Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Đặc điểm địa mạo động lực tỉnh lâm đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.68 KB, 24 trang )

UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
ĐỀ TÀI: NGHIÊN CỨU TAI BIẾN ĐỊA CHẤT, NHỮNG VÙNG CÓ NGUY
CƠ NỨT ĐẤT, TRƯỢT LỞ ĐẤT, LŨ QUÉT VÀ CÁC BIỆN PHÁP NGĂM
NGỪA, KHẮC PHỤC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LÂM ĐỒNG
CHUYÊN ĐỀ
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA MẠO ĐỘNG LỰC
TỈNH LÂM ĐỒNG
TP HỒ CHÍ MINH, 2010
UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
ĐỀ TÀI: NGHIÊN CỨU TAI BIẾN ĐỊA CHẤT, NHỮNG VÙNG CÓ NGUY
CƠ NỨT ĐẤT, TRƯỢT LỞ ĐẤT, LŨ QUÉT VÀ CÁC BIỆN PHÁP NGĂM
NGỪA, KHẮC PHỤC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LÂM ĐỒNG
CHUYÊN ĐỀ
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA MẠO ĐỘNG LỰC
TỈNH LÂM ĐỒNG
CƠ QUAN CHỦ TRÌ ĐỀ TÀI
SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
TỈNH LÂM ĐỒNG
ĐƠN VỊ THỰC HIỆN
VIỆN ĐỊA LÝ TÀI NGUYÊN
TP HỒ CHÍ MINH
TP HỒ CHÍ MINH, 2010
MỞ ĐẦU
Tỉnh Lâm Đồng là vùng núi và cao nguyên thuộc miền nâng tân kiến tạo. Những
nét lớn của địa hình được phản ánh qua đặc điểm các kiến trúc hình thái: Khối núi – dãy
núi; Bình sơn nguyên – Cao nguyên và thung lũng. Địa hình hiện tại của khu vực nghiên
cứu là kết quả tác động tương hỗ của quá trình nội sinh và ngoại sinh nâng hạ tân kiến
tạo, bóc mòn và tích tụ. động lực
Địa mạo động lực là một trong các chuyên đề nghiên cứu về các tai biến địa chất,


do đó nghiên cứu đặc điểm địa mạo động lực là nghiên cứu các tai biến địa chất môi
trường mà chủ yếu là các nguy cơ tai biến, bao gồm các hiện tượng đã và đang xảy ra
như nứt đất, trượt lở, sụp đổ đất đá, tai biến do lũ quét. Để phục vụ cho việc thực hiện đề
tài: “Nghiên cứu tai biến địa chất, những vùng có nguy cơ nứt đất, trượt lở đất, lũ quét
và các biện pháp ngăn ngừa, khắc phục trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng ”sẽ tiến hành nghiên
cứu chuyên đề: Địa mạo động lực tỉnh Lâm Đồng. Mục tiêu, nhiêm vụ và cơ sở pháp lý
cũng như cơ sở khoa học của chuyên đề dịa mạo động lực như sau:
1. Mục tiêu và nhiệm vụ.
a. Mục tiêu:
Nghiên cứu các đặc điểm địa mạo nhằm xác định những vùng có nguy cơ tai biến
địa chất và đưa ra các giải pháp phòng ngừa trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng.
b. Nhiệm vụ:
Thu thập các thông tin về tai biến địa chất, khảo sát, thực địa, phân tích, đánh giá
và tổng hợp các tác động tai biến địa động lực (nứt đất, trượt lở đất đai, lũ quét) trên địa
bàn tỉnh Lâm Đồng.
2. Cơ sở pháp lý và khoa học.
a. Cơ sở pháp lý:
- Chuyên đề địa mạo động lực là một trong các chuyên đề nằm trong đề tài
“Nghiên cứu tai biến địa chất, những vùng có nguy cơ nứt đất, trượt lở đất, lũ quét và các
biện pháp ngăn ngừa, khắc phục trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng”. Đề tài đã được Hội đồng
Khoa học tỉnh Lâm Đồng thẩm định và UBND tỉnh Lâm Đồng phê duyệt.
- Hợp đồng chuyên môn giữa chủ nhiệm đề tài và tác giả chuyên đề.
b. Cơ sở khoa học:
- Thu thập, phân tích, tổng hợp các tài liệu về địa chất địa mạo của các đề án đo vẽ
bản đồ địa chất và điều tra khoáng sản trên diện tích tỉnh
- Lâm Đồng của các cơ quan nhà nước thuộc Tổng cục Địa Chất và cục Địa Chất
Khoáng Sản Việt Nam từ năm 1975 đến nay đã được phê duyệt, bao gồm:
+ Báo cáo địa chất – khoáng sản Nam Việt Nam và Việt Nam tỷ lệ 1/500.000 từ
năm 1975 – 1982, do Nguyễn Xuân Bao, Trần Đức Lương chủ biên.
+ Báo cáo địa chất – khoáng sản nhóm tờ Bến Khế - Đồng Nai tỷ lệ 1/200.000 tứ

năm 1981 – 1987, do Nguyễn Đức Thắng chủ biên.
+ Báo cáo địa chất nhóm tờ Đà Lạt tỷ lệ 1/50.000 từ năm 1982 – 1995, do Nguyễn
Văn Cường chủ biên.
+ Báo cáo địa chất – khoáng sản nhóm tờ Tây Sơn tỷ lệ 1/50.000 từ năm 1988 –
1994, do Nguyễn Quang Lộc chủ biên.
+ Báo cáo địa chất – khoáng sản nhóm tờ Vĩnh An tỷ lệ 1/50.000 từ năm 1995 –
1998, do Nguyễn Đức Thắng chủ biên.
+ Báo cáo địa chất – khoáng sản nhóm tờ Bắc Đà Lạt tỷ lệ 1/5000 từ năm 2000 –
2005, do Nguyễn Quang Lộc chủ biên.
+ Báo cáo ĐM – VPH khu vực Di Linh - Bảo Lộc tỷ lệ 1/50.000 từ năm 1987 –
1988, do Liên Đoàn Địa Chất 6 thực hiện.
- Các báo cáo thăm dò khoáng sản của Nhà nước và của các công ty thực hiện từ
năm 1985 đến nay trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng:
- Báo cáo quy hoạch khoáng sản tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2005 – 2010 và tầm
nhìn đến năm 2020.
- Các báo cáo, bài báo về chuyên đề Địa mạo tân kiến tạo có liên quan đã xuất
bản.
+ Các khảo sát nghiên cứu thực địa của tập thể tác giả chuyên đề địa mạo động lực
và các chuyên đề khác của đề tài năm 2009 – 2010.
Báo cáo chuyên đề Địa mạo động lực tỉnh Lâm Đồng gồm 5 phần chính như sau:
A. Các kiến trúc hình thái.
B. Các đơn vị địa mạo động lực cùng nguồn gốc động lực.
C. Phân vùng địa mạo động lực.
D. Đặc điểm tân kiến tạo và lịch sử phát triển địa hình.
E. Các tai biến địa chất và định hướng phòng ngừa.
Để hoàn thành báo cáo chuyên đề , tập thể tác giả đã nhận được sự giúp đỡ của tập
thể tác giả đề tài, các chuyên gia chuyên ngành và Sở Khoa học – Công nghệ tỉnh Lâm
Đồng, tập thể tác giả xin chân thành cảm ơn.
A. CÁC KIẾN TRÚC HÌNH THÁI BẬC III – IV.
Các hoạt động nội lực (nội sinh) là nguyên nhân chính để hình thành những nét cơ

