ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
TRẦN THỊ QUYÊN
Tên đề tài:
NGHIÊN CỨU VAI TRÒ CỦA GIỚI TRONG PHÁT TRIỂN
KINH TẾ HỘ TRÊN ĐỊA BÀN THỊ TRẤN TÂN YÊN
HUYỆN HÀM YÊN, TỈNH TUYÊN QUANG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIÊP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Khuyến nông
Khoa : Kinh tế & PTNT
Khóa học : 2011 – 2015
Thái Nguyên, năm 2015
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
TRẦN THỊ QUYÊN
Tên đề tài:
NGHIÊN CỨU VAI TRÒ CỦA GIỚI TRONG PHÁT TRIỂN
KINH TẾ HỘ TRÊN ĐỊA BÀN THỊ TRẤN TÂN YÊN
HUYỆN HÀM YÊN, TỈNH TUYÊN QUANG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIÊP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Khuyến nông
Khoa : Kinh tế & PTNT
Khóa học : 2011 – 2015
Giảng viên hƣớng dẫn : PGS.TS. Dƣơng Văn Sơn
Thái Nguyên, năm 2015
i
LỜI CẢM ƠN
Với phƣơng châm “ Học đi đôi với hành”, “Lý thuyết đi đôi với thực tiễn, nhà
trƣờng gắn liền với xã hội”. Thực tập là giai đoạn cần thiết và hết sức quan trọng của
mỗi sinh viên, giúp sinh viên bƣớc đầu với thực tế, nhằm củng cố và vận dụng những
kiến thức mình đã học ở trƣờng trở thành những cán bộ khoa học kĩ thuật đƣợc trang
bị đầy đủ cả kiến thức lý luận và kiến thức thực tiễn, đáp ứng nhu cầu công việc
trong tƣơng lai.
Đƣợc sự đồng ý của ban giám hiệu nhà Trƣờng Đại Học Nông Lâm Thái
Nguyên, Ban chủ nhiệm khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn, cùng giảng viên
hƣớng dẫn thầy giáo Dƣơng Văn Sơn em tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu
vai trò của giới trong phát triển kinh tế hộ tại Thị Trấn Tân Yên, huyện Hàm Yên,
tỉnh Tuyên Quang”.
Em xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Dƣơng Văn Sơn
là ngƣời trực tiếp hƣớng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Đồng
thời thầy đã tạo mọi điều kiện để em có cơ hội thực hiện đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn Ban chủ nhiệm Khoa Kinh Tế và Phát Triển Nông
Thôn, Trƣờng Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên.
Em cũng xin chân thành cảm ơn các bác, các cô, chú, các anh chị trong
UBND Thị Trấn Tân Yên đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt
quá trình thực tập, điều tra, nghiên cứu thu thập số liệu tại địa phƣơng.
Với trình độ và năng lực còn hạn chế, lần đầu tiên xây dựng một khóa luận tốt
nghiệp, mặc dù đã cố gắng hết sức song vẫn không tránh khỏi những thiếu sót. Em
rất mong nhận đƣợc những ý kiến đóng góp quý báu của thầy cô giáo và các bạn để
bài khóa luận của em đƣợc hoàn thiện hơn.
Thái nguyên, tháng 5 năm 2015
Sinh viên
Trần Thi Quyên
ii
DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT
STT
Chữ viết tắt
Nghĩa
1
CĐ
Cao đẳng
2
CNH
Công nghiệp hóa
3
CT
Chỉ thị
4
ĐH
Đại học
5
ĐVT
Đơn vị tính
6
HĐH
Hiện đại hóa
7
LĐ- TB&XH
Lao động- Thƣơng binh và xã hội
8
KTSX
Kỹ thuật sản xuất
9
KHHGĐ
Kế hoạch hóa gia đình
10
NQ
Nghị quyết
11
PTKT
Phát triển kinh tế
12
QĐ
Quyết định
13
TC
Trung cấp
14
TB
Trung bình
15
TT
Thị trấn
16
TT
Thông tƣ
17
TTg
Thủ tƣớng
18
UBND
Ủy ban nhân dân
iii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 4.1 Diện tích, năng suất, sản lƣợng một số loại cây
trồng chính của TT Tân Yên năm 2014 30
Bảng 4.2 Số lƣợng gia súc, gia cầm của TT Tân Yên giai đoạn 2012 – 2014 31
Bảng 4.3 Số hộ điều tra phân theo giới tính chủ hộ và thôn 36
Bảng 4.4 Số hộ điều tra phân theo giới tính ngƣời trả lời và thôn 37
Bảng 4.5 Số hộ điều tra phân theo dân tộc và thôn 37
Bảng 4.6 Số hộ điều tra phân theo cấp học và phân loại kinh tế hộ 38
Bảng 4.7 Số hộ điều tra phân theo kinh tế hộ và thôn 39
Bảng 4.8 Số hộ điều tra phân theo nghề nghiệp của hộ và thôn 40
Bảng 4.9 Sự tham gia của giới trong quản lý, điều hành sản xuất của
hộ gia đình 42
Bảng 4.10 Ngƣời giữ vai trò chủ đạo trong phát triển kinh tế hộ gia đìnhError! Bookmark not defined.
Bảng 4.11 Sự phân công lao động trong hoạt động sản xuất nông nghiệp 45
Bảng 4.12 Ngƣời giữ vai trò chính trong các công việc gia đình 48
Bảng 4.13 Đối tƣợng thực hiện các công việc giáo dục và chăm sóc ngƣời ốmError! Bookmark not defined.
