Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

Nghiên cứu tác dụng hạ đường huyết và khả năng chống rối loạn trao đổi lipid của dịch chiết từ cây Giảo cổ lam (Gynostemma pentaphyllum Thunb)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 47 trang )

Khóa luận tốt nghiệp 1 Trường ĐHSP Hà Nội 2
Bùi Ngọc Diễm K35C. CN Sinh
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay tốc độ phát triển kinh tế ngày càng mạnh, đời sống vật chất và
tinh thần ngày càng tăng cao, kéo theo đó là sự phát triển nhanh của một số
loại bệnh có tác động xấu đến chất lượng cuộc sống của con người. Trong số
đó có bệnh béo phì (BP) và đái tháo đường (ĐTĐ).
Béo phì là tình trạng tích lũy mỡ quá mức và không bình thường tại một
vùng cơ thể hay toàn thân đến mức ảnh hưởng đến sức khỏe như: bệnh tim
mạch, tăng huyết áp, rối loạn lipid máu, tiểu đường, đột quỵ, giảm khả năng
sinh sản, giảm chức năng hô hấp, tăng viêm xương, khớp, ung thư, bệnh
đường tiêu hóa, ….[2], [13].
ĐTĐ với biểu hiện chung nhất là tăng glucose huyết do tế bào  của đảo
tụy Langerhan bị phá hủy mất khả năng sản xuất insulin (ĐTĐ typ I) hoặc do
rối loạn trao đổi lipid - glucid dẫn đến đối kháng insulin (ĐTĐ typ II).
Bệnh đái tháo đường và béo phì có mối quan hệ rất chặt, trong đó đái
tháo đường là hậu quả của bệnh béo phì và thừa cân quá mức.
Trong lịch sử Y học từ 1500 năm trước công nguyên, con người đã
biết sử dụng cây cỏ để chữa ĐTĐ. Nhiều loại thảo dược đã chứng tỏ có tác
dụng rất tốt trong việc điều trị ĐTĐ như: mướp đắng, sinh địa, hoàng kỳ,
huyền sâm, cỏ ngọt, chè xanh, khoai lang,…
Trên thế giới song song với việc nghiên cứu tổng hợp các hợp chất hóa
học dùng làm thuốc điều trị bệnh đái tháo đường, đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu tập trung vào việc khai thác các hoạt chất thiên nhiên từ cây cỏ
của các nước vùng Đông Nam Á, Ấn Độ, Trung Quốc và Nhật Bản [20].
Nghiên cứu được thực hiện tại nhiều quốc gia khác nhau đều dựa trên các thử
nghiệm mô hình động vật BP và ĐTĐ thực nghiệm.
Khóa luận tốt nghiệp 2 Trường ĐHSP Hà Nội 2
Bùi Ngọc Diễm K35C. CN Sinh


Ở Việt Nam, những nghiên cứu về các dược liệu điều trị bệnh đái tháo
đường và béo phì được bắt đầu từ khoảng 5 năm trở lại đây, đáng chú ý là ở 4
trung tâm lớn : Đại học Y Hà Nội, Đại học Dược Hà Nội, Đại học Quốc Gia
Hà Nội và viện Dược liệu Trung ương. Các nhà nghiên cứu Việt Nam đã
chứng minh được tác dụng hạ đường huyết của nhiều dược liệu trong đó có
những vị thuốc cổ truyền lâu đời như Mướp đắng, Thổ phục linh, Bạch truật
[16] và những cây thuốc hoàn toàn mới phân bố rất nhiều tại Việt Nam.
Không chỉ dừng ở những nghiên cứu sàng lọc tác dụng của chất hoạt tính từ
thực vật trên động vật thí nghiệm, nhiều nghiên cứu đã bước đầu đi tách và
tinh chế các thành phần hoạt chất từ những được liệu có tác dụng chữa bệnh
đái tháo đường [7], [10]. Mới đây, các nghiên cứu bước đầu đã cho thấy một
số hoạt chất trong các phân đoạn dịch chiết của vài loài thực vật họ Chua me
(oxali daceae), Tử vi (Lythra ceae), họ Cam chanh (Rutaceae), có chất lượng
cao trong điều trị bệnh BP và ĐTĐ [7], [8].
Qua thời gian khảo sát và tham khảo kết hợp với việc nghiên cứu tài
liệu về các bài thuốc cổ truyền ở nước ta. Tôi nhận thấy cây giảo cổ lam
(GCL) mọc ở vùng núi cao phía Bắc (Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang, Hòa
Bình). Được đồng bào sử dụng nhiều trong đời sống hàng ngày làm thực
phẩm, trà uống, thuốc chữa bệnh.
Trên thực tế việc nghiên cứu đặc tính y dược của các hoạt chất thiên
nhiên từ cây giảo cổ lam chưa được nghiên cứu nhiều. Đây là một dược liệu
đầu vị quý được ghi trong sách cổ Nông chính toàn thư hạch chú quyển hạ
năm 1639. Từ xa xưa được sử dụng cho vua chúa để tăng sức khoẻ, kéo dài
tuổi thọ và làm đẹp. Giảo cổ lam bắt đầu được nghiên cứu từ năm 1976 ở
Nhật Bản. Một số nghiên cứu về Giảo cổ lam hiện nay được thực hiện nhiều ở
Trung Quốc, Mỹ, Đức, Italia , Thụy Điển đã chứng minh GCL có tác dụng
kìm hãm sự tích tụ tiểu cầu, làm tan cục máu đông, chống huyết khối, tăng
Khóa luận tốt nghiệp 3 Trường ĐHSP Hà Nội 2
Bùi Ngọc Diễm K35C. CN Sinh
cường lưu thông máu lên não, chống viêm gan, chứng cao huyết áp và kìm