bản của địa hình, đó là các kiến trúc hình thái (KTHT). Một đơn vị kiến trúc hình thái là
một đơn vị sơn văn (khối núi, dãy núi, cao nguyên, đồng bằng, thung lũng…) kiến tạo
độc lập trong đó có sự trùng khớp giữa địa hình và cấu trúc địa chất. Tùy theo kích thước
kiến trúc hình thái được chia ra các bậc. Trong khu vực nghiên cứu được chia ra các kiến
trúc hình thái bậc III và bậc VI có quan hệ gần gũi trục tiếp với các bề mặt được phân ra.
Theo đặc điểm hình thai địa hình và cấu trúc địa chất trong phạm vi tỉnh Lâm
Đồng được chia ra các kiểu kiến trúc hình thái bậc III và IV. Từ các kiến trúc hình thái
bậc III và IV được chia ra các kiến trúc hình thái bậc nhỏ hơn với các đặc điểm cụ thể
thêm về độ cao địa hình, nền móng cấu tạo địa chất và các tính chất biểu hiện về quá
trình nội ngoại sinh. Trên bản đồ các bậc kiến trúc hình thái được thể hiện qua các chữ số
La Mã, trong đó ký hiệu (I) chỉ các kiến trúc hình thái bậc III và IV. Ký hiệu (I.1) chỉ
kiến trúc hình thái bậc nhỏ hơn.
Theo đặc điểm địa hình và cấu tạo địa chất, trên địa hình tỉnh Lâm Đồng được
chia ra các đơn vị kiến trúc hình thái bậc III và IV và các bậc nhỏ hơn như sau:
I. Khối và dãy núi khối tảng hình thành trên các đá xâm nhập và phun trào
Mesozoi.
Đơn vị kiến trúc hình thái này nằm trùng với phụ tầng kiến trúc trên thuộc tầng
cấu trúc của thành hệ cấu trúc rìa lục địa kiểu Anđơ.
Các kiến trúc hình thái này phân bố chủ yếu ở khu vực xung quanh Sơn nguyên
Đà Lạt, phía Tây và Đông – Đông nam huyện Đam Rông, phía Tây bắc huyện Lâm Hà,
phía Nam huyện Di Linh và phía Tây-Tây nam huyện Bảo Lâm. Các khối núi, dãy núi
của cấu trúc hình thái này cao từ 750 – 2.100m.
Các khối núi, dãy núi thuộc KTHT này được cấu thành bởi các đá xâm nhập và
phun trào Mesozoi muộn bị phân cắt dịch chuyển và được nâng lên do hoạt động nâng
tân kiến tạo. Hầu hết các đá này bóc lộ nhiều và bị phong hóa vỡ vụn hoặc tạo vỏ Sialit
và Sialferit gồm sét bột, sét cát, bột cát nâu đò, nâu vàng có bề dày khá lớn (từ vài mét
đến trên 10 mét).
Các khối núi, dãi núi có phương kéo dài chủ yếu ĐB – TN, á kinh tuyến và bị các
đút gãy kiến tạo khống chế. Đường phân thủy của các khối núi, dải núi lượn sóng thoải,
tỏa tia phân nhánh theo các phương ĐB - TN, TB – ĐN, á vĩ tuyến và á kinh tuyến, độ

phân cắt ngang đạt 0,5 – 1,5 km/km
2
, ở phần đỉnh, đến 1,5 – 2,5 km/km
2
ở phần sườn và
chân sườn, độ phân cắt sâu đạt 450 – 650m/km
2
, mạng lưới xâm thực có dạng tỏa tia ôm
quanh các khối núi hoặc cắt ngang sườn trên các dải núi. Trên bề mặt đỉnh còn sót lại các
bề mặt san bằng hẹp, đó là các bề mặt san bằng cổ nhất, cao nhất của khu vực tỉnh Lâm
Đồng, có tuổi Miocen (N1) và Pliocen sớm (N
1
2
).
Độ dốc sườn của các khối núi, dải núi này phần lớn dốc trên 30°, có nơi trên 40°
hoặc tạo sườn vách dốc đứng chủ yếu thuộc kiểu sườn đổ lở, trượt lở, sạt lở, bóc
mòn tổng hợp hoặc là sườn vách kiến tạo bị gia công bóc mòn, dưới chân sườn dốc
thường tích tụ vật liệu do đổ lở gồm các đá tảng thô.
Dựa theo độ cao có thể chia các khối núi và dải núi, khối tảng hình thành trên các
đá xâm nhập và phun trào Mesozoi muộn thành hai KTHT bậc nhỏ hơn như sau:
I.1. Khối và dải núi khối tảng cao trung bình (1.200 – 2.100m) phân bố chủ yếu ở
khu vực các huyện Lạc Dương, Đam Rông, ĐB Đức Trọng, Bắc và Nam huyện Đơn
Dương, Nam huyện Di Linh.
I.2. Khối và dải núi khối tảng cao trung bình thấp (750 – 1.200m) phân bổ chủ yếu
ở khu vực TB huyện Lâm Hà, Nam huyện Di Linh và phía Tây – TN huyện Bảo Lâm.
II. Dải đồi và núi uốn nếp khối tảng hình thành trên các cấu trúc uốn nếp
Mesozoi.
Kiểu KTHT này thuộc phân bổ chủ yếu ở phía Bắc huyện Lạc Dương, Tây và Bắc
huyện Đam Rông, phía Nam - ĐN huyện Đức Trọng, phía Nam huyện Di Linh, phía Bắc
huyện Bảo Lâm, phía Bắc – ĐB các huyện Cát Tiên, Đạ Tẻh, Đak Houai, có độ cao thay

đổi từ (200 – 500m đến 1.200 – 2.100m).
Cấu tạo nên dạng địa hình này là các đá trầm tích lục nguyên tuổi Jura giữa, gồm
cát kết, bột kết, sắt kết. Đường phương của cấu trúc địa chất trùng với đường phương các
dãy, dải núi là Đông Bắc, á kinh tuyến và á vĩ tuyến. Các đá trầm tích bị nứt nẻ, nén ép
vò nhàu vỡ vụn do hoạt động phá hủy kiến tạo, các đá trầm tích thường bị phong hóa
mạnh tạo vỏ Sialit, Sialferit gồm sét bột, cát bột nâu vàng, nâu đỏ có bề dày khá lớn từ
vài mét đến 15 – 20 mét.
Các dải đồi và núi thuộc KTHT này có bề ngang hẹp (1 – 2km) và kéo dài vài km
đến trên 15km, đường phân hủy thường có dạng răng cưa hẹp. Tuy nhiên, vẫn có đoạn
còn tồn tại di tích các bề mặt san bằng ở các độ cao khác nhau có tuổi từ Miocen đến
Pliocen. Độ phân cắt ngang thay đổi từ 0,5 – 1,0 đến 3,5 – 4,0km/km
2
, nhìn chung có độ
phân cắt ngang lớn hơn kiểu KTHT I.1. Độ phân cắt sâu thường từ 10 mét đến vài chục
mét ở khu vực Cát Tiên, Đạ Tẻh, Đạ Houai đến 350 – 600m ở các khu vực còn lại, các
sườn có độ dốc từ 10 – 30°. Do mạng lưới xâm thực dày nên bề mặt sườn khá phức tạp,
có chỗ rất dốc (50 – 60°), các sườn thuộc KTHT này thuộc kiểu sườn xâm thực bóc mòn
và xâm thực rửa trôi kèm theo sạt lở, trượt lở cục bộ.
Mạng lưới thủy văn trong KTHT này có dạng cành cây hoặc lông chim với mật độ
khá dày, nhưng không đồng đều, các thung lũng chủ yếu có dạng chữ “V” ít hơn là dạng
chữ “U”.
Theo các bậc địa hình, KTHT này được chia thành 3 KTHT bậc nhỏ hơn như sau:
II.1. Dãy núi uốn nếp khối tảng cao trung bình (1.200 – 2.100m) phân bổ chủ yếu
ở khu vực Bắc huyện Lạc Dương.
II.2. Dãy núi uốn nếp khối tảng cao trung bình và thấp (750 – 1.200m) phân bổ
chủ yếu ở khu vực huyện Đam Rông, Nam – ĐN huyện Đức Trọng, Tây và Nam huyện
Di Linh, Bắc huyện Bảo Lâm.
II.3. Dãy đồi và núi thấp uốn nếp khối tảng cao (200 – 500m) phân bố chủ yếu ở
các khu vực Bắc, ĐB huyện Cát Tiên, Đạ Tẻh, Đạ Houai.
III. Bình sơn nguyên – Cao nguyên

KTHT bình sơn nguyên – Cao nguyên là nét đặc thù độc đáo của địa hình tỉnh
Lâm Đồng. Theo đặc điểm hình thái, cấu tạo nền địa chất các KTHT này được chia ra 3
kiểu KTHT cấp nhỏ hơn như sau:
III.1. Bình sơn nguyên nâng vòm khối tảng rửa trôi bóc mòn: Phát triển chủ
yếu trên các thành tạo magma xâm nhập và phun trào Mesozoi, đó là bình sơn
nguyên Đà Lạt, có độ cao trung bình 1.500 – 1.600m, có bề mặt khá bằng phẳng hoặc hơi
lượn sóng thoải, cường độ phân cắt ngang đạt 0 – 3,5km/km
2
, phân cắt sâu 30 – 70m, 50
– 100m. Nhìn chung cường độ phân cắt ngang và phân cắt sâu không lớn, bề mặt đỉnh
rộng nằm ngang hoặc dạng vòm, tạo điều kiện phát triển vỏ phong hóa Sialit, Sialferit với
bề dày khá lớn ( 5 – 20m). Trên bề mặt bình sơn nguyên phát triển sườn ngắn thoải dốc 5
– 10° thuộc sườn rửa trôi bóc mòn là chủ yếu, và thường có các lưỡi trượt, cung trượt lở
đất tại những khu vực có nhiều khe nứt, đứt gãy kiến tạo hoạt động mạnh, như ở khu vực
phía Nam đỉnh Lang Bian, khu vực Đạ Chay-Long Lanh.
III.2. Bình sơn nguyên uốn nếp khối tảng rửa trôi bóc mòn trên các cấu trúc
uốn nếp Mesozoi, đó là Bình sơn nguyên – Cao nguyên Rlang Dja, phân bổ ở khu vực
Tây Nam huyện Đam Rông, có độ cao 1.000 – 1032m được cấu tạo bởi các trầm tích lục
nguyên tuổi Jura trung. Trên bề mặt các đá bị phong hóa mạnh tạo vỏ Sialit, Sialferit dày
từ vài mét đến trên 20 mét, đây là dạng địa hình độc đáo của vùng được cấu tạo bởi các
đồi lượn sóng thoải với bế mặt đỉnh thường rộng, sườn ngắn thoải (2°, 5° và 10°) thuộc
kiểu sườn xâm thực rửa trôi, chia cắt sâu khá ổn định đạt < 50m/km
2
chia cắt ngang thấp
(< 1km/km
2
).
Thuộc kiểu KTHT này còn có Bình sơn nguyên Dan Preum, phân bổ ở khu vực
Bắc huyện Cát Tiên và TB huyện Bảo Lâm, có độ cao từ 400m – 500m – 600m – 700m
– 850m. Ở khu vực này bề mặt của bình sơn nguyên khá bằng phẳng và nghiêng thoải về

