Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Đoàn kết quốc tế, một trong những nguyên nhân thắng lợi của cách mạng việt nam (1954 1975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (496.39 KB, 92 trang )

GVHD: Th.s Hồ Thị Quốc Hồng Luận văn tốt nghiệp
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết đoàn kết quốc tế là một truyền thống vô cùng quý
báu, là bài học lịch sử vô giá trong mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước
của dân tộc ta, thắm nhuần được truyền thống yêu nước-nhân nghĩa-đoàn kết
của dân tộc, ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã tiếp thu, vận dụng và phát huy
tinh thần đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế trong suốt chặng đường cách
mạng Việt Nam, từng bước đưa cách mạng Việt Nam vượt qua nhiều khó
khăn, thử thách lớn, giàng thắng lợi hoàn toàn, thống nhất nước nhà và tiến
lên xã hội chủ nghĩa theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh như ngày hôm nay. Đoàn kết quốc tế đã trở thành một
phương châm hành động và nó cũng là một trong những nhân tố cơ bản, có
tính quyết định bảo đảm sự thắng lợi của cách mạng nước nhà, góp phần làm
nên những mốc son chói lọi, những trang sử hào hùng trong lịch sử dân tộc.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội 1991, cương lĩnh đã tổng kết năm bài học của cách mạng nước ta, trong
đó có bài học “Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: Đoàn kết toàn
đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế”.
Tập hợp lực lượng cho bất kỳ một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc
nào cũng có hai bình diện: quốc gia và quốc tế. Nếu tranh thủ được sự ủng hộ,
liên hiệp hành động của các lực lượng quốc tế, thì sức mạnh của dân tộc sẽ
được tăng lên gấp bội. Do vây, song song với chủ trương tập hợp sức mạnh
dân tộc, Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh đã hết sức quan tâm tới mặt trận quốc
tế tập hợp lực lượng, tranh thủ mở rộng đoàn kết và ủng hộ quốc tế cho sự
nghiệp đấu tranh của nhân dân Việt Nam.
Nếu đoàn kết dân tộc là nhân tố quyết định thắng lợi của dân tộc thì
đoàn kết quốc tế làm tăng thêm sức mạnh cho các dân tộc
SVTH: Nguyễn Thị Tú Anh Trang
1
GVHD: Th.s Hồ Thị Quốc Hồng Luận văn tốt nghiệp


Vì vậy từ rất sớm xhủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về mối quan hệ giữa
cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới: “Cách mạng An Nam cũng là
một phận trong cách mệnh thế giới. Ai là cách mệnh thế giới đều là đồng chí
của dân An Nam cả”.
Đảng ta luôn nhận thức và thực hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa phong
trào cách mạng trong nước với phong trào cách mạng và lực lượng tiến bộ
trên thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong cương
lĩnh chính trị năm 1930 và cương lĩnh năm 1991, Đảng ta luôn quan tâm
nhiệm vụ đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
một nhiệm vụ chiến lược.
Và cũng nhờ vào truyền thống quý báu đó, trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, quân dân ta tiêu diệt, làm tan rã và xóa bỏ toàn bộ bộ
máy chính quyền tay sai của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam,
đưa sự nghiệp chống Mỹ cứu nước đến thắng lợi cuối cùng, thắng lợi này đã
mở ra một giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam giai đoạn cả nước quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Đó là một chiến công lớn của thế kỷ XX, Mãi mãi được
ghi vào lịch sử dân tộc như một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của
chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, là một thiên anh hùng ca
bất hủ của chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Góp phần vào thắng lợi trường kỳ đó, có nhiều yếu tố và Đoàn kết quốc
tế cũng là một trong những nguyên nhân cực kỳ quan trọng dẫn đến thắng lợi
của cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954-1975.
Với tầm quan trọng của vấn đề nêu trên, tôi quyết định chọn đề tài “Đoàn
kết quốc tế, một trong những nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Việt
Nam (1954 -1975)”
2. Lịch sử vấn đề
Liên quan đến đề tài “Đoàn kết quốc tế, một trong những nguyên
nhân thắng lợi của cách mạng Việt Nam (1954 -1975)” có thể kể đến các
công trình tiêu biểu sau đây:
SVTH: Nguyễn Thị Tú Anh Trang

2
GVHD: Th.s Hồ Thị Quốc Hồng Luận văn tốt nghiệp
- Ngoại giao Việt Nam (1945-2000), nhà xuất bản chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2002. Đây là một công trình nghiên cứu khoa học công phu của
tập thể tác giả là các nhà ngoại giao, các chuyên gia hàng đầu về quan hệ
quốc tế ở nước ta. Cuốn sách làm sống lại những sự kiện đối ngoại chủ
yếu của Đảng, nhà nước ta và ngoại giao nhân dân trong nữa cuối của thế
kỷ XX
- Liên Bang Xô Viết và chiến tranh Việt Nam, Nhà xuất bản Công
An Nhân Dân, Hà Nội-1998, do tác giả ILYA V. GAIDUK. Cuốn sách đã
nêu bật lên mối quan hệ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, đặc
biệt đi sâu vào nghiên cứu những hoạt động của Liên Xô trong cuộc chiến
tranh Việt Nam.
- Quan hệ Việt Nam -Trung Quốc những sự kiện 1961-1970, Nhà
xuất bản khoa học xã hội, Hà Nôi, 2006, tác giả là TS. Nguyễn Đình Liêm.
Đây là một tập “tư liệu lịch sử” đã sơ bộ được hệ thống hóa một cách khoa
học về mối quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam trong những năm 1961-
1970
- Hồ Chí Minh chiến sĩ cách mạng quốc tế, Nhà xuất bản quân đội
nhân dân Hà Nội, 2000 của hai tác giả Phan Ngọc Liên và Trịnh Vương
Hồng. Trong cuốn sách này các tác giả đã tổng hợp tất cả những hoạt động
quốc tế của Hồ Chí Minh qua các thời kỳ lịch sử, những chính sách ngoại
giao hết sức mềm dẻo của Bác Hồ.
Thế nhưng các tác giả này nghiên cứu ở một góc độ khác nhau, chủ
yếu là thiên về lĩnh vực ngoại giao.
Trên cơ sở những tài liệu này và một số tài liệu đáng tin cậy khác, ở
đây tôi xin đi sâu vào nghiên cứu một cách cụ thể những hoạt động đoàn
kết quốc tế của Đảng ta trong giai đoạn 1954-1975.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Như chúng ta đã biết đoàn kết quốc tế là trong những yếu tố quan trọng

góp phần vào thắng lợi của cả quá trình cách mạng Việt Nam và nó cũng
SVTH: Nguyễn Thị Tú Anh Trang
3
GVHD: Th.s Hồ Thị Quốc Hồng Luận văn tốt nghiệp
góp phần không nhỏ vào sự phát triển của đất nước trong thời kỳ đổi mới
ngày nay. Xuyên suốt chặng đường cách mạng Việt Nam, cũng như trong
quá trình đổi mới Đoàn kết quốc tế cùng với đoàn kết dân tộc đã tạo nên
một sức mạnh tổng hợp đưa cách mạng Việt Nam, đất nước Việt Nam
vượt qua nhiều thử thách, khó khăn đi đến thành công như ngày hôm nay.
Với phạm vi là một đề tài luận văn tốt nghiệp, tôi chỉ đề cập đến những
hoạt động đoàn kết quốc tế của Đảng ta trong giai đoạn 1954-1975. Từ đó
rút ra ý nghĩa và những bài học kinh nghiệm thiết thực để vận dụng những
thành tựu đó vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ
đổi mới.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện đề tài: “Đoàn kết quốc tế, một trong những nguyên nhân
thắng lợi của cách mạng Việt Nam (1954 -1975)”, tôi xác định cần đạt được
các mục đích, nhiệm vụ sau đây:
Mục đích
- Góp phần khẳng định giá trị của đoàn kết quốc tế trong cách mạng
Việt Nam.
- Làm rõ vai trò, tầm quan trọng của Đoàn kết quốc tế trong cách
mạng Việt Nam (1954-1975)
- Rút ra ý nghĩa, bài học kinh nghiệm cho hoạt động Đoàn kết quốc
tế trong cách mạng Việt Nam (1954-1975)
- Mặc khác, nghiên cứu hoàn thành đề tài này giúp tôi làm quen được
với việc nghiên cứu khoa học, cũng như trang bị cho tôi thêm về mặt kiến
thức và có thể sử dụng luận văn này làm tài liệu phục vụ cho công tác giảng
dạy sau này.
Nhiệm vụ