hãm sự phát triển của khối u mạnh [20].
Ở Việt Nam cây Giảo cổ lam bắt đầu được nghiên cứu năm 1997 do tác
giả Phạm Thanh Kỳ và cộng sự đã chiết tách được thành phần hoạt chất mới
trong cây Giảo cổ lam Việt Nam thử nghiệm trên khối u phổi, đại tràng, vú, tử
cung, tiền liệt tuyến cho kết quả điều trị rất tốt [20].
Viện dược liệu Trung ương và Viện Karolinski Thụy Điển, Hội đái tháo
đường Thụy Điển về cây Giảo cổ lam Việt Nam đã tìm thấy một hoạt chất mới
đặt tên là phanosid. Chất này có tác dụng hạ đường huyết mạnh đồng thời kích
thích tụy tăng tiết Insulin và làm tăng sự nhạy cảm của tế bào đích với insulin.
Phanoside với liều 500 µM kích thích tạo ra insulin mạnh gấp 5 lần hoạt chất
glibenclamide - thuốc chữa bệnh tiểu đường thông dụng [20].
Trên cơ sở tài liệu tham khảo, thông tin thu thập và kết quả của những
công trình nghiên cứu trên cho thấy những tiềm năng của cây giảo cổ lam. Do
vậy chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu tác dụng hạ đường huyết và khả
năng chống rối loạn trao đổi lipid của dịch chiết từ cây Giảo cổ lam
(Gynostemma pentaphyllum Thunb)”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu tác dụng hạ đường huyết và khả năng chống rối loạn trao
đổi lipid của dịch chiết từ cây Giảo cổ lam (Gynostemma pentaphyllum
Thunb).
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tạo mô hình chuột BP và ĐTĐ.
Nghiên cứu tác dụng hạ đường huyết và chống rối loạn trao đổi lipid trên
mô hình chuột thực nghiệm của các dịch chiết từ cây Giảo cổ lam (Gynostemma
pentaphyllum Thunb) trên mô hình chuột gây ĐTĐ type 2.
Khóa luận tốt nghiệp 4 Trường ĐHSP Hà Nội 2
Bùi Ngọc Diễm K35C. CN Sinh
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU


1.1. BÉO PHÌ
1.1.1. Khái niệm và phân loại.
1.1.1.1. Khái niệm.
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO) định nghĩa béo phì (Obesity) là tình
trạng tích lũy mỡ quá mức và không bình thường tại một vùng hay toàn bộ cơ
thể gây ảnh hưởng tới sức khỏe.
1.1.1.2. Phân loại.
Tần suất béo phì thay đổi tuỳ theo tuổi, giới tính, chủng tộc, tình trạng
kinh tế xã hội. Để nhận định tình trạng béo gầy WHO thường dùng chỉ số khối
cơ thể (BMI- Body Mass Index). Chỉ số khối cơ thể được tính theo công thức
như sau:
2
()

W
BMI
H

Trong đó: W: Khối lượng (kg )
H: Chiều cao (m )

Bảng 1.1. Phân loại BMI của người trưởng thành châu Âu và châu Á [2].
Mức độ thể trọng
Người trưởng thành
châu Âu
Người trưởng thành
châu Á
Nhẹ cân
< 18.5
< 18.5

Bình thường
18.5 - 24.9
18.5 - 22.9
Quá cân
≥ 25 - 29.9
≥ 23
Béo phì độ 1
30 - 34.9
>23 - 24.9
Béo phì độ 2
35 - 39.9
25 - 29.9
Béo phì độ 3
≥ 40
≥ 30
Khóa luận tốt nghiệp 5 Trường ĐHSP Hà Nội 2
Bùi Ngọc Diễm K35C. CN Sinh

1.1.2. Nguyên nhân và giải pháp phòng, điều trị béo phì.
1.1.2.1. Nguyên nhân.
- Nguyên nhân chính chiếm 95% dẫn đến thừa cân béo phì là do khẩu
phần và thói quen dinh dưỡng không hợp lý.
- Do hoạt động thể lực kém dẫn đến năng lượng hấp thụ vào cơ thể
vượt quá mức cần thiết và tích lũy dưới dạng mỡ.
- Do một số bệnh lý nội tiết như: Hội chứng Cushing, cường insulin:
do u tụy tiết insulin, tăng ăn ngon, ăn nhiều và tân sinh mô mỡ, tăng tiêu glucid,
giảm hoạt tuyến giáp dẫn đến suy tuyến giáp trạng, bệnh trứng đa nang ,
- Do di truyền: Thống kê cho thấy 77 % người béo phì là tiền sử gia
đình có người béo phì
- Do thuốc: Gần đây, thuốc được thêm vào danh mục nguyên nhân của

các yếu tố béo phì, bởi vì gia tăng dược liệu pháp. Tăng cân có thể là sản phẩm
của các hormon steroides và 4 nhóm chính của các thuốc kích thích tâm thần:
Kháng trầm cảm cổ điển (3 vòng, 4 vòng, ức chế IMAO); Benzodiazepine;
Lithium; thuốc chống loạn thần.
1.1.2.2. Giải pháp phòng, điều trị béo phì.
Để phòng bệnh béo phì có hiệu quả, mỗi cá nhân cần nâng cao nhận
thức về dinh dưỡng và hoạt động thể lực. Trên phạm vi xã hội, việc phòng
bệnh cần tập trung vào nhóm có nguy cơ cao mắc bệnh này.
Điều trị thừa cân béo phì dựa trên nguyên tắc kết hợp giữa chế độ ăn
uống, luyện tập và dùng thuốc. Trong đó thuốc và phẫu thuật chỉ dùng trong
trường hợp bắt buộc.
1.1.3. Biến chứng và những tác hại của béo phì.
Nguy cơ của quá tải trọng lượng hay béo phì là gây nhiều bệnh thậm chí
xuất hiện rất sớm và gây tử vong. Nhiều nghiên cứu cho thấy béo phì dạng nặng
Khóa luận tốt nghiệp 6 Trường ĐHSP Hà Nội 2
Bùi Ngọc Diễm K35C. CN Sinh
và các biến chứng chuyển hoá gây nhiều tác hại cho cuộc sống con người như
mất thoải mái trong sinh hoạt, giảm hiệu suất lao động, khối lượng cơ thể
nặng nề kém lanh lợi. Người béo phì có nguy cơ bệnh tật cao do những biến
chứng như:
- Biến chứng tim mạch: Do mỡ tạng làm tim khó co bóp và mỡ máu
làm xơ cứng mạch vành và các mạch máu khác gây nhồi máu cơ tim, tăng
huyết áp, suy mạch vành, suy tim, tai biến mạch máu não.
- Biến chứng về chuyển hóa:
+ Chuyển hoá lipid: triglyceride huyết tương thường tăng trong béo phì,
tăng triglycerid và lipid có hại (LDL-c), giảm lipid có lợi (HDL-c).
+ Chuyển hoá glucid: có tình trạng kháng insulin, tăng tiết insulin, phát
hiện qua nghiệm pháp dung nạp glucose bằng đường uống bị rối loạn, dễ dẫn
đến bệnh đái tháo đường, vì vậy béo phì là một yếu tố nguy cơ của ĐTĐ
- Biến chứng ở phổi: Giảm chức năng hô hấp vì lồng ngực di động kém do

