Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

Giáo trình Chăm sóc sức khỏe tâm thần Phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1019.71 KB, 43 trang )

MỤC LỤC

Bài 1: Khái niệm về bệnh tâm thần………………………………………..Trang 2
Bài 2: Theo dõi-chăm sóc các trường hợp cấp cứu tâm thần……………...Trang 12
Bài 3: Phụ giúp bác sĩ khám và làm liệu pháp chữa bệnh tâm thần….........Trang 21
Bài 4: Nguyên tắc dùng thuốc cho người bệnh tâm thần………………….Trang 31
Bài 5: Chăm sóc người bệnh hysteria……………………………………..Trang 37
Bài 6: Chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt…………………………..Trang 44
Bài 7: Chăm sóc người bệnh động kinh…………………………………...Trang 51
Bài 8: Chăm sóc người bệnh rối loạn tâm thần……………………………Trang 58
Bài 9: Chăm sóc người bệnh tâm thần tại cộng đồng……………………..Trang 64
Bài 10: Quản lý-theo dõi-hỗ trợ người bệnh tâm thần…………………….Trang 70
Bài 11: Vệ sinh-phòng bệnh tâm thần……………………………………..Trang 76
Tài liệu tham khảo…………………………………………………………Trang 81

1


KHÁI NIỆM VỀ BỆNH TÂM THẦN
MỤC TIÊU HỌC TẬP
1. Trình bày được đại cương về tâm thần học và phân biệt bệnh tâm thần với
bệnh thần kinh.
2. Kể được các nguyên nhân và các nhân tố thuận lợi gây phát sinh bệnh tâm
thần.
3. Mô tả được các bệnh tâm thần thường gặp và cách nhận định tình trạng
bệnh nhân.

NỘI DUNG
1. Đại cương về tâm thần học
1.1 Mục tiêu và đối tượng của tâm thần học
- Sức khoẻ cho mọi người là mục tiêu lớn, mục tiêu chiến lược của tổ chức y tế


thế giới (WHO), của nhiều quốc gia phát triển và của cả ngành y tế nước ta và
cũng là thước đo chung của mọi xã hội văn minh, nhân bản.
- Không thể chia cắt sức khoẻ thể chất với sức khoẻ tâm thần xã hội và ngày càng
phải khẳng định vai trò quan trọng của sức khoẻ tâm thần trong một nỗ lực chung
để nâng cao chất lượng sống cho mọi người trong một xã hội phát triển.
2


- Chính vì vậy, đối tượng của tâm thần học ngày nay khơng chỉ đóng khung trong
khn khổ bốn bức tường của bệnh viện - chỉ tập trung vào những người bệnh tâm
thần nặng như người bệnh tâm thần phân liệt, rối loạn cảm xúc lưỡng cực, sa sút
trí tuệ,… thuộc phạm vi tâm thần học truyền thống. Mà tâm thần học hiện đại đang
phải bươn trải để phấn đấu vì sức khoẻ tồn diện cả thể chất và tâm thần - vì sự
thoải mái cho tất cả mọi người sống trong cộng đồng.

Với phương châm “Tất cả vì sức khỏe tâm thần và vì người bệnh tâm thần”
1.2 Khái niệm về sức khỏe tâm thần
Trong khi sức khoẻ về thể chất đã được dần từng bước xã hội đặt đúng vào vị
trí của nó, thì sức khoẻ tâm thần còn phải bền bỉ phấn đấu để thay đổi dần nhận
thức vẫn còn nhiều lệch lạc, nhiều mặc cảm. Vậy sức khoẻ tâm thần là gì?
Sức khoẻ tâm thần khơng chỉ là một trạng thái khơng có rối loạn hay dị tật về
tâm thần, mà còn là một trạng thái tâm thần hồn tồn thoải mái. Muốn có một
trạng thái tâm thần hồn tồn thoải mái thì cần phải có chất lượng ni sống tốt, có
được sự cân bằng và hồ hợp giữa các cá nhân, mơi trường xung quanh và môi
trường xã hội. Như vậy, thực chất sức khoẻ tâm thần ở cộng đồng là:
1. Một cuộc sống thật sự thoải mái.
2. Đạt được niềm tin vào giá trị bản thân, vào phẩm chất và giá trị của người
khác.
3. Có khả năng ứng xử bằng cảm xúc, hành vi hợp lý trước mọi tình huống.
4. Có khả năng tạo dựng, duy trì và phát triển thoả đáng các mối quan hệ.


3


5. Có khả năng tự hàn gắn để duy trì cân bằng khi có các sự cố gây mất thăng
bằng, căng thẳng (Tổ chức y tế thế giới. Geneva - 1998).
Vậy là chăm sóc bảo vệ sức khoẻ tâm thần cho mọi người là một mục tiêu rất
cụ thể, mang tính xã hội, nhưng cũng rất cao, rất lý tưởng và phải phấn đấu liên
tục để tiến dần từng bước, cuối cùng đạt được mục tiêu “Nâng cao chất lượng cuộc
sống” của con người Việt Nam.
1.3 Nội dung của tâm thần học
- Tâm thần là một bộ môn trong y học, có nhiệm vụ nghiên cứu các biểu hiện lâm
sàng, bệnh nguyên, bệnh sinh các bệnh tâm thần, nghiên cứu các biện pháp phòng
và chữa các bệnh này.
- Tâm thần học được chia ra 2 phần lớn: tâm thần học đại cương và tâm thần học
hiện đại.
- Trong quá trình phát triển, tâm thần học đã chia ra nhiều phân môn: tâm thần học
người lớn, tâm thần trẻ em, tâm thần học quân sự, tâm thần học người già, giám
định pháp y tâm thần, tâm thần học xã hội, dược lý tâm thần và sinh hóa tâm
thần…….
1.3.1 Tâm thần học truyền thống
 Tâm thần học đại cương
- Lịch sử phát triển tâm thần học.
- Triệu chứng học, hội chứng học.
- Mối liên quan giữa tâm thần học và các môn khoa học khác.
- Phân loại các bệnh, các rối loạn tâm thần.
- Bệnh nguyên, bệnh sinh của một số bệnh và các rối loạn tâm thần.
- Tâm thần học xuyên văn hoá.
 Bệnh học tâm thần
- Loạn thần thực tổn (rối loạn tâm thần liên quan các bệnh nội tiết, chấn thương,

thoái triển não: Alzheimer, Pick,…).
- Loạn thần nội sinh (tâm thần phân liệt, động kinh, rối loạn cảm xúc,…)
- Các rối loạn tâm thần liên quan đến stress (tâm căn, rối loạn cơ thể tâm sinh,
trạng thái phản ứng).
- Các rối loạn tâm thần do cấu tạo thể chất bất thường và sự phát triển tâm thần
bệnh lý (nhân cách bệnh, chậm phát triển tâm thần,…).
- Các rối loạn tập tính hành vi ở thanh thiếu niên (hành vi bạo lực, xâm phạm, rối
loạn sự học tập,...).
- Rối loạn ăn uống.
- Loạn chức năng tình dục khơng thực tổn.
- Các rối loạn lo âu, ám ảnh sợ.
- Các rối loạn phân định giới tính.