- Phân tích những lý luận chung và những cơ sở hình thành tư tưởng
Đoàn kết quốc tế của Đảng ta
SVTH: Nguyễn Thị Tú Anh Trang
4
GVHD: Th.s Hồ Thị Quốc Hồng Luận văn tốt nghiệp
- Hệ thống và đi sâu vào làm rõ những hoạt động Đoàn kết quốc tế
của Đảng ta trong giai đoạn 1954-1975, một trong những nguyên nhân
góp phần tạo nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ,cứu nước.
- Đánh giá, nhận xét những hoạt động Đoàn kết quốc tế trong cách
mạng Việt Nam (1954-1975)
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được những mục đích yêu cầu đề ra, trong quá trình nghiên cứu
tôi sử dụng các phương pháp chủ yếu sau đây:
- Phương pháp lịch sử
- Phương pháp logic
- Phương pháp phân tích- tổng hợp
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm có ba chương:
- Chương 1: Nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hoạt động đoàn
kết quốc tế của Đảng ta
- Chương 2: Đoàn kết quốc tế, một trong những nguyên nhân thắng
lợi của cách mạng Việt Nam (1954-1975)
- Chương 3: Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm
SVTH: Nguyễn Thị Tú Anh Trang
5
GVHD: Th.s Hồ Thị Quốc Hồng Luận văn tốt nghiệp
Phần nội dung
Chương 1: Quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng ta về
đoàn kết quốc tế của Đảng ta

1.1. lý luận chung về đoàn kết quốc tế
1.1.1. Đoàn kết quốc tế là gì?
Trong Từ điển Tiếng Việt do trung tâm từ điển học và nhà xuất bản giáo dục
ấn hành năm 1994 và sau đó là các từ điển khác đều đưa ra khái niệm đoàn kết là:
“kết thành một khối thống nhất, cùng hoạt động vì mục đích chung” [25, tr.9]
Còn đoàn kết dân tộc theo Hồ Chí Minh tức là đoàn kết tất cả các dân tộc
trong một quốc gia, kể cả sống ở trong nước hay ở nước ngoài miễn là người Việt
Nam thì không được phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai,…không phân biệt về
chính trị, tôn giáo…Tất cả phải đoàn kết vì một mục tiêu chung là độc lập, tự do
cho dân tộc, cho đất nước.
Vậy đoàn kết quốc tế là liên kết, tập hợp tất cả các dân tộc, các nước các trên
thế giới thành một khối thống nhất. Đó là chúng ta hiểu đoàn kết quốc tế theo nghĩa
chung nhất.
Còn nếu xét theo cấp độ mục tiêu thì chúng ta có thể chia đoàn kết quốc tế ra
làm hai loại: thống trị và chống lại sự thống trị.
Về thống trị đó là mục tiêu của các nước đế quốc lớn, có sức mạnh về kinh tế
chính trị lẫn quân sự, các nước này luôn có tham vọng làm bá chủ thế giới, muốn
bành trướng thế và lực của mình nên chúng tìm cách cấu kết lại với nhau để áp bức,
bóc lột các nước yếu hơn mình. Chẳng hạn như Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Ý…Và chính
vì thế chúng đã cùng nhau thành lập nhiều tổ chức quân sự hùng mạnh như:
SEATO, NATO…
Để chống lại sự thống trị tàn bạo của các nước đế quốc hùng mạnh đó, thì
các nước bị áp bức, bóc lột họ đã tự giác ngộ được một chân lý là muốn thoát giải
phóng mình thì không có con đường nào khác là tất cả họ phải đoàn kết lại thành
một hệ thống - tạo nên sức mạnh tổng hợp chống lại các nước đế quốc, vì tất cả các
dân tộc ở các nước này dù màu da, tôn giáo, chính trị có khác nhau nhưng ở họ lại
có chung một kẻ thù lớn đó là chủ nghĩa đế quốc, và đằng sau sự phục tùng vô điều
SVTH: Nguyễn Thị Tú Anh Trang
6
GVHD: Th.s Hồ Thị Quốc Hồng Luận văn tốt nghiệp

kiện đó, ở họ đang sục sôi một nỗi căm phẫn to lớn chờ cơ hội bùng cháy, tất cả họ
đều khao khát có được tự do. Điều kiện đó đã đưa họ lại gần nhau, liên kết chặt chẽ
với nhau thành một hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa hùng mạnh ngang tầm và
đối đầu lại các nước đế quốc. Và vào lúc ấy, cuộc cách mạng Tháng Mười Nga
thành công và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, thắng lợi này đánh dấu sự trưởng
thành của giai cấp công nhân và chứng minh lí luận cách mạng vô sản của Lênin là
hoàn toàn đúng. Đồng thời nó cũng mở đường cho chủ nghĩa xã hội ở các nước
thuộc địa phát triển.
Vào giữa thế kỷ XIX, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đối với chủ nghĩa
tư bản đòi hỏi phải có lý luận tiên phong chỉ đường. Chủ nghĩa Mác ra đời, khẳng
định quy luật diệt vong của chủ nghĩa tư bản, nhường bước cho xã hội mới, xã hội
cộng sản chủ nghĩa; đồng thời chỉ rõ sừ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản
và nêu lên khẩu hiệu chiến lược: Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại! Đến cuối thế
kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản thế giới chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các
nước đế quốc tranh giành nhau thuộc địa và đã căn bản hoàn thành việc phân chia
thế giới, áp đặt ách áp bức thực dân ở khắp các nước châu Á, Phi và Mỹ latinh. Thế
giới bị chia cắt làm hai: Một khu vực gồm các nước công nghiệp phát triển, thường
được gọi là phương Tây và khu vực kia bao gồm các nước thuộc địa, thường được
là phương Đông. Vấn đề đặt ra cho các nước thuộc địa là làm thế nào để được giải
phóng. Thế giới hình thành mâu thuẫn mới: mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa
với chủ nghĩa đế quốc thực dân, trở thành một điều kiện khách quan cho phép
phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa gắn bó với phong trào cách mạng quốc
tế, đặc biệt là với phong trào cách mạng ở các nước chính quốc.
Sang thế kỷ thứ XX, nhiều sự kiện lịch sử đã diễn ra dồn dập, báo trước bước
chuyển biến trong tình hình quốc tế, cuộc xung đột tranh giành quyền lợi giữa các
nước đế quốc đã dẫn đến cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), làm
cho các mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa đế quốc trở nên gay gắt. Cùng với phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở các nước đế quốc, phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa bùng lên mạnh mẽ, điển hình là Trung Quốc,
Ấn Độ, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Ápganixtan, Inđônêxia, Bão táp cách mạng với

“Phương Đông thức tỉnh” là nét đặc sắc của tình hình quốc tế trong giai đoạn này.
SVTH: Nguyễn Thị Tú Anh Trang
7
GVHD: Th.s Hồ Thị Quốc Hồng Luận văn tốt nghiệp
Trong bối cảnh ấy, Lênin phân tích tình hình cụ thể,tiếp tục phát triển chủ nghĩa
trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, đề ra lý luận cách mạng vô sản có thể thành
công ở một số nước, thậm chí trong một nước tư bản phát triển trung bình, đồng
thời nêu lên nguyên lý về cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa, về sự đoàn
kết giữa giai cấp vô sản ở các nước đế quốc và các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Thực tiễn chứng minh lý luận của Lênin là đúng
bằng thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 dưới sự lãnh đạo của
Người. Thắng lợi đó là nguồn cổ vũ lớn lao đối với phong tào cách mạng thế giới,
nhất là cách mạng ở thuộc địa. Năm 1919, Lênin cùng các nhà cách mạng chân
chính ở các nước thành lập Quốc tế cộng sản; Đồng thời phát triển khẩu hiệu chiến
lược của Mác thành: Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!
[25, tr.42]
Như vậy đoàn kết quốc tế có nhiều xu hướng khác nhau, nhưng ở đây đoàn
kết quốc tế mà chúng tôi muốn đề cập đến đó chính là sự đoàn kết giữa các nước
thuộc địa, các nước bị áp bức, bóc lột và với tất cả các nước yêu chuộng hòa bình
trên thế giới để chống lại chủ nghĩa đế quốc.
1.1.2. Tính tất yếu của đoàn kết quốc tế
Đoàn kết, hợp tác quốc tế giữa các nước là một vấn đề tất yếu lịch sử
Liên minh, hợp tác giữa các quốc gia, dân tộc là một hiện tượng lịch sử - xã
hội phát triển có quy luật. Nội dung, tính chất và hình thức liên minh, hợp tác mang
dấu ấn thời đại và giai cấp rõ rệt, giữ vị trí trung tâm của thời đại. Xu thế phát triển
của lịch sử xã hội loài người là các nước, các dân tộc ngày càng xích lại gần nhau,
có quan hệ ngày càng sâu rộng. Xu thế đó bắt nguồn từ những tiền đề, điều kiện
khách quan.
Nền kinh tế thế giới ngày nay phát triển vượt khỏi khuôn khổ quốc gia, phá
vỡ hàng rào dân tộc, mở rộng quan hệ quốc tế.