quá béo. Hội chứng Pickwick: ngưng thở khi ngủ, tăng hồng cầu, tăng CO
2
máu.
- Biến chứng về nội tiết: Tăng insulin máu, tăng đề kháng insulin và
ĐTĐ type 2, do tác dụng bêta-endorphine hoặc giảm số lượng và chất lượng
insulin, kích thích tế bào bêta do ăn nhiều glucid. Chức năng nội tiết sinh dục:
giảm khả năng sinh sản.
- Biến chứng về xương khớp: Tại các khớp chịu lực cao dễ bị đau, thoái
khớp, thoát vị đĩa đệm, trượt đốt sống.
Ngoài ra béo phì còn làm gia tăng nguy cơ của nhiều bệnh khác: xấu đi
tình trạng rối loạn tiền mãn kinh ở phụ nữ, suy giảm chức năng hô hấp, rối
loạn hoạt động cơ xương, ung thư, sỏi mật và các vấn đề bệnh lý tâm thần
khác.
1.2. RỐI LOẠN TRAO ĐỔI LIPID MÁU
Huyết thanh người bình thường có 5 - 7g/l lipid toàn phần bao gồm acid
Khóa luận tốt nghiệp 7 Trường ĐHSP Hà Nội 2
Bùi Ngọc Diễm K35C. CN Sinh
béo tự do, triglycerid, cholesterol toàn phần với hai dạng cholesterol tự do và
cholesterol este, các photpholipid. Vì không tan trong nước nên lipid được vận
chuyển trong máu dưới dạng kết hợp với các protein đặc hiệu. Các acid béo tự
do được vận chuyển chủ yếu bởi albumin, các lipid khác được lưu hành trong
máu dưới dạng phức hợp lipoprotein như: các hạt chymomicron, VLDL, HDL,
IDL, LDL. Các lipoprotein này có kích thước, thành phần, tỉ trọng và chức
năng khác nhau trong quá trình chuyển hóa lipid [5].
Để đánh giá lượng mỡ trong máu người ta làm xét nghiệm với các chỉ số:
- Cholesterol toàn phần
- Triglycerid
- HDL-c
- LDL-c
(2,9 – 5,2 mmol/l)

(0,8 – 2,3 mmol/l)
(0,90 – 1,50 mmol/l)
(0,5 – 3,4 mmol/l).
Tình trạng rối loạn và hoặc tăng nồng độ các thành phần lipid trong
máu, hậu quả là sự tạo thành các mảng xơ vữa gây tắc mạch làm tăng nguy cơ
biến chứng tim mạch và đột qụy, tăng các biến chứng mạch máu khác, hậu
quả nặng nề nhất là dẫn đến tử vong hoặc tàn phế gọi là rối loạn chuyển hóa
[2]. Ngày nay người ta đã xem là có rối loạn lipid máu ngay từ khi tỉ lệ thành
phần của lipid máu có sự thay đổi. Khái niệm này chỉ rõ rối loạn lipid máu có
thể xảy ra từ rất sớm, ngay cả khi chưa có tăng các giá trị tuyệt đối nồng độ
của các thành phần trong máu [2]. Rối loạn này có thể tiên phát do di truyền
hoặc thứ phát sau các bệnh khác như: béo phì, ĐTĐ, nghiện rượu, suy giáp
trạng. Fredrickson căn cứ vào kĩ thuật điện di và siêu ly tâm với các thành
phần huyết thanh đã phân loại chứng tăng lipid máu thành 5 type dựa trên
những thay đổi thành phần lipoprotein. Cách phân loại này đã được WHO
chính thức sử dụng vào năm 1970. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh người
mắc bệnh béo phì có nguy cơ cao mắc các bệnh rối loạn lipid máu dẫn đến xơ
Khóa luận tốt nghiệp 8 Trường ĐHSP Hà Nội 2
Bùi Ngọc Diễm K35C. CN Sinh
vữa động mạch (liên quan chủ yếu đến các lipoprotein) hoặc hiện tượng
“nhiễm độc mỡ tế bào”.
1.3. ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
1.3.1. Khái niệm và tiêu chí xác định bệnh.
Theo WHO, ĐTĐ là một hội chứng rối loạn chuyển hóa cacbonhydrat có
đặc tính biểu hiện bằng tăng glucose máu do hậu quả của việc thiếu hoặc mất
hoàn toàn insulin hoặc do có liên quan đến sự suy yếu trong bài tiết và hoạt động
của insulin [1].
Tăng glucose máu mãn tính thường kết hợp với sự hủy hoại, sự tăng rối
loạn chức năng và sự suy yếu chức năng của nhiều cơ quan đặc biệt là mắt, thận,
thần kinh, tim và mạch máu.

ĐTĐ trong giai đoạn mới phát thường làm bệnh nhân đi tiểu nhiều, tiểu
ban đêm và do đó làm khát nước. Bệnh tiểu đường là một trong những nguyên
nhân chính của nhiều bệnh hiểm nghèo, điển hình là bệnh tim mạch vành, tai
biến mạch máu não, mù mắt, suy thận, liệt dương, hoại thư, cắt cụt chi [1].
Theo ADA năm 1997 và được Tổ chức Y tế Thế giới công nhận năm
1998, tuyên bố áp dụng vào năm 1999, ĐTĐ được chẩn đoán xác định khi có
bất kỳ một trong ba tiêu chuẩn trong bảng 1.2 .
Bảng 1.2. Các tiêu chí để chuẩn đoán ĐTĐ theo WHO.
Kết luận
Đường
huyết lúc
đói (mmol/l)
Đường huyết 2 giờ
sau khi làm nghiệm
pháp tăng đường
huyết (mmol/l)
Đường huyết tại
thời điểm bất kì
(mmol/l)
Đái tháo đường
> 7
> 11.1
>11.1
kèm triệu chứng
uống nhiều, đái
nhiều và gầy sút.
Rối loạn dung
nạp đường huyết
5.6 - 7
7.8 - 11.1

Bình thường
< 5.6
< 7.8
Khóa luận tốt nghiệp 9 Trường ĐHSP Hà Nội 2
Bùi Ngọc Diễm K35C. CN Sinh