phía Tây Nam, trên đó có lớp phủ bazan Neogen – Đệ tứ mỏng.
III.3. Cao nguyên Bazan: Trên diện tích tỉnh Lâm Đồng các cao nguyên
Bazan phân bổ khá rộng, gồm cao nguyên Di Linh, Bảo Lộc, cao nguyên Tân Hà, cao
nguyên Kit Kout.
Các cao nguyên này có độ cao 800 – 900m đến 1.100 – 1.200m. Phần lớn các
cao nguyên núi lửa có bề mặt dạng vòm, cao ở phần trung tâm và thấp dần ra xung
quanh, mạng sông suối dạng tỏa tia, cường độ phân cắt sâu 10m – 150m/km2, cường độ
phân cắt ngang 0 – 1.5km/km
2
, có bề mặt đỉnh rộng bằng nghiêng thoải từ trung tâm ra
xung quanh dốc 5° - 10° - 20°, thuộc sườn xâm thực rửa trôi, bề mặt lớp phủ bazan bị
phong hóa Laterit, có nơi tạo vỏ Laterit Bocxit, dày 5m – 10m – 15m – 20m.
Phần rìa các cao nguyên xuất hiện các sườn vách bóc mòn xâm thực khá rõ
ràng, dốc ( > 30° - 40°) kèm theo các vách trượt lở, sạt phát triển.
IV. Đồng bằng trũng và thung lũng.Trên địa bãn tỉnh Lâm Đồng phát triển một
số KTHT kiểu đồng bằng trũng và thung lũng điển hình sau:
IV.1. Đồng bằng trũng, thung lũng kiến tạo xâm thực có lớp phủ Bazan
Đệ tứ lấp đầy. Kiểu KTHT này phát triển từ Đại Ninh qua Đức Trọng lên thác Prenn.
Thực chất đây là trũng kiến tạo xâm thực Đức Trọng, Đơn Dương hình thành trên hệ
thống đứt gãy Đơn Dương và Đức Trọng.
IV.2. Thung lũng xâm thực - tích tụ Biên Hòa – Tuy Hòa: Phát triển dọc theo
sông Krông Nô, Đam Rông, thung lũng Đa Queyon (Trà Năng), thung lũng sông Đa
Dâng và chi lưu của chúng. Trong các thung lũng này đôi đoạn phát triển các thềm bậc I,
II, III có tích tụ và bị xâm thực và sa khoáng vàng có điều kiện làm giàu tập trung tạo mỏ
sa khoáng, các mỏ này đã và đang được khai thác triệt để càng tạo nên quá trình xâm
thực phá hủy mạnh thêm.
IV.3. Thung lũng tích tụ: Phát triển chủ yếu ở khu vực Cát Tiên, Đạ Tẻh. Thung
lũng được mở ra rông ở phần hạ lưu nơi tiếp giáp với sông
Đồng Nai. Trong thung lũng có tích tụ thềm và bãi bồi được người dân trồng cấy lúa, hoa
màu. Đây là các thung lũng thấp, rất dễ bị lũ quét khi có mưa to kéo dài.

B. CÁC ĐƠN VỊ ĐỊA MẠO ĐỘNG LỰC CÙNG NGUỒN GỐC VÀ TUỔI.
Các quá trình ngoại sinh có xu hướng phá hủy, san phẳng địa hình, tạo các dạng
địa hình nhỏ với kích thước khác nhau khảm trên các KTHT – đó là các trạm trổ hình thái
(CTHT). Như vậy nghiên cứu địa mạo động lực chính là xác lập nguồn gốc phát sinh và
phát triển các KTHT và CTHT. Các đơn vị địa mạo động lực chính là các bề mặt địa hình
có cùng nguồn gốc và tuổi thành tạo. Địa hình hiện tại của khu vực nghiên cứu là kết quả
tác động tương hỗ của quá trình nội sinh và ngoại sinh. Dưới tác động của quá trình nâng
hạ tân kiến tạo, bóc mòn, tích tụ, các yếu tố địa hình trên diện tích tỉnh Lâm Đồng được
hình thành rất phong phú. Theo các tài liệu thu thập, khảo sát tổng hợp trên địa bàn tỉnh
Lâm Đồng đã phân ra được 15 kiểu bề mặt địa hình (đơn vị địa mạo) thuộc hai nhóm
nguồn gốc chính nội sinh và ngoại sinh. Ngoài ra trong khu vực còn có kiểu địa hình do
nhân sinh.
I. Địa hình thành tạo do nguồn gốc nội sinh.
Các đơn vị địa mạo động lực có nguồn gốc nội sinh tạo ra do hoạt động kiến tạo,
kiến trúc bóc mòn, núi lửa hoạt động. Các quá trình hoạt động nội sinh này đã tạo ra các
bề mặt địa hình khá đa dạng, trong đó rõ nét nhất là các miệng núi lửa hình chóp nón,
hình phễu âm, dương, các lớp phủ dung nham núi lửa (bazan) dạng vòm, dòng chảy kéo
dài, các vách, sườn núi dốc đứng trên nền cấu trúc địa chất khác nhau. Thuộc nhóm địa
hình có nguồn gốc nội sinh được chia ra các kiểu địa hình sau:
I.1. Địa hình núi lửa.
Địa hình do hoạt động núi lửa tạo ra trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, gồm các cao
nguyên, các đồng bằng đồi hay những dải đất bằng phẳng kéo dài kèm theo các miệng
núi lửa. Theo các két quả nghiên cứu trong đo vẽ bản đồ địa chất, thăm dò khoáng sản,
cho thấy trong khu vực nghiên cứu có hai giai đoạn lớn hoạt động núi lửa Neogen – Đệ
tứ và Đệ tứ. Trong mỗi giai đoạn hoạt động núi lửa tạo ra hình thái địa hình khác nhau.
I.1.1. Bề mặt lớp phủ bazan Neogen – Đệ tứ bị phân cắt mạnh (1): Phân bố
nhiều ở khu vực phía Bắc các huyện Cát Tiên, Đạ Tẻh, Đạ Houai, Nam Bảo Lâm, Nam
Di Linh, rải rác ở phía Tây, Nam bình sơn nguyên Đà Lạt, Các bề mặt này khá bằng
phẳng và hơi ngiêng về Tây Nam, bề dày của các lớp phủ bazan này không lớn (5 –
50m). Các lớp phủ bazan này phủ lên các bề mặt san bằng hoặc bề mặt các bình sơn

nguyên. Trên bề mặt và rìa xung quanh của chúng bị phân cắt bởi mạng thủy văn và bị
quá trình xâm thực rửa trôi. Bề mặt lớp phủ bazan bị phong hóa mạnh, tạo vỏ phong hóa
phổ biến thuộc kiểu Sialferit dày 5 – 10m, có nơi lớp phủ bazan này bị phong hóa hoàn
toàn.
I.1.2. Bề mặt lớp phủ bazan Neogen – Đệ tứ bị phân cắt trung bình (2): Đó là
các cao nguyên bazan Neogen – Đệ tứ Di Linh, Bảo Lộc, Tân Hà, Kit Kout. Các cao
nguyên bazan này phân bố ở độ cao từ 800 – 900m đến 1.100 – 1.200m. Bề mặt cao
nguyên có dạng vòm, cao ở trung tâm và thấp dần ra xung quanh. Trên bề mặt có mạng
sông suối tỏa tia phân cắt bề mặt cao nguyên với cường độ phân cắt ngang phổ biến 0 –
1,5km/km
2
, phân cắt sâu 10 – 150m/km
2
. Bề mặt lớp phủ bazan bị phong hóa mạnh tạo
vỏ Sialferit, có nơi tạo Laterit bocxit Tân Rai- Bảo Lộc, bề dày các vỏ phong hóa từ 5 –
15m, có nơi hơn 20m. Bề mặt các cao nguyên bazan bị phá hủy bởi quá trình xâm thực
rửa trôi, ở phần rìa các cao nguyên quá trình xâm thực bóc mòn diễn ra mạnh mẽ kèm
theo các vách trượt lở, sạt lở.
I.1.3. Bề mặt lớp phủ bazan Đệ tứ bị phân cắt yếu (3): Phân bố chủ yếu theo
dọc trũng Đơn Dương, Đức Trọng, Đinh Văn, độ cao phân bố 800 - 1.000m. Bề mặt lớp
phủ bazan Đệ tứ khá bằng phẳng dạng lấp đầy thung lũng, trên bề mặt còn hiện diện nét
nguyên thủy các miệng núi lửa (có khoảng 17 họng núi lửa). Điều này nói lên các họng
núi lửa này khá trẻ, đây là đơn vị địa mạo cần được quan tâm đặc biệt bởi sự hồi sinh
hoạt động bất kỳ lúc nào của các miệng núi lửa này.
I.2. Địa hình thành tạo do kiến tạo, kiến trúc bóc mòn: Bao gồm các kiểu sau:
I.2.1. Sườn vách kiến tạo bị bóc mòn gia công (4): Phát triển nhiều trên các kiến
thức hình thái khối và dãy núi khối tảng phân bố tập trung ở xung quanh bình sơn nguyên
Đà Lạt. Trong đó rõ nét nhất ở dọc theo thung lũng Đa Nhim, thung lũng Đức Trọng, núi
Lang Bian. Các sườn vách kiến tạo chủ yếu có hướng kéo dài ĐB – TN là hệ quả của
hoạt động đứt gãy kiến tạo hướng ĐB – TN. Dọc theo sườn kiến tạo, thung lũng có trắc