Chủ nghĩa tư bản ra đời, sản xuất hàng hoá và công nghiệp phát triển, chuyên
môn hoá ngày càng sâu, đòi hỏi sự hợp tác, trao đổi. Nhiều phương tiện giao thông
và thông tin liên lạc hiện đại như hàng hải, hàng không, điện tín, điện báo mà một
thời chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc độc quyền sử dụng làm công cụ đi chinh
phục, xâm lược các nước, ngày nay đã và đang trở thành phương tiện chung của các
SVTH: Nguyễn Thị Tú Anh Trang
8
GVHD: Th.s Hồ Thị Quốc Hồng Luận văn tốt nghiệp
dân tộc để thực hiện mối quan hệ quốc tế ngày càng phát triển. Nền vǎn minh nhân
loại đã phát triển vượt khỏi khuôn khổ một nước, tạo điều kiện mở rộng quan hệ
quốc tế giữa các dân tộc.
Cùng với sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp
tư sản và giai cấp vô sản ra đời, hai lực lượng có tính chất quốc tế. Giai cấp vô sản
muốn chiến thắng giai cấp tư sản thì phải bằng sức mạnh đoàn kết vô sản toàn thế
giới. Mác nêu khẩu hiệu: “Vô sản toàn thế giới, liên hiệp lại!”. Trong thời kỳ đế
quốc chủ nghĩa, hệ thống thuộc địa bao trùm cả thế giới, Lênin phát triển khẩu hiệu
trên thành: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”.
Thắng lợi vĩ đại của cách mạng tháng mười Nga năm 1917 mở ra thời đại-
thời đại quá độ từ chủ nghĩa Tư bản lên chủ nghĩa xã hội tren phạm vi toàn thế giới,
cuộc đấu tranh để giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa xã hội đang diễn ra quyết liệt, đòi hỏi phải thực hiện đoàn kết quốc tế giữa
các nước xã hội chủ nghĩa, các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới.
Ngay từ những nǎm 20 của thế kỷ này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức
sâu sắc chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân trong tư tưởng lý luận của Mác và
của Lênin. Người đã dùng hình tượng hai cánh chim và hình tượng con đỉa hai vòi
để nêu lên sự kết hợp chặt chẽ giữa hai trào lưu cách mạng vô sản và cách mạng
giải phóng dân tộc. Người khẳng định công cuộc giải phóng của các dân tộc bị áp
bức “chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của chính bản thân mình” và “muốn
người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp mình đã”. Đồng thời với việc
khẳng định sự nỗ lực “của chính bản thân mình”, Người hết sức coi trọng sự liên

minh quốc tế, đoàn kết giữa các dân tộc để đấu tranh cho hoà bình. Người nói: “Vì
nền hoà bình thế giới, vì tự do và ấm no, những người bị bóc lột thuộc mọi chủng
tộc cần đoàn kết lại và chống bọn áp bức” [25, tr.17].
Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Mười Nga nǎm 1917 mở ra một thời
đại mới - thời đại cách mạng của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức đoàn kết
đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, đế quốc. Cuộc đấu tranh diễn ra quyết liệt đòi hỏi
phải thực hiện đoàn kết quốc tế giữa các nước xã hội chủ nghĩa, các lực lượng cách
mạng và tiến bộ trên thế giới.
SVTH: Nguyễn Thị Tú Anh Trang
9
GVHD: Th.s Hồ Thị Quốc Hồng Luận văn tốt nghiệp
Đặc điểm nổi bật của thời đại ngày nay là cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ mới đang diễn ra mạnh mẽ, tạo bước phát triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất
và đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá lực lượng sản xuất, tǎng cường xu thế quốc tế
hoá nền kinh tế, hình thành một thị trường thế giới, trong đó các hệ thống kinh tế
cạnh tranh với nhau. Mặt khác, sự hợp tác kinh tế là một yêu cầu phát triển tất yếu
của tất cả các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Đúng như Lênin đã chỉ
rõ: “Có một sức mạnh lớn hơn nguyện vọng, ý chí và sự quyết tâm của bất cứ chính
phủ hay giai cấp thù địch nào, sức mạnh đó là những quan hệ kinh tế chung của
toàn thế giới, chúng bắt buộc họ phải tiếp xúc với chúng ta”.
Thế giới là một thể thống nhất có mâu thuẫn. Các nước vừa độc lập, vừa phụ
thuộc lẫn nhau. Các quốc gia dân tộc sống trên hành tinh đều cần duy trì sự sống.
Nhưng những mâu thuẫn cơ bản của xã hội loài người trong thời kỳ quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại; đồng thời lại xuất hiện những mâu
thuẫn mới có tính toàn cầu như mâu thuẫn giữa hoà bình và chiến tranh. Các dân tộc
đều có quyền độc lập, song không thể sống biệt lập với cộng đồng quốc tế, không
thể không có sự hợp tác quốc tế mà giải quyết được những yêu cầu nhiệm vụ phát
triển của dân tộc mình. Trong thế giới hiện đại, nhiều vấn đề đặt ra có liên quan đến
vận mệnh của các dân tộc. Đó là giữ gìn hoà bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hạt
nhân huỷ diệt, bảo vệ môi trường sống, bảo vệ và tái tạo tài nguyên thiên nhiên, hạn

chế sự bùng nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo. Con
đường giải quyết có hiệu quả nhất các vấn đề trên là phối hợp sức lực và tài nǎng
với ý thức trách nhiệm cao của tất cả các dân tộc trên thế giới. Không một nước
nào, dù đó là nước lớn, có thể tự giải quyết được những vấn đề trên.
1.1.3. Mục tiêu của đoàn kết quốc tế
- Duy trì hòa bình và an ninh quốc tế nhằm ngăn chặn và loại trừ những mối
đe dọa hòa bình và thủ tiêu hành động xâm lược của các nước đế quốc, giải quyết
các tranh chấp và xung đột quốc tế bằng phương pháp hòa bình.
- Phát triển các cơ quan hữu nghị giữa các nước trên cơ sở tôn trọng nguyên
tắc bình đẳng và quyền tự quyết giữa các dân tộc.
- Đoàn kết quốc tế cho mục tiêu độc, lập tự do dân tộc và đoàn kết, hữu nghị
bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau giữa các nước, các dân tộc trên thế giới.
SVTH: Nguyễn Thị Tú Anh Trang
10
GVHD: Th.s Hồ Thị Quốc Hồng Luận văn tốt nghiệp
- Hợp tác, tương trợ và sẵn sàng giúp đở lẫn nhau về các lĩnh vực kinh tế, xã
hội, văn hóa; tôn trọng quyền con người, không phân biệt chủng tộc, giới tính,
ngôn ngữ và tôn giáo.
1.1.4. Vị trí vai trò của đoàn kết quốc tế
Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đảng và nhà nước ta ra sức mở
rộng hoạt động đoàn kết quốc tế, phát huy tối đa sức mạnh của thời đại, coi đó là
một bộ phận hợp thành của đường lối chống Mỹ, cứu nước. Đảng ta đã coi hoạt
động đoàn kết quốc tế là một mặt trận có tầm quan trọng chiến lược, góp phần to
lớn tạo nên sự vượt trọi về thế và lực của nhân dân ta để đánh thắng kẻ thù.
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta diễn ra trong lúc trên thế giới hệ thống xã
hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc, phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động trong các nước tư bản đã có những bước phát triển
to lớn làm thay đổi lực lượng so sánh có lợi cho sự nghiệp cách mạng và hòa bình.
Phong trào đấu tranh chống nguy cơ chiến tranh hạt nhân, bảo vệ hòa bình thế giới
thu hút nhân dân các nước tham gia ngày càng đông đảo. Những nhân tố mới đó là