1.3.2. Phân loại bệnh ĐTĐ.
Năm 1997, WHO đã đề nghị phân loại ĐTĐ mới dựa trên những tiến bộ
khoa học trong những năm gần đây. Phân loại này dựa vào hiểu biết về nguyên
nhân sinh bệnh
1.3.2.1. ĐTĐ týp 1.
* Khái niệm.
Đái tháo đường type 1 là tình trạng tăng đường huyết mãn tính do hậu quả
của tình trạng thiếu hụt insulin tuyệt đối hoặc tương đối kèm theo các rối loạn
chuyển hóa protein, lipid. Các rối loạn này có thể đưa đến các biến chứng cấp
tính và mãn tính. Loại tiểu đường này xảy ra ở bất kì lứa tuổi nào, nhưng thường
xảy ra ở trẻ em và thanh niên [1]. Chiếm 5 - 10% số người mắc bệnh tiểu đường.
Bệnh nhân ĐTĐ type 1 có đặc điểm lâm sàng phức tạp: Bệnh nhân
thường đi tiểu nhiều, khát nhiều, sụt cân, mờ mắt, mệt mỏi… Bệnh nhân ĐTĐ
type 1 bắt buộc phải điều trị bằng insulin. Người bệnh ĐTĐ týp 1 sẽ có đời
sống phụ thuộc insulin hoàn toàn.
*Cơ chế bệnh sinh.
Do yếu tố di truyền kém sản xuất insulin, phát bệnh tự nhiên, ít phụ thuộc
vào điều kiện môi trường. Nguyên nhân do tế bào β bị phá hủy, gây nên sự
thiếu hụt insulin tuyệt đối cho cơ thể (nồng độ insulin giảm thấp hoặc mất
hoàn toàn). Các kháng nguyên bạch cầu người (HLA) chắc chắn có mối liên
quan chặt chẽ với sự phát triển của ĐTĐ týp 1 [1].
Các giai đoạn trong ĐTĐ type 1
- Giai đoạn 1: Bản chất di truyền – nhạy cảm gene
- Giai đoạn 2: Khởi phát quá trình tự miễn

- Giai đoạn 3: Phát triển một loạt các kháng thể
- Giai đoạn 4: Tổn thương chức năng tế bào β đảo tụy
Khóa luận tốt nghiệp 10 Trường ĐHSP Hà Nội 2
Bùi Ngọc Diễm K35C. CN Sinh
- Giai đoạn 5: Đái tháo đường lâm sàng, phá hủy hoàn toàn hoặc gần như
hoàn toàn tế bào β đảo tụy. Biểu hiện lâm sàng là ĐTĐ phụ thuộc insulin có kèm
biến chứng [7].
1.3.2.2. ĐTĐ type 2.
*Khái niệm.
ĐTĐ type 2 là tình trạng tăng đường huyết do hậu quả của kháng insulin
ở cơ quan đích kèm theo suy giảm chức năng tế bào β hoặc do suy giảm chức
năng tế bào β kèm theo kháng insulin của cơ quan đích. Đây là dạng ĐTĐ
thường gặp nhất, thường gặp ở bệnh nhân lớn tuổi. Chiếm tỷ lệ khoảng 90%
ĐTĐ trên thế giới . Nguy cơ mắc bệnh tăng dần theo tuổi. Tuy nhiên, do có sự
thay đổi nhanh chóng về lối sống, về thói quen ăn uống, ĐTĐ týp 2 ở lứa tuổi
trẻ đang có xu hướng phát triển nhanh.
Đặc trưng của ĐTĐ type 2 là kháng insulin đi kèm với thiếu hụt tiết
insulin tương đối. ĐTĐ type 2 thường được chẩn đoán rất muộn vì giai đoạn
đầu tăng glucose máu tiến triển âm thầm không có triệu chứng.
Khi có biểu hiện lâm sàng thường kèm theo các rối loạn khác về
chuyển hoá lipid, các biểu hiện bệnh lý về tim mạch, thần kinh, thận…, nhiều
khi các biến chứng này đã ở mức độ rất nặng [1].
* Cơ chế bệnh sinh.
Sinh bệnh học ĐTĐ type 2 diễn biến qua 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Nồng độ glucose trong máu vẫn ở mức bình thường, nhưng
có hiện tượng kháng insulin vì mức insulin tăng cao hơn mức bình thường trong
máu.
- Giai đoạn 2: Tình trạng kháng insulin có xu hướng nặng dần và xuất
hiện tăng glucose huyết sau bữa ăn.
- Giai đoạn 3: Sự kháng insulin không thay đổi, nhưng bài tiết insulin suy

giảm và gây tăng glucose huyết lúc đói. Bệnh ĐTĐ biểu hiện qua bên ngoài.

Khóa luận tốt nghiệp 11 Trường ĐHSP Hà Nội 2
Bùi Ngọc Diễm K35C. CN Sinh

Hình 1.1. Các giai đoạn phát triển của ĐTĐ type 2.

Trong số các yếu tố môi trường đóng vai trò thúc đẩy sự phát triển bệnh
thì béo phì là yếu tố thường được đề cập nhất, béo phì làm gia tăng tình trạng
kháng insulin. Nhiều bằng chứng cho thấy kiểm soát tốt tình trạng tăng cân
béo phì sẽ làm giảm đáng kể tình trạng kháng insulin và kiểm soát tốt glucose
huyết [1].
Tóm lại sự thiếu hụt trong bài tiết insulin là nguyên nhân gây ĐTĐ type 2
và béo phì là yếu tố thúc đẩy phát triển bệnh.
1.3.2.3. ĐTĐ thai nghén.
Đái đường thai nghén thường gặp ở phụ nữ có thai, có glucose máu
tăng, gặp khi có thai lần đầu. Sự tiến triển của ĐTĐ thai nghén sau đẻ theo 3
khả năng: bị ĐTĐ, giảm dung nạp glucose, bình thường [3].
1.3.2.4. Các thể ĐTĐ khác (hiếm gặp).
Nguyên nhân liên quan đến một số bệnh, thuốc, hoá chất:
- Thiếu hụt di truyền chức năng tế bào β;
- Thiếu hụt di truyền về tác động của insulin;
- Bệnh tuyến tụy ngoại tiết;
- Các bệnh nội tiết;
Khóa luận tốt nghiệp 12 Trường ĐHSP Hà Nội 2
Bùi Ngọc Diễm K35C. CN Sinh
- Thuốc hoặc hóa chất;
- Nhiễm khuẩn;
- Những thể ĐTĐ miễn dịch trung gian ít gặp;
- Một số hội chứng di truyền kết hợp với ĐTĐ.