4


- Lạm dụng và nghiện chất (lạm dụng rượu, nghiện rượu, loạn thần do rượu, lạm
dụng ma tuý, nghiện ma tuý, thuốc lá, ...).
1.3.2 Tâm thần học hiện đại
 Tâm thần học truyền thống
 Tâm thần học cộng đồng
- Vệ sinh phòng bệnh và các rối loạn tâm thần.
- Tâm thần học xã hội (nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường, đặc biệt môi trường
tâm lý xã hội và sức khoẻ tâm thần).
- Giáo dục sức khoẻ tâm thần cho gia đình, nhà trường và cộng đồng.
- Phục hồi chức năng tâm lý xã hội.
- Các hình thái hoạt động rèn luyện thể chất, thẩm mỹ.
- Các kỹ năng ứng xử, giao tiếp.
1.4 Thế nào là bệnh tâm thần
- Là những bệnh do hoạt động của não bộ bị rối loạn do nhiều nguyên nhân khác

nhau gây ra: nhiễm khuẩn, nhiễm độc, sang chấn tâm thần, bệnh cơ thể…..làm rối
loạn chức năng phản ánh thực tại. Các quá trình cảm giác, tri giác, tư duy, ý
thức…….bị sai lệch cho nên bệnh nhân tâm thần có những ý nghĩ, cảm xúc, hành
vi, tác phong không phù hợp với thực tại, với môi trường xung quanh.
- Phạm vi các bệnh tâm thần rất rộng. Bệnh tâm thần là loại bệnh rất phổ biến,
công nghiệp ngày càng phát triển, sự tập trung dân cư vào các thành phố ngày
càng đông, cuộc sống ngày càng căng thẳng thì bệnh ngày càng tăng. Có những
bệnh tâm thần nặng (các bệnh loạn thần), quá trình phản ánh thực tại sai lệch trầm
trọng, hành vi, tác phong bị sai lệch nhiều. Có những bệnh nhân tâm thần nhẹ (các
bệnh tâm căn, nhân cách bệnh), quá trình phản ánh thực tại cũng như hành vi tác
phong rối loạn ít, bệnh nhân vẫn cịn có thể sinh hoạt, lao động, học tập được, tuy
có giảm sút.
- Bệnh tâm thần thường không gây chết đột ngột nhưng làm đảo lộn sinh hoạt, gây
căng thẳng cho các thành viên trong gia đình và tổn thất cả về kinh tế. Bệnh tâm
thần nếu khơng được chữa trị kịp thời có thể dẫn đến trạng thái tâm thần sa sút,
người bệnh trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội. Phát hiện sớm và ngăn
chặn kịp thời là để ngăn chặn sự tiến triển xấu này.
1.5 Phân biệt bệnh tâm thần với bệnh thần kinh
 Điểm khác nhau
- Bệnh tâm thần (còn gọi là tâm bệnh) chưa phát hiện được tổn thương đặc hiệu về
mặt hình thái của hệ thần kinh mà chỉ phát hiện được những biến đổi tinh vi về
mặt sinh hóa, miễn dịch, di truyền…… Ða số các dấu hiệu bệnh là do rối loạn
chức năng của não. Phần lớn bệnh nhân có thể ăn khỏe, chơi khỏe, đi đứng bình
thường nhưng có ý nghĩ, cảm xúc, hành vi khơng phù hợp, kỳ dị, khó hiểu. Bệnh
nhân tâm thần thường khơng nhận thấy mình bị bệnh, từ chối điều trị tại chuyên
khoa tâm thần.

5



- Bệnh nhân thần kinh có nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra làm tổn thương
thực thể tại các phần khác nhau của hệ thần kinh như não bộ, tủy sống, dây thần
kinh ngoại vi gây rối loạn chủ yếu chức năng tiếp thu và thực hiện của con người.
Người bệnh ít có các hành vi kỳ dị, ý nghĩ bất bình thường nhưng có thể tê liệt nửa
người, khó khăn đi đứng, ăn nói, điếc, mù….). Đa số bệnh nhân cịn ý thức được
bệnh của mình.
 Điểm liên quan với nhau
- Bệnh thần kinh có tổn thương ở tổ chức não, ít nhiều có rối loạn tâm thần kèm
theo: rối loạn trí nhớ, trí tuệ, ý thức…..
- Bệnh nhân tâm thần (bệnh tâm thần nội snh) tuy chưa phát hiện được tổn thương
thực thể ở não, có thể có những rối loạn thần kinh kèm theo (rối loạn trương lực
cơ, phản xạ, thần kinh thực vật…).
2. Nguyên nhân và các bệnh tâm thần thường gặp
2.1 Nguyên nhân
Nguyên nhân gây nên bệnh tâm thần là một vấn đề phức tạp. Hiện nay, có
những bệnh nguyên nhân đã rõ ràng, nhưng vẫn còn một số bệnh nguyên nhân
chưa xác định được. Xung quanh vấn đề bệnh nguyên và bệnh sinh các bệnh tâm
thần còn tồn tại nhiều quan điểm và giả thuyết khác nhau.
2.1.1 Nguyên nhân thực thể
Là những bệnh mà nguyên nhân do tổn thương trực tiếp tổ chức não hay ngoài
não gây trở ngại hoạt động của não.
- Do tổn thương trực tiếp đến tổ chức não:
+ Chấn thương sọ não.
+ Nhiễm trùng thần kinh (viêm não, giang mai, thần kinh…)
+ Nhiễm độc thần kinh (nghiện rượu, ma túy, nhiễm độc thực phẩm, nhiễm độc
hóa chất cơng nghiệp, nơng nghiệp…).
+ Các bệnh mạch máu não, các tổn thương não khác (u não, teo não, xơ rải rác,
tai biến mạch máu não…)
- Do các bệnh cơ thể ảnh hưởng đến hoạt động não:
+ Các bệnh nội khoa, nội tiết.

+ Các bệnh về chuyển hóa và thiếu sinh tố…
2.1.2 Nguyên nhân tâm lý
- Bệnh loạn thần phản ứng bao gồm: loạn thần phản ứng cấp, rối loạn sang chấn
sau stress, rối loạn sự thích ứng.
- Căng thẳng tâm lý dẫn đến bệnh tâm căn, rối loạn dạng cơ thể, rối loạn phân ly.
- Rối loạn hành vi ở thiếu niên do giáo dục không đúng, môi trường xã hội không
thuận lợi.
- Rối loạn ám ảnh, lo âu…
2.1.3 Nguyên nhân do cấu tạo thể chất bất thường và phát triển tâm lý gây ra
- Các di tật bẩm sinh.
- Thiếu sót về hình thành nhân cách.
2.1.4 Các nguyên nhân chưa rõ ràng

6


- Do có sự kết hợp phức tạp của nhiều nguyên nhân khác (di truyền, chuyển hóa,
miễn dịch, cấu tạo thể chất…) nên khó xác định nguyên nhân chủ yếu. Các rối
loạn tâm thần nội sinh thường gặp là:
+ Bệnh tâm thần phân liệt.
+ Rối loạn cảm xúc lưỡng cực.
+ Động kinh nguyên phát.
2.1.5 Các nhân tố thuận lợi cho bệnh tâm thần phát sinh
 Nhân tố di truyền
- Vấn đề di truyền tất nhiên có ảnh hưởng xấu đến một số bệnh tâm thần nhưng
không phải là tuyệt đối. Có khi bệnh tâm thần phát sinh trong một thành viên của
gia đình mà khơng thấy trong các thành viên khác, có trường hợp cha mẹ đều có
bệnh mà con cháu vẫn khỏe mạnh bình thường. Cũng có trường hợp nhân tố di
truyền không tác động vào thế hệ tiếp theo mà vào thế hệ sau nữa.
 Yếu tố nhân cách

- Nhân cách bao gồm: thích thú, khuynh hướng, năng lực, tính cách, khí chất…
- Nhân cách mạnh, bền vững là một nhân tố chống lại sự phát sinh các bệnh tâm
thần, nhất là các bệnh do căn nguyên tâm lý. Khi bị bệnh tâm thần thì người có
nhân cách vững bị nhẹ hơn và hồi phục nhanh hơn.
- Nhân cách yếu, không bền vững là một yếu tố thuận lợi cho bệnh tâm thần phát
sinh, khi mắc bệnh tâm thần sẽ hồi phục khó khăn và chậm.
 Tuổi tác
- Mỗi lứa tuổi có những đặc điểm tâm lý riêng, vì thế có những loại bệnh tâm thần
thường hay xảy ra ở lứa tuổi này mà ít xảy ra ở lứa tuổi khác.
 Giới tính
- Nam giới thường hay mắc bệnh tâm thần nhiều hơn nữ giới. Các bệnh tâm thần
do chấn thương sọ não, nghiện rượu, bệnh động kinh…thường gặp ở nam giới.
Các bệnh rối loạn phân ly (histeria), rối loạn cảm xúc lưỡng cực, trầm cảm, lo
âu…hay gặp ở nữ giới. Đặc biệt phụ nữ cịn có những rối loạn tâm thần do những
sự biến động của nội tiết vào các thời kỳ: dậy thì, kỳ kình nguyệt, sinh nở, tiền
mãn kinh mà và mãn kinh.
 Tình trạng sức khỏe tâm thần
- Trên thực tế lâm sàng thường gặp những bệnh tâm thần phát sinh khi sức khỏe bị
giảm sút, mất ngủ kéo dài, thiếu dinh dưỡng lâu ngày, làm việc quá sức…Khi
người bệnh tâm thần quá suy kiệt thì cần phải nâng cao thể trạng để giúp người
bệnh nhanh chóng hồi phục.
2.2 Các bệnh tâm thần thường gặp
2.2.1 Bệnh tâm thần phân liệt
Các rối loạn phân liệt có đặc điểm chung là rối loạn cơ bản và đặc trưng về tư
duy, tri giác và cảm xúc không thích hợp hay cùn mịn, ý thức cịn rõ ràng và năng
lực trí tuệ thường được tư duy.
Bệnh nhân thường cảm thấy ý nghĩ của mình hình như bị người khác biết hay
lấy bớt, hay ý nghĩ của mình vang thành tiếng hay bị bị phát thanh. Cảm thấy có
sức mạnh tự nhiên hay siêu nhiên đang hoạt động làm ảnh hưởng đến ý nghĩ, cảm
7