những thuận lợi rất cơ bản cho cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta.
Tuy nhiên, trên bình diện quốc tế, ta cũng phải đương đầu với những khó
khăn, thử thách rất nghiêm trọng phát sinh từ sự bất hòa ngày càng sâu sắc trong
phong trào cộng sản quốc tế, giữa các đảng và các nước xã hội chủ nghĩa anh em,
nhất là Liên Xô và Trung Quốc. Đế quốc Mỹ đã ra sức lợi dụng và khai thác tình
hình đó để mở rộng chiến tranh, đồng thời tìm mọi cách hòng cô lập và đè bẹp cuộc
kháng chiến của nhân dân ta.
Trong bối cảnh quốc tế đó, nhờ có đường lối kháng chiến và chính sách đoàn
kết quốc tế đúng đắn, sáng tạo, đồng thời nhờ kinh nghiệm trong hoạt động đối
ngoại và đấu tranh ngoại giao của Đảng và của chủ tịch Hồ Chí Minh, ta đã phát
huy các nhân tố thuận lợi, hạn chế những khó khăn, phức tạp biến yếu tố quốc tế,
yếu tố thời đại thành sức mạnh hiện thực để tăng cường thực lực của nhân dân ta
trong cách mạng và kháng chiến.
Trên thực tế, dưới tác động của đường lối đối ngoại và hoạt động ngoại giao,
cũng như thành quả của cuộc kháng chiến của nhân dân ta, một mặt trận rộng lớn
của nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam và ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm
SVTH: Nguyễn Thị Tú Anh Trang
11
GVHD: Th.s Hồ Thị Quốc Hồng Luận văn tốt nghiệp
lược đã hình thành và phát triển. Mặt trận đó, bao gồm các nước xã hội chủ nghĩa,
các nước độc lập dân tộc, các phong trào cách mạng, các lực lượng hòa bình, các xu
hướng dân chủ và tiến bộ trên toàn thế giới, kể cả một bộ phận đông đảo nhân dân
và các tầng lớp xã hội Mỹ.
Cùng với mặt trận đoàn kết toàn dân trong nước và liên minh chiến đấu với
ba nước Đông Dương, mặt trận đoàn kết quốc tế đó đã góp phần tạo ra một tập hợp
lực lượng chưa từng thấy, bao vây cô lập và tiến công đế quốc Mỹ từ mọi phía.
Có thể nói định hướng chiến lược của Đảng ta mà đứng đầu là chủ tịch Hồ
Chí Minh là gắn sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân ta với xu thế cách mạng
trong quan hệ toàn cầu-một định hướng bất biến của cách mạng nước ta từ khi có
Đảng, đã được thể nghiệm thành công trong kháng chiến chốmg Mỹ, cứu nước.

Bằng một hệ thống chính sách và chủ trương thích hợp với tình thế, hoạt động đoàn
kết quốc tế của nước ta đã từng bước cải thiện vị thế quốc tế và gắn cuộc chiến đấu
sống còn, vì tự do và độc lập của mình với trào lưu cách mạng vì hòa bình độc lập
dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội ở bên ngoài. Tập hợp lực lượng “năm châu
bốn biển” vì sự nghiệp chính nghĩa “không có gì quý hơn độc lập tự do” trở thành
mục tiêu hàng đầu của mặt trận đoàn kết quốc tế trong kháng chiến chống Mỹ.
Với định hướng đó, với chính sách và sách lược đúng đắn, cùng với thắng lợi
trên chiến trường, đoàn kết quốc tế nước ta đã góp phần làm chuyển biến cụ diện
quốc tế của cuộc chiến tranh ngày càng nghiên hẳn về phía có lợi cho ta. Điều đó đã
đưa lại một hiện tượng đặc biệt, đầy lý thú của quan hệ quốc tế hiện đại trong thế
kỷ XX: “Chưa bao giờ trong lịch sử, một cuộc đấu tranh của một dân tộc nhỏ yếu,
chống một cường quốc hùng mạnh hàng đầu thế giới lại được loài người tiến bộ
ủng hộ mạnh mẽ và lâu bền đến thế. Hơn thế nữa đây là lần thứ hai liên tiếp, sau
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, cuộc chiến đấu chống đế quốc vì
độc lập, dân tộc, tự do hòa bình của nhân dân ta lại được đồng tình, ủng hộ của
nhân dân và các tầng lớp xã hội của chính quốc gia đã đưa quân xâm lược vào
nước ta…”[12, tr.326].
Trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước hoạt động đoàn kết quốc tế của nước ta
không chỉ đơn thuần phản ánh thắng lợi trên chiến trường mà còn trở thành một
lượng lực tiến công trực diện vào thế lực thù địch, làm suy yếu chúng, nhằm tranh
SVTH: Nguyễn Thị Tú Anh Trang
12
GVHD: Th.s Hồ Thị Quốc Hồng Luận văn tốt nghiệp
thủ điều kiện quốc tế thuận lợi, sự ủng hộ tinh thần và vật chất để làm thay đổi cục
diện quốc tế của cuộc chiến tranh. Điều đó, đã trực tiếp góp phần vào việc làm thay
đổi tương quan lực lượng trên chiến trường, hỗ trợ mặt trận chính trị, quân sự giành
thắng lợi ngày càng to lớn.
Nếu đoàn kết dân tộc là nhân tố quyết định thắng lợi của dân tộc thì đoàn
kết quốc tế làm tăng thêm sức mạnh cho các dân tộc.
“Quan điểm của Hồ Chí Minh về sự đoàn kết, giúp đở quốc tế là một trong

những nhân tố quan trọng đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi, sức
mạnh của dân tộc là sức mạnh của bản thân cộng với sức mạnh của thời đại, của
loài người tiến bộ, của sự ủng hộ giúp đở của bạn bè quốc tế” [25, tr.119]
Hồ Chí Minh cho rằng đoàn kết quốc tế là một vũ khí, một nguồn gốc tạo
nên sức mạnh chiến thắng của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức. Chủ nghĩa
tư bản là một hệ thống thế giới có lực lượng vật chất kỷ thuật khổng lồ và những
kinh nghiệm đàn áp thống trị từ nhiều thế kỷ. Chúng câu kết trên phạm vi toàn cầu,
cùng nhau điên cuồng chống phá phong trào cách mạng thế giới.
Vì vậy, giai cấp vô sản, các dân tộc bị áp bức và tất cả các lực lượng cách
mạng trên trên toàn thế giới phải đoàn kết lại với nhau chống kẻ thù chung; chủ
nghĩa tư bản và bè lũ tay sai của chúng [25, tr.74]
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng ta về đoàn kết quốc tế
1.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế
Vào tháng 6/1911, Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh rời tổ quốc ra đi tìm
đường cứu nước. Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản Sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin đăng trên báo
L`Humanité, Người tìm thấy trong luận cương của Lênin: Lời giải đáp về vấn đề
cách mạng thuộc địa trong mối quan hệ với phong trào cách mạng thế giới – mối
quan hệ giữa yếu tố sức mạnh dân tộc với sự giúp đở, ủng hộ của quốc tế.
Trên nền tảng nhận thức qua cuộc sống lao động, học tập và đấu tranh sau
gần 10 năm ở nước ngoài cùng với việc tiếp thu những quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin, Hồ Chí Minh không chỉ thấy rõ: “dù màu da có khác nhau, trên đời này
chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ
có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”, mà còn phát hiện ra khả
SVTH: Nguyễn Thị Tú Anh Trang
13
GVHD: Th.s Hồ Thị Quốc Hồng Luận văn tốt nghiệp
năng và điều kiện liên minh các lực lượng bị áp bức trên phạm vi thế giới để chống
lại chủ nghĩa đế quốc và khả năng đoàn kết quốc tế của nhân dân Việt Nam trong
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc mình.

