Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

ĐẶC ĐIỂM CA DAO XỨNGHỆ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 139 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH






Nguyễn Thị Kim Ngân






ĐẶC ĐIỂM CA DAO XỨ NGHỆ




Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 60 22 34



LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TSKH. BÙI MẠNH NHỊ







Thành phố Hồ Chí Minh – 2008





LỜI CẢM ƠN



Xin chân thành cảm ơn PGS. TSKH. Bùi Mạnh Nhị đã tận
tình hướng dẫn tác giả hoàn thành luận văn thạc sĩ này.
Xin cảm ơn các Thầy Cô, gia đình, đồng nghiệp và bằng hữu
đã động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình thực hiện đề tài
nghiên cứu.


Nguyễn Thị Kim Ngân

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Ca dao, dân ca là những viên ngọc quí trong kho tàng văn hóa dân tộc, in đậm hình ảnh
cuộc sống và con người Việt Nam. Trong bài viết về truyền thống văn hóa dân tộc, giáo sư viện
sĩ Nguyễn Khánh Toàn đã khẳng định: “Có thể nói dân tộc Việt Nam là một trong những dân

tộc có nền văn hóa dân gian rất giàu đẹp và giá trị của nó đã vượt qua thử thách của thời gian,
bởi vì bản chất của nó là nhân nghĩa t
hủy chung, vì nước, vì dân, vì con người, vì độc lập tự do
hạnh phúc và hòa bình, nền tảng của nó là nhân dân. Nó là một cống hiến xứng đáng vào nền
văn hóa chung của loài người…”. [176]
Cái gốc của văn hóa dân tộc là văn hóa dân gian, đặc biệt là thơ ca dân gian. Có thể nói hơn
bất cứ dữ liệu văn hóa nào khác, qua thơ ca dân gian chúng ta có thể thấy được một phần bản
lĩnh, bản sắc, tính cách của dân tộc Việt Nam. Ca dao là một biểu hiện độc đáo của văn hóa dân
tộc, văn hóa địa phương. Nó vừa có nét chung, tính thống nhất của ca dao các v
ùng miền trên
đất nước, vừa có đặc điểm riêng của từng vùng miền cụ thể, nhất là những vùng miền văn hóa
lớn. Những đặc điểm chung và riêng đó phản ánh tính thống nhất và tính đa dạng của văn hóa
Việt Nam.
Nghệ Tĩnh là một vùng văn hóa rộng lớn, rất lâu đời của văn hóa Việt Nam
. Từ bao đời
nay, các nghệ sĩ dân gian đã không ngừng sáng tạo nên một kho tàng ca dao, dân ca đồ sộ, độc
đáo in dấu hình ảnh đất nước, con người xứ Nghệ. Trong ngôn ngữ chúng ta thường gặp những
khái niệm như “Vùng văn hóa xứ Nghệ”, “Đất Nghệ”, “Người Nghệ”, “Ca dao xứ Nghệ” …
Điều đó là hoàn toàn không phải ngẫu nhiên. “Nghệ Tĩnh có một kho tàng văn hóa dân gi
an rất
phong phú và có lẽ vào bậc nhất so với tất cả các địa phương khác trong toàn quốc”[70] .
Tìm hiểu đề tài “Đặc điểm ca dao xứ Nghệ ” là tìm hiểu tính thống nhất, đặc biệt là những
nét riêng của ca dao xứ Nghệ so với ca dao của các vùng miền khác trên đất nước. Nghệ Tĩnh là
một vùng văn hóa lâu đời, có nhiều đặc điểm riêng biệt về địa lí, lịch sử, cư dân, ngôn ngữ và
văn hóa. Tìm
hiểu về thơ ca dân gian xứ Nghệ cũng là tìm hiểu những đặc trưng về ngôn ngữ
và văn hóa của con người xứ Nghệ qua các câu ca dao, điệu hát, câu hò. Kho tàng thơ ca dân
gian xứ Nghệ rất phong phú đa dạng gồm nhiều thể loại khác nhau. Trong đó ca dao được xem
là thể loại ổn định, phản ánh rõ nét đặc điểm lịch sử, địa lí, văn hóa, ngôn ngữ và bản sắc con
người xứ Nghệ. Tín

h địa phương là một đặc trưng của thi pháp ca dao, của thi pháp Văn học

dân gian. Nghiên cứu đề tài này cũng là tìm hiểu đặc trưng đó, góp phần làm sáng tỏ thêm đặc
trưng thi pháp của ca dao.
Chúng tôi chọn đề tài “Đặc điểm ca dao xứ Nghệ” trước tiên là bởi niềm say mê ca dao
Nghệ Tĩnh - một mảnh đất nghệ thuật đầy hấp dẫn nhưng cũng đầy bí ẩn - và cũng bởi đề tài
này có tác dụng trực tiếp, thiết thực trong việc dạy văn ở Trường phổ t
hông. Hiện nay, văn học
địa phương, trong đó có ca dao địa phương, đang được chọn giảng trong chương trình văn học
địa phương ở các trường. Việc tìm hiểu về ca dao xứ Nghệ sẽ giúp cho việc giảng dạy văn học
dân gian nói chung và văn học địa phương ở Nghệ Tĩnh được tốt hơn.
Là người con xứ Nghệ, lại là một giáo viên dạy văn, mỗi hình ảnh, tấc đất, ngọn núi, con
sông và con người nơi đây là niềm tự hào kiêu hãnh của tôi. Việc khảo sát, tìm hiểu về đặc
điểm
ca dao xứ Nghệ càng giúp tôi thêm hiểu để thêm yêu quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn
của mình.
Vì tất cả những lí do trên, tôi chọn đề tài “Đặc điểm ca dao xứ Nghệ” làm đề tài nghiên
cứu của mình.

2. Lịch sử vấn đề
Các công trình, các bài nghiên cứu về văn hóa dân gian xứ Ng
hệ, có thể chia làm hai loại:
 Những nghiên cứu chung về văn học dân gian xứ Nghệ.
 Những nghiên cứu về ca dao người Việt xứ Nghệ.
2.1. Những công trình nghiên cứu chung về văn học dân gian xứ Nghệ
Những bài nghiên cứu này tuy không đặt vấn đề nghiên cứu riêng về ca dao xứ Nghệ,
nhưng những vấn đề đặt ra có liên quan đến việc tìm hiểu đặc điểm ca dao xứ Nghệ.
Trong những bài nghiên cứu chung trước hết ta phải nói tới bài: “Vị trí và đặc điểm của
vùng văn học dân gi
an Nghệ Tĩnh” của Phó giáo sư Hoàng Tiến Tựu (Thông báo khoa học số 1,

ĐHSP Vinh năm 1983). Trong bài viết này, tác giả đã đặt vấn đề: “Mỗi vùng, mỗi khu vực văn
học dân gian của dân tộc và đất nước đều có một vị trí quan trọng và một phong cách truyền
thống riêng của mình”. Trong bài nghiên cứu công phu này, PGS Hoàng Tiến Tựu đã rút ra 4
kết luận như sau:
1. Trước hết, đây là một vùng văn học dân gian phong phú và hoàn chỉnh c
ó quy mô rộng lớn,
đồng thời có phong cách chung thống nhất trong toàn vùng và đặc sắc, độc đáo so với các
vùng, các khu vực văn học dân gian khác của dân tộc, đất nước.

2. Đây là một vùng văn học dân gian truyền thống có lịch sử lâu đời vào bậc nhất của dân tộc
và đất nước ta.
3. Vùng văn học dân gian Nghệ Tĩnh không những có từ lâu đời mà còn là một quá trình sinh
thành phát triển liên tục, phản ánh hầu hết các chặng đường lịch sử quan trọng, các hình thái
xã hội cơ bản của dân tộc và đất nước từ viễn cổ cho đến bây giờ.
4. Nó phản ánh rất trung thực, rất rõ nét hoàn cảnh thiên nhiên, xã hội và con người của xứ
Nghệ.
Những luận điểm này có tác dụng gợi mở việc nghiên cứu ca dao xứ Nghệ, vì ca dao là
một bộ phận của văn học dân gian.
Công trình thứ hai cần kể tới là bài “Đất nước, con người xứ Nghệ qua k
ho tàng ca dao xứ
Nghệ ” của Trương Xuân Tiếu. (Tạp chí văn hóa dân gian số 3 -1997). Trong bài này tác giả đã
phân tích và khái quát được những đặc điểm
chung về đất nước con người xứ Nghệ: Đất nước
xứ Nghệ thật hùng vĩ, hữu tình, con người xứ Nghệ thật thông minh, quả cảm. Những tên núi,
tên sông, tên làng, tên xã và những tên dòng họ, những con người cụ thể ở xứ Nghệ đã bước
vào trong những điệu hò, câu hát, bài ca, góp phần tô thắm những nét son truyền thống của văn
học dân gian xứ Nghệ. Những kết luận này của tác giả rất có ích cho việc tì
m hiểu tình yêu của
con người xứ Nghệ qua ca dao xứ Nghệ.
2.2. Những công trình nghiên cứu về ca dao xứ Nghệ