diện dọc dốc, trắc diện ngang hẹp dạng chũ “V”. Đáy thung lũng lộ trơ đá hoặc tích tụ
tảng, có nhiều thác ghềnh. Bề mặt sườn kiến tạo thẳng, dốc (35° – 40°), độ chênh cao
sườn từ vài trăm mét đến 1.000m, có nơi tạo vách đá cao kéo dài. Thống trị trên sườn
vách kiến tạo là quá trình xâm thực – đổ lở, sụp đổ, trượt lở.
I.2.2. Sườn vách bóc mòn cấu trúc (5): Thể hiệc rõ nét nhất trên địa hình các
họng núi lửa cổ (núi lửa Mesozoi) phân bố ở Hòn Giao và Gia Rích, cao 1.600 – 1.800m,
sườn có độ dốc thay đổi 25° – 35°, các sườn vách phản ánh tính bền vững thạch học
trong quá trình bóc mòn.
II. Địa hình thành tạo do nguồn gốc ngoại sinh.
Các yếu tố địa hình được hình thành bởi các quá trình ngoại sinh chủ yếu do hoạt
động phong hóa bóc mòn, do tác động của thời tiết, do yếu tố trọng lực Trên diện tích
tỉnh Lâm Đồng, địa hình được thành tạo do nguồn gốc ngoại sinh được chia ra hai kiểu:
Kiểu địa hình được thành tạo bởi nguồn gốc bóc mòn và kiểu địa hình được thành tạo do
quá trình tích tụ - xâm thực và tích tụ.
II.1. Kiểu địa hình do bóc mòn chung.
Thuộc kiểu địa hình do bóc mòn chung bao gồm các bề mặt san bằng và các bề
mặt sườn.
II.1.1. Các bề mặt san bằng: Trong hoạt động kiến tạo giai đoạn Cenozoi, địa
hình khu vực tỉnh Lâm Đồng hình như được nâng lên liên tục. Mỗi lần địa hình được
nâng lên rồi lại bị xâm thực bóc mòn phá hủy và để lại dấu tích các bề mặt san bằng. Do
vậy mỗi bậc bề mặt san bằng đánh dấu một giai đoạn nâng lên của địa hình. Theo các tài
liệu đo vẽ bản đồ địa mạo chính thống của Nhà nước, trên diện tích tỉnh Lâm Đồng đã
xác định được 8 bậc bề mặt san bằng có tuổi từ Miocen sớm đến Pleistocen
sớm, xen giữa chúng là các thời kỳ xâm thực, đổ lở và bóc mòn tổng hợp. Cụ thể là các
bậc bề mặt san bằng sau:
• Bề mặt san bằng cao 1.800 – 2.000m, tuổi Miocen sớm (N
1
1
) (6.1).
• Bề mặt san bằng cao 1.650 – 1.750m, tuổi Miocen muộn (N

1
2
) (6.2).
• Bề mặt san bằng cao 1.500 – 1.600m, tuổi Miocen muộn (N
1
3
) (6.3).
• Bề mặt san bằng cao 1.250 – 1.450m, tuổi Pliocen sớm (N
2
1
) (6.4).
• Bề mặt san bằng cao 1.000 – 1.200m, tuổi Pliocen giữa (N
2
2
) (6.5).
• Bề mặt san bằng cao 770 – 900m, tuổi Pliocen muộn (N
2
3
) (6.6).
• Bề mặt san bằng cao 550 – 720m, tuổi Pliocen muộn – Pleistocen sớm
(N
2
3
-Q
1
1
) (6.7).
• Bề mặt san bằng cao 150 – 350m, tuổi Pleistocen sớm (Q
1
1

) (6.8).
Các bề mặt san bằng có độ cao càng cao thì tuổi càng cổ, bị xâm thực bóc mòn
càng nhiều, diện tích còn sót lại càng nhỏ và ngược lại. Hầu hết các bề mặt san bằng có
bề mặt địa hình khá bằng phẳng và bị phân cắt tạo ra các dải đồi lược sóng thoải.
Bề mặt các bình sơn nguyên cũng là dấu tích của một bề mặt san bằng.
Trên bề mặt san bằng là vỏ phong hóa của các đá gốc tạo bề mặt với bề dày khá
lớn (2m – 5m – 10m), có khi trên 20m. Đặc biệt trên bề mặt các bình sơn nguyên Đà Lạt,
Rlang Dja có vỏ phong hóa rất dày (> 10m đến trên 20m).
Các quá trình rửa trôi bóc mòn đang diễn ra trên các bề mặt san bằng chiếm ưu
thế, phần rìa các bề mặt san bằng có các quá trình xâm thực bóc mòn kèm theo các trượt
lở, sạt lở.
II.1.2. Các bề mặt sườn:
Các bề mặt sườn chính là các đơn vị địa mạo động lực phổ biến nhất và chiếm
diện tích lớn nhất trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, điều này phù hợp với đặc thù của tỉnh
thuộc miền núi – cao nguyên và thung lũng.
Trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng có rất nhiều loại sườn có nguồn gốc thành tạo chủ
yếu do ngoại sinh. Tuy nhiên vẫn có liên quan đến các hoạt động nâng hạ tân kiến tạo.
Hầu hết các bề mặt sườn đều có quá trình phát sinh phát triển khá dài từ Neogen đến hiện
nay.
Dựa vào hình thái, mức độ phân cắt phá hủy và quá trình ngoại sinh chủ đạo, trong
phạm vi lãnh thổ tỉnh Lâm Đồng được chia ra các kiểu sườn – vách chính như sau:
- Sườn vách sụp đổ, đổ lở (7):
Phát triển chủ yếu trên các KTHT khối và dãy núi khối tảng phân bố ở núi Bi
Doup, núi Lang Biang, các dải núi phân bố dọc biên giới vối tỉnh Khánh Hòa, Ninh
Thuận, các dải núi phân bố ở phía Tây – Tây Bắc và Nam – Tây Nam bình sơn nguyên
Đà Lạt, cac dải núi ở phía TB Lâm Hà, phía Nam Di Linh và phía Tây Bảo Lâm, Bảo
Lộc.
Sườn và vách đổ lở, sụp đổ dốc >30°, có nơi trên 45°. Quá trình địa mạo động lực
hiện tại là xâm thực kèm đổ lở, sụp đổ mạnh ở những nơi có vỏ phong hóa dày, vào mùa
mưa , lũ thường xảy ra hiện tượng trượt lở đất đá, tạo nên các lưỡi trượt, gây mất ổn định