Trên cơ sở đó, vào nữa cuối thập kỷ 20 của thế kỷ XX, ở Hồ Chí Minh đã
hình thành hệ thống quan điểm đoàn kết quốc tế, với những nội dung cơ bản là:
- Chủ nghĩa thực dân là kẻ thù của các dân tộc thuộc địa; nhân dân lao động
các nước thuộc địa, các nước phụ thuộc, họ đều là những người anh em, “đồng bào”
của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân.
- Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, ai làm cách
mạng thế giới đều là anh em của nhân dân Việt Nam; nhiệm vụ của Đảng Cộng
Sản, bên trong thì vận động, hướng dẫn, tổ chức lãnh đạo nhân dân làm cách mạng,
bên ngoài thì phải thực hiện liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản
trên thế giới.
- Chủ nghĩa đế quốc giống như con đỉa hai vòi, vì vậy phải tiến hành cách
mạng ở cả chính quốc và thuộc địa, phải có sự đoàn kết phối hợp giữa cấch mạng
thuộc địa và cách mạng chính quốc thì cuộc đấu tranh mới giành được thắng lợi.
- Các dân tộc thuộc địa muốn được giải phóng, trước hết phải trông cậy vào
lực lượng của chính mình, phải tự lực tự cường “muốn người ta giúp cho thì trước
hết mình phải tự giúp lấy mình đã”.
- Tại hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản (3-2-1930), hệ thống quan
điểm đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh được chính thức đưa vào văn kiện của
Đảng cộng sản Việt: “Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nứơc An Nam độc lập,
phải đồng thời tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản
giai cấp thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp”.
- Tháng 5/1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì hội nghị Trung Ương Đảng Cộng
Sản Đông Dương lần thứ tám. Hội nghị đã quyết định nhiều vấn đề quan trọng
nhằm đưa cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam đi tới thắng lợi. Về đối
ngoại, Hội nghị quyết định hai chủ trương lớn:
Một là, giải quyết vấn đề dân tộc trên cở sở tôn trọng quyền dân tộc tự quyết
trogn khuôn khổ từng nước Đông Dương. Hội nghị quyết định thành lập ở mỗi
SVTH: Nguyễn Thị Tú Anh Trang
14
GVHD: Th.s Hồ Thị Quốc Hồng Luận văn tốt nghiệp

nước một mặt trận riêng: Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Nam); Ai Lao độc lập
đồng minh (Lào); Cao Miên độc lập đồng minh (Campuchia).
Hai là, xác định cuộc cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách
mạng thế giới và giai đoạn hiện tại là một phận dân chủ chống Phát Xít. Bởi vì,
Pháp Nhật, hiện nay là một phận đế quốc xâm lược và là một bộ phận phát xít thế
giới”.
Nhiệm vụ ngoại giao của chính phủ nhân dân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
được đề ra trong chương trình Việt Minh, bao gồm bốn nhiệm vụ cụ thể:
“1. Hủy bỏ tất cả các hiệp ước mà Pháp đã ký với bất kỳ nước nào.
2. Tuyên bố các dân tộc bình đẳng và hết sức gìn giữ hòa bình.
3. Kiên quyết chống tất cả các lực lượng xâm phạm đến quyền lợi của Việt
Nam.
4. Mật thiết liên lạc với cấc dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản trên thế
giới”.
Một số quan điểm cơ bản về đối ngoại của các mạng Việt Nam còn thể hiện
rõ nét trong hai bản báo cáo: Báo cáo của Phân hội Việt Nam thuộc hội quốc tế
chống xâm lược và báo cáo về tình hình các Đảng phái trong nước, do Hồ Chí
Minh trình bày tại hội nghị các đoàn thể Việt Nam ở nước ngoài họp tại Liễu Châu
(Quảng Tây-Trung Quốc) vào tháng 3/1944.
Ngày 13/8/1945, Hội nghị toàn quốc Đảng Cộng Sản Đông Dương họp ở
Tân Trào, quyết định phát động tổng khởi nghĩa trong cả nước, giành chính quyền
từ tay phát xít nhật trước khi quân Đồng Minh vào Đông Dương. Hội nghị quyết
định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội và đối ngoại cần thi hành sau
khi giành chính quyền.
Về đối ngoại, Đảng chủ trương thân thiện hợp tác và bình đẳng với các nước
trên nguyên tắc tôn trọng nền độc lập của Việt Nam; thêm bạn bớt thù, triệt để lợi
dụng mâu thuẩn và phân hóa hàng ngũ đối phương; hết sức tránh một mình đối phó
với nhiều kẻ thù trong một lúc; tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của Liên Xô, của
nhân yêu chuộng hòa bình, độc lập dân tộc trên thế giới, kể cả nhân dân các nước
thù địch; Khẳng định nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa là sức

mạnh của dân tộc Việt Nam.
SVTH: Nguyễn Thị Tú Anh Trang
15
GVHD: Th.s Hồ Thị Quốc Hồng Luận văn tốt nghiệp
Thực tế cho thấy, hệ thống quan điểm đoàn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí
Minh và những quan điểm, chủ trương chính sách đối ngoại của Đảng từ năm 1930
đến ngày cách mạng Tháng Tám thành công là cơ sở trực tiếp hình thành đường lối
đối ngoại của nước Việt Nam mới - nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Nội dung cơ bản của hai báo cáo trên:
Một, khẳng định ý nghĩa của mối quan hệ giữ yếu tố sức mạng dân tộc với
sự giúp đở, ủng hộ từ bên ngoài: “không có một sức mạnh nào thống nhất của cả
cả nước, không có sự giúp dở mạnh mẽ của bên ngoài, cuộc vận động giải phóng
khó mà thành công được…Đoàn kết toàn dân, tranh thủ ngoại viện, đánh đuổi kẻ
thù, khôi phục tổ quốc” [29, tr.452]
Hai, phương pháp tranh thủ ngoại viện theo Hồ Chí Minh gồm có ba bước:
“- Bước thứ nhất: Liên lạc với các đoàn thể an hem các nước như: Phân hội
Trung Quốc, Phân hội Mỹ…
- Bước thứ hai: Nhờ các đoàn thể anh em giới thiệu với chính phủ các nước.
- Bước thứ ba: với thái độ chân thành và cởi mở, yêu cầu các chính phủ,
trước hết là chính phủ Trung Quốc giúp đở” [28, tr. 543]
Ba, Quan điểm ngoại giao phải có thực lực, Hồ Chí Minh nói: “…nếu tự
mình không có thực lực làm cơ sở thì không thể nói gì đến ngoại giao” [26, tr.549]
sách lược đối ngoại mền dẻo, nhằm khai thác sự ủng hộ bên ngoài, kể cả việc tạm
thời tranh thủ sự ủng hộ của đối phương. [16, tr.146]
- Độc lập, tự do- mục tiêu, động lực và cơ sở của tư tưởng đoàn kết
quốc tế của Hồ Chí Minh.
Suốt đời hoạt động cách mạng không ngừng của mình, Hồ Chí minh phấn
đấu không chỉ cho độc lập, tự do, của nhân dân Việt Nam, mà còn đấu tranh không
mệt mõi cho độc lập tự do và đoàn kết giữa các dân tộc trên thế giới. Độc lập, tự do
là quan điểm nhất quán, xuyên suốt, là mục tiêu động lực và cơ sở tạo dựng tư