Công trình đồ sộ nhất là “Kho tàng ca dao xứ Nghệ” (2 tập) do Nguyễn Đổng Chi – Ninh
Viết Giao (chủ biên) – Võ Văn Trực biên soạn năm 1996 NXB Nghệ An. Trong công trình này
có bài nghiên cứu giới thiệu về ca dao xứ Nghệ của Ninh Viết Giao với tựa đề: “Về ca dao của
người Việt ở xứ Nghệ”. Là một nhà nghiê
n cứu Văn học dân gian lâu năm, có kinh nghiệm, đã
gắn bó với mảnh đất Nghệ Tĩnh hàng chục năm, hơn ai hết tác giả đã sưu tầm, lựa chọn, phân
loại hàng nghìn câu ca dao xứ Nghệ và có bài giới thiệu những đặc điểm, bản sắc riêng của ca
dao xứ Nghệ. Bản thân tác giả đã có nhiều công trình nghiên cứu về văn học dân gian xứ Nghệ.
Trong bài viết trên tác giả đã giới thiệu sơ lược về đặc điểm đất đai, khí hậu, hoàn cảnh lịch sử
của xứ Ng
hệ cũng như sơ lược về nội dung của ca dao xứ Nghệ, qua đó làm nổi bật tính cách,
tình cảm, tâm hồn của con người xứ Nghệ. Trong các đặc điểm của vùng Nghệ Tĩnh, tác giả
đặc biệt nhấn mạnh: “Nghệ Tĩnh có một
kho tàng văn học dân gian rất phong phú và có lẽ
phong phú vào bậc nhất, so với tất cả các địa phương khác trong toàn quốc. Đã bao đời rồi,
cái gia tài vô giá ấy là nguồn nuôi dưỡng tinh thần, là cơ sở văn hóa, là trí tuệ và tài năng, là

sức mạnh vật chất, động lực phát triển… của bà con xứ Nghệ. Ở đây có đủ các loại hình văn
học dân gian mà loại hình nào cũng phong phú”. Đây là một nhận định rất quan trọng, giúp
chúng ta đi sâu tìm hiểu ca dao xứ Nghệ.
Trước khi đi vào nghiên cứu ca dao xứ Nghệ, Ninh Viết Giao nêu ra luận điểm: ca dao của
các vùng (trong đó có Nghệ Tĩnh) là vốn chung của cả nước, ca dao các vùng dù có mang
những điểm
riêng, sắc thái riêng vẫn thể hiện những đặc điểm chung, phổ biến của cả nước.
Đây là một nhận định quan trọng, giúp chúng ta đi vào tìm hiểu những nét riêng của ca dao xứ
Nghệ, tìm hiểu ngọn nguồn của từng bài ca dao.
Nội dung của ca dao xứ Nghệ được Ninh Viết Giao giới thiệu qua nhiều chủ đề, qua đó
làm nổi bật tính cách, đời sống tình cảm cuả con người xứ Ng
hệ. Nghiên cứu về hình thức nghệ
thuật của ca dao xứ Nghệ, tác giả đồng ý với ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu, cho rằng ca dao

xứ Nghệ không được mượt mà, bay bướm.
Về ngôn ngữ của ca dao xứ Nghệ, Ninh Viết Giao viết: “Những bài ca dao ấy, ngôn ngữ
giản dị mà tươi rói như đất mới cày, áo nâu non mới mặc, chứa đầy nhựa sống …”[70]
Về tiếng địa phương trong ca dao, ông nhận xét: “ Mà hình như trong các loại hì
nh văn
vần của kho tàng văn học dân gian xứ Nghệ, ca dao ít từ địa phương, ít phương ngữ hơn cả. Có
chăng là những từ phổ biến dễ hiểu…[70]
Theo tác giả nét riêng biệt của ca dao xứ Nghệ là tính chất “ trí tuệ”, “chữ nghĩa” mang
nhiều “điển tích” và tính chất trạng. “Trạng ở đây thể hiện tính vui vẻ, thông minh, nhanh trí, dí
dỏm, nghịch ngợm của con người xứ Nghệ”[59
].
Về hình thức đối trong thể lục bát và song thất lục bát xứ Nghệ, Ninh Viết Giao nhận
định: “ Có thể nói thêm về hình thức đối trong thể lục bát và song thất lục bát của ca dao xứ
Nghệ, về hình thức này khá nhiều và cũng khá đa dạng, độc đáo, không chỉ đối ngẫu mà còn
đối câu, đối bài.”[70]
Có thể nói xét về mặt hình thức nghệ thuật, tức là thi pháp ca dao xứ Nghệ, Ninh Viết
Giao đã khảo sát đư
ợc một số mặt và đã đưa ra một số nhận xét xác đáng. Những nhận xét ấy
khái quát được những nét đặc trưng riêng biệt của ca dao xứ Nghệ. Tuy nhiên, do đặc điểm và
tính chất của một bài giới thiệu chung về ca dao xứ Nghệ, nên tác giả không đi sâu vào việc tìm
hiểu nghiên cứu về thi pháp của ca dao xứ Nghệ, mà chỉ nói qua về hiện tượng gieo vần, về
ngôn từ, nhất là các từ địa p
hương, về các dạng kết cấu, về thời gian và không gian nghệ
thuật…

Có một số công trình khác không trực tiếp nghiên cứu về ca dao xứ Nghệ mà khảo sát đặc
điểm của ca dao các miền và lấy ca dao xứ Nghệ làm đối tượng so sánh. Tuy vậy ở đây cũng có
những thông tin, gợi ý cho việc tìm hiểu ca dao xứ Nghệ.
Trong những bài viết này, có 3 bài viết đáng chú ý:
- “Bước đầu so sánh những sắc thái miền Trung qua bốn vùng dân ca: Thanh Hóa, Nghệ An,

Bình Trị Thiên và Nam Trung Bộ” của Lê Văn Hảo (Hội thảo khoa học văn học dân gian m
iền
Trung lần thứ nhất)
- “ Sự khác nhau giữa ca dao người Việt ở xứ Nghệ và xứ Bắc” của Nguyễn Phương Châm
(Tạp chí văn hóa dân gian số 3 năm 1997)
-“Ca dao tình yêu và tình cảnh con người ở Bình Trị Thiên” của Trần Thùy Mai (Hội thảo
khoa học văn học dân gian miền Trung lần thứ nhất).
Trong bài viết “Bước đầu so sánh những sắc thái miền Trung qua bốn vùng dân ca: Thanh
Hóa, Nghệ An, Bình Trị Thiên và Nam Trung Bộ”, Lê Văn Hảo đã lấy bốn vùng dân ca: Thanh
Hóa, Nghệ An, Bình Trị Thiên và Nam
Trung Bộ làm đối tượng khảo sát và so sánh. Dựa vào
những dữ liệu về lịch sử, địa lý, văn hóa đã được xác định, ông đưa ra 3 kết luận:
+ Có một văn hóa dân gian miền Trung trên bản đồ văn hóa dân gian Việt Nam.
+ Trên địa bàn văn hóa dân gian miền Trung có bốn vùng văn hóa lớn: Thanh Hóa, Nghệ An,
Bình Trị Thiên và Nam Trung Bộ.
+ Bốn vùng văn hóa ấy tương ứng với bốn vùng ca dao dân ca mà mỗi vùng tiêu biểu cho một
phong cách.
Về cách sử dụng hì
nh ảnh trong ca dao, Lê Văn Hảo nhận xét: “Tình yêu nồng nàn thắm
thiết thường được thể hiện bằng những hình tượng gần gũi quen thuộc giản dị. Để cụ thể hóa
nỗi lòng con người Nghệ Tĩnh thích dùng những hình ảnh rộng lớn, hùng vĩ của quê hương để
ví von”[84]. Tác giả đã khái quát về phong cách người Nghệ Tĩnh: “Phong cách Nghệ Tĩnh có
cái gì gân guốc, cứng cỏi, quyết liệt”[84
].
Trong bài nghiên cứu “Ca dao tình yêu và tình cảnh con người ở Bình Trị Thiên “ Trần
Thùy Mai đã trực tiếp so sánh ca dao tình yêu ở Bình Trị Thiên với ca dao tình yêu Nghệ Tĩnh.
Trần Thùy Mai cho rằng: “ Nếu so sánh phong cách ca dao Bình Trị Thiên với ca dao Nam
Trung Bộ và Nghệ Tĩnh ta sẽ thấy ca dao Bình Trị Thiên gần gũi với phong cách ca dao Nghệ
Tĩnh hơn … Nhưng phong cách Nghệ Tĩnh vẫn khác phong cách Bình Trị Thiên ở chỗ thiên về
tính chân chất, chuộng diễn ý, mộc mạc. Ở đây nói “mộc mạc” không có nghĩa là thổ thiển.