Bảng 4.14 Đối tƣợng tham gia chính trong các hoạt động xã hội 49
Bảng 4.15 Giới và vấn đề tiếp nhận các thông tin trong phát triển kinh tế hộ 51
Bảng 4.16 Ngƣời đƣa ra quyết định trong áp dụng khoa học kỹ thuật mới 52
Bảng 4.17 Số hộ gặp khó khăn trong áp dụng khoa học kĩ thuật mới 53
Bảng 4.18 Ngƣời giải quyết những khó khăn trong áp dụng khoa học
kỹ thuật mới 54
Bảng 4.19 Sự ảnh hƣởng của giới tới phát triển kinh tế hộ 54
Bảng 4.20 Bình đẳng giới trong phát triển kinh tế hộ 56
iv
MỤC LỤC
PHẦN 1. MỞ ĐẦU 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 3
1.2.1. Mục tiêu chung 3
1.2.2. Mục tiêu cụ thể 3
1.3. Ý nghĩa của đề tài 3
1.3.1. Ý nghĩa học tập 3
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn 4
1.4. Yêu cầu của đề tài 4
PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 5
2.1. Cơ sở khoa học 5
2.1.1. Giới tính và giới 5
2.1.2. Phát triển kinh tế hộ gia đình 10
2.2. Cơ sở thực tiễn 14
2.2.1. Thực trạng và vai trò của giới ở một số quốc gia 14
2.2.2. Chủ trƣơng chính sách của Nhà nƣớc với sự phát triển
của Bình đẳng giới ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 16
2.2.3. Thực trạng và vai trò của giới trong kinh tế hộ gia đình ở Việt Nam 17
2.2.4. Giới trong tiếp cận một số vấn đề ở gia đình nông thôn 20
PHẦN 3. ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 22
3.1. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 22
3.1.1. Đối tƣợng nghiên cứu 22
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu 22
3.2. Nội dung nghiên cứu 22
3.3. Phƣơng pháp nghiên cứu 23
3.3.1 Phƣơng pháp chọn điểm nghiên cứu 23
3.3.2 Phƣơng pháp thu thập số liệu 24
3.4. Phƣơng pháp phân tích số liệu 25
v
PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 26
4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của TT Tân Yên,
huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang 26
4.1.1 Điều kiện tự nhiên 26
4.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội 29
4.1.3 Tình hình xã hội Error! Bookmark not defined.
4.2. Thực trạng của các hộ điều tra trên địa bàn TT Tân Yên 36
4.2.1 Thực trạng chung của các hộ điều tra trên địa bàn nghiên cứu 36
4.2.2 Thực trạng vai trò của giới trên địa bàn TT Tân Yên trong PTKTXH 41
4.3. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến vai trò cả giới trong PTKT hộ gia đình 56
4.3.1 Yếu tố chủ quan 57
4.3.2 Yếu tố khách quan 57
4.4. Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của mỗi giới trong phát triển kinh
tế hộ gia đình trên địa bàn TT Tân Yên, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang. 58
4.4.1 Nâng cao nhận thức của xã hội về vấn đề giới 59
4.4.2 Nâng cao trình độ giới 59
4.4.3 Tăng cƣờng sự tham gia của giới trong hoạt động cộng đồng 60
PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 61
5.1. Kết luận 61
5.2. Kiến nghị 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO 64
1
PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Bình đẳng giới đƣợc coi là một trong những thành tựu nổi bật của Việt
Nam trong 20 năm đổi mới vừa qua. Theo Báo cáo của Liên Hợp Quốc năm
2005, Việt Nam chỉ số phát triển giới (GDI) đứng ở vị trí thứ 87 trong tổng số
144 quốc gia trên thế giới [13]. Năm 2005 Liên Hợp quốc đánh giá Việt Nam
là điểm sáng về 3 mục tiêu: Xoá mù chữ, xoá đói giảm nghèo, bình đẳng giới.
Vấn đề giới ở Việt Nam đƣợc Đảng và Nhà nƣớc đặc biệt chú trọng,
điều này đƣợc thể hiện rõ nhất trong Luật Bình đẳng giới do Quốc hội nƣớc
Cộng Hòa xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam khóa XI, kì họp thứ 10 thông qua
ngày 29 tháng 11 năm 2006 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 07
năm 2007. Xác định đây vừa là động lực vừa là mục tiêu phát triển của Quốc
gia nên ngày 24 tháng 12 năm 2010. Thủ tƣớng chính phủ đã kí Quyết định số
2351/QĐ – TT phê duyệt chiến lƣợc Quốc gia về Bình đẳng giới giai đoạn
2010 – 2020.
Nhờ vào sự quan tâm mạnh mẽ của Đảng và Nhà nƣớc mà khoảng cách
giữa nam giới và nữ giới trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… đã
thay đổi và có xu hƣớng bình đẳng giới. Các đối tƣợng là phụ nữ và trẻ em
gái đã dần khẳng định đƣợc vị thế của mình trong xã hội và có tiếng nói trong
gia đình, thực hiện vai trò to lớn của mình trong đời sống kinh tế - xã hội.
Theo số liệu thống kê về giới của Việt Nam những năm đầu thế kỷ 21 (2005),
tỷ lệ nữ tham hoạt động kinh tế ở nƣớc ta đạt mức cao nhất khu vực, gần cân
bằng với nam giới (83% so với 85%), chiếm trên 48% lực lƣợng lao động xã
hội đặc biệt ở miền núi phía Bắc và Tây Nguyên đạt tới 85% trong năm 2005.
Phụ nữ đang tham gia ở tất cả các loại hình nghề nghiệp và khu vực kinh tế.
2
Theo đánh giá giữa kỳ kết quả việc thực hiện Chiến lƣợc quốc gia, đến năm
2005 có trên 46% trong tổng số lao động đƣợc giải quyết việc làm là phụ nữ.
Trong đó, phụ nữ chiếm 49,95% lao động trong sản xuất nông-lâm-ngƣ nghiệp;
36,6% lao động trong sản xuất công nghiệp và xây dựng; 70% lao động trong
ngành dệt may; 25% phụ nữ đang là chủ doanh nghiệp.
Tuy nhiên trên thực tế cho thấy sự đóng góp giữa nam giới và nữ giới
chƣa thực sự đảm bảo đƣợc công bằng, bởi vì nữ giới vẫn là phái yếu, họ vẫn
phải chịu thiệt thòi hơn về cơ hội việc làm, thu nhập, cơ hội thăng tiến…. Hơn
thế nữa những phụ nữ và trẻ em gái nghèo sống ở những vùng sâu, vùng xa,
vùng dân tộc thiểu số, những ngƣời tàn tật thì cơ hội tiến đến bình đẳng giới
dành lại quyền lợi cho bản thân là rất thấp. Sự đóng góp của họ cho xã hội không
hề nhỏ vì vậy nhà nƣớc ta phải có những chính sách bổ sung, tạo mọi điều kiện
để đem lại sự bình đẳng giới cho những con ngƣời nơi đây. Nền nông nghiệp
Việt Nam chỉ phát triển bền vững, có hiệu quả khi có sự bình đẳng giới.