1.3.3. Biến chứng và tác hại của bệnh ĐTĐ.
ĐTĐ nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời bệnh sẽ tiến
triển nhanh chóng và xuất hiện các biến chứng cấp và mạn tính. Bệnh nhân có
thể tử vong do các biến chứng sau:
* Biến chứng cấp tính.
Biến chứng cấp tính thường là hậu quả của chẩn đoán muộn, nhiễm
khuẩn cấp tính hoặc điều trị không thích hợp. Ngay cả khi điều trị đúng, hôn
mê nhiễm toan ceton là hiện tượng nhiễm axit chuyển hóa (tỷ lệ tử vong cao 8
- 18%). và hôn mê tăng áp lực thẩm thấu là tình trạng rối loạn chuyển hóa
glucose nặng, đường huyết tăng cao (chiếm 5 - 10%) [2].
* Biến chứng mãn tính.
Biến chứng mắt như: bệnh lý võng mạc (27,8%), đục thủy tinh thể
(6,1%), tăng sinh gây mù lòa (1,1%) Bệnh về võng mạc tăng dần theo thời
gian phát hiện bệnh.
Biến chứng thận như: microalbumin niệu (11,6%), macroalbumin (3%),
suy thận từ độ 1 đến độ 4 (3,5%) …
Biến chứng thần kinh ngoại vi: giảm hoặc mất phản xạ gân xương hoặc
cảm giác rung …
Tổn thương bàn chân: tùy từng mức độ như phỏng rộp, biến dạng, loét,
hoại thư, cắt cụt, …
Biến chứng mạch máu lớn: mạch vành có tới (38%), đột quỵ (1,2%),
tăng huyết áp (27,6%) [2].

Khóa luận tốt nghiệp 13 Trường ĐHSP Hà Nội 2
Bùi Ngọc Diễm K35C. CN Sinh
1.3.4. Các thuốc điều trị bệnh ĐTĐ.
Trừ những nguyên nhân di truyền thì ăn uống sinh hoạt hợp lý điều độ
và khám sức khỏe định kỳ là phương thức chung để phòng bệnh nói chung và
bệnh ĐTĐ nói riêng.
Dựa vào tác dụng và cơ chế tác dụng, các thuốc điều trị bệnh ĐTĐ được

chia thành các nhóm chính:
+ Insulin và các thuốc kích thích bài tiết insulin như Sulfonflurea,
Nateglinid (Starlix) …
+ Thuốc làm tăng tính nhạy cảm của thụ thể với insulin như: Biguanid,
nhóm thiazolidinedion…
+ Các thuốc chống tăng glucose huyết sau bữa ăn: thuốc ức chế enzyme
α- glucosidase…
Tùy theo loại ĐTĐ mà việc điều trị bằng thuốc là khác nhau. Tuy
nhiên, việc sử dụng các thuốc trên còn gây ra một số tai biến và tác dụng
không mong muốn. Ví dụ, insulin gây phản ứng dị ứng, loạn dưỡng mô ở chỗ
viêm, tăng đường huyết hồi ứng; sử dụng các sulfonylurea gây dị ứng ngoài
da, rối loạn tiêu hóa, giảm bạch cầu, hạ tiểu cầu [6].
1.3.5. Y học cổ truyền với bệnh ĐTĐ.
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, cận xích đạo, lượng mưa
nhiều, độ ẩm cao nên có thảm thực vật rất phong phú, đa dạng là nguồn dược
liệu quý. Bên cạnh chế độ ăn uống và tập luyện hợp lý thì việc sử dụng thảo
mộc trong điều trị bệnh ĐTĐ từ lâu đã được biết đến với nhiều tác dụng tích
cực. Các thuốc điều trị bệnh ĐTĐ của Đông Y chủ yếu là các thuốc có nguồn
gốc từ dược liệu. Một số thảo mộc rất sẵn trong nước có tác dụng hỗ trợ điều
trị bệnh ĐTĐ như: Bầu đắng, tỏi, nghệ, quế, hành tây, bí đao, mướp đắng,
khế, khoai lang… [3].
Khóa luận tốt nghiệp 14 Trường ĐHSP Hà Nội 2
Bùi Ngọc Diễm K35C. CN Sinh
Theo Đông Y, bệnh ĐTĐ thuộc phạm vi chứng tiêu khát, với ba triệu
chứng chủ yếu là ăn nhiều, uống nhiều và tiểu nhiều. Do ăn nhiều các chất cay,
béo ngọt làm mất cân bằng âm dương trong cơ thể, tạo thành hỏa nhiệt, uất nhiệt,
làm phần âm của phủ tạng như âm, vị thận bị hao tổn. Hỏa nhiệt làm phế hư gây
chứng tiêu khát, vị âm gây chứng gầy đói, thận âm hư gây tiểu nhiều và tiểu ra
đường. Xuất phát từ quan niệm trên, nên phương pháp điều trị chủ yếu là dưỡng
âm, thanh nhiệt sinh tân dịch làm cơ sở để lập lại cân bằng âm dương trong cơ

thể [2], [3].
1.4. QUAN HỆ GIỮA BÉO PHÌ VÀ ĐTĐ
Béo phì và ĐTĐ là hai bệnh không truyền nhiễm nhưng nguy hiểm
nhất của thế kỉ 21. Hai căn bệnh này có mối liên quan chặt chẽ với nhau thể
hiện ở chỗ tỉ lệ người béo phì luôn tăng tương đương với số bệnh nhân bị
ĐTĐ. Một cuộc khảo sát của Mỹ gần đây đã chỉ ra rằng có tới 58% số người
bị ĐTĐ type 2 được quy cho là do béo phì. Béo phì liên quan tới ĐTĐ type 2
thông qua sự đề kháng insulin. Nồng độ acid béo tự do cứ tăng 100µM thì
mức đề kháng insulin tăng khoảng 5 - 10% [2]. Thiếu insulin dẫn đến sự tăng
trọng lượng cơ thể, tăng đường máu, cuối cùng dẫn đến bệnh ĐTĐ type 2.
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa béo phì và bệnh ĐTĐ
type 2 bao gồm: chỉ số khối cơ thể, thời gian béo phì, chế độ dinh dưỡng, sự
vận động thân thể. Một thống kê đã chỉ ra rằng những người có chỉ số khối cơ
thể lớn hơn 30 kg/m
2
trong 10 năm có nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ type 2 cao gấp
hai lần người bị béo phì dưới 5 năm và nếu trọng lượng cơ thể tăng một
kilogam thì rủi ro về bệnh ĐTĐ type 2 tăng 4,5% . Kết quả của nhiều nghiên
cứu cho thấy acid béo tự do có vai trò trong bệnh sinh ĐTĐ type 2. Phần lớn
người béo phì có nồng độ acid béo trong huyết tương tăng cao. Sự tăng này
ức chế quá trình hấp thu glucose ngoại vi dưới tác dụng của insulin, ức chế sử
dụng glucose của toàn cơ thể, ức chế oxy hóa glucose ở cơ .
Khóa luận tốt nghiệp 15 Trường ĐHSP Hà Nội 2
Bùi Ngọc Diễm K35C. CN Sinh
ĐTĐ đặc trưng bởi sự rối loạn chuyển hóa glucid, sự rối loạn này ảnh
hưởng đến môi trường nội môi do đó kéo theo hoặc làm cho quá trình rối loạn
chuyển hóa lipid ở mỗi loại ĐTĐ mang những đặc trưng riêng. Đặc trưng
chung của rối loạn chuyển hóa lipid trong ĐTĐ là sự tăng triglycerid, giảm
HDL-c và LDL-c vẫn nằm trong giới hạn bình thường. Tuy nhiên ở ĐTĐ
type 1 rối loạn tăng triglycerid sẽ mất đi khi kiểm soát được glucose máu

