Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

VAI TRÒ CỦA GIỚI LUẬT PHẬT GIÁO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.04 KB, 13 trang )

1
VAI TRÒ CỦA GIỚI LUẬT PHẬT GIÁO
Bài thi giữa học kỳ 2 năm thứ nhất
MÔN LUẬT HỌC PHẬT GIÁO
GV hướng dẫn ĐĐ Tiến sĩ Thích thiện Quý
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HCM

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
2
Dàn bài
I. Lý do chọn đề tài và phạm vi nghiên cứu
II. Giới Luật
1. Quan điểm đạo đức của Phật giáo
2. Định nghĩa giới luật
3. Đặc điểm của giới luật
4. Sự khác biệt các loại giới (tự nhiên, xã hội, giới luật PG)
5. Mục đích của giới luật
6. Quá trình hình thành và phát triển của giới luật
7. Lợi ích của giới luật
III. Nội Dung của giới luật
1. Ba la Đề Mộc xoa (Patimokkha) cho tỳ kheo và tỳ kheo ni
2. Mười giới dành cho sa di, sa di ni
3. Thức xoa ma ni (Thêm 6 giới)
4. Tam qui, Ngũ giới, bát quan trai giới cho người tại gia
5. Bồ tát giới cho cả người tại gia lẫn xuất gia
IV. Vai trò của giới luật đối với Phật giáo, con người và xã hội
1. Giới luật là thọ mạng của Phật giáo
2. Giới luật là nền tảng của sự phát triển Phật giáo
3. Tác động giải thoát của giới luật – Quan hệ Giới Định Huệ
4. Vai trò của giới luật trong đời sống sinh hoạt xã hội
V. Kết luận


3
I. Lý do chọn đề tài và phạm vi nghiên cứu
Lộ trình giải thoát cho con người mà đức Phật nêu ra có thể tóm gọn trong 3 chữ Giới, Định,
Tuệ, trong đó Giới là bước đầu tiên mà hành giả cần thực hiện trước khi đạt được Định và Huệ.
Do giữ được Giới mà thân tâm không loạn động, nên tâm trí được Định, nhờ đó trí não lần lần
phát sáng, ấy là Tuệ. Vì vậy, việc tìm hiểu ý nghĩa của Giới luật Phật giáo là một việc vô cùng
cần thiết đối với những ai muốn nghiên cứu về Đạo Phật nhưng cũng không thể chỉ dừng lại ở
việc nghiên cứu suông mà qua nghiên cứu phải áp dụng được vào thực tế, giúp cho hành giả
trên con đường đi đến giải thoát.
Đề tài giới luật cũng đã được rất nhiều học giả nghiên cứu viết thành tiểu luận và sách, do vậy ở
đây người viết chỉ muốn nhấn mạnh đến khía cạnh vai trò của giới luật Phật giáo đối với sự tồn
tại và phát triển của đạo Phật, với đời sống tu tập và trong các mặt sinh hoạt đời sống khác của
con người
Trong khuôn khổ của một bài tiểu luận ngắn nên người viết chỉ sử dụng phương pháp chính là
phân tích, bình luận dựa trên một số tài liệu gốc và thứ cấp, và sẽ không đi quá sâu vào từng đề
mục, việc phân tích kĩ hơn sẽ được nghiên cứu trong các bài luận văn mang tính chuyên sâu.
II. Giới Luật
1. Quan điểm về đạo đức Phật giáo
Giới luật gắn liền với đời sống đạo đức của con người nên cũng cần phải đề cập đến quan điểm
về đạo đức Phật giáo.
Đạo đức là gì? chúng ta cần hiểu một cách tổng quát về ý nghĩa từ đạo đức. Từ này gắn liền với
sự phân biệt giữa đúng và sai, thiện và ác trong hành động, ý muốn và tính tình. Nó liên quan
đến bản chất và sự áp dụng luân lý trong đời sống. Ý thức đạo đức là khả năng hiểu được sự
khác biệt giữa đúng và sai. Những khái niệm về đạo đức là những quy định liên quan đến việc
khen hay chê cách xử thế, hợp luân lý hay không hợp luân lý, hoặc những lề luật cho cách cư xử
đúng.
Tự điển Graw Hill Book định nghĩa: “Đạo đức là môn học đánh giá các hành vi thiện ác của con
người biểu hiện qua thân, lời, ý và được thực hiện bởi lý trí, tình cảm và ý chí.”
Mục đích của con người là sống hạnh phúc, và Aristote đã cho rằng hạnh phúc là sự phát triển
hoàn toàn đầy đủ đức tính của con người….hạnh phúc đồng nghĩa với đạo đức