Thị trấn Tân Yên là trung tâm của huyện Hàm Yên, nằm tại trục Quốc
lộ 2 cách thành phố Tuyên Quang về phía Bắc 40km, phía Bắc giáp xã Yên
Phú và sông Lô, phía Nam giáp xã Thành Long, phía Đông giáp xã Thái
Sơn và phía Tây giáp xã Nhân Mục. Đƣợc sự quan tâm của Đảng và Nhà
nƣớc cùng với sự cố gắng nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong
toàn thị trấn nên nền kinh tế đã có nhiều chuyển biến tích cực đặc biệt là công
tác xóa đói giảm nghèo và các vấn đề liên quan tới bình đẳng giới. Hiện nay
kinh tế hộ gia đình đã và đang đóng vai trò rất quan trọng trong ngành nông
nghiệp Việt Nam. Ở hầu hết các vùng nông thôn Việt Nam thì nam giới đƣợc
hƣởng nhiều thành quả của việc trao quyền hơn hẳn phụ nữ, vì vậy việc tìm
hiểu vai trò của mỗi giới trong phát triển kinh tế hộ gia đình ở TT Tân Yên,
huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang là rất cấp thiết, để từ đó đề xuất ra một số
giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của mỗi giới, giảm khoảng cách về
3
cơ hội tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực, tạo điều kiện để tất cả mọi ngƣời
nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống.
Xuất phát từ những thực tế trên tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:”Nghiên
cứu vai trò của giới trong phát triển kinh tế hộ trên địa bàn Thị Trấn Tân
Yên, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Nghiên cứu đƣợc vai trò của mỗi giới trong phát triển kinh tế hộ gia
đình, đồng thời đánh giá đƣợc thực trạng bình đẳng giới tai địa phƣơng. Từ đó
đƣa ra các biện pháp phù hợp nhằm phát huy tối đa vai trò của từng giới về
mọi mặt để góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội chung cho toàn tỉnh.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
Tìm hiểu điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội trên địa bàn TT Tân Yên,
huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang.
Phân tích và đánh giá thực trạng chung của các hộ điều tra trên địa bàn
TT Tân Yên.
Phân tích và đánh giá thực trạng về vai trò của nam giới và nữ giới
trong phát triển kinh tế hộ gia đình trên địa bàn TT Tân Yên.
Tìm hiểu các yếu tố ảnh hƣởng đến vai trò của giới trong phát triển
kinh tế hộ gia đình.
Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của mỗi giới trong
phát triển kinh tế hộ trên địa bàn TT Tân Yên.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1 Ý nghĩa học tập
Đề tài giúp hệ thống lại các kiến thức đã học, thực hiện đƣợc phƣơng
châm “ học đi đôi với hành”, “ lý thuyết gắn liền với thực tiễn”.
Nâng cao trình độ chuyên môn cho ngƣời nghiên cứu.
4
Rèn luyện các kĩ năng thu thập xử lý số liệu, triển khai một đề tài khoa
học, cách viết báo cáo.
Là tài liệu tham khảo cho trƣờng Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên,
khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn và sinh viên các khóa tiếp theo.
1.3.2 Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức thiết thực, làm cơ sở cho
TT Tân Yên xây dựng các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của giới trong
phát triển kinh tế hộ gia đình.
1.4. Yêu cầu của đề tài
Trong quá trình thực hiện đề tài phải luôn tuân thủ quy định của địa
phƣơng. Các số liệu điều tra phải chính xác, trung thực, khách quan.
Kiến nghị và đề xuất đƣa ra phải có tính khả thi và phù hợp với điều
kiện của địa phƣơng.
5
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Cơ sở khoa học
2.1.1 Giới tính và giới
2.1.1.1 Khái niệm giới tính và giới
* Giới tính
Giới tính là một thuật ngữ đƣợc các nhà khoa học xã hội và các nhà
sinh học dùng để chỉ một phạm trù sinh học, trong ý nghĩa đó nam và nữ khác
nhau về mặt sinh học, tạo nên hai giới giới tính: nam giới và nữ giới.
Theo tổ chức lao động quốc tế: giới tính chỉ sự khác biệt về sinh học
giữa nam giới và nữ giới mang tính toàn cầu và không thay đổi [11].
Quốc hội nƣớc Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chỉ ra rằng:
giới tính là một thuật ngữ chỉ sự khác biệt giữa nam giới và nữ giới xét về mặt
sinh học, sự khác biệt căn bản về hình dáng bên ngoài của cơ thể, sự khác
nhau về chức năng sinh học tạo nên vai trò của giới tính nhƣ: phụ nữ mang
thai, sinh con và cho con bú bằng sữa mẹ. Về mặt sinh học nam và nữ không
giống nhau trên nhiều phƣơng diện nhƣng chủ yếu nhất là hình dáng, giọng
nói và chức năng sinh sản [14].
Giới tính là bẩm sinh và đồng nhất bị quy định và hoạt động theo các
cơ chế tự nhiên, di truyền. Chức năng sinh sản của nam giới hay nữ giới là
không thể thay thế, chuyển dịch cho nhau [5].
Nam giới hay nữ giới trên khắp thế giới đều có chức năng, cơ quan sinh
sản giống nhau, đều tham gia và mang các yếu tố đóng góp vào quá trình sinh
sản nhƣ nhau. Đây đƣợc gọi là tính đồng nhất. Sự khác biệt về giới tính hầu
nhƣ bất biến cả về thời gian cũng nhƣ không gian [5].
6
* Giới
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về giới, sau đây là khái niệm của một
số tác giả:
Giới trƣớc hết không phải là phụ nữ. Giới liên hệ đến vai trò của nam
và nữ do xã hội hay do một nền văn hóa xác lập nên. Giới có thể khác nhau
giữa nơi này với nơi khác, giữa nên văn hóa này với nền văn hóa khác và có
thể thay đổi theo thời gian ( Feldstein H.S và Jiggins J, 1994) [2].
Giới không nói đến nam hay nữ mà chỉ mối quan hệ giữa họ. Giới
không phải là sự xác định sinh học nhƣ kết quả của những đặc điểm về giới
tính của nam hay nữ, mà giới là do xã hội xác lập nên. Nó là một nguyên tắc
tổ chức xã hội có thể kiểm soát tiến trình sản xuất, tái sản xuất, tiêu thụ và phân phối
(FAO, 1997) [2].