địa hình. Thuộc kiểu sườn này thể hiện rõ nét nhất là đèo Bảo Lộc.
- Sườn bóc mòn tổng hợp (8):
Sườn bóc mòn tổng hợp phát triển chủ yếu trên địa hình thuộc các KTHT khối,
dãy núi khối tảng được cấu thành từ các đá xâm nhập và phun trào Mesozoi, sườn có độ
dốc 25° – 30°, sườn được thành tạo là kết quả nhiều quá trình xâm thực bóc mòn, trọng
lực, rửa trôi bề mặt, đôi nơi có trượt lở, sạt lở kèm theo.Trên bề mặt sườn thường phát
triển vỏ phong hóa vụn thô, lộ trơ đá gốc, hoặc vỏ phong nhóa kiểu Sialferit mỏng.
- Sườn xâm thực - bóc mòn (9):
Sườn xâm thực bóc mòn khá phổ biến, chúng là sản phẩm của các quá trình xâm
thực phá hủy bởi mạng lưới thủy văn. Trên lãnh thổ tỉnh Lâm Đồng loại sườn xâm thực
bóc mòn phát triển mạnh trên khu vực các KTHT uốn nếp khối tảng được cấu thành từ
các trầm tích lục nguyên, lục nguyên – cacbonat Mesozoi,phân bố ở khu vực Bắc huyện
Lạc Dương huyện Đam Rông, phía Đông Nam huyện Đức Trọng, Nam huyện Di Linh,
Bắc huyện Bảo Lâm, Cát Tiên, Đạ Tẻh, Đạ Houai. Bề mặt sườn, dốc 20° – 40°, phần lớn
>30°. Đặc biệt loại sườn này phát triển dọc theo thung lũng sông Đồng Nai – Đa Dâng,
sườn các cao nguyên bazan Bảo Lộc, Di Linh, Tân Hà. Các quá trình xâm thực chia cắt
đã tạo ra các thung lũng hẹp sườn dốc, dạng chữ “V” phổ biến. Trên mặt sườn xâm thực
bóc mòn phát triển khá mạnh khe rãnh xâm thực và có khi kèm theo cả các quá trình
trượt lở, sạt lở và có thể có cả đổ lở. Đặc biệt ở khu vực Bắc Lạc Dương và huyện Đam
Rông, nơi có hoạt động đứt gãy kiến tạo mạnh.
- Sườn xâm thực – rửa trôi (10):
Loại sườn này thường phân bố ở phần chân các sườn xâm thực bóc mòn, nơi có độ
dốc của sườn nhỏ hơn so với độ dốc của sườn xâm thực bóc mòn, thường phổ biến 20° –
30° (<30°). Phần sườn này chính là sản phẩm của quá trình xâm thực sâu gần đạt cơ sở,
do vậy quá trình xâm thực - bóc mòn phần địa hình trên cao sẽ càng mở rộng diện phân
bố sườn xâm thực rửa trôi. Trên bề mặt sườn xâm thực rửa trôi có các quá trình trượt lở,
sạt lở kèm theo sự việc tiếp tục phát triển các khe rãnh xói.
- Sườn rửa trôi bóc mòn (11):
Bề mặt sườn rửa trôi bóc mòn có diện phân bố khá rộng rãi ở các bề mặtbình sơn
nguyên chia cắt yếu (cao nguyên Đà Lạt, cao nguyên Rlang Dja) và các cao nguyên

bazan Neogen Đệ tứ, ngoài ra chúng còn có mặt ở nhiều nơi khác trên các bềmặt san
bằng như ở khu vực phía Nam Di Linh, phía Tây Lâm Hà, phía Bắc Bảo Lâm, Cát Tiên,
Đạ Tẻh, Đak Houai…Quá trình ngoại sinh chủ yếu diễn ra trên sườn thuộc kiểu này phụ
thuộc vào sự hoạt động của lớp nước trên mặt xuất hiên vào mùa mưa, loại sườn này
ngắn, thoải ( <10° – 20°), thung lũng suối thường nông, có dạng chữ “U”. Do bề mặt các
bình sơn nguyên có lớp vỏ phong hóa khá dày (>10 – 20m) lại bị phá hủy bởi đứt gãy
kiến tạo nên bề mặt sườn rửa trôi bóc mòn thường xảy ra các lưỡi trượt lở, sạt lở phổ biến
như ở khu vực Đạ Chay, Đạ Long (Lạc Dương).
- Sườn rửa trôi - tích tụ (12):
Phát triển thành các dải hẹp, kéo dài không liên tục dọc chân sườn vách dốc của
các dải núi, điển hình như các dải sười thoải hẹp phân bố dọc rìa các thung lũng Đơn
Dương, Đức Trong hoặc vài diện tích nhỏ dạng Pediment ở khu vực phía Đông Đam
Rông, độ dốc của sườn rửa trôi tích tụ <5° – 10°.
Sườn có tích tụ các sản phẩm deluvi, coluvi, có khi cả proluvi, kèm theo là quá
trình xâm thực rửa trôi do các dòng chảy tạm thời hoặc phát triển các khe rãnh mương sói
xâm thực như ở dải sườn phía Bắc – Tây Bắc thung lũng Đức Trọng. Loại sườn này còn
được gọi là vạt gấu sườn tích.
II.2. Kiểu địa hình tích tụ - xâm thực và tích tụ.
Các kiểu địa hình có nguồn gốc hình thành do quá trình tích tụ - xâm thực và tích
tụ trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng chính là bề mặt các thềm và bãi bồi của sông, suối. Địa
hình các thềm và bãi bồi này chủ yếu được hình thành trong giai đoạn Đệ tứ.
II.2.1. Thềm tích tụ - xâm thực bậc I – II (13).
Trong các sông suối lớn trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng có phát triển thềm tích tụ -
xâm thực bậc I và II. Chúng phân bố dọc theo các thung lũng sông lớn như sông Krông
Nô, sông Đồng Nai, sông Đa Dâng, sông Nhim, Tà Năng và trong một số thung lũng giữa
núi ở khu vực Bắc Lạc Dương, Đam Rông, Nam Di Linh, Nam Bảo Lâm, sông Đam Ri,
Đạ Tẻh, Cát Tiên.
- Thềm tích tụ - xâm thực bậc II: Đặc điểm bề mặt thềm tích tụ - xâm thực bậc II
có diện tích không đáng kể, hẹp phần tích tụ thềm, và kéo dài không liên tục. Dọc hai bên
bờ sông Krông Nô, Đồng Nai, Đa Dâng và Đa Nhim phát triển các mảnh thềm bậc II cao

7 – 10m với bề dày tích tụ 1 – 3m đang bị xâm thực mạnh và tạo thềm Xô côn.
- Thềm tích tụ - xâm thực: Kiểu thềm này còn phát triển ở khu vực Đinh Văn,
Đức Trọng, Đơn Dương, Trà Năng, phía Nam – Tây Nam huyện Cát Tiên, Đạ Tẻh, Đạ
Houai.
Đặc điểm của kiểu tích tụ xâm thực bậc I là bề mặt thềm rộng hơn so với thềm tích
tụ xâm thực bậc II. Thềm có độ cao tương đối 4- 6m hoặc 3 – 4m. Trên bề mặt thềm có
phần tích tụ dày từ 1 – 2m đến 5 – 6m. Ngoài các thềm bậc I, II, trong một số thung lũng
sông lớn như Đồng Nai, Đa Dâng, Krông Nô còn có thềm xâm thực hoặc xâm thực – tích
tụ bậc III, IV có độ cao tương đối 15 – 20m và 35 – 50m với diện tích không đáng kể.
II.2.3. Thềm và bãi bồi tích tụ (14).
Các thềm và bãi bồi tích tụ có diện tích không lớn và phân bố trong các thung lũng
sông lớn trên địa bàn tỉnh và trên các bề mặt cao nguyên bazan, các bình sơn nguyên (Đà
Lạt, Rlang Dja).
Đặc điểm các thềm và bãi bồi này rộng, kéo dài, bề mặt khá bằng phẳng và có tích
tụ aluvi, với bề dày khoảng từ 2 – 3m đến 5 – 6m. Các thềm tích tụ chủ yếu là thềm bậc
I, có nơi có cả thềm bậc II (sông Đồng Nai, Đa Nhim, Cam ly).
Trên các bề mặt cao nguyên bazan hay bình sơn nguyên có các thung lũng tích tụ
tạo thành các trũng đầm lầy, các trũng đầm lầy này nhiều khi là khép kín, hoặc tạo thung
lũng treo.
C. PHÂN VÙNG ĐỊA MẠO ĐỘNG LỰC.
Theo đặc điểm KTHT và quan hệ giữa các bề mặt có nguồn gốc khác nhau, động
lực và xu hướng phát triển của địa hình, có thể chia diện tích tỉnh Lâm Đồng thành các
vùng và phụ vùng địa mạo động lực như sau:
I. Vùng núi và cao nguyên Đà Lạt.
Gồm các phụ vùng sau:
I.1. Phụ vùng núi trung bình xâm thực bóc mòn Chư Yang Group (Chư Yang Sin).
I.2. Phụ vùng núi trung bình xâm thực bóc mòn – đổ lở Nam Benom Đa Tiêu.
I.3. Phụ vùng bình sơn nguyên (cao nguyên) xâm thực rửa trôi bóc mòn Đà
Lạt với các núi sót Lang Bian, Bi Doup.
I.4. Phụ vùng núi và cao nguyên xâm thực bóc mòn đổ lở Kit Kout – Quang

Du – Xuân Trường ( Tây Nam cao nguyên Đà Lạt).
II. Vùng núi và cao nguyên Đam Rông – Lâm Hà.
Gồm các vùng phụ sau:
II.1. Phụ vùng núi trung bình - thấp xâm thực - bóc mòn Đam Rông.
II.2. Phụ vùng bình sơn nguyên xâm thực rửa trôi Rlang Dja.
II.3. Phụ vùng núi trung bình xâm thực bóc mòn núi Krin – M.R.Bacc.
II.4. Phụ vùng cao nguyên bazan rửa trôi bóc mòn Tân Hà, Lâm Hà.
III. Vùng thung lũng và núi Đức Trọng – Đơn Dương.
Gồm các phụ vùng sau:
III.1. Phụ vùng đồng bằng trũng - thung lũng tích tụ xâm thực Đinh Văn – Đức
Trọng – Đơn Dương.
III.2. Phụ vùng núi trung bình – bình sơn nguyên xâm thực bóc mòn Nam Diệp
Lai.
III.3. Phụ vùng đồi núi thấp xâm thực rửa trôi bóc mòn Klang Pah.
III.4. Phụ vùng núi trung bình – thấp xen thung lũng xâm thực bóc mòn Trà
Năng.
IV. Vùng núi và cao nguyên Di Linh – Bảo Lộc.
Gồm các phụ vùng sau:
IV.1. Phụ vùng núi trung bình – thấp xen bình sơn nguyên xâm thực bóc mòn
Gia Bắc.
IV.2. Phụ vùng cao nguyên bazan rửa trôi bóc mòn Di Linh – Bảo Lộc.
IV.3. Phụ vùng núi thấp xâm thực bóc mòn Bắc Bảo Lâm.
IV.4. Phụ vùng núi trung bình thấp xen thung lũng xâm thực bóc mòn Nam Bảo
Lộc.
IV.5. Phụ vùng núi trung bình – thấp bóc mòn đổ lở đèo Bảo Lộc.
V. Vùng đồi núi thấp - bình sơn nguyên Cát Tiên – Đak Houai.
Gồm các phụ vùng sau:
V.1. Phụ vùng bình sơn nguyên xâm thực rửa trôi bóc mòn Bắc Cát Tiên.
V.2. Phụ vùng đồi núi thấp xâm thực bóc mòn Đạ Houai.
V.3. Phụ vùng đồng bằng trũng và thung lũng tích tụ - xâm thực với núi sót Cát