Thực ra về phương diện văn từ ca dao Nghệ Tĩnh rất trau chuốt, điêu luyện..”[131]. So sánh
với ca dao Nam Trung Bộ ,Trần Thùy Mai cho rằng: “Ca dao Nghệ Tĩnh chuộng diễn ý nhưng
cũng như ca dao miền Nam Trung Bộ không có khuynh hướng chuộng hình ảnh âm điệu như ca
dao ở Bình Trị Thiên ..”[131]
So sánh ca dao Bình Trị Thiên và ca dao Nghệ Tĩnh, Trần Thùy Mai có nhận xét: “Phong
cách Bình Trị Thiên ở phía Bắc có nhiều chỗ khá gần gũi với phong cách Nghệ Tĩnh, rạch ròi,
khỏe mạnh, thiên về lí trí. Phí
a Nam không có cái đó, thì lại tinh tế, nhuần nhụy và gợi cảm
hơn”.[131]
Nếu như Lê Văn Hảo và Trần Thùy Mai so sánh ca dao Nghệ Tĩnh với ca dao các vùng ở
miền Trung thì Nguyễn Phương Châm so sánh sự khác nhau giữa ca dao người Việt ở xứ Nghệ
và xứ Bắc trong bài nghiên cứu: “Sự khác nhau giữa ca dao người Việt ở xứ Nghệ và xứ Bắc”.
Nguyễn Phương Châm
đã so sánh sự khác nhau đó trên nhiều bình diện của thi pháp ca dao,
những điều mà hai nhà nghiên cứu trên chưa có điều kiện đi sâu. Trước hết tác giả đưa ra nhận
xét chung: “Nhìn tổng thể trong toàn bộ nội dung ca dao xứ Nghệ và Xứ Bắc thì ca dao xứ
Nghệ phong phú hơn khá nhiều chủ đề được phản ánh”[25]. Về ca dao tình yêu nam nữ của xứ
Bắc và xứ Nghệ, Nguyễn Phương Châm nhận xét: “Đây là một chủ đề được phản ánh viên mãn
nhất trong ca dao hai vùng. Tuy vậy, cách thể hiện các cung bậc tình yêu âm hưởng những lời
ca dao có khác nhau… Cao dao xứ Bắc mượt mà, êm dịu hơn, ca dao tình yêu xứ Nghệ bộc
trực, thẳng thắn và quyết liệt hơn”[25
]. “Ca dao tình yêu xứ Nghệ ngoài cái chất lãng mạn vốn
có của ca dao Việt Nam, nó còn rất thực tế, gần gũi với cuộc sống đời thường đôi khi táo bạo
mãnh liệt”[25
].
Sau khi nhận xét chung về nội dung, Nguyễn Phương Châm đã đi sâu so sánh các khía
cạnh trên bình diện thi pháp. Về ngôn ngữ, tác giả viết: “Cả ca dao xứ Nghệ, xứ Bắc trong ngôn
ngữ đều có sự kết hợp giữa ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ đời thường nhưng sự hoạt động của

ngôn ngữ đời thường mạnh mẽ hơn trong ca dao xứ Nghệ. Ở nơi này, ngôn ngữ đời thường đi
vào ca dao một cách tự nhiên làm cho một số lời
ca dao có cái chất phác, hồn nhiên gần với
hiện thực đôi khi còn hơi thô” [25].
Về cách sử dụng địa danh, tác giả nhận xét: “Nhắc đến tên núi, tên sông như bao nơi khác
nhưng ca dao xứ Nghệ thường dùng một cặp núi - sông tạo thành biểu tượng cho quê hương
mình…” “Cách dùng một cặp địa danh núi -sông như thế đã trở thành một môtip quen thuộc
thường gặp trong ca dao xứ Nghệ”[25
].

Về thể thơ Nguyễn Phương Châm cho rằng: “Cùng mang đặc điểm chung của ca dao Việt
Nam, ca dao xứ Nghệ và xứ Bắc được sáng tác theo thể thơ lục bát là chính nhưng điều khác
nhau cơ bản giữa ca dao hai vùng là ca dao xứ Nghệ có nhiều biến thể và ít có lời ca dao được
sáng tác theo thể lục bát hơn ca dao xứ Bắc”.
Về không gian nghệ thuật, tác giả đã đưa ra những nhận xét khá cụ thể: “Không gian nghệ
thuật cũng có sự khác nhau giữa ca dao xứ Nghệ và ca dao xứ Bắc, Cũng là không gian làng
quê nhưng ca dao xứ Bắc nói một cách xa xôi bóng gió nhiều hơn là cụ thể... Không gian trong
ca dao xứ Nghệ thường cụ thể, gần gũi thân thiết với con người lao động hơn”. “Ngoài những
không gian làng quê như thế, ca dao xứ Nghệ còn mở rộng ra những k
hông gian rộng lớn mênh
mông của biển, cao ngất của núi thể hiện ý chí của con người nơi này… Đó là những không
gian mở, động và rộng rãi hơn ở ca dao xứ Bắc.”
Về phương ngữ, Nguyễn Phương Châm cũng có những quan sát riêng: “Mỗi địa phương
đều có nét riêng về ngôn ngữ và ngôn ngữ ấy in dấu đậm nét vào ca dao. Xứ Bắc thực sự đã mờ
nhạt phương ngữ nhưng xứ Ng
hệ, tiếng Nghệ từ lâu đã là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà
ngôn ngữ học…”. “Nhắc đến ca dao xứ Nghệ, đọc ca dao xứ Nghệ điều khác biệt đầu tiên có lẽ
là phương ngữ và cũng chính phương ngữ xứ Nghệ đã làm cho ca dao xứ Nghệ hay hơn, hấp
dẫn hơn, có tình hơn, độc đáo hơn và nó còn là một tư liệu giúp cho việc tìm hiểu lại lịch văn
hoá của xứ Nghệ và cả dân tộc Việt”[35

].
Tác giả không những đi sâu tìm hiểu những nét khác nhau cơ bản giữa ca dao xứ Bắc và

xứ Nghệ trên bình diện thi pháp mà còn giải thích nguyên nhân của sự khác nhau đó: “Nhân tố
nào là quan trọng làm nên sự khác nhau này?”. “Theo chúng tôi nhân tố đầu tiên có tính chất
quyết định chính là điều kiện tự nhiên. Có thể nói xứ Nghệ là khu vực có khí hậu đặc biệt ở
nước ta. Ca dao xứ Nghệ không được nhẹ nhàng, uyển chuyển, bóng bẩy như ca dao xứ Bắc
cũng là điều dễ hiểu”[25
].
Những đặc trưng khái quát của ca dao xứ Nghệ trong sự so sánh với ca dao xứ Bắc và ca
dao các tỉnh Trung Bộ còn được nhắc đến trong một số công trình nghiên cứu khác như luận án
tiến sĩ của Trần Thị Kim Liên với đề tài “Tính thống nhất và sắc thái riêng trong ca dao người
Việt ở ba miền Bắc, Trung, Nam”, luận án thạc sĩ của Trần Văn Nam với đề tài“Biểu trưng
trong ca dao Nam Bộ”, luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Ngọc Điệp với đề tài “Biểu trưng nghệ
thuật trong ca dao truyền thống người Việt”.

