Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Đề tài tình hình phát triển kinh tế ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nguồn nhân lực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.39 KB, 20 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH THÁI NGUYÊN

BÀI THẢO LUẬN
Đề tài: TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT
ĐỘNG QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC

Mơn: QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC
Lớp 02 - Nhóm 01


DANH SÁCH NHÓM
1. NGUYỄN ĐỖ QUYÊN
2. LÂM THU HUYỀN
3. PHẠM THỊ TẬP
4. HÀ HỒNG THÁI SƠN
5. NƠNG VĂN TUẤN


LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một ''tài nguyên đặc biệt''. Bởi
vậy việc quản lý con người, quản lý nguồn nhân lực trở thành mối quan tâm hàng
đầu của mỗi quốc gia. Đó là yếu tố bảo đảm chắc chắn nhất cho sự phồn vinh,
thịnh vượng của đất nước.
Trong xu thế tồn cầu hố kinh tế, sự cạnh tranh giữa các quốc gia trong mọi
lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế ngày càng quyết liệt hơn, gay gắt hơn. Lợi thế
cạnh tranh sẽ thuộc về quốc gia nào có nguồn nhân lực chất lượng cao hơn. Nguồn
nhân lực nói chung, lao động kỹ thuật có chất lượng cao nói riêng đang thực sự trở
thành yếu tố cơ bản trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.
Việt Nam đang bước trên con đường phát triển cơng nghiệp hóa hiện đại hóa,
cùng với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế khi gia nhập WTO, đòi hỏi việc quản


lý nguồn nhân lực phải phù hợp với tình hình phát triển của đất nước. Tuy nhiên,
hiện nay nguồn nhân lực Việt Nam tuy dồi dào về số lượng nhưng lại yếu và thiếu
về chất lượng, mà đây mới là điều có ý nghĩa quan trọng. Nguồn nhân lực Việt
Nam hiện nay chưa có trình độ học vấn cũng như trình độ chuyên môn cao, chưa
đáp ứng được yêu cầu của thị trường và quá trình hội nhập. Vì vậy vấn đề quản lý
nguồn nhân lực sao cho hiệu quả nhất là một vấn đề nóng và bức thiết đặt ra, cần
được giải quyết và cải thiện hiện nay.


PHẦN I: CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN
I. Phát triển kinh tế
Phát triển kinh tế là sự tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự hoàn thiện cơ cấu,
thể chế kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo đảm công bằng xã hội. Là
sự biến đổi kinh tế theo chiều hướng tích cực dựa trên sự biến đổi cả về số lượng,
chất lượng và cơ cấu của các yếu tố cấu thành của nền kinh tế.
Muốn phát triển kinh tế trước hết phải có sự tăng trưởng kinh tế. Nhưng
không phải sự tăng trưởng kinh tế nào cũng dẫn tới phát triển kinh tế. Phát triển
kinh tế đòi hỏi phải thực hiện được ba nội dung cơ bản sau:
- Sự tăng lên của tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân
(GNP) và tổng sản phẩm quốc dân tính theo đầu người. Nội dung này phản ánh
mức độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định.
- Sự biến đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, thể hiện ở tỷ trọng của các
ngành dịch vụ và công nghiệp trong tổng sản phẩm quốc dân tăng lên, cịn tỷ trọng
nơng nghiệp ngày càng giảm xuống. Nội dung này phản ánh chất lượng tăng
trưởng, trình độ kỹ thuật của nền sản xuất để có thể bảo đảm cho sự tăng trưởng
kinh tế bền vững.
- Mức độ thoả mãn các nhu cầu cơ bản của xã hội thể hiện bằng sự tăng lên
của thu nhập thực tế, chất lượng giáo dục, y tế, ... mà mỗi người dân được hưởng.
Nội dung này phản ánh mặt công bằng xã hội của sự tăng trưởng kinh tế.
Với những nội dung trên, phát triển kinh tế bao hàm các yêu cầu cụ thể là:

- Trước hết là sự tăng thêm về khối lượng của cải vật chất, dịch vụ và sự tiến
bộ về cơ cấu kinh tế và đời sống xã hội. Mức tăng trưởng kinh tế phải lớn hơn mức
tăng dân số. Sự tăng trưởng kinh tế phải dựa trên cơ cấu kinh tế hợp lý, tiến bộ để
bảo đảm tăng trưởng bền vững.


- Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với công bằng xã hội, tạo điều kiện cho mọi
người có cơ hội ngang nhau trong đóng góp và hưởng thụ kết quả của tăng trưởng
kinh tế.
- Chất lượng sản phẩm ngày càng cao, phù hợp với sự biến đổi nhu cầu của
con người và xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái.
Tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế gắn liền với q trình cơng nghiệp
hóa và hiện đại hóa của mỗi quốc gia, là bước đi tất yếu của mọi sự biến đổi kinh
tế từ thấp đến cao, theo xu hướng biến đổi không ngừng.
II. Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là nguồn lực về con người, được nghiên cứu dưới nhiều khía
cạnh khác nhau:
- Với tư cách là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội thì nguồn nhân lực
bao gồm toàn bộ dân cư trong xã hội có khả năng lao động.
- Với tư cách là yếu tố của sự phát triển kinh tế - xã hội thì nguồn nhân lực là
khả năng lao động của xã hội.
- Với tư cách là tổng thể cá nhân những con người cụ thể tham gia vào quá
trình lao động thì nguồn nhân lực bao gồm cả yếu tố thể lực và trí lực của những
người từ 15 tuổi trở lên.
Các cách hiểu trên chỉ khác nhau về việc xác định quy mơ nguồn nhân lực,
song đều nhất trí với nhau đó là nguồn nhân lực và cung nói đến khả năng lao động
của xã hội.
Nguồn nhân lực được xem xét trên góc độ số lượng và chất lượng:
- Số lượng nguồn nhân lực được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu quy mô và
tốc độ tăng nguồn nhân lực. Các chỉ tiêu này có quan hệ mật thiết với chỉ tiêu quy

mô và tốc độ tăng dân số. Quy mô dân số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng cao thì
dẫn đến quy mơ và tốc độ tăng nguồn nhân lực càng lớn và ngược lại. Tuy nhiên


có mối quan hệ dân số và nguồn nhân lực được biểu hiện sau một thời gian nhất
định.
- Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện trên các khía cạnh: sức khỏe,
trình độ học vấn, kiến thức, trình độ kỹ thuật và kinh nghiệm tích lũy được, ý thức
tác phong của người lao động.
Từ những quan niệm trên có thể tổng quát lại: Nguồn nhân lực hay nguồn lực
con người bao gồm lực lượng lao động và lao động dự trữ. Trong đó lực lượng lao
động được xác định là người lao động đang làm việc và người trong độ tuổi lao
động có nhu cầu nhưng khơng có việc làm (người thất nghiệp). Lao động dự trữ
bao gồm học sinh trong độ tuổi lao động, người trong độ tuổi lao động nhưng
khơng có nhu cầu lao động.
III. Quản lý nguồn nhân lực
Quản lý nguồn nhân lực được hiểu là các hoạt động của chủ thể quản lý tác
động lên nguồn nhân lựcthông qua một hệ thống các nguyên tắc, quy tắc, phương
pháp, công cụ, … nhất định nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực để đạt được
những mục tiêu nhất định.
Nói cách khác, quản lý nguồn nhân lực là những hoạt động có tính hệ thống
nhằm định hướng, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực một cách hợp lý nhằm đáp
ứng các yêu cầu, mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Vậy, thực chất quản lý nguồn nhân lực là các hoạt động nhằm kế hoạch, tổ
chức, phối hợp chỉ huy và giám sát việc sử dụng nguồn nhân lực sao cho đạt được
hiệu quả cao nhất.
PHẦN II: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ NGUỒN NHÂN
LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
I. Thực trạng phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay
(1) Tạo lập được sự ổn định kinh tế vĩ mô; công tác xố đói giảm nghèo, tăng

việc làm đã đạt được những thành tựu quan trọng: nước ta đã giữ vững ổn định


chính trị và đời sống xã hội, thiết lập các cơ chế chính sách và ổn định kinh tế vĩ
mơ, huy động được nhiều nguồn lực phát triển. Các cân đối lớn trong nền kinh tế
đều được cải thiện.
(2) Cơ cấu kinh tế đã dịch chuyển theo hướng tích cực, phát huy tiềm năng
của từng ngành, từng vùng, từng thành phần kinh tế.
Tỷ trọng các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng nhanh, đóng góp
tích cực vào việc tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp
hố, hiện đại hố.
Các vùng kinh tế đã phát huy được các lợi thế so sánh trong từng vùng, liên
kết nhau cùng phát triển bền vững. Ba vùng kinh tế trọng điểm được hình thành và
phát triển và đã đóng góp trên 60% GDP cả nước. Các vùng khó khăn được sự hỗ
trợ của cả nước, đang từng bước vươn lên, tiếp tục có những bước phát triển khá;
đời sống nhân dân có nhiều cải thiện.
Cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm tỷ lệ lao động trong
sản xuất thuần nông, tăng tỷ lệ lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ.
(3) Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế.
Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập
trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế.
Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới, thực hiện mơ hình cơng ty,
phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh.
Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và
tiềm năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và
phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 38% GDP
của cả nước.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở
thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan



trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thơng quốc tế, đóng góp vào
ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho nhiều người dân.
(4) Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được hình
thành; kinh tế đối ngoại phát triển khá, vị thế của nước ta trên trường quốc tế đã
được nâng cao.
Hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồng bộ. Với chủ trương
tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của Việt Nam với
các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt Nam đã tham gia
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), thực hiện các cam kết về Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, gia
nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), ... Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ
thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định thương mại
song phương với các nước, tạo ra một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế
đối ngoại.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây
dựng và hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế
hóa thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi
trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị
trường tiếp tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát
triển mạnh.
II. Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay
Theo kết quả điều tra dân số đến tháng 12/2010, Việt Nam có gần 87 triệu
người. Điều này phản ánh nguồn nhân lực của Việt Nam đang phát triển dồi dào.
Nguồn nhân lực Việt Nam được cấu thành chủ yếu là nơng dân, cơng nhân, trí
thức, doanh nhân, dịch vụ và nhân lực của các ngành, nghề. Trong đó, nguồn nhân
lực nơng dân có gần 62 triệu người, chiếm hơn 70% dân số; nguồn nhân lực công



nhân là 9,5 triệu người (gần 10% dân số); nguồn nhân lực trí thức, tốt nghiệp từ đại
học, cao đẳng trở lên là hơn 2,5 triệu người, chiếm khoảng 2,15% dân số; nguồn
nhân lực từ các doanh nghiệp khoảng 2 triệu người, trong đó, khối doanh nghiệp
trung ương gần 1 triệu người…. Sự xuất hiện của giới doanh nghiệp trẻ được xem
như một nhân tố mới trong nguồn nhân lực, nếu biết khai thác, bồi dưỡng, sử dụng
tốt sẽ giải quyết được nhiều vấn đề quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội.
Hiện nay ở Việt Nam đang hình thành 2 loại hình nhân lực: nhân lực phổ
thơng và nhân lực chất lượng cao. Nhân lực phổ thông hiện tại vẫn chiếm số đơng,
trong khi đó, nhân lực chất lượng cao lại chiếm tỷ lệ rất thấp. Cái thiếu của Việt
Nam hiện nay không phải là nhân lực phổ thông, mà là nhân lực chất lượng cao.
Theo số liệu thống kê năm 2010, trong số 20,1 triệu lao động đã qua đào tạo trên
tổng số 48,8 triệu lao động đang làm việc, thì chỉ có 8,4 triệu người có bằng cấp,
chứng chỉ do các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước. Số người từ 15 tuổi trở lên
được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật rất thấp, chiếm khoảng 40%. Cơ cấu
đào tạo hiện còn bất hợp lý được thể hiện qua các tỷ lệ: Đại học và trên Đại học là
1, trung học chuyên nghiệp là 1,3 và công nhân kỹ thuật là 0,92; trong khi trên thế
giới, tỷ lệ này là 1 - 4 - 10.
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam đang rất thiếu lao
động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao và chất lượng nguồn nhân
lực Việt Nam cũng thấp hơn so với nhiều nước khác. Nếu lấy thang điểm là 10 thì
chất lượng nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm (xếp thứ 11/12 nước Châu Á
tham gia xếp hạng của WB) trong khi Hàn Quốc là 6,91; Ấn Độ là 5,76; Malaysia
là 5,59; Thái Lan là 4,94; ...
Cơ cấu phân bổ lao động theo ngành nghề cũng mất cân đối. Các ngành kỹ
thuật - công nghệ, nông - lâm - ngư nghiệp ít và chiếm tỉ trọng thấp, trong khi đó
các ngành xã hội luật, kinh tế, ngoại ngữ, ... lại q cao. Nhiều ngành nghề, lĩnh
vực có tình trạng vừa thừa vừa thiếu nhân lực.



PHẦN III: ẢNH HƯỞNG CỦA PHÁT TRIỂN KINH TẾ TỚI HOẠT
ĐỘNG QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC
I. Ảnh hưởng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế tới hoạt động quản lý nguồn
nhân lực
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quản lý nguồn nhân lực có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, thực hiện quy hoạch
phát triển trên các vùng lãnh thổ sẽ tạo ra nhu cầu lớn, thu hút nhiều lao động, đòi
hỏi phải chuyển dịch cơ cấu lao động và tổ chức điều chỉnh phân bố lao động.
Việc xây dựng những cơng trình kinh tế lớn của quốc gia, mở mang và nâng
cấp hệ thống hạ tầng cơ sở vật chất, xây dựng và phát triển các khu kinh tế với
những mơ hình thích hợp ở các vùng chậm phát triển, tăng cường các hoạt động
đầu tư nước ngoài và liên doanh liên kết rộng với các cơ sở kinh tế địa phương, …
đều tạo khả năng thu hút nguồn lao động lớn và đặt ra yêu cầu lớn về quản lý
nguồn nhân lực.
Nhu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ
sang công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu lao động
theo hướng giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp từ 70% năm 2000 xuống 50% vào
năm 2010 và nâng tỷ trọng lao động trong các ngành cơng nghiệp, dịch vụ. Nhưng
trong đó địi hỏi phải có sự thay đổi về cơ cấu lao động được đào tạo theo ngành và
trình độ phù hợp với định hướng phát triển kinh tế. Rõ ràng chuyển dịch cơ cấu
kinh tế như phân tích đã đặt ra những thách thức đối với nguồn nhân lực và do đó
trực tiếp tác động tới quản lý nguồn nhân lực cả về quy mơ, cơ cấu và trình độ
cũng như việc phân bổ, khai thác sử dụng hợp lý nguồn nhân lực trong q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
II. Ảnh hưởng của trình độ trang thiết bị kỹ thuật trong sản xuất kinh
doanh tới hoạt động phát quản lý nguồn nhân lực