Đạo đức học trong triết học là môn học nhằm đánh giá hành động; từ đó nhận rõ con đường
người ta phải theo để loại trừ những sai lầm, khổ đau, tiến đến hạnh phúc tối hậu. Trong ý nghĩa
tổng quát và căn bản này, toàn bộ kinh sách Phật giáo dù vô cùng phong phú, chi li, khúc chiết
vẫn được xem là thuộc pháp môn để thực hành, để tu tập, tiến đến giải thoát, hạnh phúc miên
trường, cứu cánh Niết bàn; và như thế, Phật học rốt lại chính là Đạo đức học. Đó là ý nghĩa thực
tiễn nhất của giáo lý Phật giáo vậy. Ta có thể nói, đạo Phật là đạo của hạnh phúc. Quan điểm
của đạo đức trong Phật giáo là giúp con người sống hạnh phúc thông qua việc thực hành Giới,
Định, Tuệ, trong đó Giới là bước thực hiện đầu tiên. Hay nói một cách khác Giới Luật là cơ sở
của đạo đức Phật giáo.
2. Định nghĩa về giới luật
Giới luật theo tinh thần Phật Giáo: Giới (zh. 戒 , sa. śīla, pi. sīla) là giới luật mà tăng, ni
cũng như người tu tại gia phải tuân thủ, là điều kiện để Giác ngộ, cũng có nghĩa là quán
hạnh, được hiểu là xem xét và ngăn ngừa hành vi bất thiện của thân khẩu ý (Phòng phi chỉ
4
ác, chế ngự: Ngăn ngừa điều sai trái, chặn đứng việc xấu ác), làm cho cuộc sống của người
giữ giới trở nên trong sạch, thoải mái, mát mẻ( thanh lương), luôn giúp hành giả hướng về
con đường giải thoát (tùy thuận giải thoát). Giới trong giới bổn gọi là Ba La Đề Mộc Xoa
cũng có nghĩa là biệt giải thoát (Pratimoksa), tức giữ giới nào là được giải thoát giới đó, Xứ
xứ giải thoát (Nơi nào giới luật được tuân thủ thì nơi ấy cuộc sống được thanh thoát).
Có 2 loại giới: Thanh văn thất chúng biệt giải thoát giới và Đại thừa Bồ Tát giới.
• Thanh văn thất chúng biệt giải thoát giới thiên về yếu tố tự lợi, lấy mục tiêu cầu thoát
khổ và giải thoát cho mình mà giữ giới. Bảy chúng đệ tử của Phật đều thọ giới này: 1-
Ưu Bà Tắc giới là giới của nam Phật tử, 2- Ưu Bà Di giới là giới của nữ Phật Tử, 3-
Sa Di Tăng giới, 4- Sa Di Ni giới, 5- Thức Xoa Ni giới tức là nữ sa di chuẩn bị bước
lên tỳ kheo ni giới, 6- Tỳ Kheo Tăng giới, 7- Tỳ Kheo Ni Giới.
• Đại thừa bồ tát giới là gồm thất chúng giới đã nói trên, như gồm Tam Quy giới, Ngũ
giới, Bát giới, Thập Thiện giới, Tỳ Kheo giới và Tỳ Kheo Ni giới ( theo ngũ bộ đại
luật).
Luật ( Vinaya) nghĩa là điều phục, diệt, là những nguyên tắc do Phật quy định cho hàng Tỳ
kheo áp dụng khi sống trong tập thể Tăng đoàn.

Tóm lại, giới là điều răn, luật là quy luật thi hành giới. Luật bao hàm cả giới còn giới chỉ là một
bộ phận của luật. Tuy gọi khác nhau như thế nhưng tánh chất vốn đồng nên có tên ghép là giới
luật.
3. Đặc điểm của giới luật
Giới có công năng giúp giữ gìn bản thể thanh tịnh cho cả hàng xuất gia với cư sĩ, đối với hàng
xuất gia thì giới còn giúp cho sự phát triển và hòa hợp của tăng đoàn.
Về công dụng
- Tác trì: Thực hiện các điều Phật qui định phải hành trì, phải thực thi. Đây chỉ cho các Kiền
độ, các pháp yết ma: Tự tứ, thuốc men, phòng giường, y phục…
- Chỉ trì: ngăn ngừa tránh xa các tội lỗi như không uống rượu, ngăn cấm tội ác không được sai
phạm như sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ…
Về tính chất
- Tánh giới: tính chất của sự việc, nghĩa là việc đó nếu vi phạm thì có tội
- Giá giới: là những điều ngăn cấm để khỏi dẫn đến phạm các trọng tội
Về phương diện sắc thái: giới được chia làm 4 lọai
- Giới pháp: những điều do Phật chế định
- Giới thể ( bản thể của giới): phát sinh lúc thọ giới Cụ túc khi có đủ 3 nhân tố- giới từ chí
thành, giới sư thanh tịnh, giới đàn trang nghiêm
- Giới hạnh: Các hành vi của 3 nghiệp hoạt hiện ra ngoài phù hợp với giáo pháp.
- Giới tướng: Các tướng trạng của giới
4. Sự khác biệt của các loại giới
Giới tự nhiên
5
Trong tự nhiên cũng có những qui luật mà con người cũng cần phải nhận thức và tuân thủ nếu
muốn sống hạnh phúc, như ăn uống vừa phải thì tiêu hóa sẽ tốt, ăn uống quá nhiều sẽ dẫn đến
tình trạng khó tiêu, bội thực; hoặc muốn tiếp xúc với vật có mang điện thì ta phải mang bao tay
hoặc cầm những vật cách điện….có thể coi đây là giới tự nhiên, và nó không mang tính chất đạo
đức, người ta cần phải tuân thủ để có được sự hạnh phúc cho riêng cá nhân mình mà thôi. Nó
không ảnh hưởng gì đến hạnh phúc của người khác.
Giới trong xã hội (Luật pháp)