tưởng đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh. Quan điểm đó kết
hợp hài hòa, biện chứng giữa dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội.
Độc lập, tự do là mục tiêu thúc đẩy Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa quốc tế
vô sản. Cả cuộc đời của Người theo đuổi mục tiêu làm cho nước ta hoàn toàn độc
SVTH: Nguyễn Thị Tú Anh Trang
16
GVHD: Th.s Hồ Thị Quốc Hồng Luận văn tốt nghiệp
lập, nhân dân ta hoàn toàn được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành. Mục tiêu đó chi phối mọi nhận thức và hoạt động của Người.
Chủ nghĩa Mác- Lênin coi đoàn kết quốc tế của giai cấp vô sản là vấn đề
chiến lược cách mạng. Mác và Ăngghen đã chỉ rõ: “Trong cuộc đấu tranh của
những người vô sản thuộc các dân tộc khác nhau, họ đặt lên hàng đầu và bảo vệ
những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn giai cấp vô
sản”[22,tr.34]. Cả Ăngghen và Lênin khi coi trọng đoàn kết quốc tế, đều tôn trọng
nền độc lập của mỗi dân tộc để tạo điều kiện cho sự liên minh và đoàn kết quốc tế
tự nguyện.
Quán triệt quan diểm trên của chủ nghĩa Mác –Lênin, từ khi trở thành người
Cộng sản Hồ Chí Minh làm việc quên mình cho sự đoàn kết quốc tế rộng lớn, nhằm
mục tiêu giành độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam và các dân tộc bị áp bức. Từ
đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Người ra sức xây dựng mối liên minh đoàn kết
giữa các dân tộc thuộc địa với nhau, giữa các dân tộc thuộc với giai cấp vô sản ở
chính quốc, Người luôn tìm các nhân tố thống nhất, đã thực hiện xuất sắc sự kết
hợp các nhân tố đó cho mục tiêu độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam và các dân
tộc bị áp bức.
Hướng tới mục tiêu độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam và các dân tộc bị áp
bức, trên thực tiễn, Hồ Chí Minh hoạt động không mệt mỏi cho sự đoàn kết quốc tế
giữa các lực lượng cách mạng thế giới. Người đã tham gia và sáng lập các tổ chức
đoàn kết quốc tế như: Công đoàn hải ngoại Anh, Đảng xã hội Pháp, Đảng Cộng
Sản Pháp, Hội liên hiệp thuộc địa, Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức, tham dự các

đại hội V, VII của Quốc tế cộng sản, các hội nghị Quốc tế nông dân, Quốc tế thanh
niên, Quốc tế phụ nữ, Quốc tế cứu tế đỏ, …và có nhiều đóng góp quan trọng cho
phong trào cách mạng thế giới, trở thành người chiến sĩ quốc tế kiên cường đấu
tranh cho độc lập, tự do của các dân tộc.
Người còn đấu tranh với những quan điểm coi thường hoặc đánh giá thấp
cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của các dân tộc thuộc địa và quan điểm phổ biến
trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế lúc đó cho rằng cách mạng giải
phóng dân tộc thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng ở các nước chính quốc…
SVTH: Nguyễn Thị Tú Anh Trang
17
GVHD: Th.s Hồ Thị Quốc Hồng Luận văn tốt nghiệp
Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng, quan điểm giương cao ngọn cờ độc lập,
tự do của Người được Đảng ta tiếp thu trong quá trình lãnh đạo thực tiễn cuộc cách
mạng Việt Nam. Thực hiện chiến lược đoàn kết quốc tế, Người xác định, cách mạng
Việt Nam là một bộ phận trong mặt trận dân chủ thế giới, đoàn kết với lực lượng
đồng minh chống phát xít, chống chiến tranh. Cuộc cách mạng tháng Tám thành
công, chính quyền cách mạng của nhân dân ta được thiết lập. Thắng lợi của cuộc
cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của tư tưởng cách mạng kết hợp đoàn kết dân
tộc và đoàn kết quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thắng lợi của tư tưởng
“không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Hồ Chí minh và cũng là thắng lợi của chủ
nghĩa quốc tế chân chính.
Độc lập, tự do là động lực và mục tiêu, lý tưởng, là cơ sở của tư tưởng chiến
lược kết hợp đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế của chủ tịch Hồ Chí Minh, một
chiến lược tổng hòa, biện chững mối quan hệ dân tộc và chủ nghĩa xã hội đầy sáng
tạo và năng động cách mạng, kết thành hạt nhân sáng chói có giá trị trường tồn đối
với dân tộc ta và các dân tộc trên thế giới. Giương cao ngọn cờ độc lập, tự do là tư
tưởng cách mạng, là mục tiêu, là lẽ sống của Hồ Chí Minh, của dân tộc Việt Nam
và nhân dân tiến bộ trên thế giới. Đây là quan điểm cơ bản trong quan điểm của Hồ
Chí Minh về đoàn kết quốc tế. Đúng như Rômét Chanđra, nguyên chủ tịch hòa
bình thế giới, đã đánh giá: “Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập, tự do, ở đó có Hồ

Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hòa bình
và công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Ở bất cứ đâu
nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống lại đói nghèo, ở đó có ngọn cờ Hồ
Chí Minh bay cao.” [25, tr.145]
- Cách mạng giải phóng dân tộc-bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới
trong thời đại mới
Mác và Ăngghen khi nghiên cứu chủ nghĩa tư bản đã đề ra lý luận đấu tranh giai
cấp của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, chỉ rõ sứ mệnh lịch sử toàn thế
giới của giai cấp vô sản. Quan điểm cơ bản của Mác và Ăng ghen cho rằng, chỉ khi
nào giai cấp vô sản ở chính quốc giành được thắng lợi thì mới đem lại sự giải phóng
cho các dân tộc thuộc địa. Trên thực tế, các ông cũng chưa có dịp giải quyết mối
quan hệ giữa cách mạng thuộc địa với cách mạng ở chính quốc.
SVTH: Nguyễn Thị Tú Anh Trang
18
GVHD: Th.s Hồ Thị Quốc Hồng Luận văn tốt nghiệp
Còn Lênin đề ra lý luận cách mạng vô sản có thể thành công ở một số nước,
thậm chí ở một nước tư bản phát triển trung bình, đồng thời nêu nguyên lý về cách
mạng giải phóng dân tộc thuộc địa. Tuy nhiên, Lênin vẫn chưa nêu đầy đủ vai trò
của cách mạng thuộc địa, vẫn cho rằng cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách
mạng ở chính quốc. Như vậy, chủ nghĩa Mác –Lênin đã đặt vấn đề về mối quan hệ
giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc, và chỉ ra rằng, đoàn kết quốc tế
là vấn đề chiến lược của cách mạng vô sản.
Tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng vô sản, về đoàn kết
quốc tế, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ vấn đề đoàn kết quốc tế là vấn đề
chiến lược, đã có những luận điểm đúng đắn và sáng tạo trong việc giải quyết mối
quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng ở chính quốc.
Xác định cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa thuộc phạm trù cách mạng vô
sản là xác định tính tất yếu của cuộc cách mạng này. Hồ Chí Minh là một trong
những người đầuu tiên ở thuộc địa nêu lên kết luận có tính chiến lược này, gắn cách
mạng thuộc địa với cách mạng thế giới. Người không xa rời nhiệm vụ giai cấp,

nhiệm vụ quốc tế, song cũng không bao giờ quên nhiệm vụ dân tộc, mà kết hợp một
cách hài hòa theo yêu cầu, nhiệm vụ của mỗi giai đoạn cách mạng. Ở người không
có sự đối lập giữa dân tộc và quốc tế, mà là sự kết hợp nhuần nhuyễn mục tiêu,
nhiệm vụ cách mạng Việt Nam với mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng thế giới, gắn
cách mạng giải phóng dân tộc thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế
giới.
Quan điểm đó thể hiện Người nắm vững sự thống nhất giữa nhân tố dân tộc
và nhân tố quốc tế trong quá trình đấu tranh cách mạng của các dân tộc thuộc địa.
Quan điểm của Hồ Chí Minh không xem cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào
cách mạng chính quốc, mà đặt hai cuộc cách mạng này trong mối liên hệ, bổ sung,
tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, đều có vị trí quyết định trong quá trình cách mạng
của thời đại. Thậm chí Người cho rằng, Cách mạng thuộc đại có khả năng và điều
kiện nổ ra và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc và giúp cho cách
mạng chính quốc thắng lợi. Quan điểm đó, khẳng định tính giai cấp, tính quốc tế
sâu sắc của cách mạng thuộc địa và tính dân tộc rộng lớn của cách mạng vô sản và
SVTH: Nguyễn Thị Tú Anh Trang
19
GVHD: Th.s Hồ Thị Quốc Hồng Luận văn tốt nghiệp
sự thống nhất tất yếu giữa chúng trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc
thực dân.
- Độc lập tự chủ, tự lực tự cường, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, đem sức
ta giải phóng cho ta.
Quan điểm này của Người xuất hiện rất sớm. Ngay từ sau sự kiện gửi “bản
yêu sách tám điểm” đến Hội nghị “hòa bình” Vecxaay năm 1919 đòi tự do, dân chủ
cho nhân dân Việt Nam nhưng không được trả lời. Thực tế đó, cho Người rút ra kết
luận quan trọng: “muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào
mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”.
Năm 1920, Lênin nêu nhiệm vụ cho Đảng của giai cấp công nhân ở các
nước chính quốc phải tích cực giúp đở cách mạng thuộc đại. Song họ hoàn không
để ý đến thuộc địa và tình trạng “thờ ơ” của giai cấp vô sản chính quốc đối với các