Cùng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, các trang thiết bị kỹ
thuật trong sản xuất và kinh doanh cũng ngày càng thay đổi theo hướng hiện đại,

do đó địi hỏi phải có nguồn nhân lực phù hợp để có thể sử dụng hiệu quả các trang
thiết bị hiện đại, nâng cao hiệu quả đầu tư; sau đó tiếp tục nghiên cứu và ứng dụng
một cách sáng tạo các thiết bị công nghệ mới.
Thực tế cho thấy, đầu tư xây dựng cơ bản dù tăng nhưng thiếu người lao động
và thiếu sự đồng bộ giữa trình độ cơng cụ lao động với trình độ chun mơn của
người lao động thì hiệu quả lao động khơng cao, gây lãng phí vốn đầu tư trong xã
hội. Tính đồng bộ giữa trình độ cơng nghệ cao với trình độ kỹ thuật và cơng nhân
lành nghề địi hỏi hoạt động quản lý phải đáp ứng đủ và đúng chuyên mơn, ngành
nghề để có thể làm chủ các cơng nghệ mới.
Trong xu thế hội nhập hiện nay, muốn nhập khẩu công nghệ cao hơn phải tổ
chức đào tạo nguồn nhân lực tốt hơn; đã có rất nhiều bài học về sự thất bại khi một
nước sử dụng công nghệ ngoại nhập trong khi trình độ chun mơn người lao động
trong nước còn non yếu. Nếu thiếu các chuyên gia giỏi về khoa học công nghệ và
quản lý, thiếu đội ngũ kỹ thuật viên và cơng nhân lành nghề thì khơng thể ứng
dụng được cơng nghệ mới, do đó phải đào tạo nguồn nhân lực.
Việc đào tạo nguồn nhân lực không chỉ đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng
mà còn phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng sao cho việc sắp xếp, phân cơng đó phải đảm
bảo sự hợp lý, đúng người đúng việc.
III. Ảnh hưởng của hội nhập kinh tế quốc tế và tồn cầu hóa tới hoạt
động quản lý nguồn nhân lực
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tồn cầu hóa hiện nay gắn kiền với nền
kinh tế tri thức, yếu tố con người được phát huy hơn bao giờ hết. Tính chất hội
nhập kinh tế quốc tế, tồn cầu hóa trong sản xuất và cạnh tranh của các quốc gia
ngày càng đi vào chiều sâu, nền kinh tế tri thức với động lực là sự tiến triển không
ngừng của khoa học kỹ thuật và công nghệ ngày càng phát triển.


Lao động đơn giản ngày càng giảm ý nghĩa trong sản xuất và cạnh tranh mang
tính tồn cầu. Năng lực và tư chất mới là điều quyết định vị trí mỗi con người. Hội
nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, tồn cầu hóa ngày càng phát triển, thì các