khác với type 2, rối loạn này có thể vẫn kéo dài mặc dù có sự điều trị
giảm glucose máu thích hợp. LDL-c của type 2 cũng có thể tăng nhẹ và
xuất hiện nhiều LDL-c với kích thước nhỏ và nặng hơn khi việc kiểm soát
glucose kém. Đây chính là yếu tố làm tăng nguy cơ bệnh xơ vữa động
mạch.
1.5. VÀI NÉT CHUNG VỀ CÂY GIẢO CỔ LAM (Gynostemma
pentaphyllum Thunb)
1.5.1. Đặc điểm và phân bố.
Giảo cổ lam có tên khoa học là (Gynostemma pentaphyllum Thunb)
thuộc họ Bầu bí (Cucurbitaceae) còn gọi là Cam trà vạn, cây Cỏ thần kì, cây
Trường sinh, cây Bổ đắng, Sâm phương nam, Dây lõa hùng, Trường sinh
thảo, Ngũ diệp sâm, Phúc âm thảo. Ở Nhật gọi là Machazuru, Trung Quốc gọi
Jiaogulan, Hàn Quốc gọi Dungkulcha, Thái Lan gọi Chasatun.
Giảo cổ lam cây thảo thân mảnh mọc leo yếu nhờ tua cuốn đơn ở nách
lá, không lông, cây đực và cây cái riêng biệt, lá kép khép kín hình chân vịt, lá
có cuống chung dài 3 - 4cm; phiến do 5 - 9 lá chét với mép có răng, dài 3 - 9
cm, rộng 1,5 - 3cm.
Cụm hoa hình chùy mang nhiều hoa nhỏ màu trắng, các cánh hoa rời
nhau xòe hình sao, ống bao hoa rất ngắn 2,5 mm, nhị 5, bao phấn đính thành
đĩa, bầu có 3 vòi nhụy.
Khóa luận tốt nghiệp 16 Trường ĐHSP Hà Nội 2
Bùi Ngọc Diễm K35C. CN Sinh
Quả khô, tròn, đường kính 5 - 9 mm, khi chín có màu đen, hạt 2 - 3,
treo, to 4 mm. Ra hoa tháng 7 - 8, thu quả chín tháng 9 - tháng 10.
Họ bầu bí là một trong những họ quan trọng nhất trong việc cung cấp
thực phẩm trên thế giới, có khoảng 125 chi với 960 loài. Phân bố chủ yếu ở
các vùng nhiệt đới và ôn đới phần lớn các loài trong họ này sống 1 năm, hoa
lớn. Chi Gynostemma hiện nay có khoảng 21 loài giảo cổ lam có 4 loại: Giảo
cổ lam 3 lá, 5 lá, 7 lá, 9 lá. Giảo cổ lam mọc ở độ cao trên dưới 2.000m so
mới mặt nước biển, trong các khu rừng thưa, ẩm thấp, khí hậu lạnh, nhiệt độ

thích hợp từ 20 - 28
0
C. Quanh năm cây phát triển tốt dưới ánh sáng yếu (cây
ưa bóng) [9].
GCL xuất hiện nhiều nhất ở vùng núi Tây Tạng. Ngoài ra, một số vùng
ở Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Indonesia, Triều Tiên , Thái lan và một số
nước châu Á khác. Ở Việt Nam chủ yếu mọc ở miền núi phía bắc như Sapa,
Hòa Bình, Tam Đảo, Cao Bằng, Hà Giang [20].
1.5.2. Thành phần hóa học.
GCL được coi là một dược liệu đầu vị quý ghi trong sách cổ “Nông
chính toàn thư hạch chú”, quyển hạ, năm 1639, của Trung Quốc.
Thành phần hóa học chính là flavonoid và saponin. Ngoài ra còn chứa
carotenoid, polysacharid, steron, chứa nhiều acid amin tan trong nước, nhiều
vitamin và các nguyên tố vi lượng như: selen, kẽm, sắt, mangan, phốtpho
GCL chứa hơn 100 loại saponin cấu trúc triterpen kiểu dammaran,
trong đó số sapoin của GCL nhiều gấp 3 - 4 lần so với nhân sâm, ngoài ra còn
chứa nhiều Flavonoid, chất có tác dụng sinh học cao và chống lão hoá mạnh.
1.5.3. Một số tác dụng sinh học.
Theo y học Trung Quốc thì GCL có vị đắng, tính mát, cường dương, bổ
âm có rất nhiều công dụng: Dùng làm thức ăn hàng ngày, có thể xào, nấu canh,
Khóa luận tốt nghiệp 17 Trường ĐHSP Hà Nội 2
Bùi Ngọc Diễm K35C. CN Sinh
nộm, hay phơi khô lá và thân sắc nước uống. Một số nơi sử dụng để trị giun sán,
làm mát gan, nóng trong, dùng làm nước tắm trị rôm, nóng phát ban
Y học hiện đại đã có nhiều công trình nghiên cứu về cây GCL kết quả
nghiên cứu đã cho thấy những tác dụng chính là:
- Giảm cân: Sau hai tháng dùng GCL chỉ số BMI giảm từ 25,04 xuống
còn 23,12 với P < 0,01. Như vậy tác dụng giảm cân của GCL là tương đối
mạnh, tuy nhiên GCL chỉ làm giảm lượng mỡ dư thừa tích tụ ở vùng bụng,
đùi và nội tạng do tăng cường chuyển hoá mỡ nhưng lại làm tăng trọng lượng

cơ bắp nên chỉ giảm cân tốt ở những người béo.
- Tăng lực: GCL làm tăng lực co cơ tới 11,112kg, cao hơn hẳn
Quercetin (1,8) và Phylamin (1,7). Tác dụng này phù hợp với mục đích dùng
GCL cho các vận động viên thi đấu để nâng cao thành tích ở Nhật Bản và
Trung Quốc (còn được gọi là doping thiên nhiên).
- Tác dụng trên huyết áp: sau hai tháng điều trị bằng GCL, huyết áp
trung bình của các bệnh nhân giảm rõ rệt.
- Tác dụng giảm mỡ máu: Giảo cổ lam làm hạ mỡ trong máu tới 20%,
đặc biệt làm giảm LDL (Cholesterol xấu) 22%.
- Tác dụng bảo vệ gan: 100 bệnh nhân bị viêm gan B dùng GCL trong
hai tháng đã cải thiện rõ rệt tình trạng bệnh.
- Các triệu chứng cơ năng khác: Đau đầu, thiếu máu não, đau tức ngực,
choáng ngất, mệt mỏi đều được cải thiện rất tốt. Về ăn, ngủ, đại tiểu tiện đều
có cải thiện tốt lên (bệnh nhân dễ ngủ hơn, ngủ sâu giấc, ăn ngon miệng, hạn
chế số lần đi tiểu trong đêm, hết táo bón).