Trong một cộng đồng xã hội con người, dưới phạm vi của 1 vùng lãnh thổ nhất định ( bộ lạc,
quốc gia), thì con người ta cũng chế ước một số qui định được gọi là luật pháp. Những qui định
này, con người bắt buộc phải tuân theo, nếu không sẽ bị chế tài theo qui định của luật lệ đó.
Luật pháp dưới góc độ luật học được hiểu như là tổng thể các quy tắc xử sự có tính bắt buộc
chung, do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, được Nhà
nước đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục, và cưỡng chế.
Pháp luật cũng mang tính chất đạo đức, sống và làm việc theo pháp luật góp phần mang đến một
trật tự xã hội trong đó tài sản, sự an toàn của của người dân được pháp luật bảo vệ.
Như vật, sống trong xã hội thì mọi người dân phải tuân thủ luật pháp, để bảo đảm cho hạnh
phúc của cá nhân mình cũng như hạnh phúc của người khác.
Giới luật Phật giáo
Khác với 2 loại giới trên, giới luật Phật giáo được đặt nền tảng trên trí tuệ, tự do tư tưởng, tự do
tra vấn và luật nhân quả. Không giáo điều, không ép buộc, không đe dọa, không bắt tin theo một
cách mù quáng. Phật giáo lấy Từ (metta), Bi (karuna), Bất hại (ahimsa - không tổn hại) và Nhẫn
(khanti) để nuôi dưỡng đạo đức.
Điều được khuyến khích trong việc dạy dỗ của Phật giáo là không bóp méo hay linh động để
thích ứng với sự xấu ác. Giết hại là một hành động bất thiện (akusala kamma), dù được nhân
danh tôn giáo hay tổ quốc. Chế tạo và bán vũ khí không thể được coi là chính đáng dù nó đem
đến lợi tức lớn lao cho quốc gia như Hoa Kỳ và nước Anh. Không ai có thể tha lỗi và xá tội cho
những hành động tàn ác của một người dù người đó cầu nguyện bao nhiêu đi nữa. Có một số tôn
giáo nghĩ như vậy. Hành động tốt sẽ đem đến kết quả tốt và hành động xấu sẽ đem đến kết quả
xấu, cho dù người đó là vua hay người cùng đinh. Cũng vậy, Phật giáo dạy lối sống đạo đức
bằng việc nêu gương được coi là cách dạy tốt nhất. Đức Phật là một điển hình. Đó là một nền
đạo đức thực tiễn giúp con người cư xử một cách hài hòa và công bằng với mọi người.
Con người được rèn luyện để cảm thấy có trách nhiệm và giá trị trong những việc làm của mình.
Đạo đức Phật giáo hình thành những tiêu chuẩn và nguyên tắc về cách cư xử tốt thể hiện trong
lời nói và hành động theo con đường chân chánh và tự chủ. Những đức tính này phát triển từ sự
tự giác, không từ sự sợ hãi hay hình phạt. Chúng hướng dẫn chúng ta cách làm người, thực hiện
những điều tốt và tránh xa những điều xấu.
5. Mục đích của giới luật Phật giáo