Giới là một thuật ngữ xã hội học bắt nguồn từ môn nhân học, nói đến
vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quy định cho nam và nữ. Giới đề
cập đến việc phân công lao động, các kiểu phân chia nguồn lực và lợi ích giữa
nam và nữ trong một bối cảnh cụ thể ( Gendeen, Trần Thị Quế, 1999) [2].
Giới chỉ mối quan hệ xã hội và tƣơng quan giữa địa vị xã hội của nam
và nữ trong bối cảnh xã hội cụ thể. Khi nói đến giới là nói đến các điều kiện
và các yếu tố xã hội quy định vị trí và hành vi xã hội của mỗi giới trong một
hoàn cảnh cụ thể ( Trần Thị Vân Anh, Lê Ngọc Hùng, 1996) [2].
Thuật ngữ giới đƣợc dùng trong nghiên cứu về phụ nữ mang một ý
nghĩa khác, không phải để miêu tả các đặc điểm của giới tính sinh học. Giới là
một phạm trù khoa học xã hội, đƣợc sử dụng để nói về các vai trò, thái độ và
giá trị của giới tính do các cộng đồng xã hội gán cho.
Yếu tố “Giới” là sản phẩm của xã hội, có tính xã hội, dùng để phân biệt
sự khác nhau trong quan hệ nam nữ, do vậy nó luôn biến đổi phụ thuộc vào
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể.
7
Giới phản ánh sự khác biệt giữa nam và nữ về khía cạnh xã hội. Những
sự khác biệt này là do quá trình học tập mà thành, đa dạng và có thể thay đổi
đƣợc. Chúng thay đổi theo thời gian, từ nơi này sang nơi khác, từ nền văn hóa
này sang nền văn hóa khác trong một bối cảnh cụ thể của một xã hội, do các
yếu tố xã hội, lịch sử, tôn giáo, kinh tế quyết định.
Nhƣ vậy, giới đƣợc xác định trong mối quan hệ giữa nam và nữ về
quyền lực, vị trí xã hội và phân công lao động.
Giới và giới tính là hai yếu tố có mối quan hệ mật thiết với nhau. Giới
tính là tiền đề sinh học của giới, là dấu hiệu đầu tiên và lâu dài để phân biệt
nam, nữ. Hiểu rõ vai trò của giới và giới tính trong mối quan hệ qua lại là điều
cần thiết để tổ chức và triển khai sự phân công lao động hợp lý.
2.1.1.2 Đặc điểm, nguồn gốc và sự khác biệt về giới
* Đặc điểm giới
- Không tự nhiên mà có
- Học đƣợc từ gia đình và xã hội
- Đa dạng
- Có thể thay đổi đƣợc
* Nguồn gốc giới
- Trong gia đình, ngay từ khi sinh ra, đứa trẻ đã đƣợc đối xử tùy theo
chúng là trai hay gái. Những sự khác biệt đó có thể là: về đồ chơi, quần áo,
đầu tóc, tình cảm của ông bà, bố mẹ, anh chị. Đứa trẻ đƣợc dạy dỗ và điều
chỉnh hành vi theo giới tính của mình.
- Trong nhà trƣờng, các thầy cô giáo cũng định hƣớng theo sự khác biệt
về giới cho học sinh. Học sinh nam đƣợc hƣớng theo các ngành kĩ thuật, điện
tử, các ngành cần có thể lực tốt. Học sinh nữ đƣợc hƣớng theo các ngành nhƣ
may, thêu, trang điểm, các ngành cần yếu tố tỷ mỷ.
* Sự khác biệt về giới
- Phụ nữ đƣợc xem là phái yếu, vì họ sống thiên vì tình cảm, họ là
thành phần rất quan trọng trong việc xây dựng tổ ấm gia đình. Nữ giới luôn
8
gắn bó với con cái, gia đình hơn nam giới nên họ có những mối quan tâm có
phần khác so với nam giới.
- Nam giới đƣợc coi là phái mạnh, là trụ cột gia đình, cứng rắn trong
phƣơng diện tình cảm, mạnh bạo và năng động hơn trong công việc. Nam giới
tập trung nhiều vào công việc, đóng vai trò chính trong lao động sản xuất, tham
gia các công việc xã hội, ít vƣớng bận con cái và gia đình. Chính điều này đã
làm tăng thêm khoảng cách khác biệt giữa phụ nữ và nam giới trong xã hội.
Hơn nữa nam giới và nữ giới có xuất phát điểm không giống nhau để
tiếp cận cái mới, họ có những điều kiện khác nhau để tham gia vào các
chƣơng trình kinh tế, từ góc độ nhận thức, nắm bắt các thông tin xã hội.
Trong nền kinh tế hội nhập quốc tế, từ điều kiện và cơ hội đƣợc học tập, tiếp
cận việc làm, từ vị trí trong gia đình và ngoài xã hội khác nhau. Từ các tác
động của các định kiến xã hội, các hệ tƣ tƣởng, phong tục tập quán đối với
mỗi giới cũng khác nhau.
2.1.1.3 Nhu cầu giới, lợi ích giới, bình đẳng giới
* Nhu cầu giới (còn gọi là nhu cầu giới thực tế): Là những nhu cầu giới
của phụ nữ và nam giới cần đƣợc đáp ứng để thực hiện tốt các vai trò đƣợc xã
hội công nhận [2].
Nhu cầu này đƣợc nảy sinh từ đời sống hàng ngày, là những thứ nhìn
thấy đƣợc, thiết thực, cụ thể. Có liên quan đến trách nhiệm và nhiệm vụ gắn
với các vai trò giới truyền thống. Ví dụ: phụ nữ có nhiều nhu cầu giới gắn với
vai trò nuôi dƣỡng của mình nhƣ củi, nƣớc, thực phẩm, thuốc men…
* Lợi ích giới (còn gọi là nhu cầu chiến lƣợc): là những nhu cầu thƣờng
nảy sinh từ vị thế thấp hơn của mỗi giới trong xã hội. Các nhu cầu này liên
quan đến phân công lao động, đến quyền lực, đến sự kiểm soát và có thể bao
hàm cả những vấn đề nhƣ quyền pháp lý, bạo lực trong gia đình, tiền công
công bằng hoặc sự kiểm soát thân thể… Việc đáp ứng nhu cầu chiến lƣợc sẽ
làm thay đổi sự phân công lao động, thay đổi vai trò và vị thế của giới [2].