xúc hay hành vi của mình. Tri giác thường bị rối loạn theo những cách khác nhau,
thường có những ảo thanh bình luận về bệnh nhân. Nét đặc trưng của cảm xúc là
nơng cạn, thất thường hay khơng thích hợp. Trong một số trường hợp tư duy trở
nên gián đoạn hay thêm từ khi nói hoặc lời nói khơng thích hợp. Tác phong có thể
trở nên rối loạn trầm trọng, kích động hay sững sờ giữ nguyên tư thế, tập tính cá
nhân có thể biến đổi, trở nên mất thích thú, thiếu mục đích, lười nhác và cách ly xã
hội. Bệnh thường gặp ở lứa tuổi 18 đến 30, tỷ lệ mắc bệnh từ 0,5% đến 1% dân số.
Điều trị chủ yếu bằng các thuốc an thần kinh phối hợp với liệu pháp lao động thích
ứng xã hội.
2.2.2 Bệnh động kinh
Bệnh động kinh được xếp vào bảng phân loại chuyên khoa thần kinh, nhưng ở
nước ta do ngành tâm thần quản lý và điều trị ngoại trú.
Đây là bệnh mãn tính, có nhiều ngun nhân khác nhau, đặc trưng là sự lặp đi
lặp lại các cơn co giật do sự phóng điện quá mức của các tế bào thần kinh não bộ.
Bệnh cảnh lâm sàng đa dạng và có 2 đặc điểm sau:
- Tính chất phát sinh đột ngột, cơn.
- Các triệu chứng bệnh lý man tính và nặng dần.
Có nhiều thể lâm sàng của bệnh động kinh. Đặc điểm lâm sàng chủ yếu của
động kinh thái dương (động kinh tâm thần) là rối loạn tâm thần xuất hiện đột ngột,
trong cơn thường có rối loạn ý thức, thường có những hành vi nguy hiểm như giết
người trong cơn chạy thẳng. Rố loạn tồn tại trong thời gian ngắn và sau đó mất đi
đột ngột, sau cơn quên tất cả sự việc xảy ra trong cơn.
Tỷ lệ mắc bệnh động kinh từ 0,4 - 0,5% dân số, thường bắt đầu ở lứa tuổi
< 20. Phương pháp cận lâm sàng phát hiện động kinh là ghi điện não có sóng động
kinh. Điều trị chủ yếu bằng các thuốc kháng động kinh. Đối với động kinh tâm
thần cần phối hợp thuốc kháng động kinh với các thuốc an thần kinh.
2.2.3 Bệnh hoang tưởng
Hoang tưởng là một triệu chứng của rối loạn tư duy, là triệu chứng chủ yếu

trong các bệnh loạn thần. Hoang tưởng là những ý tưởng, phán đốn sai lầm,
khơng phù hợp với thực tế, do bệnh nhân tâm thần gây ra, nhưng bệnh nhân tâm
thần cho là hoàn toàn chính xác, khơng thể giải thích và đả thơng được. Hoang
tưởng chỉ mât đi khi bệnh nhân khỏi bệnh hay thuyên giảm.
Hoang tưởng được chia làm 2 loại chính: hoang tưởng suy đoán và hoang
tưởng cảm thụ.
- Hoang tưởng suy đoán được xây dựng thuần túy theo logic lệch lạc của bệnh
nhân, biểu hiện sự rối loạn trong việc phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật và hiện
tượng, đồng thời cũng biểu hiện khuynh hướng tưởng tượng, sự mơ ước hay tư
duy chưa trưởng thành của bệnh nhân. Thường là những hoang tưởng dai dẳng,
phát triển thành hệ thống và làm biến đổi nhân cash một cách sâu sắc. Bao gồm
các hoang tưởng bị hại, bị chi phối, ghen tuông, tự buộc tội, nghi bệnh, tự cao,
phát sinh….
- Hoang tưởng cảm thụ thường xuất hiện sau các rối loạn của tri giác, của cảm xúc
hay ý thức. Bệnh nhân khơng có logic lệch lạc, mà chỉ có những ý thức rời rạc
8


khơng kế tục, cảm xúc căng thẳng, bàng hồng, ngơ ngác, nhân cách của bệnh
nhân không bị hoang tưởng làm biến đổi nhiều. Bao gồm các hoang tưởng nhận
nhầm, gán ý, đóng kịch, kỳ quái….Điều trị chủ yếu bằng các thuốc an thần kinh.
2.2.4 Bệnh trầm cảm
Trầm cảm là một hội chứng rối loạn cảm xúc ngược lại với hưng cảm. Hộ
chứng trầm cảm điển hình gồm 3 thành phần chủ yếu, biểu hiện q trình ức chế
tồn bộ tâm thần.
- Cảm xúc bị ức chế: khí sắc giảm, bệnh nhân buồn rầu, ủ rũ, mất thích thú cũ, bi
quan về tiền đồ. Nét mặt trở nên cau có, đơi khi nước mắt lưng tròng, thở dài và
tăng sự mệt mỏi.
- Tư duy bị ức chế: bệnh nhân suy nghĩ chậm chạp, liên tuworng khó khăn, thiếu
tự tin cho minhg là hèn kém. Trường hợp nặng có hoang tưởng tự buộc tội đưa

đến ý tưởng và hành vi tự sát.
- Vận động bị ức chế: bệnh nhân ít đi lại, ít nói, ăn uống kém, thường hay ngồi lâu
trong một tư thế, có thể có hiện tượng bất động sững sờ. Đơi lúc trở nên lăn lộn,
vật vã, khóc lóc……
Hội chứng trầm cảm có thể gặp trong nhiều bệnh tâm thần khác nhau. Trầm
cảm là một hội chứng cần theo dõi chặt chẽ và cấp cứu, đặc biệt đối với trầm cảm
có ý tưởng và hành vi tự sát Điều trị trầm cảm chủ yếu bằng các thuốc chống trầm
cảm, trong trường hợp trầm cảm nặng có thể sốc điện.
2.2.5 Các bệnh tâm thần trẻ em
Tâm thần học trẻ em là một phân mơn trong tâm thần học, có liên quan nhiều
đến thần kinh, sinh lý, di truyền và giáo dục học. Ngành tâm thần học trẻ em có
nhiệm vụ nghiên cứu các bệnh tâm thần của trẻ em từ lúc sơ sinh cho đến 15 tuổi
để phòng và chữa bệnh này.
- Thơng thường có 3 ngun chính gây ra các bệnh tâm thần của trẻ em:
+ Do tổn thương não trước, trong và sau khi sanh.
+ Do tác nhân xã hội (giáo dục không đúng, môi trường xã hội không lành mạnh..)
+ Yếu tố di truyền.
- Các bệnh tâm thần trẻ em bao gồm nhiều loại mà chủ yếu là:
+ Bệnh tâm căn trẻ em.
+ Động kinh và các cơn co giật của trẻ em.
+ Chậm phát triển tâm thần.
+ Các bệnh tâm thần nội sinh…..
2.2.6 Chậm phát triển tâm thần
- Chậm phát triển tâm thần là một nhóm trạng thái bệnh lý có bệnh nguyên và
bệnh sinh khác nhau, nhưng được thống nhất lại là vì bệnh cảnh lâm sàng cơ bản
giống nhau: thiểu năng lực trí tuệ, thường có tính chất bẩm sinh hoặc xuất hiện
trong những năm đầu sau khi sanh, khi trí tuệ chưa trưởng thành. Khả năng nhận
thức rất yếu hay khơng có, thường kèm theo dị dạng cơ thể, nội tạng, trí nhớ, hiểu
biết kém, thường có những động tác vơ nghĩa và dễ bị lợi dụng. Chậm phát triển
tâm thần không chữa khỏi được, bằng giáo dục đặc biệt, huấn luyện, lao động có

thể cải thiện được phần nào.
9


- Việc đánh giá mức độ trí tuệ bao gồm các kết quả lâm sàng, tác phong thích ứng
(trong mối quan hệ với xã hội) và kết quả test tâm lý.
- Chậm phát triển tâm thần được chia làm 4 mức độ: nhẹ, vừa, nặng và trầm trọng.