Tiên, Đạ Tẻh.
Các đặc điểm cơ bản của các vùng và phụ vùng được tóm tắt trong bảng 1 dưới
đây.
D. ĐẶC ĐIỂM TÂN KIẾN TẠO VÀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN ĐỊA HÌNH.
Trên diện tích tỉnh Lâm Đồng, địa hình được hình thành và phát triển trên các cấu
trúc địa chất tuổi Mesozoi là chủ yếu. Qua các thời kỳ xâm thực – bóc mòn, các cấu trúc
này bị phá hủy và đến nay ít được thấy các dạng địa hình nguyên sinh Mesozoi. Trong
Cenozoi địa hình đã phát triển qua ba giai đoạn:
1. Giai đoạn Paleogen (E)
Theo nghiên cứu của các nhà địa mạo, Paleogen là giai đoạn khá bình ổn về kiến
tạo. Vào cuối Paleogen đã hình thành Peneplen Đông Dương, nay còn để lại di tích trên
đỉnh Ngọc Linh (Kon Tum) cao >2400m ở ngoài phạm vi tỉnh Lâm Đồng. Lịch sử phát
triển địa hình trên vùng nghiên cứu chủ yếu được thấy rõ vào các giai đoạn Neogen – Đệ
tứ.
2. Giai đoạn Neogen (N)
Căn cứ vào sự tồn tại, diện phân bố, đặc điểm của các bề mặt san bằng và những
nét lớn của địa hình trên lãnh thổ Lâm Đồng có thể chia ra các thời kỳ sau:
2.1- Thời kỳ Miocen sớm (N
1
2
)
Vào đầu Miocen sớm đới Đà Lat được nâng lên bắt đầu chu kỳ tân kiến tạo, biên
độ nâng vào khoảng 300-400m. Bề mặt Peneplen Đông Dương bị chia cắt xâm thực
thành các khối theo các đứt gãy hướng ĐB-TN. Đến cuối Miosen sớm hình thành bề mặt
san bằng nay còn thấy ở độ cao 1800-2100m (Đỉnh Lang Bian, Đỉnh Bi Doup và một số
đỉnh khác trên các giải núi cao Chư Yang Sin ở phía Bắc, Tây Bắc Đà Lạt).
2.2- Thời kỳ Miocen giữa (N
2
1
)

Đầu Miocen giữa các chuyển động nâng khối tảng đã xảy ra với biên độ 200-
350m. Các dãy núi, khối núi trong vùng nghiên cứu nâng cao dần nhưng vẫn là núi thấp.
Trũng Đức Trọng – Đơn Dương cũng được hình thành, phát triển theo đứt gãy Bảo Lộc –
Di Linh. Trong Miocen giữa, bề mặt san bằng Miocen sớm bị phá hủy, các sản phẩm do
xâm thực bóc mòn được tích tụ trong các trũng Bảo Lộc – Di Linh – Tân Hà. Cuối
Miocen giữa một bề mặt san bằng mới cũng được hình thành, nay còn lại di tích ở dộ cao
1500-1700m, phổ biến ở khu vực Đa Lạt. Vỏ phong hóa phát triển với bề dày có thể lên
đến -10m, thậm chí >-20m.
2.3- Thời kỳ Miocen muộn (N
1
3
)
Vào đầu Miocen muộn, Đà Lạt vẫn tiếp tục nâng mạnh biên độ 150-250m, các
chuyển động khối tảng nâng vòm hạ lún vẫn tiếp tục xảy ra kế thừa núi và sơn nguyên đã
có độ cao đến 600-700m. Trũng Đức Trọng – Đơn Dương, Bảo Lộc – Di Linh – Tân Hà
tiếp tục bị lún chìm có tích tụ trầm tích và phun trào bazan.
2.4- Thời kỳ Pliocen sớm (N
2
1
)
Đầu Pliocen chuyển động khối tảng được thấy khá rõ, hình thành các sườn kiến
tạo dọc ở phía nam bình sơn nguyên Đà Lạt, cao 300-500m.
Trong Pliocen bình sơn nguyên và các khối núi hình thành trong Miocen bị chia
cắt, xâm thực, phá hủy và hình thành bề mặt san bằng ở độ cao 1250-1450m. Trong các
trũng Đức Trọng – Đơn Dương, Bảo Lộc – Di Linh – Tân Hà tiếp tục sụt lún có tích tụ
trầm tích và phun trào bazan xen kẽ.
2.5- Thời kỳ Pliocen giữa (N
2
2
)

Là thời kỳ kế thừa các chuyển động nâng của thời kỳ Pliocen sớm, các trũng lớn
trong vùng nghiên cứu vẫn tiếp tục có tích tụ trầm tích xen phun trào bazan.
Các hoạt động phun trào bazan trên phần lớn các cao nguyên trong vùng về cơ
bản kết thúc trong Pliocen giữa bắt đầu hình thành vỏ phong hóa laterit-bauxit, các bề
mặt sườn có kích thước lớn về cơ bản được hình thành, địa hình núi và bình sơn nguyên
cũng được hình thành ở độ cao 1000-1220m.
2.6- Thời kỳ Pliocen muộn (N
2
3
)
Từ Pliocen giữa đến Pliocen muộn cũng được coi là một giai đoạn phụ trong Neogen.
Các chuyển động nâng tiếp tục xâm thực bóc mòn và phong hóa tiếp tục xảy ra, tạo ra bề
mặt san bằng và bình sơn nguyên, độ cao 770-900m.
3. Giai đoạn Đệ tứ (Q)
Vào đầu Đệ tứ, các dãy núi, bình sơn nguyên, cao nguyên bazan, các thung lũng
đã được hình thành với bình đồ cấu trúc địa hình về cơ bản như ngày nay.
Trong giai đoạn Đệ tứ, chuyển động nâng kiến tạo xảy ra yếu, điều hòa trên toàn
lãnh thổ, chủ yếu hoạt động bazan lấp đầy các thung lũng và quá trình xâm thực tiếp tục.
Theo các bậc tích tụ, xâm thực các bề mặt thềm và phun trào bazan chia giai đoạn thành
các thời kỳ:
3.1- Thời kỳ Pleistocen sớm (Q
1
1
)
Đây là thời kỳ được tiếp tục của thời kỳ Pliocen muộn kéo dài. Trong thời kỳ (N2
3
– Q1
1
) này địa hình được nâng cao 550-730m, Pediment hóa san bằng tạo đồng bằng đồi
bóc mòn các bề mặt bình sơn nguyên ở độ cao 550-730m.

Từ giữa đến cuối Pleistocen sớm, ở trên các vùng cao tiếp tục được nâng lên bóc
mòn xâm thực, hình thành các Pediment hóa (đồng bằng đồi trước núi) ở độ cao 150-
350m và các bề mặt thềm xâm thực tích tụ có độ cao tương đối 50-100m.
3.2- Thời kỳ Pleistocen giữa – muộn (Q
1
.2-3)
Trong thời kỳ này tiếp tục có các hoạt động nâng hạ điều hòa trên toàn vùng
nghiên cứu, các quá trình xâm thực bóc mòn và tích tụ xảy ra. Phun trào bazan Đệ tứ hoạt
động lấp đầy thung lũng. Trong các thung lũng lớn hình thành các thềm sông bậc II – III
có độ cao tương đối 10-20m, dày từ 1 – 2m đến 5 – 6m.
3.3- Thời kỳ Holocen (Q
2
)
Vào thời kỳ Holocen, núi, cao nguyên, bình sơn nguyên vẫn tiếp tục nâng điều hòa
và các quá trình xâm thực bóc mòn, tích tụ phát triển. Dọc theo các thung lũng phát triển
hệ thống thềm bậc I và các bãi bồi với tích tụ dày 2 – 3 đến 5 – 6m.
E. CÁC TAI BIẾN ĐỊA CHẤT VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÒNG NGỪA.
Các vùng địa mạo của địa bàn tỉnh Lâm Đồng được phản ánh một phần các kiến
trúc, đặc điểm tân kiến tạo, tác động tương hỗ với quá trình ngoại sinh và xu hướng phát
triển của địa hình. Địa hình vùng nghiên cứu vẫn đang được nâng lên và chia cắt, quá
trình sạt lở, trượt lở đất đá là rất đáng quan tâm. Nên việc phân tích chi tiết các bậc địa
hình, cấu trúc địa chất, sẽ góp phần đáng kể vào việc giải quyết và làm sáng tỏ các vấn đề
địa mạo động lực, địa chất môi trường và dự báo tai biến địa chất. Các tai biến địa chất
bao gồm các quá trình xói lở bờ sông, đổ lở, sụp đổ đất đá, nứt đất đá, trượt lở đất đá, lũ
quét…
Địa hình vùng Lâm Đồng chủ yếu là núi cao trung bình – thấp, bề mặt các bình
sơn nguyên – cao nguyên và các thung lũng sông suối. Trong đó địa hình núi chiếm phần
lớn diện tích tỉnh, kế đến là các bình sơn nguyên – cao nguyên, sau cùng là địa hình
thung lũng. Theo kết quả nghiên cứu cho thấy trên cả ba kiểu địa hình này đều
có các loại tai biến địa chất xảy ra: đất đá đổ lở, sạt lở, trượt lở, xâm thực xói lở, đặc biệt