Tuy có nhiều công trình nghiên cứu về ca dao xứ Nghệ, nhưng việc nghiên cứu, khảo sát
đặc điểm nội dung và thi pháp của ca dao xứ Nghệ vẫn là một đề tài cần tiếp tục được quan
tâm.
3. Giới hạn đề tài
Kho tàng ca dao xứ Nghệ rất phong phú, bao gồm ca dao của nhiều tộc người như ca dao
của người Thái, ca dao của người Kinh ca dao của người H’Mông…Ở đề tài này chúng tôi chỉ
khảo sát, nghiên cứu ca dao người Kinh ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩn
h. Nghiên cứu, khảo sát
của luận án chủ yếu dựa vào phần sưu tầm của những nhà nghiên cứu nổi tiếng như Nguyễn
Đổng Chi, Ninh Viết Giao. Tư liệu chính được sử dụng là “Kho tàng ca dao xứ Nghệ” do Ninh
Viết Giao chủ biên, NXB Nghệ An, năm 1996 (tập 1 và tập 2) và “Hát Phường Vải” do Ninh
Viết Giao sưu tầm và biên soạn, NXB Văn hoá Thông tin - Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông
Tây, năm 2001. Đúng ra phải gọi đề tài này là ca dao hay dân ca sưu tầm ở xứ Nghệ, vì ngoài
những bài nói lên đặc điểm địa phương mang địa danh và nhân danh cụ thể, mang tính cách của

con người xứ Nghệ, mang phương ngữ Nghệ Tĩnh, nhiều bài trong quá
trình giao lưu giữa các
miền, do người xứ Nghệ hay người địa phương khác sáng tác ra, giờ đây chưa xác định được.
Luận án chỉ khảo sát những bài được sưu tầm trên đất Nghệ Tĩnh và bấy lâu nay được người
Nghệ Tĩnh giữ gìn, thưởng thức, lưu truyền.
Ngoài ra, để làm
rõ hơn đặc điểm ca dao xứ Nghệ chúng tôi còn chọn một số tư liệu về ca
dao miền Bắc, ca dao xứ Quảng, ca dao Bình Trị Thiên, ca dao xứ Huế, ca dao Miền Nam
Trung Bộ… để so sánh, đối chiếu với ca dao Nghệ Tĩnh.
Luận án giới hạn trong việc khảo sát ca dao truyền thống, tức ca dao xuất hiện từ năm
1945 trở về trước, không nghiên cứu mảng c
a dao hiện đại.
Trong công trình này chúng tôi không có tham vọng tìm hiểu toàn diện ca dao xứ Nghệ vì
điều đó đòi hỏi nhiều thời gian và công sức, mà chỉ muốn nêu lên những đặc điểm mà chúng tôi
cho là khá nổi bật của ca dao xứ Nghệ so với ca dao của một số vùng trong cả nước.
4. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau đây :
4.1. Phương pháp nghiên cứu liên ngành: đối tượng nghiên cứu của luận văn là ca dao xứ
Nghệ. Bản thân ca dao là hiện tượng văn hoá dân gian, gắn với điều kiện địa lý, lịch sử, xã hội,
bản sắc văn hoá của từng vùng, m
iền cụ thể. Ca dao luôn gắn liền với môi trường văn hoá văn
nghệ dân gian, vì vậy sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành (phương pháp nghiên cứu

văn học, văn hóa học, ngôn ngữ học, dân tộc học…) là thích hợp nhất. Khai thác thành tựu
nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau sẽ giúp tìm hiểu đặc điểm ca dao xứ Nghệ đầy
đủ và có cơ sở khoa học hơn.
4.2. Phương pháp thống kê: Đây là phương pháp rất được quan tâm vận dụng trong luận
án. Những con số thống kê cũng phần nào cho thấy đặc điểm của ca dao xứ Nghệ. Phương pháp
thống kê tạo cơ sở khoa học cho những nhận xét, kết luận, làm
cho các nhận xét, kết luận này

có tính thuyết phục, không mang tính chất cảm tính, chủ quan.
4.3. Phương pháp so sánh:Ca dao tồn tại không phải chỉ ở xứ Nghệ mà ở khắp cả nước,
gắn liền với nhiều địa phương, dân tộc khác nhau. Các miền khác của đất nuớc (đồng bằng Bắc
Bộ, vùng Bình Trị Thiên, xứ Quảng, Nam
Bộ) cũng có ca dao với những đặc điểm riêng của
từng vùng văn hóa. Vì vậy, sử dụng phương pháp so sánh sẽ làm nổi bật đặc điểm riêng của ca
dao xứ Nghệ so với ca dao các vùng văn hóa khác.
4.4. Phuơng pháp hệ thống: Phương pháp này giúp nghiên cứu ca dao trong hệ thống vấn
đề liên quan, hệ thống của văn học dân gian, của văn hóa dân gian, của văn học nói chung.
4.5. Phương pháp lịch sử - cụ thể: Giúp xem
xét hiện tượng văn học trong bối cảnh sinh ra
nó và trong diễn biến lịch sử. Nghiên cứu đặc điểm ca dao xứ Nghệ cũng rất cần sử dụng
phương pháp luận này.
5. Kết cấu luận án
Luận án gồm các phần sau đây:
MỞ ĐẦU
Chương 1: Sơ lược về vùng văn hóa xứ Nghệ
Chương 2: Đặc điểm nội dung ca dao xứ Nghệ
Chương 3: Đặc điểm nghệ thuật của ca dao xứ Nghệ
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Chương 1: SƠ LƯỢC VỀ VÙNG VĂN HOÁ XỨ NGHỆ

1.1 Về các khái niệm: xứ Nghệ, ca dao xứ Nghệ
1.1.1. Xứ Nghệ: (bao gồm Nghệ An và Hà Tĩnh hiện nay) hay còn gọi là Nghệ Tĩnh, là
một vùng đất cổ, một trong những địa bàn cư trú của người Việt cổ thuộc khu vực phía Nam
nhà nước Văn Lang và Âu Lạc xưa. Và xa hơn, vùng Nghệ Tĩnh thuộc đất Việt Thường thời cổ.
Mười tám đời Vua Hùng dựng nước còn để lại dấu tích trên mảnh đất này. Theo sách “Lịch sử
Nghệ Tĩnh”[149]

, xứ Nghệ vốn thuộc đất Việt Thường, đến đời Tấn của Trung Hoa thuộc
Tượng Quận. Dưới triều nhà Hán, vùng Nghệ Tĩnh có tên là Hàm Hoan thuộc quận Cửu Chân
ngang với Hàm Hoan cũ đặt tại thành quận Cửu Đức. Xứ Nghệ có tên là Cửu Đức. Dưới triều
nhà Tấn, nhà Tống, xứ Nghệ vẫn được gọi là Cửu Đức. Đầu thế kỉ VI nhà Lương đổi Cửu Đức
thành Cửu Châu, xứ Nghệ được gọi là Đức Châu. Nhưng đến nhà Tùy lại đổi Đức Ch
âu thành
Hoan Châu, tên Hoan Châu có từ đó. Đến năm 607, Tùy Dưỡng đế bỏ các châu cũ và đặt ra các
châu quận thì Cửu Đức (tương đương với Nghệ An), Kim Ninh, Giao Cốc, Năm Lăng, Phúc
Lợi (tương đương với Hà Tĩnh) thuộc quận Nhật Nam. Đến đời nhà Đường các châu quận như
tên cũ. Năm
622 nhà Đường đổi Nhật Nam thành Nam Đức và vào năm 628 lại đổi thành Đức
Châu sau đó lại đổi thành Hoan Châu. Đến Năm 679 nhà Đường lại tách Hoan Châu thành 2
Châu: Diễn Châu và Hoan Châu. Diễn Châu tương đương với các huyện Bắc xứ Nghệ (Quỳnh
Lưu, Diễn Châu, Yên Thành) và vùng núi phía Tây Bắc Nghệ Tĩnh. Hoan Châu bao gồm các
huyện phía Nam Nghệ An và Bắc Hà Tĩnh.
Vào năm 1010, nhà Lý chia nước ta làm 24 lộ thì Diễn Châu và Hoan Châu chia thành hai
lộ. Vào năm Thông Thụy thứ 3 (1036), Lý Thái Tổ đổi Hoan Châu thành Châu Nghệ An và
danh xưng Nghệ An từ đó.
Vào
năm 1428 Lê Lợi chia nước ta thành 5 đạo thì Nghệ An và Viễn Châu thuộc đạo Hải
Tây. Đời Lê Thành Tông (1469) định lại bản đồ, xứ Nghệ được gọi là Nghệ An thừa tuyên.
Triều Nguyễn, Quang Trung đổi Nghệ An thành trấn Nghĩa An. Đầu Nguyễn các đơn vị hành
chính trên đất Nghệ vẫn giữ nguyên như cũ. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) nhà Nguyễn cắt
hai phủ Đức Thọ và Hà Ho
a của Nghệ An thành lập tỉnh mới là Hà Tĩnh. Năm Tự Đức thứ 6
(1852) nhà Nguyễn lại bỏ Hà Tĩnh cho Lộ vào Nghệ An.

Đến năm 1875, lại đặt tỉnh Hà Tĩnh. Ngày 27/12/1975, Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa V kỳ họp 2 ban hành Nghị quyết hợp nhất tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh
thành một tỉnh gọi là Nghệ Tĩnh.