Bệnh viện tâm thần TP.HCM.

Bệnh viện Tâm thần Hà Nội

LƯỢNG GIÁ BÀI HỌC
I. Phần câu trả lời đúng sai: Đánh dấu A cho câu đúng– B cho câu sai
1. Sức khỏe tâm thần là một trạng thái khơng chỉ khơng có rối loạn hay dị tật tâm
thần mà còn là một trạng thái tâm thần hoàn toàn thoải mái.
A. Đúng.
B. Sai.
2. Tâm thần học là một bộ mơn trong y học, có nhiệm vụ nghiên cứu các biểu hiện
lâm sàng, cơ chế bệnh sinh, phòng và chữa các bệnh này.
A. Đúng.
B. Sai.
3. Những loại bệnh tâm thần thường hay xảy ra ở lứa tuổi này mà ít xảy ra ở lứa
tuổi khác vì mỗi lứa tuổi có những đặc điểm tâm lý chung.
A. Đúng.
B. Sai.
4. Nguyên nhân thực thể gây ra bệnh tâm thần là do tổn thương trực tiếp tổ chức
não hay ngoài não gây trở ngại hoạt động của não.
A. Đúng.
B. Sai

5. Bệnh tâm thần thường có tổn thương thực thể ở tổ chức não, ít nhiều có rối loạn
thần kinh kèm theo.
A. Đúng.
10


B. Sai.
II. Phần chọn câu đúng nhất : Khoanh tròn vào đầu câu chọn
6. Ngành tâm thần học trẻ em có nhiệm vụ nghiên cứu để phịng và chữa các bệnh
tâm thần của trẻ em ở lứa tuổi.
A. Từ lúc sơ sinh cho đến 13 tuổi.
B. Từ lúc sơ sinh cho đến 14 tuổi.
C. Từ lúc sơ sinh cho đến 15 tuổi.
D. Từ lúc sơ sinh cho đến 16 tuổi.
7. Chậm phát triển tâm thần là một nhóm trạng thái bệnh lý có bệnh nguyên và
bệnh sinh khác nhau, nhưng giống nhau ở đặc điểm.
A. Bệnh cảnh lâm sàng.
B. Cùng lứa tuổi mắc bệnh.
C. Thiểu năng lực trí tuệ bẩm sinh.
D. Khả năng nhận thức rất yếu.
8. Bệnh trầm cảm là một hội chứng rối loạn cảm xúc ngược lại với trạng thái.
A. Hưng phấn.
B. Hưng cảm.
C. Nói nhiều, đi lại nhiều.
D. Kích thích thần kinh.
9.Tỷ lệ người mắc bệnh động kinh từ 0,4 - 0,5% dân số, thường bắt đầu ở lứa tuổi.
A. < 16.
B. < 18.
C. < 20.
D. < 22.

10. Bệnh tâm thần phân liệt thường gặp ở lứa tuổi 18 đến 30, tỷ lệ mắc bệnh trong
dân số là.
A. 0,4% - 1%.
B. 0,5% - 1%.
C. 0,6% - 1%.
D. 0,7% - 1%.
ĐÁP ÁN
1.A 2.A

3.B

4.A

5.B

6.C 7.A

11

8.B 9.C 10.B


THEO DÕI - CHĂM SÓC
CÁC TRƯỜNG HỢP CẤP CỨU TÂM THẦN
MỤC TIÊU HỌC TẬP
1. Mô tả được các trạng thái bệnh lý tâm thần chính trong cấp cứu bệnh tâm
thần.
2. Trình bày được định nghĩa, nguyên nhân các trường hợp trong cấp cứu
bệnh tâm thần.
3. Thực hiện được cách xử trí, theo dõi, chăm sóc và phịng ngừa các trường

hợp cấp cứu bệnh tâm thần thường gặp.
NỘI DUNG
Trong lâm sàng tâm thần học có nhiều trường hợp cần cấp cứu. Ở đây chỉ đề
cập đến cấp cứu do rối loạn hành vi tác phong đặc hiệu cho bệnh nhân tâm thần,
cần can thiệp y tế với các biện pháp nhanh nhất mà không đề cập đến những
trường hợp loạn thần trên cơ sở các bệnh như: nhiễm khuẩn, nhiễm độc, chấn
thương hay các bệnh lý cơ thể. Các trạng thái bệnh lý tâm thần chính trong cấp
cứu tâm thần bao gồm: kích động, tự sát, người bệnh khơng chịu ăn.
1. Kích động
1.1 Định nghĩa
Kích động là một trạng thái hưng phấn tâm lý vận động quá mức, xuất hiện đột
ngột, hành vi có tính chất kế tục, khơng có mục đích, khơng phù hợp với hồn
cảnh xung quanh, thường mang tính chất phá hoại, nguy hiểm.

Kích động ở bênh nhân tâm thần

12


1.2 Nguyên nhân kích động
1.2.1 Kích động phản ứng
- Do nhận thức sai lầm: thường gặp ở bệnh nhân phủ định bệnh, bệnh nhân cho
rằng mình khơng có bệnh, bị cưỡng bức đến viện để giam giữ.
- Do phản ứng với các sự việc khơng vừa ý trong phịng bệnh, thường gặp ở bệnh
nhân động kinh, nhân cách bệnh.
- Do say mê theo đuổi mục đích riêng (thường do hoang tưởng, ảo giác chi phối)
nhưng bị những người xung quanh cản trở, thường gặp ở bệnh nhân tâm thần phân
liệt.
- Do doạ nạt, yêu sách nhằm thoả mãn mục đích riêng, thường gặp trong chậm
phát triển tâm thần, rối loạn phân ly.

- Do bị bệnh nhân khác xúi dục hoặc bệnh nhân khác kích động nên kích động
theo.
- Kích động sau stress lạnh, thường gặp trong rối loạn phân ly, rối loạn sau stress
trầm trọng.
- Do thay đổi môi trường đột ngột (chuyển viện, chuyển phòng...), thường gặp ở
bệnh nhân chấn thương sọ não, tai biến mạch não.

Kích động do các bệnh nhiễm độc

Bệnh nhân rối loạn cảm xúc pha trầm cảm

1.2.2 Kích động trong các bệnh tâm thần
- Trong bệnh tâm thần phân liệt: kích động có thể gặp ở tất cả các thể nhưng
thường gặp ở các thể: thể thanh xuân, thể căng trương lực, thể paranoid. Kích
động thường mang tính chất xung động, đột ngột, khơng lường trước được, nhiều
khi rất nguy hiểm như đánh hoặc giết người. Kích động có thể xuất hiện sau các
bệnh nhiễm trùng, nhiễm độc hoặc do hoang tưởng, ảo giác chi phối.
- Trong rối loạn cảm xúc pha hưng cảm: thường ít khi kích động, kích động
thường xuất hiện sau các nhân tố có hại như: q trình hưng phấn kéo dài kèm
theo kiệt sức, ở bệnh nhân xơ vữa mạch não hoặc nhiễm trùng, nhiễm độc.
- Động kinh tâm thần: kích động xuất hiện đột ngột kèm theo rối loạn thức kiểu
hồng hơn, trong trạng thái này bệnh nhân có thể kích động dữ dội, hung bạo, phá

13


mọi cản trở, giết người, cơn kích động mất đi đột ngột, sau cơn bệnh nhân qn
tồn bộ.
- Kích động trong rối loạn tâm thần ở người cao tuổi: kích động thường, đột
ngột, vô nghĩa, không phê phán được, thường xuất hiện về ban đêm.