Khóa luận tốt nghiệp 18 Trường ĐHSP Hà Nội 2
Bùi Ngọc Diễm K35C. CN Sinh
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.1.1. Mẫu thực vật.
Các phân đoạn dịch chiết cây Giảo cổ lam (Gynostemma pentaphyllum
Thunb) đã được định tính (xác định thành phần các hợp chất tự nhiên trong
cây GCL), định lượng polyphenol tổng số bằng phương pháp sắc kí lớp mỏng
và phương pháp Folin-Ciocalteau.


Hình 2.1. Cây giảo cổ lam.
Khóa luận tốt nghiệp 19 Trường ĐHSP Hà Nội 2
Bùi Ngọc Diễm K35C. CN Sinh

Hình 2.2. Quả xanh và quả chín của Giảo cổ lam.

2.1.2. Động vật thí nghiệm.

Hình 2.3. Tủ sấy thức ăn cho chuột TN
o
và chuột nuôi (béo phì, chuẩn) TN
o
.

Chuột nhắt trắng Mus musculus (chủng Swiss) có trọng lượng 18 - 20g
đảm bảo sinh lý khỏe mạnh, đủ tiêu chuẩn cho nghiên cứu, được Viện vệ sinh
dịch tễ Trung ương cung cấp. Hàng ngày chuột được nuôi trong điều kiện phòng
22 - 25
o
C, ăn uống tự do và chế độ quang chu kì 12 h sáng: 12 h tối.
Khóa luận tốt nghiệp 20 Trường ĐHSP Hà Nội 2
Bùi Ngọc Diễm K35C. CN Sinh

2.1.3. Dụng cụ, hóa chất thí nghiệm.
* Hóa chất:
- STZ (streptozotocin) Sigma, ST. Louse
- Silicagel 60 (0,04 - 0,063 mm) Merck
* Dụng cụ:
- Tủ sấy Memert, Đức.
- Máy cô quay chân không RE 400 Yamato, Japan.

- Máy xét nghiệm tự động các chỉ số sinh hóa OLYMPUS AU 640,Nhật.
- Máy đo đường huyết tự động OneTouch Ultra và que thử, Mỹ.
- Micropipet và các dụng cụ đo đếm khác.
- Cân kĩ thuật GM612, Đức.
- Máy quang phổ UV - VIS 1000.
- Một số máy móc cần thiết khác như: voltex, máy ly tâm, máy khuấy
từ, bếp điện.

2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Phương pháp gây ĐTĐ thực nghiệm STZ và xây dựng mô hình
chuột béo phì thực nghiệm.
2.2.1.1. Phương pháp gây ĐTĐ thực nghiệm STZ.
Streptozotocin (STZ: 2 - deoxy - 2 - (3 - metyl - 3 - nitrosoureido) - D -
glucopyranose) là chất có hoạt tính chống ung thư được chiết xuất từ nấm
Streptomyces achromogens. Khả năng gây ĐTĐ của STZ đã được phát hiện vào
năm 1963. Kể từ đó STZ được sử dụng rộng rãi trong mô hình động vật ĐTĐ
type 1 và type 2 phục vụ trong các nghiên cứu về thuốc [5].
Khóa luận tốt nghiệp 21 Trường ĐHSP Hà Nội 2
Bùi Ngọc Diễm K35C. CN Sinh


Tùy vào liều lượng STZ và cách thức tiến hành người ta có thể gây
ĐTĐ type 1 hay type 2.
ĐTĐ type 1: với chuột cống trưởng thành, tiêm liều duy nhất từ 40 - 60
mg/kg thể trọng hoặc cao hơn. Với chuột nhắt trưởng thành, tiêm liều 100 -
150mg/kg thể trọng.
ĐTĐ type 2: với chuột cống, tiêm STZ liều 100mg/kg vào ngày đầu
tiên sau khi sinh. Với chuột nhắt có thể nuôi với chế độ dinh dưỡng giàu
lượng mỡ sau đó tiêm STZ với liều 50 - 110mg/kg.
STZ được nhận biết và xâm nhập vào tế bào β qua kênh vận chuyển

glucose GLUT2. Hoạt động của nó trong tế bào làm tổn thương và alkyl hóa
ADN và cuối cùng dẫn tới hoại tử tế bào. Hoạt tính alkyl hóa của STZ do hoạt
động của nhóm nitrosourea của nó, đặc biệt là ở vị trí O
6
của guanine.
STZ tạo ra nitric oxide (NO) làm tổn thương ADN của tế bào β.
Mặt khác, hoạt động của NO làm ức chế chu trình Krebs, giảm tiêu thụ oxy
trong ty thể từ đó làm giảm mạnh sự sản xuất ATP và tổn hại đến các
nucleotit của tế bào. Đồng thời phân tử này còn ức chế hoạt tính enzyme
aconitase. Mặt khác, sự tăng cường loại bỏ gốc phosphate của ATP sẽ bổ sung
cơ chất cho xanthine oxidase và tăng cường sản xuất acid uric. Sau đó,
xanthine oxidase xúc tác phản ứng tạo thành anion superoxyde (O
2
-
). Cuối
cùng anion superoxyde sinh ra hydrogen peroxide (H
2
O
2
) và gốc hydroxyl
(OH
-
). Các dạng oxy phản ứng này cũng tập trung phá hủy ADN và gây ra
Khóa luận tốt nghiệp 22 Trường ĐHSP Hà Nội 2
Bùi Ngọc Diễm K35C. CN Sinh
những thay đổi bất lợi cho tế bào. NO và các dạng oxy hoạt động còn có thể
tạo thành peroxynitrate (ONOO) có độc tính cao. Tổn thương ADN gây ra bởi
STZ làm tăng cường quá trình trùng hợp ADP (Poly ADP - ribosylation) dẫn
đến làm mất NAD
+

, xa hơn nó phá hủy ATP dự trữ và sau đó ức chế sự tổng
hợp và tiết insulin của tế bào β [20].