Đặc biệt chúng ta nhận thấy rằng: Bất kỳ xã hội nào muốn phát triển và tồn tại lâu dài trong
cuộc đời cần phải có những con người xã hội đứng đắn. Con người xã hội đứng đắn là con
người hoàn hảo về ý thức đạo đức cá nhân với sự vắng mặt của tham sân si ở nội tâm. Sự tuân
thủ giới luật không phải là một cái gông cùm áp đặt con người làm điều này không làm điều kia,
nó chỉ giúp cho con người quay về với ý thức đạo đức cá nhân của chính họ và diệt tận mọi
phiền não khổ đau. Con người sống trong sự thực hành giới có nghĩa là sống trong ý thức đạo
đức của chính mình vì thế, mục đích của giới trong Phật giáo là giáo dục con người trở thành
người xã hội gương mẫu, người lý tưởng, và người hoàn hảo trong xã hội.
6
6. Quá trình hình thành và phát triển của giới luật Phật giáo
Luật tạng đã ghi lại rằng đến năm thứ 13 sau ngày Phật thành đạo, giới luật mới thật sự hình
thành, chứ nó không được hình thành ngay từ năm đầu tiên thành lập giáo hội. Vì trong thời kì
đầu tiên, đệ tử Phật đều là những bậc hảo tâm xuất gia, căn cơ xuất chúng, theo chân Phật trong
một thời gian ngắn đều chứng được thánh vị, thánh quả. Tăng đoàn thời kì đầu tiên không cần
phải chế định giới luật, đại chúng đều thanh tịnh.
Sau đó, đức Phật phải thiết lập giới luật khi có những hiện tượng vi phạm đời sống phạm hạnh,
gây nên những ảnh hưởng không tốt cho đời sống sinh hoạt của tăng già. Giới điều ra đời là để
chận đứng các hiện tượng xấu đã xảy ra trong tăng đoàn và ngăn ngừa nó đừng xảy ra về sau.
Hơn 100 năm sau khi đức Phật nhập diệt, do sự bất đồng về việc thọ trì giới luật giữa nhóm tỳ
kheo trẻ ở Bạt kỳ và nhóm trưởng lão tỳ kheo, nên đã có kì kiết tập lần 2 để minh định lại những
gì là đúng với Phật dạy và những gì đi lệch hướng, tuy nhiên, kết quả lại không giải quyết được
gì mà Phật giáo lúc đó lại được chia thành 2 bộ phái Đại chúng bộ và Thượng tọa bộ, và từ đó
giới luật cũng được phân thành 2 luật của Nam và Bắc truyền luật tạng.
7. Những lợi ích của giới luật đối với tăng chúng
Ở phần dẫn nhập của các bộ Quảng luật, thường đề cập đến 10 lợi ích của giới như sau:
* Để nhiếp phục tăng chúng
* Để tăng chúng được hoan hỷ
* Để chiết phục những người không biết hổ thẹn
* Để những người biết hổ thẹn được sống yên ổn
* Để những người chưa tin phát sinh lòng tin

* Để những người đã tin càng thêm tin tưởng
* Để diệt trừ các lậu hoặc ô nhiễm trong hiện tại
* Để ngăn ngừa các lậu hoặc trong tương lai
* Để chánh pháp được tồn tại lâu dài.
Nhưng lợi ích này không chỉ dừng lại ở những điểm trên, mà vai trò của nó ảnh hưởng rất lớn
trên nhiều mặt của cuốc sống mà ta sẽ đề cập ở phần sau.
III. Nội dung của giới luật
Một cách đại cương thì giới luật Phật giáo do sự khác biệt về thân phận phật tử nên được chia ra
các loại có tên gọi sau đây:
A. Giới tại gia có 4 thứ gồm tam qui giới, ngũ giới, bát quan trai giới và bồ tát giới.
B. Xuất gia có 5 thứ gồm Sa di, sa di ni giới; Thức xoa ma ni giới, Tỳ kheo giới, Tỳ kheo ni
giới, Bồ tát giới.
Sau đây, để có một cái nhìn tổng quát về giới luật, người viết chỉ tóm tắt các phần nội dung
chính của giới luật Phật giáo mà thôi.
1. Ba la Đề Mộc xoa (Patimokkha) cho tỳ kheo và tỳ kheo ni
Như chúng ta biết rằng, cuộc sống của các hàng đệ tử phật trong 5 chúng, như là: Tỳ-kheo
(Bhikkhus), Tỳ-kheo-ni (Bhikkhunìs), Sa-di (Sràmaneras), Sa di ni , Phật tử Nam (Upàsakas),
Phật tử Nữ (Upàsikas), được tuân thủ những giới điều của Phật giáo. Nền tảng cội nguồn của
những quy điều này truyền đến thế hệ chúng ta từ một hình thức rất sớm với tên gọi là Ba-la-đề-
7
mộc-xoa (Pàtimokkha), và được tập hợp lại từ những quy điều tự viện khác nhau được bao gồm
trong Luật Tạng (Vinaya Pitaka).
Ba-la-đề-mộc-xoa có 2 phần: một dành cho Tỳ-kheo bao gồm 227 giới (12), và một dành cho
Tỳ-kheo-ni bao gồm 311 giới (13). Mặt khác, Ba-la-đề-mộc-xoa được phân chia thành 8 loại tội
lớn nhỏ khác nhau dành cho Tỳ kheo, và 7 loại tội cho Tỳ-kheo-ni (vì không có 2 pháp Bất
Định -Aniyatà) được trình bày tóm tắt như sau:
Số tt Các loại giới Tỳ-kheo Tỳ-kheo-
ni
1 Ba-la-di (Pàràjika) 4 8
2 Tăng Tàn (Sanghàdisesa) 13 17