có lũ quét, lũ ống,… Do vậy, trên tất cả các kiểu địa hình thuộc địa bàn tỉnh Lâm Đồng
đều phải được quan tâm về vấn đề tai biến địa chất bằng cách dự đoán và phòng ngừa
I. CÁC TAI BIẾN ĐỊA CHẤT
Các yếu tố tai biến địa chất nêu trên được hình thành đều có nguyên nhân của nó.
Có thể một kiểu tai biến do nhiều nguyên nhân cùng tác động, cũng có thể chỉ do một
nguyên nhân. Tuy nhiên, các tai biến địa chất được hình thành bởi một trong ba nguyên
nhân (nguồn gốc) chính sau đây:
 Các tai biến địa chất do nguồn gốc nội sinh.
 Các tai biến địa chất do nguồn gốc ngoại sinh.
 Các tai biến địa chất do nguồn gốc nhân sinh.
I.1. Các tai biến địa chất do nguồn gốc nội sinh:
Các hoạt động kiến tạo, núi lửa phun, động đất đều là các quá trình hoạt động của
vỏ trái đất. Những hoạt động này gây ra các tai biến địa chất vô cùng lớn lao. Những tai
biến địa chất có liên quan đến các hoạt động nêu trên đều được coi là có nguồn gốc nội
sinh.
Theo đặc điểm cấu trúc địa chất, trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng phát sinh và phát
triển các hoạt động đứt gãy kiến tạo và núi lửa khá mạnh mẽ trong giai đoạn cuối MZ đến
KZ, nằm trong giai đoạn hoạt hóa magma kiến tạo. Các hoạt động này đã để lại dấu ấn
khá rõ nét trên địa hình hiện tại của tỉnh Lâm Đồng.
Theo kết quả nghiên cứu đứt gãy kiến tạo của các nhà địa chất và kiến tạo cho
thấy trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng có đủ 4 phương đứt gãy kiến tạo. Trong đó các phương
đứt gãy ĐB-TN và TB-ĐN là chủ yếu. Các hệ phương đứt gãy này vẫn đang hoạt động
với mức độ khác nhau. Thể hiện rõ nét như trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, đa số hệ thống
sông, suối lớn đặc lòng theo hệ thống đứt gãy chính như thung lũng sông Đa Nhim, thung
lũng sông Krông Nô. Mức độ hoạt động nâng hạ tân kiến tạo khác nhau, tạo ra các bậc
địa hình kiến tạo, các vòm nâng, các hiện tượng nứt đất, lở đất, các thung lũng trong vùng
thường có trắc diện ngang hình chũ “V”, tức là đang trong giai đoạn phát triển đào long,
xâm thực sâu là chủ yếu. Do vậy khi thung lũng khoét sâu, tạo sườn dốc 30°-45°, các
tầng đất đá bên trên mất cân bằng trọng lực, sẽ gây ra hiện tượng đổ lở, sụp đổ, trượt lở
đất đá. Sự biến dạng ở những vùng đứt gãy, khu vực mà nước bị rút đi hết ở phía dưới vỏ

trái đất và sẽ kèm theo các tai biến đất chuồi, sụp đổ, trượt lở đất đá. Trên địa bàn tỉnh
Lâm Đồng nói riêng, khu vực Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ nói chung phổ biến
loại địa hình núi lửa. Đó là kết quả của các đợt hoạt động phun trào núi lửa kéo dài từ
Neogen đến Đệ tứ. Đối với các hoạt động phun trào núi lửa Miocen – đầu Pleistocen thì
chỉ còn để lại các lớp phủ bazan rộng lớn có bề mặt nằm ngang hoặc dạng vòm, và các
họng, miệng núi lửa hầu như đã bị xóa nhòa. Còn đối với các hoạt động bazan trẻ hơn
(Pleistocen) thì vẫn còn để lại các họng, miệng núi lửa dạng chóp nón. Trên khu vực
Đức Trọng, Đơn Dương, Tà Nung, Cam Ly, đã xác định được 17 họng núi lửa. Đây
chính là những điểm cần được đặc biệt chú ý. Trên các tai biến nứt đất ở trên địa bàn tỉnh
Lâm Đồng cũng như ở một số tỉnh miền Đông Nam Bộ (Đồng Nai, Bình Phước, Bà Ria –
Vũng Tàu,…) trong những năm gần đây (1994-1995) thường xuất hiện trên khu vực họng
núi lửa (Hiệp An-Đức Trọng-Lâm Đồng, Lộc Ninh-Bình Phước, Xà Bang-Bà Rịa – Vũng
Tàu). Các núi lửa “nở” bùng lên khi áp suất bên trong tăng lên bất kỳ lúc nào. Do vậy cần
được thường xuyên theo dõi, mặc dù hiện tại các họng núi lửa này đã ngưng hoạt động.
Dựa vào đặc điểm hình thái, tính chất và nguồn gốc sinh thành, trên địa bàn tỉnh
Lâm Đồng đã liệt kê được các dạng (kiểu) tai biến địa chất cũng chính là các yếu tố địa
hình thành tạo do nhân tố nội sinh như sau:
• Đứt gãy kiến tạo thể hình trên địa hình sông suối dạng tuyến, phát triển
nhiều trên các vùng núi của tỉnh.
• Sườn vách do đứt gãy kiến tạo tạo ra bị các quá trình bóc mòn gia công.
• Nứt đất liên quan đến hoạt động đứt gãy liến tạo.
• Vòm nâng kiến tạo, cấu trúc vòm, cấu trúc vòng, liên quan đến quá trình
nâng tân kiến tạo.
• Miệng (họng) núi lửa liên quan đến hoạt động phun trào núi lửa.
• Vách kiến trúc bóc mòn tạo nên trên đá rắn chắc thuộc họng núi lửa cổ
(tuổi Creta).
I.2. Các tai tai biến địa chất do nguồn gốc ngoại sinh:
Địa bàn tỉnh Lâm Đồng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm quanh năm,
đất đá trong vùng bị phong hóa mạnh, tạo vỏ phong hóa dày tới 5-15m, có nơi 15-20m.
Thông thường một vỏ phong hóa nhiệt đới ẩm có các đới từ trên mặt xuống gồm: Đới thổ