9
Nhu cầu giới chiến lƣợc của phụ nữ xuất phát từ vị trí lệ thuộc, thiệt
thòi của họ trong gia đình và ngoài xã hội. Nhu cầu chiến lƣợc là dài lâu và
liên quan đến việc cải thiện địa vị của ngƣời phụ nữ so với nam giới [2].
* Bình đẳng giới: Bình đẳng giới có nghĩa là phụ nữ và nam giới có
đƣợc địa vị nhƣ nhau, có cơ hội nhƣ nhau để phát triển tiềm năng và đƣợc
hƣởng thụ bình đẳng và công bằng những lợi ích của sự phát triển [2].
Bình đẳng giới có nghĩa là phụ nữ và nam giới có sự công bằng về
quyền lợi, trách nhiệm và bình đẳng về tiếp cận cơ hội và ra quyết định [2].
Bình đẳng giới không có nghĩa là nam giới và nữ giới phải nhƣ nhau,
mà là sự giống và khác nhau giữa phụ nữ và nam giới phải đƣợc công nhận và
đánh giá một cách bình đẳng [2].
2.1.1.4 Vai trò của giới
Vai trò giới: là tập hợp các hành vi ứng xử mà xã hội mong đợi ở nam
và nữ liên quan đến những đặc điểm giới tính và năng lực mà xã hội coi là
thuộc về nam giới hoặc thuộc về phụ nữ (trẻ em trai hoặc trẻ em gái) trong
một xã hội hoặc một nền văn hóa cụ thể nào đó. Vai trò giới đƣợc quyết định
bởi các yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội.
Phụ nữ và nam giới thƣờng có 3 vai trò giới nhƣ sau: Vai trò sản xuất,
vai trò tái sản xuất, vai trò cộng đồng.
- Vai trò sản xuất: là các hoạt động mà cả phụ nữ và nam giới đều có
thể tham gia nhằm tạo ra của cải vật chất và tinh thần để tạo ra thu nhập hoặc
để tự nuôi sống. Đây là những hoạt động tạo ra thu nhập, đƣợc trả công. Tuy
nhiên do những định kiến trong xã hội nên mức độ tham gia của họ không
nhƣ nhau và giá trị công việc họ làm cũng không đƣợc nhìn nhận nhƣ nhau.
Xã hội coi trọng và đánh giá cao vai trò này [2].
- Vai trò tái sản xuất bao gồm trách nhiệm sinh đẻ, nuôi con và các
công việc nội trợ trong gia đình để duy trì và tái sản xuất sức lao động. Vai trò
10
này không chỉ bao gồm tái sản xuất sinh học, mà con bao gồm cả vai trò chăm
lo và duy trì lực lƣợng lao động hiện tại và tƣơng lai. Hầu hết phụ nữ và trẻ
em gái đóng vai trò và trách nhiệm chính trong các công việc tái sản xuất [2].
- Vai trò cộng đồng: bao gồm một tổ hợp các sự kiện xã hội và dịch vụ,
các công việc nhằm đảm bảo và duy trì các nguồn lực để sử dụng chung
nguồn nƣớc, vệ sinh đƣờng làng ngõ xóm, tham gia lễ hội của làng… Công
việc cộng đồng có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển văn hóa tinh thần
của cộng đồng. Công việc này có lúc đòi hỏi sự tham gia tình nguyện, tiêu tốn
thời gian và không nhìn thấy ngay đƣợc. Có lúc đƣợc trả công và có thể nhìn
thấy đƣợc nhƣ hỏi thăm động viên gia đình bị nạn trong thảm họa, thiên tai,
giúp đỡ những gia đình mất nhà, hỗ trợ quần áo, lƣơng thực cho ngƣời bị
nạn… [2].
Cả nam và nữ giới đều có những đóng góp nhất định thông qua các vai
trò trên. Tuy nhiên, ở nhiều nơi, việc thể hiện vai trò giữa hai giới còn có sự
khác biệt rõ rệt. Hầu hết phụ nữ phải đảm nhiệm vai trò tái sản xuất, đồng thời
cũng phải tham gia khá nhiều vào vai trò sản xuất. Gánh nặng gia đình khiến
họ ít có cơ hội tham gia vào các hoạt động cộng đồng. Do vậy nam giới có
nhiều cơ hội đảm nhận các hoạt động cộng đồng và ít khi tham gia vào vai trò
tái sản xuất.
2.1.1.5 Định kiến giới
Định kiến giới: là suy nghĩ của mọi ngƣời về những gì mà ngƣời phụ
nữ và nam giới có khả năng làm và loại hoạt động họ có thể làm [2].
Ngày nay định kiến giới đã có sự tiến bộ xong vẫn còn tồn tại khiến
cho nam giới và nữ giới chịu nhiều áp lực trong việc thực hiện vai trò, trách
nhiệm và quyền lợi của mình trong cuộc sống.
2.1.2 Phát triển kinh tế hộ gia đình
2.1.2.1 Khái niệm về phát triển và phát triển kinh tế
11
* Phát triển: là quá trình thay đổi toàn diện nền kinh tế, bao gồm sự
tăng thêm về quy mô sản lƣợng, cải thiện về cơ cấu, hoàn thiện thể chế nhằm
nâng cao chất lƣợng cuộc sống [3].
* Phát triển kinh tế: là quá trình lớn lên về mọi mặt của nền kinh tế
trong một thời kì nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản
lƣợng và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế xã hội [3].
2.1.2.2 Khái niệm đặc điểm hộ gia đình, kinh tế hộ nông dân
* Hộ gia đình
Có rất nhiều các khái niệm khác nhau của các nhà khoa học về “hộ ”:
- Hộ là tất cả những ngƣời cùng sống trong một mái nhà, gồm những
ngƣời cùng chung huyết tộc và những ngƣời làm công (Từ Điển) [15].
- Hộ là những ngƣời cùng sống dƣới một mái nhà, cùng ăn chung và có
chung một ngân quỹ (Liên Hợp Quốc) [15].
- Hộ là một đơn vị cơ bản của xã hội, có liên quan đến sản xuất, tái sản
xuất, đến tiêu dùng và các hoạt đọng xã hội khác (Thảo luận quốc tế lần thứ 4
về Quản lý nông trại tại Hà Lan, 1980) [15].