Hình 2.4 Cơ chế gây độc của STZ lên tế bào β của đảo tụy chuột
(MIT - Ty thể, XOD - xanthine oxidase).
2.2.1.2. Xây dựng mô hình chuột béo phì thực nghiệm.
Chuột nhắt trắng chủng Swiss, sau khi mua về chuột được chăm sóc
bình thường trong 3 - 4 ngày để thích ứng với môi trường mới sau đó chúng
tôi tiến hành phân chuột thành 2 nhóm với hai chế độ dinh dưỡng như sau:
Nhóm 1 - Nhóm đối chứng: Các con chuột tiếp tục được chăm sóc
bằng thức ăn bình thường (do viện Vệ sinh Dịch tễ cung cấp).
Nhóm 2 - Nhóm nuôi béo: Các con chuột được chăm sóc bằng chế độ
thức ăn giàu lipid và cholesterol do chúng tôi phối trộn các thực phẩm dinh
dưỡng được tính toán với thành phần như bảng 2.1.
Các nhóm chuột được theo dõi trong vòng 8 tuần, trọng lượng của các
con chuột được kiểm tra hàng tuần. Vào tuần cuối cùng thời gian thí nghiệm,
Khóa luận tốt nghiệp 23 Trường ĐHSP Hà Nội 2
Bùi Ngọc Diễm K35C. CN Sinh
sau khi xác định trọng lượng, chúng tôi tiến hành lựa chọn ngẫu nhiên từ mỗi
nhóm ra 10 con chuột, lấy máu tổng số và phân tích một số chỉ số lipid máu.
Các số liệu được thu thập và tiến hành xử lý thống kê.

Bảng 2.1. Thành phần thức ăn giàu lipid.
Thành phần
Tỉ lệ %
Hydratcacbon
41
Lipid
32

Protein
20
Cholesterol
1
Chất khoáng
4
Vitamin & acid
amin
2

2.2.2. Phương pháp nghiên cứu tác dụng hạ glucose huyết của các phân
đoạn dịch chiết GCL (Gynostemma pentaphyllum Thunb) trên mô hình
chuột ĐTĐ type 2.
Để tìm hiểu tác dụng của dịch chiết Giảo cổ lam lên đường huyết, trước
tiên chúng tôi tiến hành gây mô hình chuột ĐTĐ mô phỏng type 2 dựa trên
chế độ ăn giàu chất béo kết hợp với STZ liều đơn của Srinivasan.
2.2.2.1. Tạo mô hình chuột ĐTĐ type 2.
Để có mô hình chuột ĐTĐ mô phỏng type 2, chuột nuôi với chế độ ăn
giàu chất béo và cholesterol sau 8 tuần, được tiêm màng bụng liều đơn STZ
(110mg/kg pha trong đệm citrate 0,01M, pH = 4,3).

Hình 2.5. Thuốc STZ và cách tiêm màng bụng cho chuột.
Khóa luận tốt nghiệp 24 Trường ĐHSP Hà Nội 2
Bùi Ngọc Diễm K35C. CN Sinh
Đo đường huyết tại các thời điểm 0 giờ (trước khi tiêm STZ), 24 giờ,
48 giờ và 72 giờ (sau khi tiêm STZ) (3 lần, mỗi lần cách nhau 1 tiếng và lấy
trung bình). Chuột nào có đường huyết cao ( ≥18 mmol/l) và ổn định được lựa
chọn để cho uống cao các phân đoạn dịch chiết trong vòng 21 ngày. Đường
huyết trong các trường hợp trên đều được đo sau khi cho chuột nhịn qua đêm
(12 giờ), chỉ cho uống nước.

2.2.2.2. Nghiên cứu khả năng hạ glucose huyết của các phân đoạn dịch
chiết.
Các lô chuột ĐTĐ type 2 (5 con / lô) được ăn thức ăn thường và điều
trị hằng ngày bằng cách cho uống cao các phân đoạn dịch chiết như bảng 2.2.
Đường huyết của các con chuột được đo vào cùng một thời điểm trong ngày
và sau khi nhịn đói 12 giờ ở các ngày thứ 0 (trước khi điều trị), ngày thứ 5,
thứ 10, thứ 15, thứ 21 khi điều trị.
Bảng 2.2. Mô hình nghiên cứu khả năng hạ glucose huyết của các phân
đoạn dịch chiết từ GCL (Gynostemma pentaphyllum Thunb).

Chế độ ăn
trước điều
trị
Tiêm
Mục đích
1
Thức ăn chuẩn

Uống nước cất, không điều trị.
2
Thức ăn béo
STZ
Uống nước cất, không điều trị.
3
Thức ăn béo
STZ
Điều trị metformin (500mg/kg) thể trọng.
4
Thức ăn béo
STZ

Điều trị cao phân đoạn ethanol (2000mg/kg).
5
Thức ăn béo
STZ
Điều trị cao phân đoạn n- hexan (2000mg/kg).
6
Thức ăn béo
STZ
Điều trị cao phân đoạn CHCl
3
(2000mg/kg).
7
Thức ăn béo
STZ
Điều trị cao phân đoạn ethylacetate (2000mg/kg).
8
Thức ăn béo
STZ
Điều trị cao phân đoạn nước (2000mg/kg).

2.2.3. Một số kĩ thuật phân tích hóa sinh.
2.2.3.1. Phương pháp định lượng glucose huyết.
Xác định nồng độ glucose huyết trên máy đo đường huyết với que thử
tự động One Touch Ultra.
Khóa luận tốt nghiệp 25 Trường ĐHSP Hà Nội 2
Bùi Ngọc Diễm K35C. CN Sinh
Nguyên tắc: Bộ KIT thử dựa trên phản ứng oxy hoá glucose bằng
glucose oxidase (GOD) và hydrogen peroxide tạo thành tác dụng với 4-
aminoantipyrin và phenol nhờ xúc tác của peroxidase (POD) tạo phức hợp
quinoimin theo các phản ứng.


Glucose+O
2

Glucose
oxidase

Gluconic acid+H
2
O
2

Peroxidase
Gluconic acid+Phenol+4-
aminoantipyrin


Quinoimin(đỏ)+4H
2
O
2


Cường độ màu được xác định theo phương pháp đo quang tương ứng
với lượng glucose trong máu cần định lượng.
Phương pháp tiến hành.
- Gắn một que thử để bật máy, nhấn nút C để chọn code chính xác với
mã ghi trên lọ que thử.
- Lấy kim chích vào đuôi chuột, vuốt nhẹ cho máu ra khoảng 1µl và
giọt máu phải tròn đầy. Thấm nhẹ giọt máu vào điểm nhận máu trên đầu que

thử, máu tự động được hút vào vùng đo nơi phản ứng xảy ra. Sau 5 giây kết
quả sẽ hiển thị trên màn hình.


Hình 2.6. Định lượng glucose huyết của chuột nhắt.

×