3 Bất Định (Aniyatà) 2 -
4 Xã đọa (Nissaggiyà Pàcittiya) 30 30
5 Tội Đọa (Pàcittiya) 92 166
6 Hướng Bỉ Hối (Pàtidesaniyà) 4 8
7 Chúng Học (Sekhiya) 75 75
8 Diệt Tránh (Adhikarana Samatha) 7 7
Tổng Cộng 227 311
2. Mười giới dành cho sa di, sa di ni
Mười giới dành cho vị Sa-di, và sa di ni đó là tránh xa :
* Việc sát sanh – bảo vệ sinh mạng
* Việc trộm cắp – tôn trọng quyền tư hữu
* Việc tà dâm – bảo vệ tiết hạnh
* Việc nói dối – thực tập chánh ngữ
* Việc uống các chất say và rượu mạnh – bảo vệ và nuôi dưỡng thân tâm
* Việc ăn phi thời – không ăn ngoài bữa ăn của đại chúng
* Việc ca múa hát xướng và xem nghe – không vướng mắc vào thú tiêu khiển trần tục
* Việc đeo tràng hoa thơm và thoa phấn sáp – không dùng mỹ phẩm và đồ trang sức
* Việc xử dụng giường cao và rộng lớn – không sống đời sống vật chất và xa hoa
* Việc cầm giữ vàng bạc –không tích lũy tiền bạc và của cải
3. Thức xoa ma ni (Thêm 6 giới)
Trước khi thụ giới tỳ kheo ni, vị sa di ni (hoặc thiếu nữ 18 tuổi đời xuất gia và chưa thụ giới sa
di ni) được thụ 6 chúng học giới trong thời gian 2 năm, được gọi là Thức xoa ma ni.
Là trong 2 năm phải học đủ 3 pháp: một, học căn bản, là 4 trọng giới; hai, học 6 pháp, là những
pháp được bởi kiết ma; ba, học hành pháp, là mọi giới pháp và oai nghi của đại tì kheo ni.
8
Bốn giới căn bản:
* Không dâm dục
* Không trộm cắp
* Không sát sinh
* Không nói dối

Sáu học pháp:
* Không được đụng chạm với tâm ô nhiễm thân thể nam giới. Nếu có, phải thọ giới lại.
* Nếu cố ý trộm cắp, thì phải thọ giới lại, dù rất ít
* Nếu giết chết sinh mạng của súc sinh không thể biến hóa thì phải thọ giới lại
* Nếu cố ý vọng ngữ đối với tăng chúng thì phải thọ giới lại
* Nếu ăn phi thời thì phải thọ giới lại
* Nếu uống rượu thì phải thọ giới lại
292 hành pháp (người viết không đi sâu vào chi tiết vì quá dài, nó có thể được tham khảo tại
các tài liệu liên quan).
4. Tam quy, ngũ giới, bát quan trai giới cho người tại gia
Có quan điểm cho rằng tam qui (Phật, Pháp, Tăng) không phải là giới, nhưng nếu xét về khía
cạnh giới là cấm ngăn, thì tam quy cũng là giới do có ba thứ cấm ngăn: không quy y thiên ma, tà
thuyết và đồ chúng ngoại đạo. Vì vậy, nó bao hàm đặc chất của 1 loại giới.
Tuy giới luật của Phật giáo rất nhiều, nhưng đều chẳng rời nguyên tắc cơ bản của năm giới. Tật
cả giới, phần nhiều đều do trong ngũ giới phân chia, triển khai ra. Mục đích của tất cả các giới
phần nhiều cũng vì sự bảo hộ thanh tịnh của ngũ giới. Ngũ giới gồm:
* Không sát sinh,
* Không trộm cướp,
* Không tà dâm,
* Không nói dối,
* Không dùng chất gây nghiện.
Bát quan trai giới của người tại gia là 8 giới đầu tiên của hàng xuất gia Sa di, Sa di ni phải thọ
như đã được nêu ở phần trên, do cửa ngõ này thông với con đường xuất gia, đóng chặt cửa sanh
tử nên được gọi là bát quan, quá ngọ chẳng ăn gọi là trai, hợp lại nên được gọi là bát quan trai
giới.
5. Bồ tát giới cho cả người tại gia lẫn xuất gia
Không phân biệt tại gia hoặc xuất gia, người tại gia thọ 6 giới trọng và 28 giới khinh của kinh
Ưu bà tắc giới.
Cần lưu ý rằng mặc dù trong 6 giới trọng và 28 giới khinh của Ưu Bà Tắc Giới kinh đều không
nói cụ thể đến vấn đề cấm ăn thịt như Phạm Võng Bồ Tát Giới kinh, giới khinh thứ 3, Không