- Hộ là một nhóm cùng chung huyết tộc, hay không cùng chung huyết
tộc, ở chung một mái nhà, ăn chung một mâm cơm và có chung một ngân quỹ
(Giáo sƣ T.G.Mc.Gee, 1989) [15].
- Hộ là tập hợp những ngƣời cùng chung huyết tộc, có quan hệ mật
thiết với nhau trong quá trình sáng tạo ra vật phẩm để bảo tồn chính bản thân
họ và cộng đồng (Raul I) [15].
- Hộ là đơn vị tự nhiên tạo nguồn lao động (Haris – Viện nghiên cứu
phát triển trƣờng Đại học tổng hợp Susex – London – Anh) [15].
Từ các quan điểm trên, hộ có thể đƣợc hiêu nhƣ sau:
Hộ là một tập hợp chủ yếu và phổ biến của những thành viên có chung
huyết thống, tuy nhiên cũng có thể thành viên của hộ không cùng huyết thống
12
nhƣ con nuôi, ngƣời tình nguyện và đƣợc sự đồng ý của các thành viên trong
hộ công nhận cùng chung hoạt động kinh tế lâu dài…
Hộ nhất thiết là một đơn vị kinh tế, có nguồn lao động và phân công lao
động chung, có vốn và chƣơng trình, kế hoạch sản xuất kinh doanh chung, là
đơn vị vừa sản xuất, vừa tiêu dùng, có ngân quỹ chung và đƣợc phân phối lợi
ích theo thỏa thuận có tính chất gia đình. Hộ không phải là một thành phần
kinh tế đồng nhất, mà hộ có thể thuộc thành phần kinh tế cá thể, tƣ nhân, tập
thể, Nhà nƣớc…
* Hộ nông dân
Theo Ellis – 1988 cho rằng: “Hộ nông dân là các nông hộ, thu hoạch
các phƣơng tiện sống từ ruộng đất, sử dụng chủ yếu lao động gia đình trong
sản xuất nông trại, nằm trong một hệ thống kinh tế rộng hơn, nhƣng về cơ bản
đƣợc đặc trƣng bằng việc tham gia một phần trong thị trƣờng hoạt động với
một trình độ hoàn chỉnh không cao” [15].
Theo nhà khoa học Lê Đình Thắng (1993): “Nông hộ là tế bào kinh tế,
xã hội, là hình thức kinh tế cơ sở trong nông nghiệp và nông thôn” [16].
Theo Đào Thế Tuấn (1997) cho rằng: “Hộ nông dân là những hộ chủ
yếu hoạt động nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm cả nghề rừng, nghề cá và
các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn” [15].
Từ các khái niệm trên ta thấy đƣợc những đặc điểm của hộ nông dân nhƣ sau:
- Là đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là đơn vị sản xuất vừa là đơn vị tiêu dùng.
*Kinh tế hộ nông dân
Kinh tế hộ gia nông dân là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền sản
xuất xã hội, trong đó các nguồn lực nhƣ đất đai, tiền vốn và tƣ liệu sản xuất
đƣợc coi là của chung để tiến hành sản xuất.
Hộ nông dân và kinh tế hộ nông dân là đối tƣợng nghiên cứu chủ yếu
của khoa học nông nghiệp và phát triển nông thôn, vì tất cả các hoạt động
13
nông nghiệp và phi nông nghiệp ở nông thôn chủ yếu đƣợc thực hiện qua các
hoạt động của hộ nông dân.
Theo Ellis – 1988 cho rằng: “Hộ nông dân là các nông hộ, thu hoạch
các phƣơng tiện sống từ ruộng đất, sử dụng chủ yếu lao động gia đình trong
sản xuất nông trại, nằm trong một hệ thống kinh tế rộng hơn, nhƣng về cơ bản
đƣợc đặc trƣng bằng việc tham gia một phần trong thị trƣờng hoạt động với
một trình độ hoàn chỉnh không cao”.
Kinh tế hộ nông dân đƣợc phân biệt với các hình thức kinh tế khác
trong nền kinh tế thị trƣờng bởi các đặc điểm sau:
- Đất đai: nghiên cứu của hộ nông dân là nghiên cứu những ngƣời sản
xuất có tƣ liệu sản xuất chủ yếu là đất đai.
- Lao động: lao động sản xuất chủ yếu là do các thành viên trong hộ tự
đảm nhận. Sức lao động của các thành viên trong hộ không đƣợc xem là lao
động dƣới hình thái hàng hóa, họ không có khái niệm tiền công, tiền lƣơng.
- Tiền vốn: chủ yếu do họ tự tạo ra từ sức lao động của họ.
Mục đích sản xuất chủ yếu trong hộ nông dân là đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng trực tiếp của hộ, sau đó phần dƣ thừa mới mang bán ra thị trƣờng.
2.1.2.3 Giới trong gia đình
Gia đình là một hình thức tổ chức cơ bản, gắn kết với nhau bởi quan hệ
huyết thống, hôn nhân, nuôi dƣỡng và giáo dục. Trong gia đình luôn tồn tại
giới và giới tính hai phƣơng diện về thể chất và xã hội.
Hộ có tƣ cách là một tế bào kinh tế xã hội, trong đó sự quản lý nguồn
lực và ra quyết định là chủ hộ hay chủ gia đình. Chủ gia đình thƣờng là ngƣời
lớn tuổi và là nam giới.
Gia đình đóng vai trò cơ bản trong hình thành các mối quan hệ giới và
chủ hộ đƣa ra hầu hết các quyết định cơ bản trong phạm vi của hộ nhƣ có con,
nuôi dạy con, đi làm, nghỉ nghơi, đầu tƣ cho tƣơng lai.
14
Sự phân công lao động rõ ràng dựa vào giới. Đàn ông tham gia chủ yếu
vào việc ra quyết định và tiến hành các hoạt động sản xuất ở bên ngoài trong
khi ngƣời phụ nữ chịu trách nhiệm sinh con và làm việc nhà.
Ta thấy hầu hết nam giới có khả năng tập trung cao độ vào một vai trò
sản xuất cụ thể nào đó trong khi đó phụ nữ có thể thực hiện tất cả các vai trò
một cách đồng thời [5].