thuộc địa là phổ biến. Tình hình ấy, Hồ Chí minh không thể trông cậy vào sự giúp
đở của cách mạng chính quốc, mà cách mạng thuộc địa phải chủ động, phải tự lực,
đứng lên tự giải phóng. Tuyên ngôn của Hội liên hiệp thuộc địa do Người khởi thảo
có viết: “Anh em phải làm thế nào để giải phóng? Vận dụng công thức của C. Mác,
chúng tôi xin nói với anh em rằng: công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực
hiện được bằng sự nổ lực của chính bản thân anh em”. [25, tr.164]
Nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, Hồ Chí Minh không đồng
tình với tư tưởng ỷ lại trogn chờ vào sự giúp đở quốc tế hoặc mong đợi người khác
làm hộ mình. Tư tưởng của Người là trong khi các dân tộc đoàn kết lại với nhau,
hợp sức cùng đánh đổ kẻ thù chung, thì lại càng phải nêu cao tinh thần nổ lực của
bản thân mỗi nước. Thái độ của Người không phải cầu xin quyền lợi, mà là phải
đấu tranh giành lấy nó, không phải là mong ngóng người khác làm thay mà phải tự
mình làm lấy, phải chủ động trong mọi tình huống.
1.2.2. Quan điểm của Đảng ta về đoàn kết quốc tế
Tập hợp lực lượng cho bất kỳ một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc nào
cũng có hai bình diện: quốc gia và quốc tế. Nếu tranh thủ được sự ủng hộ, liên hiệp
hành động của các lực lượng quốc tế, thì sức mạnh của dân tộc sẽ được tăng lên gấp
bội. Do vây, song song với chủ trương tập hợp sức mạnh dân tộc, Đảng và chủ tịch
Hồ Chí Minh đã hết sức quan tâm tới mặt trận quốc tế của việc tập hợp lực lượng,
SVTH: Nguyễn Thị Tú Anh Trang
20
GVHD: Th.s Hồ Thị Quốc Hồng Luận văn tốt nghiệp
tranh thủ mở rộng đoàn kết và ủng hộ quốc tế cho sự nghiệp đấu tranh của nhân dân
Việt Nam.
Từ những ngày đầu hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh nhận thức một cách
sâu sắc rằng, dù các nước thuộc địa và phụ thuộc có khác nhau về chủng tộc, văn
hóa, trình độ kinh tế…,song có điểm chung có thể tạo nên sự kết hợp giữa các dân
tộc ấy trong phong trào giải phóng dân tộc, đó là nhân dân bản xứ đều bị chủ nghĩa
đế quốc bóc lột nặng nề, “chịu chung một nổi đau khổ, sự tàn bạo ngược đãi của
chế độ thực dân” [29, tr.191]

Do đó, các dân tộc thuộc địa đều nuôi dưỡng một khát vọng cháy bỏng:
muốn thoát khỏi ách nô lệ, an hưởng một nền độc lập, tự do thật sự. Chính vì vậy
trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, Đảng ta đã chủ trương: Ai làm cách
mạng thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả và “trong khi tuyên truyền cái
khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải tuyên truyền và thực hành liên lạc với các
dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp”.[29,
tr.191]
Trong khi nhấn mạnh phải đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, giúp đở, ủng
hộ lẫn nhau, Đảng ta đặc biệt quan tâm tới sự đoàn kết với nhân dân các nước láng
giềng Trung Quốc, Lào, Cao Miên. Các nước láng giềng lân cận này có nhiều yếu
tố gần gũi, thuận lợi, đảm bảo cho việc đoàn kết, kết hợp sức mạnh với Việt Nam.
Đó là phong tục tập quán, tâm lý, lối sống điều kiện địa lý …Điều quan trọng là
hiện tại họ có cùng chung kẻ thù xâm lược, có nhu cầu được giải phóng như dân tộc
Việt Nam, cùng hướng tới độc lập tự do. Đối với các nước Đông Dương, Đảng ta đã
sớm nhận thấy: “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái
gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến…
Sự tàn bạo của chủ nghiã tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghiã xã hội chỉ phải còn
cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi” [28, tr 4-5]. Sự áp
bức bóc lột, đô hộ của các nước đế quốc đã tạo ra cơ sở khách quan để ba nước
Đông Dương hợp tác và đoàn kết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung
vì độc lập, tự do của nước.
Thấm nhuần tư tưởng ấy, Hội nghị trung ương lần thứ Tám của Đảng
(5/1941) đã nhận định: “những dân tộc sống ở Đông Dương đều chịu dưới sự thống
SVTH: Nguyễn Thị Tú Anh Trang
21
GVHD: Th.s Hồ Thị Quốc Hồng Luận văn tốt nghiệp
trị của Pháp-Nhật, cho nên muốn đánh đuổii chúng nó không chỉ dân tộc này hay
dân tộc kia mà đủ, mà phải có một lực lượng thống nhất cả thẩy các dân tộc Đông
Dương hợp lại” [28, tr.7]. Do vậy cùng với việc thành lập Vệt Nam độc lập đồng
minh , Đảng đa đặt vấn đề thành lập Ai Lao độc lập đồng minh và Cao Miên độc

lập đồng minh, trên tinh thần tôn trọng quyền tự quyết của các dân tộc anh em, giải
quyết vấn đề độc lập dân tộc trong khuôn khổ từng nước, “sự tự do, độc lập của
mỗi dân tộc tùy theo ý muốn của mỗi dân tộc”. Hoạt động sáng ngời tinh thần quốc
tế vô sản ấy đã làm cho cách mạng và lực lượng cách mạng của ba nước Đông
Dương càng gắn bó keo sơn, đồng thời có tác dụng thúc đẩy sự đoàn kết, dựa vào
nhau mà tranh đấu. Qua đó, thắng lợi của các nước bạn góp phần củng cố thắng lợi
của cách mạng Việt Nam và mỗi thắng lợi của cách mạng Việt Nam cũng góp phần
vào thắng lợi của cách mạng các nước bạn.
Đối với Trung Quốc, Đảng ta luôn đánh giá đất nước và dân tộc này. Ngay
từ khi Đảng cộng sản Việt Nam mới thành lập, Hồ Chí Minh đã cố gắng tìm kiếm
những cơ hội thiết lập quan hệ giữa Đảng Cộng Sản Việt Nam và Đảng Cộng Sản
Trung Quốc, nhằm phối hợp hành động và giúp đở lẫn nhau, Trên đường trở về tổ
quốc trong khoảng thời gian từ năm 1938-1940, Hồ Chí Minh đã đóng góp không ít
công lao cho phong trào cách mạng Trung Quốc, Người nhận thấy rằng, cùng chung
kẻ thù là Phát xít Nhật, nếu cách mạng Trung Quốc Và cách mạng Việt Nam, tạo
dựng được mối quan hệ chặt chẽ, thì sức mạnh của mỗi dân tộc chống kẻ thù chung
sẽ được tăng lên đáng kể. Hồ Chí Minh phân tích: ủng hộ Trung Quốc, tức là tự
giúp đở mình, vì “một khi chúng (Nhật và TG.) đã thắng được nhân dân Trung
Quốc”, thì chúng sẽ mở rộng sự xâm lược tới các nước châu Á khác, mà “vận
mệnh dân tộc châu Á quan hệ mật thiết với vận mệnh dân tộc Việt Nam”. Soi sáng
bởi tư tưởng đó, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào ( 14-15/8/1945) đã
chỉ thị “Đối với các nước nhược tiểu và dân chúng Tàu và Pháp chúng ta phải liên
lạc và tranh thủ sự giúp đở của hộ” [23, tr.117]
Như vậy, xuyên suốt chặng đường cách mạng Việt Nam giai đoạn 1930-
1945, với mục tiêu độc lập, tự do, Hồ Chí Minh đã có những cống hiếu lớn lao là
tạo lập mối quan hệ đoàn kết bên ngoài vững mạnh giữa các dân tộc bị áp bức, tập
hợp đông đảo nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc vào cuộc đấu tranh chống
SVTH: Nguyễn Thị Tú Anh Trang
22
GVHD: Th.s Hồ Thị Quốc Hồng Luận văn tốt nghiệp