Đến ngày 12/8/1991, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII kỳ
họp thứ 9 ra nghị quyết chia Nghệ Tĩnh thành 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.
Như vậy, xét theo chiều dài lịch sử “Nghệ Tĩnh” trải qua nhiều biến cố, nhiều cách gọi, lúc

phân lúc hợp nhưng vẫn gắn kết làm một: là Hoan Diễn (ngày xưa) và là xứ Nghệ (ngày nay).
Các nhà nghiên cứu dùng từ “Nghệ Tĩnh” để chỉ chung 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh như một
đơn vị truyền thống, thống nhất về mặt văn hoá dân gian.
1.1.2. Ca dao xứ Nghệ
1.1.2.1. Thơ dân gian và các thể thơ dân gian
Thơ dân gian (còn gọi là thơ ca dân gian) là những lời hát có vần, có nhịp điệu được
sáng tạo bởi quần chúng lao động. “Thơ là một thể loại văn học nảy sinh rất sớm trong đời
sống con người, những bài hát trong l
ao động của người nguyên thủy, những lời cầu nguyện
nói lên những mong ước tốt lành cho mùa màng và trong đời sống, các bài niệm chú có thể
được xem là những hình thức đầu tiên của thơ ca. Phải nói rằng thơ chỉ thực sự hình t
hành khi
con người có nhu cầu tự biểu hiện. Khi nói đến thơ ca theo quan niệm thông thường thì thuật
ngữ này hàm nghĩa cho cả các thể loại tự sự và trữ tình” [56]. Theo định nghĩa trên thì mọi thể
loại văn vần dân gian đều được coi là thơ.
Bàn về hình thức và thể loại thơ ca Việt Nam, các tác giả Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức
gọi thơ ca dân gian là “Thơ ca cổ truyền Việt Nam” bao gồm các loại sau đây:
1.
Các thể văn vần dân gian như tục ngữ, câu đố, ca dao, dân ca, vè,.. đó là thể loại gốc.
2. Các thể thơ ca cổ truyền áp dụng vào các dàn nhạc như dàn sáo phường, dàn nhạc cung
đình, dàn nhạc sân khấu.
3. Các thể thơ ca cổ truyền áp dụng vào văn học viết trong các thể như ngâm khúc, truyện
thơ, sử ca [138].
Theo quan niệm trên, thơ ca dân gian bao gồm tất cả các thể loại văn vần dân gian từ tục
ngữ, câu đố đến ca dao. Trong thực tế, có những câu tục ngữ, câu đố có hình thức câu thơ lục
bát nhưng đó là những câu nói có vần, có chức năng chủ yếu là nhận thức.

Do đó, khi
phân định ranh giới cá thể loại văn học dân gian các tác giả Đinh Gia Khánh và
Chu Xuân Diên phân thành 4 loại lớn:

- Lời ăn tiếng nói của nhân dân: tục ngữ câu đố.
- Các thể loại tự sự dân gian: Cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, vè.
- Các thể thể loại trữ tình dân gian: ca dao, dân ca, các câu hò lao động, các bài hát lễ
nghi.
- Sân khấu dân gian: chèo sân đình [102].
Cách phân loại này hợp lí hơn vì nó phân biệt được các thể loại thơ ca dân gian với các
thể loại khác như tục ngữ, câu đố, vè, các loại hình sân khấu…Trong các cách phân loại này, ta
thấy ca dao đã trở thành một thuật ngữ dùng để chỉ một thể thơ dân gian. “Ca dao là những
sáng t
ác văn chương được phổ biến rộng rãi, được lưu truyền qua nhiều thế hệ, mang những
điểm nhất định và bền vững về phong cách. Ca dao đã trở thành một thuật ngữ để chỉ một thể
thơ dân gian”[109]. Không chỉ có ca dao, các thể loại dân ca khác cũng vậy, chẳng hạn như hát
ví, hát giặm, hát phường vải, hát ví giặm… của Nghệ Tĩnh đều là thơ ca dân gian.
1.1.2.1. Các thể thơ dân gian xứ Nghệ
Đối chiếu với các thể loại trữ t
ình trong kho tàng văn học dân gian người Việt, Nghệ
Tĩnh cũng có đủ các thể loại thơ ca dân gian như hò, ví giặm, hát ru, hát sắc bùa, hát thờ cúng
dân gian, chèo, ca trù, xẩm, đồng dao và ca dao.
Theo các nhà nghiên cứu âm nhạc dân gian Nghệ Tĩnh, trong các thể loại trên thì có thể
hò, ví giặm là những thể loại gốc, ra đời và phát triển trên đất Ng
hệ Tĩnh, còn các thể loại khác
thuộc họ lai, không chỉ tồn tại ở địa bàn Nghệ Tĩnh mà cũng có ở những nơi khác. Thơ ca dân
gian Nghệ Tĩnh có ba thể loại chủ yếu, trong đó, ổn định và đặc sắc nhất là hát giặm, hát ví
phường vải và ca dao. Đây là những thể loại có số lượng lời thơ rất lớn, vừa dùng để hát nhưng
cũng có thể dùng để ngâm hoặc đọc.
-

Giặm là dân ca lao động phát triển thành dân ca sinh hoạt trữ tình. Hát giặm thịnh hành
ở các huyện Diễn Châu, Yên Thành, Đô Lương (Nghệ An), Can Lộc, Thanh Hà, Cẩm Xuyên,
Kỳ Anh (Hà Tĩnh).
- Hát phường vải là một thể hát ví. Hát ví Nghệ Tĩnh, trước khi trở thành những lời giao
duyên giữa đôi bên nam nữ, là những lời dân ca lao động gắn liền với nghề nghiệp của các hội,
phường như ví phưởng vải, ví phường gặt, ví phường củi, ví phường nón, ví phường đan…
- Ca dao xứ Nghệ là những lời dân gi
an được nhân dân Nghệ Tĩnh sáng tạo hoặc tiếp thu
từ các thể loại dân ca khác và sáng tạo lại theo hình thức, nội dung, đề tài và mục đích giao
tiếp của ca dao sau khi đã tách rời giai điệu âm nhạc và hoàn cảnh diễn xướng của các loại

dân ca ban đầu. Trong ý nghĩa này, ca dao xứ Nghệ không bao hàm đồng dao, tục ngữ. Ngoài
những bài ca dao do nhân dân xứ Nghệ sáng tác, những lời ca dao hay dân ca sưu tầm ở xứ
Nghệ, có nhiều bài, trong quá trình giao lưu giữa các miền, do người địa phương khác sáng tác
ra. Nhưng những bài ca dao này đều nằm trên đất Nghệ Tĩnh và được người dân xứ Nghệ lưu
truyền.
Trong 3 thể loại: hát dặm, hát ví phường vải, và ca dao thì ca dao là thể loại đặc sắc hơn
cả. Có thể nói, không có lĩnh vực nào của đời sống con người Nghệ Tĩnh lại không có tiếng nói
của ca dao. Ca dao Nghệ Tĩnh lại mang nhiều nét sáng tạo độc đáo cả về nội dung và hình thức.
1.2. Một số đặc điểm nổi bật về địa lí, lịch sử và văn hóa xứ Nghệ
Nghệ Tĩnh, còn gọi là xứ Nghệ… là một vùng đất có những đặc điểm
riêng về thiên nhiên,
lịch sử, tiếng nói, con người, về sinh hoạt văn hóa rất dễ dàng phân biệt với những vùng văn
hóa khác trên đất nước. Những điều kiện địa lí, lịch sử, những thăng trầm đau thương và anh
dũng đã hun đúc cho người xứ Nghệ những tính cách riêng biệt. Không phải ngẫu nhiên mà đã
có ý kiến nhận xét rằng “không có miền nào lại có bản ngã rõ rệt bằng miền này”[37]
.
Xứ Nghệ có nhiều cảnh đẹp như tranh vẽ, cho nên không hiểu từ đời nào đã xuất hiện câu
ca dao như là một lời chào mời:
“Đường vô xứ Nghệ quanh quanh

Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Ai vô xứ Nghệ thì vô.. ”
Là một phần máu thịt của Việt Nam, Nghệ Tĩnh gồm hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh với 16
ngàn cây số vuông diện tích, cùng chung một dải đất liền với các địa phương khác.
Trước hết, về địa hình, địa mạo, Nghệ Tĩnh có núi rừng trùng điệp, mênh
mông, chiếm
ngót hai phần ba diện tích. Núi trải dài và dày đặc ở phía Tây, bốn mùa mây phủ, được nhân
dân quen gọi là dãy Trường Sơn, núi đâm thẳng ra biển gọi là Đèo Ngang (hay Hoành Sơn).
Sách Đại Nam Nhất Thống Chí gọi Nghệ An là “Đất tứ đắc’’ ý nói bốn bề hiểm trở, có lẽ cũng
vì thế. Gần như đây là một vùng chỉ choáng ngợp những núi và biển, nhiều sông ngòi. Trong đó
có dòng sông Lam
(hay sông Cả) vừa dài vừa sâu, vắt ngang từ thượng nguồn trên đất nước
Lào anh em xuôi theo hướng Đông Nam, qua nhiều núi đá hiểm trở có trên 130 ghềnh thác lớn.
Núi sông như thế tạo thành nét đẹp nên thơ vừa tạo nên cái vẻ gân guốc rắn rỏi cho Nghệ Tĩnh,
đồng thời nó cũng chia cắt mảnh đất này thành nhiều khu vực. Thiên nhiên Nghệ Tĩnh hiểm trở
gập ghềnh nhưng không đến nỗi hỗn độn. Đối với việc trồng t
rọt, thiên nhiên quả thực là không

thực tình hào phóng, buộc con người phải vất vả nhiều, nhưng cũng luyện cho con người chí
phấn đấu cao.
Nghệ Tĩnh là khu vực có khí hậu khá đặc biệt. Mùa nóng phải chịu những đợt gió Lào, cái
nóng rang bụi khô thu góp từ lục đại xa xôi trút về đây. Đây cũng là nơi phải chịu những trận
bão xuất phát từ Thái Bình Dương mang theo những cơn gió xoáy hoặc một khối lượng nước
lớn tạo thành lụt ki
nh khủng, gây thiệt hại về người và của không phải là ít. Nghệ Tĩnh là vùng
vừa lạnh, vừa khô. Nói chung là vùng có khí hậu khắc nghiệt với sinh vật, trước hết là đối với
con người và cây lương thực. Từ nạn này đến nạn khác, tình trạng oái oăm thường gặp là nhiều
khi lo chống hạn chưa xong thì bão lụt đã bất ngờ ập tới. Khí hậu khắc nghiệt cộng với đất thiếu
màu mỡ làm
cho nghề trồng trọt khó phát triển, thu hoạch không bù đắp cho công sức vất vả bỏ

ra. Từng tấc đất ở đây đều thấm máu và mồ hôi của cha ông. Hạnh phúc dường như luôn bị đe
dọa nếu không nói là bị lãng quên. Cuộc vật lộn giữa con người và thiên nhiên diễn ra khá liên
tục, điều này được phản ánh rất rõ qua văn học dân gian nói chung và ca dao xứ Nghệ nói riêng.
Về mặt dân tộc và ngôn ngữ, Nghệ Tĩnh cũng là một vùng đáng được chú ý. Hiện nay
chiếm p
hần lớn dân cư Nghệ Tĩnh là dân tộc Kinh (Việt), người Thái là dân tộc chiếm đa số ở
miền núi, ngoài ra có người H’Mông, Đan Lai, Ly Hà, Cuối, Thổ, TàyPoong (Nghệ An), Mã
Liềng, Cọi (Hà Tĩnh)… Người Kinh Nghệ Tĩnh ngày nay nói tiếng Việt - một nhánh của ngôn
ngữ Việt Mường. Trong ngôn ngữ họ còn bảo lưu được khá nhiều từ cổ, đặc biệt là thanh điệu
(mà người các nơi khác cho là “nặng”, là
“trọ trẹ”). Trong văn hóa dân gian của họ không phải
đã mất hết vết cổ kính độc đáo, ví dụ điệu hát giặm chỉ lưu hành trong phạm vi Nghệ Tĩnh, có
“chứa chất một cái gì chất phác của con người thời cổ hay của con người ở chốn núi rừng mà
cuộc sống còn giản đơn và cách biệt”[187].

Trong tính tình của họ còn phảng phất những nét
chất phác, trung hậu, chậm rãi của người thời cổ. Không phải ngẫu nhiên mà Bùi Dương Lịch
đã viết: “Người Nghệ An khí chất (chất) phác (đôn) hậu, tính tình số đông thường chậm chạp
không sắc sảo cho nên làm việc gì cũng giữ gìn cẩn thận, bền vững, ít bị xao động bởi những
lợi hại trước mắt”[123].
Có thể nói thiên nhiên và xã hội đã phần nào qui định nếp sống cũng như cảm nghĩ, nói
chung là tính cách riêng, là cá t
ính của con người ở đây, mặc dầu về cơ bản họ vẫn là nông dân,
ngư dân mang tính cách phổ biến như nông dân, ngư dân ở các tỉnh khác trước cách mạng.
Không phải ngẫu nhiên mà có ý kiến nhận xét sau: “Không có miền nào lại có bản ngã rõ rệt
bằng miền này… Có thể nói có một tinh thần Nghệ Tĩnh… Tinh thần đó làm lộ một cách rõ rệt

lòng phụng thờ, sự cố gắng cùng những tính nhẫn nại, kiên quyết của một dân tộc nông nghiệp
chật vật tranh giành lấy một chỗ sống dưới mặt trời ”[76]. Người Nghệ Tĩnh quen nhìn thẳng
vào sự hiểm nghèo, quen sống trong sự hồi hợp lúc nào cũng cần tự vệ. Trong sách “Văn thơ

Phan Bội Châu” có viết: “Các nhà viết phong thổ ngày xưa cho rằng con người xứ Nghệ can
đảm đến sơ suất, cần cù đến liều lĩnh, kiên quyết đến khô khan và tằn tiện đến “cá gỗ ” …
Từ tính cách này, con người Nghệ Tĩnh đã góp phần làm
nên lịch sử của Tổ quốc, mở ra
những trang sử vẻ vang của xứ Nghệ. Là nơi đầu sóng ngọn gió, Nghệ Tĩnh là “phên dậu của
nước nhà ”, đã nhiều phen là bức thành ngăn chặn, hoặc là mũi tiên phong làm tan rã nhiều đội
quân xâm
lược của các quốc gia, các tộc người.
Là vùng gập ghềnh, hiểm trở lại cách xa biên giới Trung Quốc, Nghệ Tĩnh còn là chỗ dựa
của nhiều triều đại phong kiến, để có lực lượng hậu bị và căn cứ chiến lược, tiếp tục các cuộc
chiến tranh chống nạn xâm lăng của giặc phương Bắc. Không những An Dương Vương chống
quân xâm lược Triệu, nhà Trần chống quân Nguyên, nhà Hồ, nhà Hậu Trần chống quân Mi
nh
đều kéo nhau về đây, hy vọng lấy đất này làm một “Cối Kê ” để quật lại kẻ thù, mà Hàm Nghi
chống Pháp cũng chọn nơi Đây để thổi ngọn lửa kháng chiến đi các tỉnh trong Nam ngoài Bắc.
Là đất có nhiều người con nổi tiếng gan góc, mưu trí, kiên cường, bất khuất trong đấu
tranh thiên nhiên cũng như trong đấu tranh xã hội, Nghệ Tĩnh đã từng sản sinh nhiều bậc anh
hùng nghĩa sĩ có tên tuổi
hay vô danh làm rạng rỡ sử sách. Mảnh đất này cũng sản sinh nhiều
tài năng xuất chúng trong các lĩnh vực. Đúng như câu phương ngôn cổ:
“Ngàn Hống chon von
Biển ngư bát ngát
Thịnh trị gặp thời
Nhân tài đua phát ”

Nghệ Tĩnh được xem là nơi địa linh nhân kiệt. Trong “Hoan Châu phong thổ thoại ”, Trần
Danh Lâm đã viết:
“Dãy Hồng Sơn trùng điệp cao vút lưng trời, cửa Đan Nhai mênh mông sóng gầm dây đất.
Và: “Nam lớn mật to gan; Nữ mĩ miều duyên dáng… không xa hoa tạo lối Tào Đàng; Nét


tiết kiệm theo người Đường Ngụy…”

Và:“Xóm giềng sẵn lòng giúp đỡ; làng xã quen thói nhún nhường. Công cần hội họp mặc
dù cách phủ cách huyện cũng đến ngay; việc nghĩa đáng làm lập tức muôn miệng muôn lòng
chung một dạ…”[121]
Miền đất xứ Nghệ hùng vĩ, hữu tình, con người xứ Nghệ thông minh, quả cảm. Những tên
núi, tên sông, tên làng tên xã, những phong tục tập quán con người xứ Nghệ đã bước vào những
câu hò, điệu hát, bài ca, tô thắm thêm vẻ đẹp của văn hoá dân gian xứ Nghệ, đặc biệt là k
ho
tàng ca dao xứ Nghệ và hát phường vải mà chúng ta đề cập đến trong công trình nghiên cứu
này.