- Ngồi ra cịn gặp trong các bệnh sau:
+ Kích động do các bệnh nhiễm độc (rượu, ma t, hóa chất dùng trong cơng
nghiệp và nơng nghiệp...).
+ Kích động do các bệnh nhiễm khuẩn (nhiễm khuẩn huyết, sốt rét ác tính, thương
hàn, viêm não, lao màng não, giang mai não...).
+ Kích động do các bệnh thực thể của não (u não, bệnh lý mạch máu não, chấn
thương sọ não...)
1.3 Cách xử trí, theo dõi và chăm sóc
- Hỏi qua người nhà, người đi theo để sơ bộ tìm ngun nhân kích động.
- Dùng liệu pháp tâm lý thích hợp để ổn định trạng thái tâm thần cho bệnh nhân
như giải thích, động viên, lắng nghe ý kiến của người bệnh, cho bệnh nhân đi thăm
quan buồng bệnh, nếu bệnh nhân bị trói thì cởi trói cho bệnh nhân (nếu có thể
được).
- Nếu bệnh nhân đồng ý cho khám bệnh thì bác sĩ tiến hành khám ngay về các
bệnh cơ thể, các thương tích, các xét nghiệm cận lâm sàng nhằm loại trừ các
chống chỉ định khi điều trị.

BS khám bệnh cho bệnh nhân sau cơn kích động
- Khi bệnh nhân quá kích động, cần tiến hành điều trị ngay theo y lệnh bằng các
thuốc:
Halopendol 5 mg x 1 - 2 ống.

14


Seduxen 10 mg x 1- 2 ống(tiêm bắp).
Hoặc Aminazin 25mg x 4 - 6 ống (tiêm bắp).
- Nếu giờ thứ 3 người bệnh vẫn cịn kích động thì tiếp tục cho liều như trên. Thơng
thường sau giờ thứ 6 thì trạng thái tâm thần của người bệnh ổn định.
- Khi bệnh nhân ngủ, trạng thái tâm thần ổn định, cần tiến hành khám về nội khoa,

thần kinh và cho làm các xét nghiệm cần thiết nhằm tìm nguyên nhân gây kích
động.
- Khi bệnh nhân tỉnh, thầy thuốc cần có mặt để làm liệu pháp tâm lí nhằm ổn định
trạng thái tâm thần cho người bệnh.
- Khi bệnh nhân hết trạng thái kích động chuyển sang thuốc uống, theo dõi các tác
dụng phụ của thuốc và tìm hiểu nguyên nhân để điều trị theo nguyên nhân.
- Có thể phối hợp với liệu pháp sốc điện (ECT) từ 1-2 lần/24giờ. Chỉ định trong
những trường hợp: kích động trầm cảm (có ý tưởng và hành vi tự sát), kích động
căng trương lực, kích động thanh xn, kích động khơng dùng được thuốc an thần
kinh hoặc kháng thuốc an thần kinh.
1.4 Quản lý bệnh nhân kích động tại bệnh phịng
- Tốt nhất trong cơn kích động ta phải quản lý bệnh nhân ở phịng cách ly, phòng
cách ly phải được thiết kế làm sao khỏi bị khuất tầm nhìn của nhân viên, nghĩa là
nhân viên luôn quan sát được bệnh nhân để kịp thời can thiệp khi bệnh nhân có
những hành vi nguy hiểm.
- Phòng cách ly phải ở khu vực yên tĩnh, tránh hiện tượng kích động dây chuyền,
bệnh nhân phịng nầy kích động làm bệnh nhân ở những phịng khác kích động
theo. Khu vực nầy hạn chế người nhà ra vào, không cho bệnh nhân cũng như
những ngườì tị mị vào xem.
- Phịng cách ly phải thống mát, bảo đảm ánh sáng, khơng bít bùng để tránh cho
bệnh nhân có cảm giác bị giam giữ, có phịng vệ sinh riêng, thời gian quản lý bệnh
nhân ở phòng cách ly càng ngắn càng tốt, trong trường hợp bệnh nhân q kích
động ta có thể cố định bệnh nhân tại giường bằng dây to bản nhưng khơng được cố
định khơng q 24 giờ, có nhiều trường hợp bệnh nhân càng kích động do phản
ứng lại chuyện bị đưa vào phòng cách ly, khi cho bệnh nhân ra ngồi thì lại hết
kích động.
1.5 Vận chuyển bệnh nhân tâm thần bị kích động
- Vận chuyển bệnh nhân tâm thần phải được thực hiện bằng xe chuyên dùng có
cán bộ chuyên khoa hộ tống để kịp xử trí mọi diễn tiến trên đường vận chuyển.
- Trong điều kiện hiện nay ta không thể yêu cầu đầy đủ phương tiện mà người thầy

thuốc tại tuyến trước phải biết xử trí sơ bộ, giải quyết các vấn đề cơ thể cho bệnh
nhân. Vì vậy, cần phải chú ý rằng bệnh nhân kích động thường khơng ngủ, khơng
ăn uống nhiều ngày làm cơ thể suy kiệt, do kích động nên thường có nhiều vết xây
xát ngồi da, về mặt tâm thần bệnh nhân phải được xử trí bằng các thuốc an thần
kinh, khi bệnh nhân ngủ yên ta cho bệnh nhân lên xe cứu thương thông thường
hoặc một phương tiện chuyên chở cơ giới nào đó để chuyển bệnh nhân lên tuyến
chuyên khoa. Khi chuyển bệnh nhân đi cần có y tá và bác sĩ đi kèm với đầy đủ hồ
sơ bệnh án và một cơ số thuốc an thần kinh cũng như các thuốc cấp cứu cần thiết
15


khác để sử dụng khi cần thiết trên đường vận chuyển bệnh nhân, nếu bệnh nhân
q kích động ta có thể cố định bệnh nhân vào cáng.
Lưu ý: người bệnh khi kích động thường mất nước, điện giải, vì vậy cần bồi phụ
nước, điện giải, tăng cường dinh dưỡng, chống nhiễm trùng, chống loét.
1.4 Phòng bệnh
- Tùy theo từng nguyên nhân mà có biện pháp dự phịng cho thích hợp.
- Đối với bệnh tâm thần phân liệt, rối loạn cảm xúc, động kinh cần phải uống
thuốc dự phòng đều đặn.
- Tư vấn cho gia đình, cộng đồng trong việc phịng, quản lý, chăm sóc, hỗ trợ
người bệnh.

Tư vấn cho gia đình trong việc phịng, quản lý, chăm sóc, hỗ trợ người bệnh
2. Tự sát
2.1 Định nghĩa
Theo Stengel (1958), tự sát là: "bất kỳ sự huỷ hoại nào được gây ra với mục
đích huỷ hoại chính mình, dù là rối loạn hay do mâu thuẫn trong tư tưởng, nếu
bệnh nhân chết do hậu quả hành động là tự sát, tự sát không thành công gọi là toan
tự sát.
2.2 Dịch tễ học

- Tỷ lệ trung bình của tự sát trên tồn thế giới đã tăng lên từ 10 đến 16 người trên
100.000 dân kể từ năm 1950. Mỗi quốc gia khác nhau có tỷ lệ tự sát rất khác nhau,
theo thống kê của WHO (1999) tỉ lệ tự sát của một số quốc gia như sau: liên bang
Nga 41,5/100.000 dân, Pháp 20,7/100.000 dân, Úc 12,8/100.000 dân, Philippin
2,1/100.000 dân.
- Ngoài ra, tự sát có liên quan đến nền văn hố, tơn giáo, dân tộc: ở Singapor tỉ lệ
tự sát là 9,2/100.000 trong đó người gốc Hoa chiếm 88%.
2.3 Nguyên nhân tự sát và các yếu tố nguy cơ
2.3.1 Các yếu tố nguy cơ
- Tuổi: nguy cơ tự sát tăng theo lứa tuổi và tăng cao ở lứa tuổi sau 50.
- Giới: tỉ lệ tự sát ở nam cao hơn nữ, nữ có tỉ lệ toan tự sát cao hơn nam.
- Mùa: tự sát hay gặp vào mùa xuân, vào ngày nghỉ cuối tuần.