thị trường ngày càng mở rộng, thương mại ngày càng tự do. Sức ép cạnh tranh của
mỗi nền kinh tế, mỗi cá nhân cũng ngày càng tăng cao.
Trước đây, giá công nhân rẻ là lợi thế của các nền kinh tế đang phát triển,
trong đó có Việt Nam, để thu hút vốn đầu tư nước ngoài và xuất khẩu lao động.
Nhưng ngày nay, lợi thế ấy đang ngày càng mất đi. Trong bối cảnh khả năng tiếp
cận với khoa học công nghệ hiện đại của mỗi nền kinh tế là như nhau, yếu tố cạnh
tranh chủ yếu nằm ở khả năng quản lý nguồn nhân lực. Bởi vậy, việc không ngừng
nâng cao tính cạnh tranh của nguồn nhân lực đang trở thành cuộc chạy đua giữa
các nền kinh tế. Có thể nói hội nhập kinh tế quốc tế và tồn cầu hóa đang tạo ra
yêu cầu, động lực và điều kiện phát triển nguồn nhân lực, đào tạo và nâng cao tay
nghề chuyên môn kỹ thuật.
Hội nhập kinh tế quốc tế và q trình tồn cầu hóa kích thích sự phát triển
nhanh chóng của khoa học cơng nghệ địi hỏi người lao động phải khơng ngừng
nâng cao trình độ để thao kịp yêu cầu của công việc, của cuộc sống. Tồn cầu hóa
tạo điều kiện cho người lao động nhanh chóng tiếp cận được thơng tin, tri thức
mới, nâng cao dân trí.
PHẦN IV: VÍ DỤ THỰC TIỄN CHỨNG MINH
I. Thành tựu đã đạt được
Kinh tế tăng trưởng và phát triển liên tục. Năm 2007 – năm đầu tiên là thành
viên của WTO, chỉ số tăng trưởng GDP là 8,5%, của xuất khẩu 20,5%, thu hút FDI
tăng 17%. Năm 2007, Việt Nam được UNDP đánh giá là nước thứ 6 trong “top
ten” của thế giới về thu hút FDI cho các năm 2008 - 2009 (sau Trung Quốc, Mỹ,
Ấn độ, Nga, Brazil), xếp hạng môi trường kinh doanh được nâng cấp lên 13 bậc,
… Nhờ GDP tính theo đầu người tăng gấp 4 lần so với trước đổi mới, nên đời sống


của nhân dân nhìn chung được nâng cao rõ rệt. Việc Việt Nam ngày 16/10/2007
được bầu làm thành viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc khóa
2008 - 2009 cho thấy vị thế Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng
cao.

Theo số liệu của Tổng cục thống kê, từ năm 2000 đến nay, đầu tư toàn xã hội
ước chừng chiếm khoảng 30 – 40% GDP/năm, so với chỉ số tăng trưởng của những
năm này ta có chỉ số ICOR hàng năm là xấp xỉ 5 hoặc <5, nghĩa là quá cao; lẽ ra
chỉ số này chỉ nên là 3 – 3,5 so với mức tăng trưởng. Nói cách khác, với tổng đầu
tư hàng năm như thế cho thấy tốc độ tăng trưởng và hiệu quả chung của nền kinh tế
là dưới khả năng cho phép, kết cấu hạ tầng vẫn phát triển rất chậm; thực trạng này
có nguyên nhân quan trọng liên quan đến chất lượng nguồn nhân lực nước ta.
Giáo dục, đào tạo, và khoa học phát triển mạnh, góp phần quan trọng vào
những thành tựu của đất nước đã nêu trên. Nhìn chung chất lượng nguồn nhân lực
được nâng cao hơn trước, thể hiện rõ nét nhất ở năng suất lao động của toàn xã hội
đã thay đổi hẳn cục diện phát triển kinh tế nước ta kể từ khi tiến hành đổi mới, tạo
ra tốc độ tăng trưởng kinh tế đứng thứ nhì thế giới trong những năm gần đây, trình
độ giáo dục phổ cập và số lượng học sinh, lực lượng lao động có đào tạo, số người
tốt nghiệp các bậc học tăng nhanh so với nhiều nước, đặc biệt trong vịng 10 năm
1993 - 2002 tỷ lệ đói nghèo giảm còn một nửa (từ 57% xuống còn 28%).
II. Đánh giá chất lượng nguồn nhân lực
Nếu so kết quả đạt được với cơng sức bỏ ra, có lẽ phải nói lãng phí phạm phải
trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo và phát triển con người là tổn thất lớn nhất so với
bất kỳ lãng phí nào khác đã phạm phải trong 22 năm đổi mới, với nhiều hệ quả lâu
dài nhất.
Một là, chất lượng nguồn nhân lực và năng suất lao động so với các nước
chung quanh, khoảng cách phát triển không thu hẹp được bao nhiêu; nếu lấy chỉ số
thu nhập tính theo đầu người làm thước đo chung nhất, khoảng cách này có xu


hướng tăng rộng thêm. Sau 20 năm đổi mới GDP danh nghĩa tính theo đầu người
năm 2006 tăng gấp 4 lần năm 1986. Số liệu này khẳng định tất cả những gì đã làm
được.
Tuy nhiên, theo số liệu thống kê của IMF năm 2006: GDP danh nghĩa tồn thế
giới tính theo đầu người năm 2005 là 7263 USD, của Việt Nam là 650 USD, gần