Chương 2: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG CA DAO XỨ NGHỆ

2.1. Quê hương xứ Nghệ trong ca dao
2.1.1. Thiên nhiên
Nhắc đến xứ Nghệ, mấy ai lại không nhớ đến câu ca dao đẹp như một bức tranh:
“Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ”
Bức tranh ấy là nét chấm phá về xứ Nghệ. Những nét đẹp từ dáng núi, hình sông, từ lũy tre
xanh, từ đồng lúa chín, từ những mái nhà tranh, những xóm thôn trù phú ven sông…. Chiêm
ngưỡng vẻ đẹp ấy của xứ Nghệ qua kho t
àng ca dao xứ Nghệ lại càng tuyệt vời hơn, bởi ca dao
dân ca sẽ giúp chúng ta “trở về nguồn, trở về với những gì là cốt tủy của dân tộc”[69].
Xứ Nghệ đẹp như tranh vẽ ấy đã đi vào ca dao một cách nhẹ nhàng. Nơi đây có nhiều
thắng cảnh núi non. Đi từ Bắc vào Nam, ta thấy hình ảnh núi Hai Vai – hóa thân của ông Đùng
[66], người anh hùng bị chém cụt đầu thời tiền sử – đứng uy nghiêm, ngạo nghễ giữa vùng
đồng bằng Diễn Châu:
“Hai Vai cao ngất giữa trời
Em qua không được em ngồi thở than

Nhờ ai nhắn hộ em sang
Rằng em nằm nghẹt giữa đàng chờ anh”
Ngọn núi
Hai Vai cao ngất, rồi dãy Hồng Lĩnh điệp trùng, dòng sông Lam uốn lượn:
“Non Hồng ai đắp mà cao
Sông Lam ai bới ai đào mà sâu”
Núi Hồng Lĩnh nằm ở trung tâm Nghệ Tĩnh. Đây là dãy núi gắn với rất nhiều truyền
thuyết thiê
ng liêng về buổi bình minh lịch sử của dân tộc:
“Chín mươi chín ngọn núi Hồng
Chín mươi chín con chim đậu, còn một con vùng ra khơi”
Bên dãy Hồng Lĩnh là dòng sông Lam, con sông lớn nhất xứ Nghệ. Nhắc đến xứ Nghệ, ta
đều nghe đến núi Hồng- sông Lam. Đây là hình tượng sơn - thủy kết tinh, biểu thị tính địa linh -
nhân kiệt của thiên nhiên xứ Nghệ:
“ Vẻ vui Hồng Lĩnh chung tình
Khi thiêng chung đúc, khách tình tài hoa”

Sải bước tiếp vào phía Nam xứ Nghệ, núi Thiên Cầm hiện lên sừng sững. Nơi đây đã xảy
ra kết cục bi thảm của vương triều nhà Hồ thời Minh thuộc:
“ Núi Cao Vọng, bể Kỳ La
Cha con bị bắt cũng là trời xui”
Và có lẽ, nơi tận cùng phía Nam xứ Nghệ là dãy Hoành Sơn như một bức trường thành tự
nhiên chạy theo hướng từ Tây sang Đông và dựng lại trước biển cả mênh m
ông bằng một đèo
Ngang ngoạn mục:
“Bao giờ Hồng Lĩnh đá mòn
Hoành Sơn mây phủ, dạ còn nhớ anh”
Xứ Nghệ có những danh lam thắng cảnh nổi tiếng vào loại độc nhất vô nhị. Đó là đền Cờn
- một ngôi đền nguy nga tráng lệ, xuất hiện từ rất sớm tại một làng duyên hải ở Quỳnh Lưu:
“ Đồn rằng đức thánh Nghệ An

Quỳnh Lưu bốn tổng đền Cờn vui hơn”
“ Phủ tía, tàn vàng
Cửa đền chín bậc, khắp Nghệ An đâu tày”
Đó còn là chùa Hương Tích - chùa gốc của chùa Hương Tích Hà Tây (nay là Hà Nội), thờ
phật Quan Thế Âm Nam Hải Bồ Tát, rất cổ kính và thơ mộn
g trên cao sơn Hồng Lĩnh:
… “Chùa Tiên cao tít tịt mù
Bao la ngàn Hống, mây mờ giăng giăng”
Xứ Nghệ còn là căn cứ địa của biết bao cuộc khởi nghĩa chống ngoại xâm của dân tộc ta:
“Sa Nam trên chợ dưới đò
Nơi đây Hắc Đế kéo cờ dựng binh”

“ Đường đi cây núi trập trùng
Tìm đâu bãi tập anh hùng Lam Sơn”

“Ai lên chốn đó Vụ Quang
Nhớ khi Tây tả, cụ Phan dựng cờ”
Lưu vực sông Lam
, sông La, sông Phố, những xóm làng ở Diễn Châu, Đô Luơng, Yên
Thành, Đức Thọ, Can Lộc, những tên làng quê vô cùng thân thuộc:
“Đông Thành là mẹ là cha

Đói cơm rách áo thì ra Đông Thành.”

“Đức Thọ gạo trắng nuớc trong
Ai về Đức Thọ thong dong con người.”
2.1.2. Đặc sản
Đặc sản xứ Nghệ, trong khắp tỉnh, vùng nào cũng có, khắp nơi đều có, thứ nào cũng đặc
biệt nổi tiếng như: cam Xã Đoài, bưởi Phúc Thạch, “cá sông Giăng, Măng chợ Cồn”, “nhút
Thanh Chương, tương Nam Đàn”, nước mắm Vạn Phần, gỗ chợ Mỏ, bò chợ Si…

Việc giới thiệu sản vật quê m
ình được người dân xứ Nghệ sắp xếp có vần, giới thiệu, ghi
nhận một cách đầy đủ, rạch ròi, mỗi sản phẩm gắn liền với một địa danh, một làng, một vùng,
không nhầm lẫn vào đâu được. Ví như: “Khoai La Mạc, lạc Cao Điền, tiền Hạnh Lâm, mâm
Văn Chấn, mấn Cát Ngạn”. Hoặc “xáo Chiềng Men, khèn Bản Lạ, cá Xốp Xuồng”. Nghĩa l
à
con gái đẹp như con gái bản Chiềng Men, Khèn bè đẹp và kêu như khèn bản Lạ, cá như cá
vùng Xốp Xuồng. Những vùng trung du xứ Nghệ thường được ca ngợi nhiều về thu hoạch các
loại sản phẩm. Bởi đây là vùng dất đỏ Bazan màu mỡ trù phú. Ca dao xứ Nghệ còn ghi lại :
“Trù rừng, cau rễ thuốc xanh
Ai về Kẻ Nậu với anh thì về”

“Kẻ Chảo đất đỏ như son
Trầu lộc lắm lá, cau non lắm tiền”
Những sản phẩm n
hư song, nu, mây, măng, nấm là những lâm sản quí giá của dân vùng sơn
cước:
“Kẻ Mơ là đất nu, mây
Mấn thì trổ (chuông) rưỡi, nợ xây tứ bề”
Những loài hoa quả ngon nổi tiếng một thời ở xứ này đã để lại trong dân gian những nỗi
thèm khát khi nhắc đến bưởi, cam, mít, quýt:
“Ai hay mít ngọt, trám bùi
Có về Cát Ngạn với tui thì về”
Rồi một vùng Yên Phú (Thạch An, Thanh Chương) giàu có, trù phú, con người thì thong
dong nhàn hạ, là vùng lắm
khoai nhiều lúa, ai ai cũng thèm muốn, thế mới nảy sinh ra câu ca:
“Tháng chín gạo trắng nước trong

Ai về Yên Phú thong dong con người
Yên Phú lắm thóc nhiều khoai

Lắm hàng buôn bán ai ai cũng giàu”
Vùng ven biển Quỳnh Lưu đến Kì Anh, có những hải sản được chế biến vẫn đậm đà hương
vị quê hương, xứ sở. Đó là món cá tươi nướng chín thơm ngon ở Cửa Hội:
“Ai về Cửa Hội quê tôi
Cá thu, cá mực, cá mòi thiếu chi”
Đó là món canh hến ngọt, mát không thể thiếu trong mâm cơm đạm bạc của người dân xứ
Nghệ mỗi độ hè về đầy nắng nóng :
“Quê tôi vốn ở Nguyệt Đàm
Tôi đi bán hến chợ S
a Nam gần kề
Hến tôi ngon gớm ngon ghê
Ai muốn ăn hến thì về quê tôi”
Một số đặc sản khác thuộc vùng đồi núi, trung du, đồng bằng xứ Nghệ như chè xanh,
bưởi, măng, tương, nhút…
“Hãy về Phúc Trạch ơi em
Bưởi ngon có tiếng ai cũng(sèm) thèm muốn ăn”

“Thanh Chương ngon cá sông Giăng
Ngon khoai La Mạc, ngon măng chợ Chùa”

“Ra đi anh nhớ Nghệ An
Nhớ Thanh Chương ngon nhút,
nhớ Nam Đàn thơm tương”
Mặc dù đã có những sự mai một, thất truyền của các làng nghề truyền thống xứ Nghệ,
nhưng tất cả những sản vật ấy giờ đây và mãi mãi về sau vẫn được lưu lại trong ca dao, tục ngữ
của xứ sở này.
2.1.3. Địa danh
Trong ca dao xứ Nghệ, ta thấy những tên núi, tên sông, tên làng, tên xã… những địa danh
ấy được đưa vào ca dao làm
cho ta thêm hiểu, thêm yêu, và gắn bó với quê hương đất nước.