được ăn các thứ thịt nhưng không nên ngộ nhận rằng “người thọ giới này không bắt buộc phải
ăn chay trường, chỉ ăn chay ít nhất là 6 ngày trong một tháng”. Mặt khác, truyền thống thọ giới
Bồ tát của Phật giáo Việt Nam theo kinh Phạm Võng gồm 10 giới trọng và 48 giới khinh và tất
nhiên người thọ giới phải ăn chay suốt đời.
IV. Vai trò của giới luật Phật giáo đối với bản thân Phật giáo, con người và xã hội
9
1. Giới luật là thọ mạng của Phật giáo
Đạo Phật sở dĩ được quảng bá và truyền thừa lâu dài trên thế gian này, thật ra không chỉ vì tự nó
chứa đựng một kho tàng đồ sộ giáo lý cao thâm – văn học luận lý như nhiều người thường nhận
định, mà điều tiên quyết và thiết yếu chính là Giới luật. Do vậy, đức Thế Tôn hơn bốn mươi
năm hoằng hóa lợi sanh đến lúc sắp nhập Niết bàn, Ngài dạy: “Giới luật là mạng mạch của Phật
pháp, Giới luật còn là Phật pháp còn; Giới luật mất là Phật pháp mất”.
Trong đời sống tu tập của mỗi hành giả, Giới luật được xem là thức ăn, nước uống để bổ dưỡng
cho pháp thân, Giới luật như tròng con mắt của chính mình hãy thận trọng giữ gìn, Như trong
kinh Phạm Võng Bồ Tát giới có câu:
“Giới như đèn sáng lớn
Soi sáng đêm tăm tối
Giới như gương báu sáng
Chiếu rõ tất cả pháp”.
Ngày nay trong bối cảnh xã hội xao động, từng bước chuyển mình tương thích với sự phát triển
và trổi nhịp của văn minh thời đại; Phật giáo được xem là “chân lý thực tại”, mà cốt lỗi chính là
Đạo đức và Giới luật làm nền tảng.
Phật chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn, khi dức Phật sắp nhập diệt, ngài dạy
các Phật tử đời sau nên lấy giới luật làm thầy. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của vô
thượng bồ đề”, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật”.
Trong kinh Di Giáo đức Phật dạy rằng: “tất cả các ma vương ngoại đạo, không ai có thể phá
hoại được giáo pháp của ta, chỉ có đệ tử ta mới làm cho giáo pháp ta bị hủy diệt”. “Chỉ có trùng
trong thân sư tử mới ăn được thịt sư tử mà thôi”.
2. Giới luật là nền tảng của sự phát triển Phật giáo
Gía trị chân chính của một tôn giáo nằm ở hệ thống giáo lý và giới luật, nhưng sức mạnh thật sự

của hệ thống này chỉ có thể đo lường ngang qua tổ chức của nó. Nghĩa là, đời sống tu hành của
mỗi cá nhân và tập thể phản ánh sự hùng mạnh hay yếu kém của nó.
Để phát triển thì tăng đoàn Phật giáo phải là nơi tôn nghiêm và trong sạch,nếu như không vậy sẽ
gây mất niềm tin nơi Phật tử và giáo chúng, đạo Phật sẽ không thể tồn tại và phát triển trong
điều kiện như thế.
Tuy nhiên, việc áp dụng giới luật, cũng phải linh hoạt và tùy duyên, chính điều này đã làm cho
giới luật Phật giáo ngày càng được hoàn thiện và phát triển qua từng giai đoạn lịch sử.
Phật đã cẩn thận căn dặn: "Này các Tỳ kheo, tuy là những điều do Ta chế định, nhưng nếu
không phù hợp với phong tục tập quán của địa phương đó, thì không nên áp dụng. Trái lại, có
những điều không do Ta quy định, nhưng vốn là phong tục tập quán của địa phương ấy thì
không thể không thi hành" (Ngũ Phần luật, ĐTK.1421, tr.153a).
Rồi Đức Phật bổ túc: "Tỳ kheo khi làm việc vì, nên đem đối chiếu với kinh, luật, nếu việc làm
đó phù hợp với tinh thần của kinh, luật thì hãy làm. Ngược lại, nếu việc làm đó trái với tinh thần
của kinh, luật, thì không nên làm" (Tứ Phần Luật, ĐTK.1428, tr.970a).
Tóm lại, tinh thần của Phật giáo là "Tùy duyên mà bất biến, bất biến mà vẫn tùy duyên". Chúng
ta có thể linh động áp dụng giới luật sao cho tốt nhất để đạt đến mục đích giải thoát, nhưng phải
thận trọng trong việc đề xuất những quy định mới, và nhất là không nên tùy tiện sửa đổi giới
luật của Phật. Chính sự linh hoạt này đã góp phần vào việc phát triển đạo Phật, vì nếu không
10
linh hoạt, không thay đổi để phù hợp với sự phát triển và thay đổi của xã hội thì đạo Phật cũng
không thể tồn tại và phát triển được.
3. Tác động giải thoát của giới luật –Quan hệ Giới Định Huệ
Tất cả Giới luật đức Thế Tôn đều là những chuẩn mực đạo đức làm nền tảng cho sự giải thoát
mọi khổ đau, cắt đứt mọi tham ái ràng buộc. Vì thế Giới luật đóng vai trò quan trọng trong việc
tu tập giải thoát. Hành trì Giới luật là làm theo những lời đức Phật dạy, luôn luôn sống với sự
chế ngự của Giới Bổn như Ngài từng khuyên cáo: “Này các Tỳ kheo, ta khuyến cáo các người
hướng đến Sa môn hạnh, chớ có từ bỏ mục đích này, khi đang còn công việc phải làm hơn nữa?
Thân mạng của chúng ta phải được thanh tịnh, phải hộ trì các căn, biết tiếc độ trong ăn uống,
chú tâm cảnh giác, chánh niệm tỉnh giác…” (Trung bộ I, P.593, 1992).
Đức Thế Tôn dạy: “Nhơn Giới sanh Định, nhơn Định phát Tuệ”, muốn cầu được trí tuệ tất phải