chủ nghĩa đế quốc. Trên cơ sở những kết quả quan trong mà cách mạng Việt Nam
đạt được, thì sự đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, đặc biệt là các dân tộc bị áp bức
láng giềng, chúng ta càng thấy được tính khoa học, tính thực tiễn và sự sáng tạo, sự
nhuần nhuyễn của Hồ Chí Minh, của Đảng trong chủ trương tập hợp lực lượng quốc
tế, tăng cường sức mạnh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc cho nhân dân Việt Nam.
Tư tưởng độc lập, tự do (đoàn kết quốc tế) của Đảng ta là tư tưởng nhất
quán, xuyên suốt trong toàn bộ hoạt động lý luận và thực tiễn của cách mạng, tư
tưởng ấy có xuất phát điểm từ con người, vì con người, vì dân tộc, lấy con người,
lấy dân tộc làm động lực, mục tiêu. Độc lập tự do (đoàn kết quốc tế) là quy luật phát
triển và tồn tại của dân tộc Việt Nam chứa đựng ba yếu tố: giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội và giải phóng con người. Trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, với
điểm nhấn là giai đoạn 1930-1945, Đảng và Hồ Chí Minh đã thực hiện thắng lợi tư
tưởng cách mạng vĩ đại ấy, dựa vào sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc, kết hợp
sức mạnh quốc gia với quốc tế, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt
Nam: Kỷ nguyên độc lập, tự do và phát triển, bắt đầu bằng thắng lợi của cuộc cách
mạng tháng Tám năm 1945.
SVTH: Nguyễn Thị Tú Anh Trang
23
GVHD: Th.s Hồ Thị Quốc Hồng Luận văn tốt nghiệp
Chương 2: Đảng chỉ đạo thực hiện đoàn kết quốc tế
trong cách mạng Việt Nam (1954-1975)
2.1. Đoàn kết quốc tế trong cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954-
1964
2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử
2.1.1.1. Tình hình quốc tế
Bối cảnh quốc tế bao trùm vẫn là chiến tranh, tuy có hòa hoãn bộ phận
nhưng đấu tranh vẫn là chủ yếu, so sánh lực lượng thay đổi có lợi cho các lực lượng
cách mạng, hòa bình. Hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới ngày càng lớn mạnh
về mọi mặt. Thắng lợi của cách mạng Cuba năm 1959 đã mở rộng hệ thống xã hội
chủ nghĩa sang Tây bán cầu, ngay sân sau của Mỹ. Về kinh tế sản lượng công

nghiệp các nước xã hội chủ nghĩa tăng trưởng mạnh, từ chỗ chỉ chiếm 20% sản
lượng công nghiệp thế giới năm 50 đã tăng lên 34% năm 60. Lực lượng quốc phòng
ngày càng hùng hậu. Việc Liên Xô phóng thành công tên lửa đại châu và vệ tinh
nhân tạo đầu tiên của trái đất tháng 10 năm 1957 đã tạo khả năng đánh trả vào nước
Mỹ, đưa đến cuộc “khủng hoảng Xpútních”, mở đầu một giai đoạn cân bằng khí
chiến lược, có lợi cho Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa cũng như thế độc lập dân
tộc, hòa bình xã hội.
Tuy vậy, vào cuối thời kỳ này, khối đoàn kết của các nước xã hội chủ nghĩa
ngày càng rạn nứt, mâu thuẫn Xô-Trung đã nảy sinh nhưng chưa bộc lộ công khai.
Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế xuất hiện khủng hoảng về đường lối.
Phần lớn các quốc gia Á-Phi, sau khi thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực
dân, đã đi theo con đường độc lập, hòa bình, trung lập, chống việc tham gia các liên
minh quân sự, chính trị song phương hoặc đa phương với các nước phương Tây để
gìn giữ nền độc lập của mình.
Mặt dù nhiều nước Tây Âu và Nhật Bản dựa vào sự giúp đở của Mỹ để phục
hồi kinh tế, nhưng bắt đầu chống lại sự khống chế của Mỹ. Những nhân tố tạm thời
buộc Pháp, Anh lệ thuộc vòa Mỹ không còn nhiều tác dụng. Ngược lại Pháp, Anh bị
Mỹ gạt dần ra khỏi Đông Dương, Đông Nam Á và Trung cận Đông…
SVTH: Nguyễn Thị Tú Anh Trang
24
GVHD: Th.s Hồ Thị Quốc Hồng Luận văn tốt nghiệp
Thời kỳ này, tuy gặp khó khăn về kinh tế nhưng các nước phương Tây do
Mỹ khống chế đã hoàn thành các liên minh quân sự. Mỹ đã gạt được ảnh hưởng của
Anh, Pháp ở nhiều địa bàn chiến lược trên thế giới, đặc biệt là ở châu Á- Thái Bình
Dương. Ngày 1/9/1954, Mỹ lôi kéo Ôxtrâylia, Niu Dilân lập khối quân sự Nam
Thái Bình Dương (ANZUS). Ngày 8/9/1954, khối quân sự SEATO được thành lập,
Đông Nam Á trở thành khu vực chiến lược trong việc tranh chấp thuộc đại giữa Mỹ
với đồng minh phương Tây. Với Việt Nam, Mỹ khẳng định quyết tâm can thiệp vào
Việt Nam. Theo thuyết Đôminô, Tổng thống Mỹ Aixenhao (Eisenhower) cho rằng
nếu mất Đông Dương thì sẽ mất cả Đông Nam Á.

Về mặt chiến lược, Mỹ đang gặp rất nhiều khó khăn trong nước và trên thế
giới. Nền kinh tế Mỹ đang ở tình trạng tăng trưởng chậm. Mỹ đã mất ưu thế về hạt
nhân và vũ khí chiến lược, phải đối phó với nhiều thách thức cả bên trong và bên
ngoài. Lực lượng so sánh gữa Mỹ và các nước lớn trong đồng minh phương Tây
cũng bất đầu thay đổi bất lợi cho Mỹ. Chiến lược “trả đũa ồ ạt”, “ngăn chặn chủ
nghĩa cộng sản” và chính sách đối ngoại “bên miệng hố chiến tranh” của Aixenhao
bị phá sản. Mỹ buộc phải đi vào hòa hoãn tạm thời với Liên Xô, Trung Quốc.
Từ sau năm 1950, đi đôi với việc củng cố vị trí của mình ở Tây Bắc Âu và
Tây bán cầu, thao túng nước Nhật, Mỹ quan tâm hơn đến Châu Á và lục địa châu
Phi để thực hiện chiến lược toàn cầu của mình.
Với Việt Nam, Mỹ đã ép Pháp đưa Ngô Đình Diệm về nước làm thủ tướng
Nam Việt Nam. Đồng thời Mỹ đặt Việt Nam, Lào, Campuchia dưới “ô bảo hộ” của
SEATO, lôi kéo Anh, Pháp và một số nước trong khu vực vào việc thực hiện bành
trướng thế lực của Mỹ ở Đông Nam Á. Mỹ tiến hành chia rẽ các nước châu Á,
Đông Nam Á và đe dọa dung vũ lực chống lại xu hướng độc lập dân tộc thật sự
đang dấy lên mạnh mẽ ở khu vực này.
2.1.1.2. Tình hình trong nước
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã dẫn đến thắng lợi của hội nghị Giơnevơ năm
1954 về Đông Dương công nhận chủ quyền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
của Việt Nam. Miền Bắc Việt Nam hoàn toàn được giải phóng.
Ở miền Nam, Mỹ đã hất cẳng Pháp hòng chiến miền Nam nước ta thành
thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng, lập phòng tuyến ngăn chặn làn
SVTH: Nguyễn Thị Tú Anh Trang
25

×