bằng 9% mức của thế giới – nghĩa là khoảng cách của nước ta so với thế giới là rất
lớn.
So sánh với các nước láng giềng chung quanh, cùng nguồn thống kê nêu trên
cho thấy: Mặc dù gần một thập kỷ liên tiếp Việt Nam có tốc độ tăng trưởng đứng
thứ hai thế giới sau Trung Quốc, nhưng GDP danh nghĩa tính theo đầu người của
Việt Nam năm 2005 bằng 33% của Trung Quốc (1940 USD); 2,1% Singapore
(29765 USD); 3,6% Hàn Quốc (17865 USD); 4,2% Đài Loan (15387 USD); 12%
Malaysia (5376 USD); 21% Thái Lan (2993 USD); 43% Indonesia (1500 USD); và
50% Philippines (1278 USD).
Năm 1986 – năm bắt đầu công cuộc đổi mới – thu nhập theo đầu người của ta
kém Trung Quốc 200USD, kém Thái Lan 997 USD, kém Malaysia 1950 USD,
kém Indonesia 550 USD, kém Philippines 440 USD, kém Hàn Quốc 6940 USD…
Cũng so sánh như vậy, năm 2006 thu nhập của ta kém Trung Quốc 1100 USD,
Thái lan 2140 USD, Malaysia 4520 USD, Indonesia 750 USD, Philippines 420
USD, Hàn Quốc 17.000 USD… Nghĩa là khoảng cách thu nhập của ta so với
những nước này đang ngày càng rộng ra!
Hai là, khả năng phát triển kinh tế theo chiều rộng đã tới mức trần, nước ta
đứng trước đòi hỏi phải bằng mọi cách chuyển từ lợi thế so sánh dựa trên lao động
giá rẻ, nhờ cậy vào tài nguyên và môi trường sáng tạo ra lợi thế cạnh tranh chủ yếu
dựa trên phát huy nguồn lực con người. Ngay trước mắt, thời cơ đang đem lại cho
đất nước khả năng đột phá sang một giai đoạn phát triển mới, có thể khắc phục tình
trạng tụt hậu. Song nước ta đang vấp phải 3 trở lực lớn: chất lượng còn thấp về


nguồn nhân lực, sự bất cập lớn của kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuât, thể chế và
năng lực quản lý hẫng hụt nhiều mặt.
Trong các chuyến đi thăm chính thức các nước phát triển của Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng trong năm 2007, Việt Nam được các nước chủ nhà coi là đối tác
đầy triển vọng, những cơng trình hợp tác kinh tế được ghi nhớ lên tới nhiều chục tỷ
USD, nhiều cơng trình đầu tư lớn, dự án lớn được được cam kết ở mức sâu hơn

trên những lĩnh vực quan trọng – nghĩa là chỉ còn chờ phía ta bật đèn xanh để đi
vào đàm phán cụ thể: phát triển hệ thống đường xá toàn quốc, phát triển ngành
hàng không, mở rộng khả năng sản xuất nhiệt điện (vấn đề điện năng lượng hạt
nhân đang được đề cập), phát triển tồn diện ngành dầu khí, phát triển những khu
cơng nghệ cao, phát triển thị trường tài chính, phát triển thị trường địa ốc, mở rộng
ngành công nghiệp du lịch, …
Lần đầu tiên nước ta đứng trước tình hình khơng thiếu vốn và cơ hội, có nhiều
dự án lớn, nhưng lại thiếu trầm trọng năng lực quy hoạch và quản lý, thiếu trầm
trọng nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng những dự án lớn này. Tiến độ
nhiều dự án lớn đã triển khai thường chậm một, hai năm so với kế hoạch hoặc hơn
nữa. Trên hết cả, khoảng 2/3 GDP của nước ta dành cho xuất khẩu, cạnh tranh
hàng giá rẻ với chất lượng thấp và dịch vụ thấp ngày càng khơng cịn đất sống
trước những làn sóng hàng hóa rẻ Trung Quốc khắp thế giới, chỉ cịn một con
đường cạnh tranh bằng hàng hóa chất lượng cao và dịch vụ cao. Trong khi đó cơ
hội khơng biết chờ đợi. Nói riêng về điện: năm 2006 ta thiếu 1,1tỷ kwh; năm 2007
thiếu 6,6 tỷ kwh, năm 2008 thiếu 8,6 tỷ kwh, mọi kế hoach sản xuất điện EVN đã
cam kết với Chính phủ đều chậm vài năm, thế nhưng từ nhiều năm nay không một
dự án đầu tư nhiệt điện nào của nước ngoài dù khả thi về mọi mặt, kể cả dự án
BOT, có thể vào Việt Nam; một ví dụ này nói lên nhiều điều.
Phải chăng đất nước đứng trước một nghịch cảnh: Kinh tế phát triển mạnh và
cơ hội đang đến với đất nước rất lớn, nhưng trong khi đó giáo dục – đào tạo – khoa


