vài dự án đầu t có tỉ lệ hoàn vốn rất cao, lợi tức vốn lớn.
Nếu đứng trên một khía cạnh khác thì quỹ đầu t mạo hiểm còn là cơ hội để
các tài năng phát huy tính sáng tạo vì cac quỹ này chủ yếu đầu t vào các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Mục đích của quỹ cũng là triển
khai đầu t nhằm tài trợ cho các nhà nghiên cứu, cá nhân, hoặc nhóm doanh nghiệp
hoặc doanh nghiệp có ý tởng sáng tạo xuất sắc về các lĩnhvực công nghệ cao, có khả
năng triển khai đợc các sản phẩm có tính độc đáo và hữu dụng. Đứng trên góc độ này
thì quỹ đầu t mạo hiểm vừa mang tính chất sản xuất kinh doanh vừa mang tính chất
nghiên cứu do đó nó đánh giá cao các dự án có tính sáng tạo, có tính khả thi. Với vai
trò này, quỹ đầu t mạo hiểm không phải chỉ là quỹ đầu t thông thờng đi tìm kiếm lợi
25

×