Ca dao Xứ Nghệ nói nhiều đến Kim Liên, nơi chôn nhau cắt rốn của Hồ Chủ tịch:

“Nhất vui là cảnh Kim Liên

Vui chùa nhờ tượng, tốt sen nhờ Chùa.”
Hay:
“Chiều chiều ra đứng Cồn Tiên,
Trông về cái cảnh Kim Liên vui vầy”
Tất cả địa danh trong ca dao Nghệ Tĩnh đều thật, thật mà đọc lên vẫn gợi một cái gì sâu
thẳm trong kí ức để mà bâng khuâng, yêu mến:
“Sông Lam thì nhớ Rú Đuồi
Đá Bia mây dựng nhớ đất bồi bờ sông”
Cũng có khi, những tên làng, tên núi, những địa danh ấy đi vào ca dao như hình tượng của
sự nhớ nhung, m
ong chờ :
“Hồng sơn cao ngất mấy trùng,
Lam Giang mấy tượng thì lòng mấy nhiêu”

“Bao giờ Hồng Lĩnh đá mòn ,
Hoành Sơn mây phủ, dạ còn nhớ anh”
Tất cả các địa danh đã đi vào ca dao tự nhiên và nhẹ nhàng như hơi thở, càng gợi lên cho
ta sự gần gũi, yêu mến. Ta yêu hơn dòng sông Lam - con sông lịch sử, con sông trữ tình, yêu
biết mấy dãy núi Hồng chon von 99 ngọn, yêu lèn Hai Vai, dãy núi Thiên Nhẫn, núi Đại Huệ,
núi Giăng Màn, đình Hoành Sơn, đường Thái Lão, bãi Cửa Lò, cổ thành Trà Long, Nghệ
An…Yêu biết mấy cam
Xã Đoài, bưởi Phúc Trạch, nhãn Đặng Sơn, nước chè Gay... đồ mỹ
nghệ ở Nghi Kim, Nghi Thái, đồ mộc ở Thái Yên, cái võng ở Hoàng La, cái tơi cái nón ở Thạch
Hà…Có thể nói những địa danh ấy đã vẽ lên một xứ Nghệ trong ca dao với đầy đủ cung bậc,
sắc thái và màu sắc. Ca dao là nơi lưu giữ lại những điều kì diệu ấy của làng quê xứ Nghệ. Năm
tháng qua đi, làng xã có thể th

ay tên, biến hình, nhưng vẫn còn đó những cái tên của một thời
lịch sử. Thế hệ sau sẽ biết về một đất Hồng Lam qua kho tàng ca dao xứ Nghệ.
Đối với địa danh học, địa danh trong văn học dân gian là những cứ liệu sống giúp người
nghiên cứu qua đó xác định được sự có mặt tại một địa bàn và những đặc điểm của nơi được
định danh.
Những tư liệu này sẽ giúp chúng ta minh xác sự tồn tại của các địa danh.
Trong ca dao Nghệ Tĩnh, sông Lam và núi Hồng là hai địa danh tạo nên bức tranh sơn thủy
hữu tình:
“Non Hồng ai đắp mà cao

Sông Lam ai bới, ai đào mà sâu”
Núi Hồng, Sông Lam còn biểu trưng cho lòng dũng cảm, khí phách con người:
“Bao giờ Hồng Lĩnh hết cây
Sông Lam hết nước, thù này mới nguôi”
Từ các địa danh trong ca dao, chúng ta có thể hiểu đặc sản, tính chất con người từng khu
vực, như cam Xã Đoài, bưởi Phúc Trạch, nhãn Đặng Sơn, khoai chợ Rộ. Ví dụ:
“Thanh Chương là đất cày bừa
Nam Đường bông vải hát hò thâu canh”
Hay:
“Đặng Sơn người đẹp nước trong
Dâu non xanh bãi, tơ vàng đầy sân”
Đặng Sơn t
rước đây là tổng và bây giờ chính là các xã Đặng Sơn, Bắc Sơn, Nam Sơn
huyện Đô Lương.

“Ai về Hà Tĩnh thì về
Mặc lụa chợ Hạ, uống chè Hương Sơn”
Nho Lâm ở Diễn Châu có nghề luyện sắt nổi tiếng. Hơn thế, xét về mặt ngôn ngữ học,
vùng này có ngữ âm rất “lạ”, khác biệt với khu vực khác, đặc biệt có cảm từ “m
à lề” đứng sau

câu với ý nhấn mạnh :
“Nho lâm than quánh nặng nề
Sức em đương được thì về Nho Lâm”

“Nho Lâm ăn nói nặng nề
Tiếng nói đi trước, “mà lề” theo sau”
Ca dao đã chỉ cho chúng ta biết các địa danh có nghề nghiệp vất vả:
“Kẻ Dặm đục đá nấu vôi
Miệng thì thổi lửa tay lôi rành rành.”
Kẻ Dặm tức là Diễn Minh, Diễn Châu là thế, còn Đồng Chùa thuộc xã Khánh Thành, Yên
Thành lại khác:
“Đồng chùa lắm ốc lắm giam
Lắm cá mu mú ai ham thì về
Đồng chùa lắm hẻn lắm trê,

Ai muốn ăn giấm thì về mà ăn”
Như mọi người đều biết, ở Nghệ Tĩnh, có nhiều địa danh nổi tiếng về học hành, đỗ đạt, ví
dụ như Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu:
“Kinh kỳ dệt gấm thêu hoa
Quỳnh Đôi tơ lụa thủ khoa ba đời”.
Cách sử dụng từ ngữ của dân vùng này cũng khác, khi họ dùng “lèn” là chỉ núi đá vôi như
lèn Hai Vai ở Diễn Châu và dùng từ động, đông, rú t
hay cho “núi”:
“Lèn Hai Vai cao mấy trượng
Rộc Vang Thượng rộng mấy tầng?
Có o con gái họ Trần
Trai trong thiên hạ lần khân đêm ngày”.
“Nhất cao là động mộng Gà
Thứ nhì rút Gám, thứ ba động Thờ”
Có khi là rú, động đó lại gắn với kinh nghiệm sản xuất, dự báo thời tiết. Hơn thế, ca dao

nói về tình yêu đôi lứa cũng nhắc tới hoặc dùng địa danh để ví von :
“Trai Đông Thái, gái
Yên Hồ
Gặp nhau ta nổi cơ đồ cũng nên”
Hay:
“Gái Hà Đông cho không không lấy
Gái Văn Tập đắt mấy cũng mua”
Cũng như nhiều nơi khác, có những địa danh ở Nghệ Tỉnh tồn tại hai ba tên gọi khác
nhau: Hồng Lĩnh, Ngàn Hống, Ngàn Hồng …
“Bao giờ Ngàn Hống hết cây
Sông Rum hết nước họ này hết quan”
Địa danh Nghệ Tĩnh là một khu vực văn hoá từ khe Nước Lạnh đến đèo Ngang. Bất cứ
địa danh nào của người Việt cũng bao gồm h
ai yếu tố chứa đựng hai nội dung thông tin khác
nhau: A và B (yếu tố A là danh từ chung chứa đựng thông tin về ngoại hình của đối tượng:
sông, biển, làng, xóm, đền, chùa… và yếu tố B cho biết các thông tin về đặc điểm riêng của đối
tượng hoặc những ý nghĩa mà chủ thể đặt tên gửi gắm vào.)
Đúng như GS.Hoàng Tuệ đã nhận xét: “Một tên ri
êng tạo nên trong trí óc ta sự liên hệ đến
thực thể. Đó là chức năng ngữ nghĩa của tên riêng”. Các địa danh gắn liền với những địa lý,

×