học và vấn đề phát triển nguồn nhân lực nói chung sau thời kỳ giành được những
một số thành tựu ban đầu theo xu hướng phát triển đại trà, ngày nay đang đi tới
một điểm nóng, với nhiều hệ quả trầm trọng. Trong phát triển con người và nguồn
nhân lực, nhiều yếu kém và tiêu cực tích tụ lâu năm đang dồn nén lại thành nguy
cơ có thể làm cho đất nước bó tay trước cơ hội lớn. Bản thân ngành giáo dục - đào
tạo – khoa học, và nhìn chung là toàn hệ thống phát triển nguồn nhân lực đang có
nguy cơ rơi vào khủng hoảng: đào tạo nhiều mà dùng được ít, số người được đào

tạo thất nghiệp cao, chi phí của tồn xã hội q lớn so với những gì gặt hái được,
có nhiều hậu quả lớn phải xử lý tiếp (ví dụ vấn đề đào tạo lại, việc bố trí người
khơng đúng việc, khơng chuẩn bị kịp cho các bước phát triển tiếp theo của đất
nước, phát sinh bộ máy cồng kềnh khiến cho quan liêu tham nhũng không thể tránh
được, …). Đất nước đứng trước tình hình: khơng đẩy nhanh phát triển giáo dục,
đào tạo và khoa học thì bất cập, đẩy nhanh thì thiếu nhiều nguồn lực, đẩy nhanh
theo hướng đang làm sẽ có thể đi tới đổ vỡ lớn hơn, hướng đúng là gì chưa rõ, ý
kiến đang rất khác nhau.
III. Cơng sức bỏ ra cho quản lý nguồn nhân lực
Trên thực tế, tính theo thu nhập trên đầu người, Việt Nam có lẽ là nước có tỷ
lệ chi cho giáo dục cao nhất thế giới: trung bình khoảng 8% GDP/năm, ở Mỹ mới
chỉ là 6%, Trung Quốc là 2,7%; nếu tính theo thu nhập của hộ gia đình tỷ lệ chi
cho giáo dục ở nước ta còn cao hơn nữa. Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và
đào tạo năm 2000 là 11,5%, năm 2005 là 13%, năm 2007 là 20%, nhiều quốc gia
mơ tưởng chỉ số này dành cho giáo dục của họ. Gần đây cịn có nhiều quyết sách
khác về tài chính – kể cả việc cho sinh viên vay tiền ngân hàng để chi cho học tập
– hỗ trợ việc phát triển giáo dục. Nghĩa là cả nước nỗ lực rất lớn cho phát triển
giáo dục nói riêng và nguồn nhân lực nói chung.


Thực trạng hiện nay: Báo cáo khảo sát “200 doanh nghiệp top của Việt Nam”
của UNDP – Hà Nội xuất bản tháng 9/2007 cho biết: Qua phỏng vấn, các chủ
doanh nghiệp Việt Nam đều cho rằng:
- Họ phải đào tạo lại hầu hết mọi người ở mọi cấp bậc – học nghề, đại học,
sau đại học - mà họ nhận vào doanh nghiệp của mình.
- Họ khơng tin tưởng vào hệ thống đại học và các viện nghiên cứu trong
nước, vì chất lượng giảng dạy thấp; nội dung thấp và lạc hậu; khả năng nghiên cứu
nghèo nàn; sách vở và thiết bị đều thiếu, không đồng bộ, cũ kỹ, rất yếu về ngoại
ngữ, năng lực tổ chức và quản lý thấp, …
IV. Tình hình chung nguồn nhân lực của nước ta hiện nay

Sau 30 năm cơng nghiệp hóa, vẫn cịn khoảng 70% lao động cả nước trong
lĩnh vực nông nghiệp; tỷ lệ học sinh trên triệu dân, tỷ lệ số trường các loại trên
triệu dân, tỷ lệ số trường đại học trên triệu dân; tỷ lệ tốt nghiệp đại học trên triệu
dân, tỷ lệ có học vị tiến sỹ trên triệu dân của nước ta đều cao hơn tất cả các nước
có mức thu nhập bình qn theo đầu người tương đương như Thái Lan, nhưng chất
lượng đang có nhiều vấn đề. Điều tra của Bộ giáo dục và đào tạo năm 2006 cho
thấy cả nước có tới 63% số sinh viên ra trường khơng có việc làm, 37% số cịn lại
có việc làm thì hầu hết phải đào tạo lại và có nhiều người khơng làm đúng nghề
mình đã học, trong khi đó nhiều doanh nghiệp, kể cả những doanh nghiệp có FDI
và nhiều dự án kinh tế quan trọng khác rất thiếu lực nguồn lực chuyên nghiệp.
Khoảng 2/3 số người có học vị tiến sỹ trong cả nước không làm khoa học mà đang
làm công tác quản lý; số bài báo khoa học được công bố hàng năm chỉ bằng
khoảng ¼ của Thái Lan và bằng 0,00043% của thế giới, mặc dù số tiến sỹ của ta
hàng năm nhận bằng thường nhiều hơn của Thái Lan, có năm cao gần gấp đôi, …
Nguồn nhân lực nước ta trẻ (tính theo tuổi đời trung bình – một ưu thế lớn),
đơng (một ưu thế lớn khác, nước có dân số đứng thứ 13 trên thế giới), nhưng tỷ lệ
tính trên triệu dân của số người có nghề và có trình độ chuyên môn rất thấp so với