16


- Những người sống xa lánh xã hội, sống cô độc, nam giới lớn tuổi.
- Những người có các bệnh cơ thể nặng, ung thư, giai đoạn đầu xét nghiệm HIV
dương tính.
- Người nghiện ma túy, nhiễm chất độc.
- Tiền sử cá nhân, gia đình có người có hành vi tự sát hoặc có người bị rối loạn
cảm xúc lưỡng cực.
- Gia đình gần đây có sự mất mát lớn: vợ hoặc chồng chết, tan vỡ hạnh phúc gia
đình, mất cơng việc.
- Có thể tìm hiểu qua thư từ tuyệt mệnh, chúc thư.
2.3.2 Các bệnh tâm thần
- Trầm cảm nặng, kèm theo hoang tưởng bị tội, bệnh nhân cho rằng mình có phẩm
chất xấu hèn kém khơng đáng sống, hay hoang tưởng bị tội mở rộng: lo lắng cho
gia đình mình cũng sẽ bị hình phạt ghê gớm nên giết cả gia đình rồi tự sát. Thường
gặp trong rối loạn cảm xúc pha trầm cảm.

- Bệnh tâm thần phân liệt: do hoang tưởng, ảo giác chi phối, thường do hoang
tưởng bị hại, hoang tưởng chi phối kéo dài làm cho người bệnh đau khổ quá mức
hoặc do ảo thanh với nội dung ra lệnh, đe doạ, mạt sát. Có khi hoang tưởng và ảo
giác kết hợp thúc đẩy hành vi tự sát.
- Xung động tự tấn công, tấn công người khác: xung động thường kỳ lạ và không
biết trước, tự sát có khi là khởi đầu của bệnh.
- Doạ tự sát dẫn đến tự sát thật: lúc đầu người bệnh doạ tự sát nhằm thoả mãn yêu
cầu riêng nhưng gia đình, người xung quanh khơng giải quyết được đúng, kịp thời
dẫn đến tự sát thật.
- Nghiện rượu, nghiện ma túy.
- Loạn thần thực tổn, động kinh.
2.4 Cách xử trí, theo dõi và chăm sóc
- Phát hiện sớm hội chứng trầm cảm theo dõi chặt chẽ.
- Khi bệnh nhân có ý tưởng bị tội, cho nhập viện, theo dõi sát ngày đêm.
- Để bệnh nhân ở phòng riêng, kiểm tra kỹ phịng bệnh và người bệnh nhân, khơng
để những phương tiện có thể dùng để tự sát như: dao, dây, vật nhọn...Tuy nhiên,
điều cơ bản vẫn là điều trị tích cực và theo dõi sát vì bệnh nhân có rất nhiều cách
để tự sát như gục đầu vào chậu nước, dùng quần áo xé ra để làm dây thắt cổ, đập
đầu vào tường.....
- Điều trị: tốt nhất và hiệu quả nhất là sốc điện ngày một lần, liệu trình từ 8 - 12
lần cho tới khi hết trầm cảm. Có thể dùng các thuốc chống trầm cảm như:
Melipramin, Tofranil liều trung bình 200 - 300 mg/24 giờ.
- Chú ý: các thuốc chống trầm cảm có tác dụng chậm sau 10 - 15 ngày cho nên
trong 2 tuần đầu nên theo dõi sát và phối hợp với sốc điện.
- Đề phòng bệnh nhân giả vờ khỏi xin ra viện để trốn tránh sự giám sát của thầy
thuốc và thực hiện ý định tự sát dễ dàng hơn. Vì vậy, khi trạng thái tâm thần của
bệnh nhân thật tốt mới cho ra viện.
- Đối với hoang tưởng, ảo giác dùng Nozinan 400-500mg/24 giờ hoặc Haloperidol
20 - 25mg/24 giờ.
17



Thuốc an thần kinh

Thuốc chống trầm cảm

2.5 Phòng bệnh
- Phát hiện sớm những người có yếu tố nguy cơ bởi gia đình, người thân, các tổ
chức xã hội, các bác sỹ gia đình.
- Điều trị sớm bệnh nhân trầm cảm, chỉ cho xuất viện khi bệnh nhân khơng cịn ý
tưởng tự sát khơng cịn hội chứng trầm cảm, hết các triệu chứng loạn thần.
- Sau khi bệnh nhân ra viện cần tiếp tục kê đơn điều trị ngoại trú và theo dõi theo
định kỳ.
- Tư vấn cho gia đình, người thân trong công tác theo dõi, quản lý và điều trị dự
phịng tại gia đình.
3. Bệnh nhân khơng chịu ăn uống
Không chịu ăn uống là một cấp cứu thường gặp trong lâm sàng tâm thần.
Nguyên nhân rất phức tạp, bệnh cảnh có thể kéo dài rất lâu, gây hậu quả nghiêm
trọng ảnh hưởng đến tính mạng bệnh nhân.
3.1 Nguyên nhân
- Do rối loạn bản năng ăn uống: thường gặp trong giai đoạn đầu của bệnh tâm thần
trẻ em hay trạng thái trầm cảm của người già.
- Do ảo giác chi phối: thường là ảo khứu, ảo vị với nội dung khó chịu: mùi hơi,
mùi tanh, vị đắng, vị cay... có trong thức ăn hay ảo thanh ra lệnh cho bệnh nhân
khơng được ăn, ảo thị nhìn thấy hình ảnh qi dị, ví dụ khi bệnh nhân ăn nó dùng
câu liêm móc ruột bệnh nhân.
- Do hoang tưởng chi phối: thường là hoang tưởng bị hại (bệnh nhân cho rằng thức
ăn có thuốc độc nên khơng dám ăn) hay hoang tưởng bị tội (bệnh nhân cho là
mình có khuyết điểm lớn không đáng được ăn uống).
- Do trạng thái bất động căng trương lực, bệnh nhân không nhai, không nuốt được.

3.2 Cách xử trí, theo dõi và chăm sóc
- Chủ yếu là điều trị bệnh tâm thần chính gây ra hiện tượng không chịu ăn.
+ Trầm cảm: sốc điện hoặc dùng thuốc chống trầm cảm.

18


+ Hoang tưởng, ảo giác: Nozinan 400-500mg/24 giờ hoặc haloperidol 2025mg/ngày.
+ Trạng thái bất động căng trương lực: sốc điện mỗi ngày một lần cho đến khi
chịu ăn hoặc dùng các thuốc an thần kinh giải ức chế (Frenolon, Sulpint,
Leponex……).

…cho bệnh nhân ăn qua sonde…..

…nuôi dưỡng qua đường truyền dịch….

- Nếu bệnh nhân khơng chịu ăn thì cho ăn qua sonde, thức ăn phải đảm bảo đủ
năng lượng cho bệnh nhân.
- Tăng cường dinh dưỡng cho bệnh nhân bằng truyền các loại huyết thanh ngọt,
mặn, vitamin, điện giải...
- Bệnh nhân khơng chịu ăn uống thường nằm một chỗ, vì vậy phải tăng cường vệ
sinh thân thể, thay đổi tư thế để chống loét, chống nhiễm khuẩn.
LƯỢNG GIÁ BÀI HỌC
I. Phần câu trả lời đúng sai: Đánh dấu A cho câu đúng– B cho câu sai
1. Các trạng thái bệnh lý tâm thần chính trong cấp cứu tâm thần bao gồm: kích
động, tự sát, người bệnh khơng chịu ăn.
A. Đúng.
B. Sai.
2. Việc thực hiện thuốc an thần kinh cho người bệnh tâm thần qua đường tiêm là
tốt nhất vì hạn chế được tác dụng phụ của thuốc.