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Thực trạng và vai trò của giới ở một số quốc gia
Khái quát về thực trạng vai trò của phụ nữ ở một số nước trên thế giới:
Na Uy là đất nƣớc dân số ít (4,5 triệu ngƣời) nhƣng chỉ số phát triển con
ngƣời (HDI) và chỉ số phát triển giới (GDI) xếp thứ nhất thế giới. Na Uy có
một hệ thống luật pháp đồng bộ hƣớng tới mục tiêu bảo vệ quyền và lợi cho
ngƣời phụ nữ. Chính phủ Na Uy rất quan tâm đến vấn đề bình đẳng giới và
coi đó là một trong bốn vấn đề trọng tâm phát triển. Là quốc gia đầu tiên trên
thế giới cho phép phụ nữ đƣợc tham gia bầu cử vào năm 1913 và có quyền
ứng cử Quốc hội từ năm 1930. Na Uy cũng có Luật bình đẳng giới ban hành
từ năm 1979 với các điều khoản bảo đảm cho cả phụ nữ và nam giới đƣợc
bình đẳng trong phát triển. Trong luật Bình đẳng giới, Na Uy quy định: Việc
phân biệt đối xử trực tiếp hoặc gián tiếp với phụ nữ và nam giới đều không
đƣợc phép. Với lĩnh vực lao động và việc làm, luật quy định: tuyển dụng
không đƣợc hạn chế tuyển một giới. Khi đề bạt, cách chức hoặc sa thải ngƣời
lao động cũng không đƣợc phân biệt nam nữ. Lao động nam và nữ trong cùng
một doanh nghiệp phải đƣợc trả lƣơng nhƣ nhau cho cùng một công việc nhƣ
nhau hoặc công việc có giá trị nhƣ nhau. Trong giáo dục, Luật bình đẳng giới
đề ra phụ nữ và nam giới có quyền bình đẳng trong đào tạo, bồi dƣỡng nâng
cao trình độ. Đặc biệt Luật bình đẳng giới có 1 mục quy định: “Khi thành lập
và bổ nhiệm, bầu cử các thành viên của một cơ quan Nhà nƣớc, Uỷ ban, hội
đồng… có từ 4 thành viên trở lên thì mỗi giới phải có đại diện với tỷ lệ ít nhất
là 40%”. Nếu cơ quan, đơn vị nào không đạt tỷ lệ đã quy định thì Chính phủ
15
không cho phép thành lập. Do vậy, đến nay cơ quan các cấp ở Na Uy đã đạt
đƣợc tỷ lệ trung bình 43% nữ. Bên cạnh đó, một cơ quan thanh tra về bình
đẳng giới và chống phân biệt đối xử trực thuộc Bộ Gia đình và Bình đẳng giới
cũng ra đời giúp Chính phủ nhận đơn khiếu nại hoặc phát hiện những vấn đề
bất bình đẳng giới trình lên trên để cùng giải quyết [12].
Tuy nhiên, Luật bình đẳng giới tiến bộ nhƣng chỉ nhằm tăng cƣờng
quyền lực của phụ nữ ngoài xã hội chứ không bênh vực họ trong gia đình vì
không áp dụng trong gia đình. Trong lĩnh vực công việc nhà không đƣợc trả
lƣơng phụ nữ vẫn làm việc nhiều hơn nam giới; trong lĩnh vực quản lý nhà
nƣớc, nam giới vẫn chiếm 86% và trong chính quyền địa phƣơng lãnh đạo
nam vẫn trên 70%; nạn bạo lực vẫn xảy ra; mại dâm đƣợc phép hoạt động
nhƣng vẫn nhiều tình trạng xâm hại tình dục,… Tại Kenya, Zambia và
Nigieria, gia đình nào có chủ hộ là nam giới thì khuyến nông thƣờng xuyên
ghé thăm hơn.
Khoảng 40% phụ nữ Trinidad và Tobago chỉ biết đến các thông tin hay
những lời khuyên trong sản xuất cũng nhƣ các thông tin khác thông qua ngƣời
chồng của mình. Còn ở một số nƣớc nhƣ Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia thì
những thông tin đó đƣợc lấy tự họ hàng, bạn bè và hàng xóm. Rất ít thông tin
đƣợc trực tiếp chuyển đến ngƣời phụ nữ.
* Trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp: Nhìn chung, trình độ chuyên
môn kỹ thuật của lao động nữ nông thôn ở các nƣớc đang phát triển còn rất
thấp. Ở các nƣớc đang phát triển cho đến nay có tới 31,6% lao động nữ không
đƣợc học hành, 5,2% mới chỉ học xong phổ thông và 0,4% mới tốt nghiệp cấp
hai. Ít có điều kiện học hành nên những ngƣời phụ nữ này không có điều kiện
tiếp cận một cách bài bản với các kiến thức về công nghệ trồng trọt và chăn
nuôi theo phƣơng thức tiên tiến, những kiến thức họ có đƣợc chủ yếu là do tự
học từ họ hàng, bạn bè hay từ kinh nghiệm của những ngƣời thân của mình.
Một hạn chế lớn là những loại kinh nghiệm đƣợc truyền đạt theo phƣơng pháp
16
này thƣờng ít khi làm thay đổi đƣợc mô hình, cách thức sản xuất của hộ.
* Bất bình đẳng giới mang tính phổ biến: Bất bình đẳng giới tồn tại ở
hầu hết các nƣớc đang phát triển. Điều đó trƣớc hết bắt nguồn từ tình trạng
phụ nữ có trình độ học vấn thấp. Một nguyên nhân khác không kém phần
quan trọng là những định kiến xã hội không coi trọng phụ nữ đã đƣợc hình
thành ở hầu hết các nƣớc đang phát triển. Do vậy, ngay cả khi phụ nữ có bằng
cấp cao và kỹ năng tốt thì những công việc họ làm vẫn không đƣợc ghi nhận
một cách xứng đáng. Đấu tranh để đạt đƣợc sự bình đẳng thực sự giữa nam và
nữ trong xã hội ta nói riêng và trên thế giới nói chung là vấn đề lâu dài và còn
nhiều khó khăn, thử thách. Đây là cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, cái tiến
bộ và lạc hậu. Đất nƣớc ta đã trải qua hàng ngàn năm phong kiến, tƣ tƣởng “Trọng
nam khinh nữ” vẫn còn ăn sâu trong tiềm thức của một bộ phận dân chúng, nhất là
ở những vùng, miền còn nặng nề về hủ tục lạc hậu,… Ngay tại các bộ, ngành và
những đơn vị hành chính, kinh tế lớn, vấn đề bình đẳng giới vẫn còn gặp những
khó khăn nhất định. Việc bồi dƣỡng phát triển cán bộ nữ có lúc, có nơi còn bị hạn
chế, một số đơn vị kinh tế thậm chí không muốn nhận lao động nữ… Nhƣ vậy,
mặc dù đã đạt đƣợc những thành quả nhất định nhƣng vấn đề bình đẳng về giới
vẫn còn những bất cập mà chúng ta còn phải tiếp tục phấn đấu để đạt đƣợc mục
tiêu bình đẳng thật sự.