tất các nước trong nhóm ASEAN 6 và Trung Quốc; số cán bộ kỹ thuật và có trình
độ quản lý cao rất ít so với dân số cũng như so với quy mô nền kinh tế.
Nền tảng khoa học để phát triển các đội ngũ nguồn nhân lực nước nhà được
giáo sư Phạm Duy Hiển đánh giá khái quát: “Với năng lực KHCN như hiện nay,
làm sao Việt Nam có thể trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào
năm 2020?”
Theo điều tra của Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2005: Nguồn nhân lực Việt
Nam về chất lượng được xếp hạng 53 trên 59 quốc gia được khảo sát, song mất cân
đối nghiêm trọng:
- Ở Việt Nam cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học có 1,16 cán bộ tốt nghiệp trung
cấp và 0,92 công nhân kỹ thuật, trong khi đó tỷ lệ này của thế giới là 4 và 10.

- Ở Việt Nam cứ 1 vạn dân có 181 sinh viên đại học, trong khi đó của thế
giới là 100, của Trung Quốc là 140 mặc dù mức thu nhập quốc dân tính theo đầu
người của Trung Quốc khoảng gấp đôi của nước ta, …
Tác động sâu xa và lâu dài về mặt văn hóa của những tiêu cực trong lĩnh vực
giáo dục làm nhiều giá trị cao quý bị mai một, với nhiều di chứng khó sửa: suy
nghĩ lệch lạc về cái học trở thành hiện tượng xã hội phổ biến; tư tưởng bằng cấp,
tình trạng chạy trường chạy điểm, bằng thật học giả, gian lận, nói dối, ... tràn lan;
bệnh hình thức và thành tích chủ nghĩa để lại nhiều hậu quả trầm trọng; giác ngộ ý
thức làm chủ bản thân và vai trò chủ nhân của đất nước bị hạn chế; tình trạng dạy
và học nhồi sọ cản trở đáng kể sự phát triển của mỗi cá nhân cũng như của của đất
nước, chẳng những khơng khuyến khích tự do tư duy sáng tạo mà còn ảnh hưởng
đến khả năng đề kháng sự sùng ngoại; trong xã hội không hiếm tư tưởng làm th,
khơng hiếm hiện tượng vùi dập và bỏ phí người tài... Tất cả những yếu kém này
vừa đang cản trở khả năng phấn đấu của từng cá nhân, vừa tiếp tục khoét sâu các
mặt suy yếu của xã hội, của đất nước.


KẾT LUẬN
Việc quản lý nguồn nhân lực ngày nay không chỉ đơn thuần tăng số lượng lao
động như lâu nay thường làm: mở thêm các trường, các cơ sở đào tạo nghề, cải tiến
nội dung dạy, đổi mới chính sách lao động tiền lương, cải tiến cơng tác cơng đồn,
phổ biến kỹ thuật nông nghiệp cho nông dân, … Đây chỉ là một khía cạnh nhất
định của nhiệm vụ quản lý nguồn nhân lực đối với những bộ phận nhất định người
lao động trong cộng đồng dân cư của đất nước.
Đặt vấn đề với cách nhìn tồn diện, có nghĩa phải đồng thời và từng bước làm
rất nhiều việc khác – ví dụ như giảm biên chế, bổ túc và đào tạo lại đội ngũ cán bộ
viên chức các cấp, mở rộng và nâng cao đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý,
người làm chính sách, đổi mới chính sách để phát huy con người và dùng người…
Quản lý nguồn nhân lực hiển nhiên đòi hỏi phải đồng thời đổi mới triệt để
toàn xã hội hướng thiện - theo những giá trị chân chính – ví dụ, để có một mơi

trường xã hội trọng cơng bằng, kỷ cương, đạo đức; pháp luật được coi làm chuẩn
mực; xã hội trở thành xã hội học tập..; tất cả theo nghĩa muốn có nguồn nhân lực
nào thì cũng phải đồng thời tạo ra mơi trường này, văn hóa phải trở thành linh hồn
dẫn dắt sự phát triển.
Như vậy khơng thể có vấn đề quản lý nguồn nhân lực riêng lẻ tách rời khỏi
đời sống chung quanh - như trong một xã hội chân khơng, mà phải nhìn thẳng vào
thực tế: Xã hội nào thì nguồn nhân lực nấy, muốn có cái này tốt, cái kia cũng phải
làm cùng tốt theo, tất cả phải trên nền văn hóa – dân tộc – dân chủ, tất cả phải hội
nhập vào bước đi chung của toàn cầu.




×