tu Thiền định và trước hết phải giữ gìn Giới luật. Nếu Giới luật mà khuyết thì Thiền định sẽ khó
thành. Thiền định không thành thì Trí tuệ cũng không do đâu mà phát sinh. Bởi thế, Tam vô lậu
học là pháp môn căn bản của người học Phật, cũng như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một chân thì
không thể đứng được. Cũng vậy trên đường đi đến giải thoát, nếu thiếu một trong ba yếu tố trên
đạo quả sẽ khó thành tựu được.
Như vậy, có thể thấy rằng giáo pháp của đức Phật thì phát triển đồng bộ, mà tam lâu vô học
(Giới, Định Tuệ) là cơ sở và cũng là trung tâm của sự phát triển đồng bộ này. Tam lậu vô học
như cái đỉnh ba chân, thiếu một chẳng được, nhưng giới luật là cơ sở của tam học, nếu không trì
giới thì sự tiến lên con đường giải thoát trở thành vọng tưởng.
Đạo đức Phật giáo (giới) đi cùng với định và tuệ - giới, định, tuệ. Trí tuệ ở đây không phải chỉ là
sự thông thái. Nếu chỉ có thông thái mà không có trí tuệ, sự thông thái có thể trở thành một hiểm
họa. Giới, Định, Huệ là Tam Học của Phật giáo, phân ra làm ba như vậy cho dễ giải thích. Thật
ra chúng tương quan mật thiết với nhau, nương dựa nhau, tuy là ba nhưng đồng một thể.
Từ phân tích trên, có thể thấy rằng công năng của giới luật là nhằm mục đích dứt hẳn nghiệp
duyên, nghiệp nhân trong đường sinh tử là con đường giải thoát của Phật tử. Chính vai trò này
đã tác động lên người cư sĩ tại gia, người xuất gia. Vì mục đích giải thoát là mục đích cuối cùng
cho cả người tại thế cũng như người xuất thế.
4. Vai trò của giới luật trong đời sống sinh hoạt xã hội của con người
Giới luật Phật giáo làm cho con người giải thoát tất cả mọi ràng buộc ở đời cũng như cải tạo
những hành vi bất thiện mà con người gây ra trong xã hội. Khi con người sống trong giới (Sìla)
và thân tâm trở nên an tịnh không còn phiền não tham sân si, xã hội trở nên an bình, không còn
những vấn đề sát sanh, trộm cắp, v.v.; hoặc xung đột, thù oán cũng như những vấn đề xuống cấp
đạo đức cá nhân.
Về quan điểm môi trường sinh thái, con người xã hội không những giữ gìn môi trường, cây cối,
thảo mộc, đường xá sạch và xanh ; mà còn bảo vệ và chăm sóc chúng bằng ý thức đạo đức của
chính mình. Kết quả là xã hội và môi trường sinh thái ngày càng phát triển và tồn tại lâu dài từ
trong ánh mắt và trái tim của chúng ta.
Đối với giáo dục, giới Phật giáo có một nền giáo dục tâm lý vượt hẳn trên nền giáo dục ở đời vì
tính siêu việt của nó. Điều này có nghĩa là giới Phật giáo có một phương pháp giáo dục tuyệt
vời diệt tận mọi phiền não hầu mang lại an lạc hạnh phúc tối thượng cho con người. Từ quan