A. Đúng.
B. Sai.
3. Người bệnh tâm thần khi kích động nhiều thường mất nước, điện giải, vì vậy
cần bồi phụ nước và điện giải đầy đủ.
A. Đúng.
19


B. Sai.
4. Yếu tố nguy cơ tự sát ở bệnh nhân tâm thần tăng theo lứa tuổi và tăng cao ở lứa
tuổi sau 60.
A. Đúng.
B. Sai
5. Tác dụng của các thuốc chống trầm dùng cho bệnh nhân tâm thần thường có
hiệu quả chậm sau 15 - 20 ngày.
A. Đúng.
B. Sai.
II. Phần chọn câu đúng nhất : Khoanh tròn vào đầu câu chọn
6. Một trạng thái bệnh lý thường gặp trong cấp cứu lâm sàng bệnh tâm thần là.
A. Kích động.
B. Tự sát.
C. Không chịu ăn uống.
D. Hoang tưởng, ảo giác.
7. Nguyên nhân thường gặp trong giai đoạn đầu của bệnh tâm thần ở trẻ em hay
người già không chịu ăn uống là.
A. Do ảo giác chi phối.
B. Do hoang tưởng chi phối.
C. Do rối loạn bản năng ăn uống.
D. Do trạng thái bất động căng trương lực.
8. Biện pháp xử trí chủ yếu ở bệnh nhân tâm thần có hiện tượng không chịu ăn

uống là.
A. Điều trị bệnh tâm thần chính.
B. Cho ăn qua sonde mũi-dạ dày.
C. Ni dưỡng qua các dịch truyền.
D. Đảm bảo cung cấp đủ dinh dưỡng.
9. Một trong những trường hợp cấp cứu thường gặp trên lâm sàng ở bệnh nhân
tâm thần là.
A. Kích động.
B. Tự sát.
C. Trầm cảm nặng.
D. Không chịu ăn uống.
10. Thông thường bệnh nhân bị kích động nếu được xử trí đúng và kịp thời thì
trạng thái tâm thần sẽ ổn định sau thời gian.
A. 3 giờ.
B. 4 giờ.
C. 5 giờ.
D. 6 giờ.
ĐÁP ÁN
1.A 2.B

3.A

4.B

5.B

6.C

7.C


20

8.A

9.D

10.D.


PHỤ GIÚP BÁC SĨ KHÁM VÀ LÀM LIỆU PHÁP
CHỮA BỆNH TÂM THẦN
MỤC TIÊU HỌC TẬP
1. Trình bày được cách bố trí phịng khám bệnh cho bệnh nhân tâm thần.
2. Mơ tả được cách phụ giúp bác sĩ khám bệnh và tiến hành một số kỹ thuật.
3. Tiến hành theo dõi và chăm sóc bệnh nhân sau khi làm các kỹ thuật.
4. Kể được một số liệu pháp tâm lý hỗ trợ điều trị bệnh nhân tâm thần.
NỘI DUNG
1. Bố trí phòng khám bệnh cho bệnh nhân tâm thần
- Phòng khám là nơi tiếp đón bệnh nhân đầu tiên, đa số các bệnh nhân tâm thần tự
cho mình là khơng bị bệnh nên từ chối sự khám bệnh. Vì vậy, cách bố trí phịng
khám phải làm cho bệnh nhân có cảm giác dễ chịu thoải mái, yên tâm và hợp tác
để bác sĩ khám bệnh. Cách bố trí phịng khám phải gọn gàng, sạch đẹp, màu sắc
phải hài hòa, trang nhã để làm bớt sự căng thẳng về tâm thần cho người bệnh.
- Thái độ, lời nói, cử chỉ của nhân viên y tế khi tiếp đón người bệnh phải niềm nở,
ân cần, chu đáo, nhẹ nhàng và thực sự tôn trọng bệnh nhân để bệnh nhân tin tưởng
và hợp tác khám bệnh.

…..nhân viên y tế khi tiếp đón người bệnh phải niềm nở ……...
2. Tiến hành phụ giúp bác sĩ khám bệnh cho bệnh nhân tâm thần
- Hướng dẫn chi tiết cho gia đình bệnh nhân khai đầy đủ và chính xác về tiền sử,

bệnh sử tâm thần của bệnh nhân.
- Giải quyết các thủ tục hành chính cần thiết, gọn nhẹ, đơn giản: ghi chép vào sổ
khám bệnh đầy đủ các mục (tên, tuổi, nghề nghiệp, quê quán, nơi giới thiệu của
bệnh nhân…).
- Kiểm tra mạch, nhiệt độ, huyết áp và đánh giá toàn trạng bệnh nhân để báo cáo
cho bác sĩ.
- Thực hiện các y lệnh của bác sĩ một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời.

21


- Phối hợp với bác sĩ xử trí một cách tích cực và kịp thời các trường hợp bệnh
nhân cấp cứu.
3. Chuẩn bị dụng cụ, phương tiện, bệnh nhân và phụ giúp bác sĩ làm các kỹ
thuật - Theo dõi và chăm sóc bệnh nhân sau khi làm kỹ thuật
3.1 Sốc điện (ECT: Electro-Convulsive-Therapy)

Sốc điện ở bệnh nhân tâm thần
- Sốc điện là đưa một dòng xung điện ngoại lai qua não, dòng điện này cộng
hưởng với dòng điện của não làm quá ngưỡng hoạt động của các tế bào thần kinh
thùy trán hoặc thùy thái dương, tạo ra cơn co giật kiểu động kinh và một tình trạng
hơn mê ngắn, xóa đi tồn bộ chức năng hoạt động tâm thần được hình thành trong
quá trình sống cũng như các rối loạn tâm thần được hình thành trong quá trình bị
bệnh, sau khi sốc điện các chức năng hoạt động tâm thần bình thường được phục
hồi trở lại.
- Năm 1938, hai bác sỹ người Ý là L. Bun và U. Cerletti đã sáng chế ra máy sốc
điện, máy có khả năng chỉnh lưu dịng điện thơng thường thành dịng điện có hiệu
điện thế từ 80 - 120 volts cường độ từ 50 - 150 miliampere để dòng điện qua não
đủ gây cơn động kinh mà không làm tổn thương mô não và cơ thể. Ngày nay,
người ta sử dụng máy sốc điện với dịng điện có cường độ và hiệu điện thế nhất

định nên rất an toàn cho người bệnh.
 Chỉ định sốc điện
- Trầm cảm có ý tưởng và hành vi tự sát.
- Tâm thần phân hệt thể căng trương lực, thể paranoid, phân hệt cảm xúc.
189
- Trạng thái hoang tưởng dai dẳng.
- Trạng thái kích động dữ dội, hưng cảm kéo dài.
- Các trường hợp có chống chỉ định dùng thuốc hướng thần hoặc sử dụng thuốc
hướng thần khơng có kết quả.
22


- Các trường hợp từ chối ăn uống.
- Hội chứng suy nhược thần kinh có mất ngủ kéo dài, điều trị lâu ngày khơng có
kết quả.
 Chống chỉ định sốc điện
- Tăng áp lực nội sọ.
- Các bệnh nhiễm khuẩn đang trong giai đoạn cấp tính.
- Bệnh tim mạch như: nhồi máu cơ tìm mới, rối loạn dẫn truyền, phình động
mạch chủ và động mạch não, xơ cứng động mạch não, cao huyết áp, suy mạch
vành.
- Bệnh hô hấp nặng có thể gây hơn mê: suy hơ hấp cấp, bệnh phổi tắc nghẽn mạn
tính.
- Bệnh gan - thận, cường giáp trạng.
- Bệnh tăng nhãn áp.
- Dị tật cột sống, lao cột sống, chấn thương cột sống.
- Các bệnh về xương, khớp như: thưa xương, viêm xương.
- Phụ nữ đang thời kỳ hành kinh và thai ngắt.
- Trẻ em dưới 16 tuổi và người già yếu trên 60 tuổi.
 Liều lượng

- Điều trị tấn công: một ngày một lần, một đợt từ 8 - 10 lần.
- Điều trị củng cố: một tuần hai lần trong 3 tuần.
3.1.1 Chuẩn bị dụng cụ
- Kiểm tra lại máy sốc, điện cực, dây diện một lần nữa trước khi sốc để đảm bảo
an toàn tuyệt đối cho bệnh nhân và nhân viên y tế.
- Quan sát lại xem phòng sốc điện đã đầy đủ các phương tiện và dụng cụ để tiến
hành sốc điện:
+ Bình oxy, máy hút đàm nhớt và dung cụ cấp cứu, thuốc cấp cứu.
+ Paste để bôi vào điện cực (nếu khơng có Paste có thể dùng nước muối 0,9%
tẩm vào gạc để thay).
+ Gạc hoặc băng cuộn để ngáng lưỡi tránh tụt lưỡi, cắn vào lưỡi.
+ Gối kê lưng, khăn mặt để lau đờm nhớt cho bệnh nhân.
3.1.2 Chuẩn bị bệnh nhân
- Giải thích cho bệnh nhân và người nhà bệnh nhân yên tâm.
- Dặn bệnh nhân nhịn ăn trước khi sốc điện ít nhất là 3 giờ để tránh tình trạng thức
ăn trào ngược vào đường hơ hấp.
- Bệnh nhân đi đại tiểu tiện trước khi sốc.
- Tháo răng giả (nếu có), tháo các đồ trang sức trên người bệnh nhân để đề phịng
tai biến có thể xảy ra.
- Kiểm tra mạch, nhiệt độ, huyết áp của bệnh nhân trước khi sốc điện. Nếu thấy
bất thường phải báo cáo ngay với thầy thuốc.
- Tuyệt đối không cho người nhà vào phịng sốc điện, dặn họ chờ ở ngồi đến khi
bệnh nhân tỉnh mới cho vào tiếp xúc.