2.2.2. Chủ trương chính sách của Nhà nước với sự phát triển của Bình
đẳng giới ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi mới ra đời năm 1930 đã đề ra một
trong 10 nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng Việt Nam là ”Nam nữ bình
quyền” Chủ tịch Hồ Chí Minh một tấm gƣơng sáng về tinh thần chiến đấu
giải phóng phụ nữ, bảo vệ các quyền cơ bản của phụ nữ. Nếu không giải
phóng phụ nữ thì sẽ không giải phóng một nửa. Điều 63 Hiến pháp 1992 quy
định ” Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xâm phạm
17
nhân phẩm phụ nữ”; Điều 71 nêu ”Công dân có quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, đƣợc pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân
phẩm của công dân”. Nhƣ vậy có thể nói, các văn bản pháp luật và chính sách
của Nhà nƣớc Việt Nam trên mọi lĩnh vực đã hoàn toàn tuân thủ và thể hiện
rõ nguyên tắc bình đẳng nam, nữ không có bất cứ sự phân biệt nào. Vì vậy,
Việt Nam là một trong những quốc gia trên thế giới đạt những thành tích quan
trọng nhất định trong sự nghiệp giải phóng phụ nữ và bình đẳng giới.
Luật bình đẳng giới đƣợc Quốc hội Nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XI thông qua tại kỳ họp ngày 29/11/2006. Ngày 2/12/2006,
lệnh công bố đƣợc Chủ tịch Nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký và
có hiệu lực thi hành từ 01/07/2007 [12].
Ngày 15/07/2010, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Bộ Lao động – Thƣơng
binh và Xã hội tổ chức Hội thảo Dự thảo chiến lƣợc quốc gia về bình đẳng
giới giai đoạn 2011 – 2020 và Chƣơng trình mục tiêu quốc gia về bình đẳng
giới. Tại hội thảo Bộ LĐ – TB &XH đã tổng kết Việt Nam đã đạt nhiều thành
tựu quan trọng về bình đẳng giới nhƣng các đại biểu cũng đặc biệt quan tâm
đến vấn đề bạo lực trong gia đình, buôn bán phụ nữ trẻ em…Và Chính phủ đã
giao cho Bộ L Đ – TB & XH chủ trì xây dựng Chiến lƣợc quốc gia về bình
đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020 [12].
Việt Nam tham gia một số công ƣớc nhƣ công ƣớc về quyền trẻ em
(CRC), công ƣớc Liên hợp quốc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với
phụ nữ (CEDAW), hay các mục tiêu thiên niên kỷ…
2.2.3. Thực trạng và vai trò của giới trong kinh tế hộ gia đình ở Việt Nam
Có thể khẳng định rằng cái thời ” Trọng nam khinh nữ” đã qua lâu rồi.
Thực chất đã có sự bình đẳng hoàn toàn giữa nam và nữ chƣa? Có ý kiến cho
rằng, ảnh hƣởng của đạo Khổng đã hằn sâu vào quan niệm, cách suy nghĩ của
ngƣời Việt Nam nên khó có thể thay thế đƣợc. Vậy thực trạng của vấn đề này
18
trong những năm gần đây ra sao? Nhất là sự tác động của quá trình chuyển
đổi sang nền kinh tế thị trƣờng đặt ra những thách thức vấn đề gì về giới cũng
nhu việc xử lí vấn đề này sẽ tác động gì đến chiến lƣợc phát triển phụ nữ Việt
Nam trong thế kỷ XXI? Để có thể đề xuất chính sách nhằm tăng cƣờng sự tiến
bộ của phụ nữ và bình đẳng giới ở Việt Nam cần quan tâm đến một số vấn đề:
* Thực trạng phụ nữ Việt Nam: Là một nƣớc có nền công nghiệp chƣa
phát triển, Việt Nam hiện có khoảng 80% số ngƣời trong độ tuổi lao động
sống ở nông thôn, trong đó phụ nữ chiếm trên 50%, nhƣng họ là nhóm ngƣời
yếu thế và thiệt thòi nhất trong xã hội, không đƣợc nhƣ đội ngũ công nhân, trí
thức, phụ nữ nông thôn bị hạn chế bởi trình độ nhận thức. Nhƣng họ lại là lực
lƣợng chính tham gia vào hầu hết các khâu trong sản xuất nông nghiệp nhƣ:
Cấy lúa, nhổ mạ, chăm sóc cây lúa, gạo, [12].
Hiện tƣợng tăng tƣơng đối của lực lƣợng lao động nữ nông thôn những
năm gần đây là do một số nguyên nhân chính sau:
- Do sự gia tăng tự nhiên số ngƣời trong độ tuổi lao động, hiện nay
hàng năm nƣớc ta có khoảng 80 - 90 vạn ngƣời bƣớc vào tuổi lao động, trong
đó: lao động nữ chiếm 55%.
- Do quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, sắp xếp lại cơ cấu tổ
chức của các ngành doanh nghiệp, đa số lao động nữ ở các cơ quan, xí nghiệp
bị giảm biên chế, không có việc làm phải quay về nông thôn làm việc.
- Do sự tan rã của thị trƣờng Đông Âu, Nga vào đầu những năm 90 khiến
cho các nghề tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn Việt Nam mất nguồn tiêu thụ hàng
hóa, đa số phụ nữ làm nghề này lại chuyển về làm nghề nông nghiệp.
Ngoài ra, trong cơ chế thị trƣờng, có sức cạnh tranh yếu nên nhiều hợp
tác xã thủ công nghiệp trên địa bàn nông thôn cũng lâm vào tình trạng phá
sản. Kết quả là công nhân chủ yếu là nữ công nhân thuộc các hợp tác xã thủ
công này phải trở về nghề nông.