điểm này, vai trò của giới Phật giáo có sự đóng góp to lớn đối với sự phát triển xã hội hiện nay
trong nhiều phương diện khác nhau, cụ thể:
11
* Góp phần mang lại một xã hội an ninh trong đó tài sản mọi người được đảm bảo, hạn chế
những cảnh cướp của giết người.
* Góp phần bảo vệ môi trường bằng phương tiện ăn chay, không sát sinh.
* Mang đến cho con người một nền giáo dục nhân bản và trí tuệ, góp phần tạo ra những con
người toàn diện không lệch lạc về mặt nhận thức để có những hành vi gây ảnh hưởng xấu cho
xã hội.
IV. KẾT LUẬN
Giới luật đóng vai trò rất quan trọng không những đối với bản thân Phật giáo và tăng đồ mà nó
còn có vai trò trong nhiều mặt của cuộc sống. Nghiên cứu giới luật là để ứng dụng trong đời
sống hàng ngày, không phải là nghiên cứu suông và vô bổ, trong tinh thần này thì Phật tử phải
đặt mục tiêu trí tuệ lên hàng đầu. Học thôi chưa đủ mà phải có thực nghiệm của sự tu đạo. Bằng
phương pháp hành trì giới luật để trang nghiêm pháp thân. Như thế mới đủ trí lực, đủ bản lĩnh,
đủ nhẫn nhục, đủ từ bi, đủ khiêm hạ, đủ bất khuất để dấn thân trong sứ mạng: “hành Như Lai
sứ, tác Như Lai sự”. Cho nên đuốc trí tuệ luôn tỏa sáng, đem giới luật áp dụng vào đời cho tỏ
đạo.
Lại nữa mỗi hành giả tu tập phải ý thức được rằng: “giới luật là mạng mạch, là nhịp đập của con
tim, là không khí, là thức ăn, nước uống cho đời sống hằng ngày. Nếu ai không khéo nỗ lực
hành trì một cách nghiêm túc, e rằng đã không đem lại hạnh phúc an lạc mà ngược lại nó sẽ trở
thành sự trói buột cho chính bản thân mình mà còn ảnh hưởng cho đạo pháp và dân tộc.
Còn nếu ai khéo hộ trì giới luật, xem giới luật là thầy dẫn đường đi trong đêm tối vô minh thì
người đó ngày một thăng hoa trong đời sống của tâm linh, sớm cải thiện được mọi hành vi xấu
ác, làm cho phẩm hạnh và giá trị đạo đức tăng trưởng một cách trọn vẹn. Bởi đạo đức của một
con người theo định nghĩa đều nằm trong giới luật Phật giáo mà ra. Do vậy, nếu một con người,
một xã hội, một quốc gia… biết áp dụng giới luật vào đời sống hằng ngày thì điều chắc chắn
con người đó, xã hội đó, sẽ là một xã hội hạnh phúc và tốt đẹp.
Sống theo giới luật là sống một đời sống tích cực và tốt đẹp trên thế gian theo những hướng dẫn
của đạo Phật , nó sẽ đem đến hạnh phúc, bình an và niềm vui cho mình và cho người. Đời sống

đó thật sự có giá trị hơn nhiều so với đời sống bon chen để thỏa mãn bản ngã và lòng tham. Đời
sống đó cũng thiết lập một hợp đồng bảo hiểm cho tương lai sau khi chết. Nếu chúng ta có thể
nói một cách thành thật và nghiêm túc với nhau rằng anh hay chị là niềm phúc lành cho chúng
tôi, chúng ta là những hành giả trên con đường đạo đức Phật giáo, đang đi trên con đường Bát
Chánh đạo. Một bộ luật cho đời sống đạo đức được thử nghiệm qua thời gian, hợp lý, thực tiễn
là cần yếu cho mọi người, lời dạy của Đức Phật cho chúng ta một bộ luật như vậy nếu chúng ta
chấp nhận và sống theo.
Hạnh phúc thay cho những người sống và hành trì theo giới luật.
12
Tài liệu tham khảo
1. Dr. Bodhippriya Subhadra Siriwardena – Đạo Đức Phật giáo và giới luật cho người tại gia,
Thị giới dịch
2. Viên Trí- Ý nghĩa Giới Luật NXB Tôn giáo Hà Nội 2005
3. Thích Quang Thạnh – Tìm hiểu về giới luật trong PG – Delhi 2001
4. Tâm Chơn- Khái lược về giới luật Phật giáo
5. HT Thánh Nghiêm- Thích Cương yếu giới luật- NXB PĐ 2007
6. Thích Phước Sơn- Một số vấn đề về giới luật T1- NXBPĐ 2006
7. Thích nữ Trí Hải- Sự tích giới luật- NXB Tôn giáo 2005
8. Thích Thiên Siêu- Cương yếu giới luật- NXB Tôn giáo 2002
13

×