23


3.1.3 Phụ giúp bác sĩ làm sốc điện
- Thông thường một kíp sốc điện ít nhất là 3 người: bác sĩ chỉ huy chung và bấm
máy. Một người phụ giữ vai bệnh nhân và điều chỉnh ngáng lưỡi trong khi sốc.

Một người phụ giữ điện cực đặt vào hai bên thái dương của bệnh nhân.
- Đặt bệnh nhân nằm ngửa trên giường một cách thoải mái, kê gối thấp dưới lưng
bệnh nhân để đề phòng tai biến trật cột sống khi bệnh nhân lên cơn co giật, cởi cúc
áo ở cổ, thắt lưng quần, đặt cuộn gạc vào giữa hai hàm răng bệnh nhân để cho khỏi
cắn vào lưỡi, bảo bệnh nhân nhắm mắt lại, hai tay để thẳng dọc theo hai bên hông.
- Bôi Paste vào hai cực, sau đó đặt hai điện cực vào hai bên thái dương bệnh nhân.
- Bác sĩ điều chỉnh các thông số của máy sốc cho phù hợp với bệnh nhân, cắm
điện vào máy sốc, bấm nút điện trên máy sốc điện trong khoảng thời gian từ 0,2 1 giây.
- Người phụ giữ hai vai, khớp gối, khớp hàm bệnh nhân, để các chi ở tư thế thoải
mái để đề phòng gãy xương, trật khớp.
- Khi bệnh nhân hết cơn co giật thì rút gối ở lưng ra và kê gối lên đầu cho bệnh
nhân, đặt đầu bệnh nhân nghiêng sang một bên, rút ngáng lưỡi. Nếu cịn đờm dãi
thì lấy khăn mặt lau sạch cho bệnh nhân và kiểm tra xem bệnh nhân có bị xây xát
khơng ?
- Sau sốc điện để bệnh nhân ở phịng thống, đo mạch, nhiệt độ, huyết áp, đếm
nhịp thở và theo dõi từ 30 phút đến 1 giờ.
- Thông thường sau cơn co giật bệnh nhân có rối loạn ý thức trong một thời gian
ngắn và sau đó bệnh nhân sẽ ngủ. Nhưng có một số trường hợp bệnh nhân sau làm
sốc điện còn ở trong tình trạng ú ớ quờ quạng, lúc này bệnh nhân khơng biết gì
nên phải giữ bệnh nhân nằm n tại giường cho đến khi bệnh nhân tỉnh hồn tồn
mới thơi để tránh tai biến.
- Thu dọn dụng cụ, máy móc.
3.1.4 Theo dõi và chăm sóc bệnh nhân sau khi làm sốc điện
- Tỉ lệ tử vong do sốc điện ước tính là 1/50.000 trường hợp, chủ yếu do các biến
chứng về tìm mạch.
- Nếu chuẩn bị tốt, chỉ định đúng, tiến hành đúng thao tác thì sẽ khơng xảy ra
những tai biến do sốc điện (gãy xương, trật khớp, ngừng thở lâu …). Khi có tai
biến xảy ra thì phải tiến hành xử trí kịp thời.
- Trật khớp vai, khớp thái dương hàm, khớp háng…..phải nắn vào đúng phương
pháp và kịp thời.

- Gãy xương do co giật và giữ bệnh nhân khơng đúng tư thế. Xử trí: cố định ngay
xương gãy.
- Gãy răng, răng rụng rơi vào khí quản hoặc thức ăn trào ngược lên đường thở do
chuẩn bị bệnh nhân chưa tốt. Xử trí: mở khí quản cấp cứu trong trường hợp ngừng
hô hấp do phản xạ, dị vật rơi vào đường thở.
- Ngừng thở lâu do ức chế hơ hấp: ấn nhẹ vào vùng trên rốn phía dưới lồng ngực
(ép cơ hồnh) vài lần để kích thích vịng hồnh giúp bệnh nhân thở lại. Thơng
thường ấn vài lần là bệnh nhân có thể thở được bình thường. Nếu ngừng thở kéo

24


dài hơn thì phải hơ hấp nhân tạo hoặc thở yếu thì cho thở ơxy đồng thời dùng thêm
thuốc trợ hơ hấp.
- Nếu bệnh nhân có trạng thái lú lẫn hoặc vật vã, quờ quạng thì phải giữ bệnh nhân
tại giường cho đến khi bệnh nhân tỉnh hẳn mới thôi.
- Nếu bệnh nhân ra đờm dãi nhiều phải lau sạch cho bệnh nhân và đặt đầu nghiêng
sang một bên. Nếu bệnh nhân có nhiều mồ hơi phải lau sạch và thay quần áo cho
bệnh nhân.
- Kiểm tra lại mạch, nhiệt độ, huyết áp và nhịp thở của bệnh nhân, nếu thấy bất
thường phải báo ngay thầy thuốc để xử lý.
- Ngồi ra, sau khi sốc điện bệnh nhân có thể nhức đầu, đau lưng, mỏi các khớp,
giảm trí nhớ, mệt mỏi… cần phải giải thích cho bệnh nhân và người nhà yên tâm
và các triệu chứng trên sẽ mất dần sau một thời gian ngừng sốc điện (rối loạn trí
nhớ gặp ở 75% bệnh nhân, thường sau 6 tháng trí nhớ mới phục hồi hoàn toàn).
3.2 Liệu pháp tâm lý
- Liệu pháp tâm lý là phương pháp tác động của người thầy thuốc một cách tích
cực, có hệ thống vào tâm thần người bệnh thơng qua lời nói, thơng qua các yếu tố
tiếp xúc khác.
- Liệu pháp tâm lý cần được áp dụng từ lúc bệnh nhân đặt chân đến phịng khám

và phải được tiếp tục duy trì trong suốt quá trình bệnh nhân điều trị tại bệnh viện
đến khi bệnh nhân ra viện điều trị ngoại trú. Liệu pháp tâm lý bao gồm liệu pháp
tâm lý gián tiếp và liệu pháp tâm lý trực tiếp.
3.2.1 Liệu pháp tâm lý trực tiếp
- Khi khám bệnh, làm xét nghiệm, thủ thuật, tiêm truyền … phải đảm bảo làm
đúng theo các quy tắc chế độ chuyên môn, tiến hành một cách nhẹ nhàng.
- Các thủ thuật trong bệnh viện cố gắng thực hiện, tránh trói buộc và có hành vi
thơ bạo với bệnh nhân.
- Khi tiếp xúc với bệnh nhân tâm thần cần tránh thái độ sợ sệt hoặc coi thường
bệnh nhân. Khi đón tiếp bệnh nhân phải niềm nở ân cần và chỉ dẫn chu đáo. Kịp
thời loại bỏ những diễn biến tâm lý phức tạp của bệnh nhân có cảm giác bị bỏ rơi
sinh ra lo lắng sợ hãi.
- Phải đảm bảo môi trường “Vô khuẩn về tâm lý”, mọi lời nói của nhân viên phục
vụ phải ăn khớp với nội dung lời nói của thầy thuốc. Những lời nói không khéo,
những cái cười thiếu ý thức, những lời giải thích khơng có trách nhiệm … có thể
làm mất tác dụng của liệu pháp tâm lý rất công phu của thầy thuốc.
- Thái độ của nhân viên y tế đúng mực, niềm nở, chỉ dẫn tỉ mỉ, chu đáo tận tình sẽ
tác động tốt đến tâm thần của bệnh nhân.

25


×