nhưỡng, đới Laterit sắt hóa (Feralit), đới sét hóa (Sialit) hoặc Sialferit hóa, đới vụn thô
(Saprorit). Mỗi đới vỏ phong hóa dày từ vài mét đến hơn 10 mét, thậm chí đến 20 mét.
Sự hình thành một hay nhiều đới vỏ phong hóa ngoài yếu tố khí hậu chúng còn
phụ thuộc khá nhiều vào yếu tố địa hình và thành phần đá gốc. Thông thường trên các bề
mặt địa hình bằng phẳng, rộng và ít bị phân cắt sâu thì phát triển vỏ phong hóa có đầy đủ
các đới và có bề dày lớn, như bề mặt các cao nguyên bazan, các bề mặt bình sơn nguyên.
Ngược lại trên các địa hình núi, sườn dốc, bị phân cắt sâu lớn thì tồn tại vỏ phong hóa ít
đới mà chủ yếu là đới vụn thô hoặc kèm theo đới sét hóa, với bề dày không lớn. Chính
đới vụn thô là đới nằm dưới cùng của vỏ phong hóa, liền với phần đá tươi còn cứng chắc
là đới có khả năng chứa nước lớn, vào mùa mưa, nước thẩm thấu xuống đới này và do địa
hình dốc sẽ gây ra hiện tượng trượt lở, sạt lở, đổ lở tầng đất đá trên mặt.
Các hoạt động đổ lở, trượt lở, sạt lở đất đá theo cơ chế nêu trên cũng như các hoạt
động xâm thực sói lở, sạt lở bờ do dòng chảy sông suối đều thuộc các tai biến địa chất có
nguồn gốc ngoại sinh.
Trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng xác định được một số tai biến địa chất thành tạo do
nguồn gốc ngoại sinh như sau:
- Vách sụp lở, đổ lở: Phát triển nhiều trên các kiến trúc hình thái khối
và dãy núi khối tảng được thành tạo bởi các đá magma xâm nhập và phun trào Mesozoi
như khối núi Bi Doup, núi Lang Bian, dải núi Benom Đạ Tiêu (Cổng trời), dãy núi B.Đa
Mlot, dãy núi địa lũy khối tảng Quang Du, Xuân Trường, dãy núi đèo Bảo Lộc. Trên các
khối núi, dải núi này đều có sườn khá dốc (>35°-45°), phần lớn có vỏ phong hóa vụn thô,
nên dẫn đến các hiện tượng đổ lở, sụp đổ đất đá thường xuyên. Dưới chân các vách đổ lở,
sụp đổ tạo ra các bãi đá đổ, đá lăn hoặc vạt gấu.
- Sườn vách trượt lở, sạt lở đất đá: Phát triển trên hầu khắp các loại địa
hình (núi, bình sơn nguyên và các cao nguyên, bề mặt thung lũng). Tuy nhiên mật độ
trượt lở, sạt lở nhiều trên bề mặt bình sơn nguyên, cao nguyên và sườn núi thoải (<30°)
dưới chân các sườn đổ lở, sụp đổ dốc >45°. Qua các tài liệu khảo sát cũ và mới đều đã
ghi nhận được rất nhiều dấu hiêu sạt lở, trượt lở đất đá. Các cung trượt lở, lưỡi trượt cũ
và mới được ghi nhận nhiều ở những khu vực có nhiều đứt gãy kiến tạo cắt qua như ở
khu vực B. Long Lanh-Đạ Chay, chân núi Lang Bian, thung lũng Đan Kia, khu vực

KNớ (Đam Rông), khu vực dải sườn thoải bên bờ trái thung lũng Đức Trọng, thung lũng
Đơn Dương, khu vực Bắc và Nam Bảo Lâm. Các vách sạt lở bờ sông cũng được ghi nhân
dọc theo hai bờ sông Đồng Nai, sông Đạ Houai ở khu vực Cát Tiên, Đạ Tẻh, Đạ Houai,
sông Đa Dâng ở khu vực Đinh Văn, sông Đại Ninh ở khu vực Đức Trọng-Hiệp An
-Đapren, khu vực thung lũng Đơn Dương và trên sông Krông Knô ở khu vực
Đam Rông.
Liên quan với các hoạt động của dòng chảy, trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng còn ghi
nhận được các loại vi địa hình thuộc dạng tai biến địa chất như các khu vực rãnh xói,
mương xói xâm thực, các bồn thu nước, các nón phóng vật, các trũng bàu, hồ, thung lũng
treo,…phát triển trên bề mặt địa hình sườn của khu vực núi, bình sơn nguyên và cao
nguyên. Đặc biệt trên vùng nghiên cứu có rất nhiều thác, ghềnh được ghi nhận. Các thác
nước vừa là cảnh quan du lịch đẹp nhưng vừa là các bẫy gây tai biến sụp đổ, đổ lở đá đột
ngột. Trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng còn ghi nhận được một dạng tai biến địa chất đó là
bùng nền đường mà rõ nét nhất là ở đoạn đèo Hiệp Hòa, đường thường xuyên bị bùng
nền là do dưới nền đường có tầng sét bentonit có tính chất trương nở khi nhiệt độ tăng
lên.
Do địa hình vùng nghiên cứu nhìn chung vẫn đang được nâng lên và chia cắt, dẫn
đến tình trạng sạt lở, trượt lở và các quá trình phá hủy bề mặt địa hình trên địa bàn tỉnh
Lâm Đồng vẫn tiếp tục xảy ra. Từ đó cho thấy nguyên nhân sâu xa của các tai biến địa
chất do ngoại sinh đều có nguồn gôc nội sinh là hoạt động nâng tân kiến tạo và hoạt động
đứt gãy kiến tạo phá hủy.
I.3. Các tai biến địa chất do nguồn gốc nhân sinh:
Các hoạt động của con người cũng là nguyên nhân làm thay đổi bề mặt tự nhiên.
Các tác động của con người lên bề mặt địa hình bao gồm các hoạt động chính như xây
dựng các công trình giao thông, thủy lợi, thủy điện, công nghiệp, nông lâm nghiệp, du
lịch, khai thác khoáng sản, tàn phá thảm thực vật,…
Từ các hoạt động của con người, đã tạo ra các dạng vi địa hình làm thay đổi bề
mặt địa hình tự nhiên như: Vách moong, hầm hố, đống đắp do khai thác khoáng sản
( khu vực Đạ Chay, Trà Năng,…), vách ta luy đường giao thông dốc 60-80°, cao 5-15m;
vách các nền công trình dốc >60°, cao 5-10m; các đập chắn nước (làm thủy điện, thủy

lợi, hồ du lịch,…)
Những hoạt động tạo vách ta-luy cao làm mất cân bằng địa hình và khi có điều
kiện như phần trên vách ta-luy đất bị sũng nước vào mùa mưa kèm theo ảnh hưởng của
cấu trúc trọng lực sẽ làm tầng đá phía trên trượt xuống, sạt lở xuống long đường và nếu
tải trọng lớn sẽ dẫn đến làm bể mặt đường rồi tạo luôn mặt trượt xuống vực sâu.
Theo khảo sát của đề tài, cho thấy trên hầu hết các đường cao tốc, đường Quốc lộ,
tỉnh lộ ( QL20, QL27, QL28, đường ĐL-NT, đường ĐL-Đa Nhim, đường DL-BT) đều có
các đoạn ta-luy khá dốc (>60->80 °), cao 5-15m, có khi >15m, trong đó có đến 60% đoạn
có hiện tượng hoặc đã bị sạt lở, trượt lở phần đất đá trên ta-luy. Có những đoạn bị sạt lở,
trượt lở khá nghiêm trọng (thuộc loại nguy cơ cao). Tại một số đoạn có nguy cơ cao đã
được xây kè bằng đá, xi-măng. Ngoài các ta-luy dương bị sạt lở còn có chỗ thuộc ta-luy
âm cũng bị sạt lở phá hủy mặt đường.
Từ những khảo sát cho thấy tác động của con người đã phần nào góp thêm vào các
tác nhân tự nhiên để xảy ra các tai biến trượt lở, sạt lở nhanh hơn.
Việc tàn phá thảm thực vật che phủ, đốt rừng, chặt cây cối bừa bãi cũng là một
trong những nguyên nhân lớn gây ra hiện tượng trượt lở, sạt lở đất đá. Tình trạng này
được ghi nhận dọc theo đường QL27, đoạn từ đèo Chuối về phía UBND huyện Đam
Rông. Do phần dưới đường được phát rừng làm nương đã tạo điều kiện các khe suối, khe
rãnh phát triển nhanh đã làm mặt đường bị sạt lở ở vài chỗ, mặt khác gây lũ lụt, lũ quét
trong các vùng trũng và thung lũng.
Tóm lại các hoạt động của con người một mặt đã tạo ra cảnh quan môi sinh môi
trường tốt cho vùng, mặt khác là nguyên nhân dẫn đến các tác hại về môi trường sinh thái
tự nhiên, gây ra thêm các tai biến địa chất của vùng.
II. MỘT SỐ DỰ BÁO VÀ PHÒNG NGỪA CÁC TAI BIẾN ĐỊA CHẤT
II.1 Một số dự báo khu vực có khả năng xảy ra các tai biến địa chất.
Từ nguyên nhân hay nguồn gốc sinh thành các kiểu địa hình và các tai biến địa
chất trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng như đã trình bày ở các phần trên có thể đưa ra một số dự
báo các khu vực có khả năng xảy ra các tai biến địa chất
1. Trên các khu vực núi cao trung bình được cấu thành chủ yếu từ các đá magma
xâm nhập và phun trào Mesozoi có sườn dốc >30° có vỏ phong hóa nứt nẻ vỡ vụn với bề

dày lớn thường xảy ra các quá trình đổ lở, sụt đổ (đèo Bảo Lộc).
2. Trên các khu vực núi cao trung bình – thấp được cấu thành chủ yếu từ các đá
trầm tích Mesozoi, có sườn dốc 10-30°, có vỏ phong hóa từ mỏng đến dày (1-10m)
thường xảy ra quá trình xâm thực bóc mòn là chính, kèm theo trượt lở, sạt lở, đôi khi có
cả sụp đổ (đường QL27 đoạn thuộc huyện Đam Rông, khu vực K Nớ huyện Đam Rông,
khu vực Bắc huyện Lạc Dương: Đạ Chay, Lang Lanh).
3. Trên các khu vực bình sơn nguyên được cấu thành từ các thành tạo địa chất
khác nhau, có vỏ phong hóa từ mỏng đến dày (1-10m), có sườn ngắn từ thoải đến dốc
>20°, thường xảy ra quá trình rửa trôi bóc mòn là chính, kèm theo các hiện tượng trượt
lở, sạt lở, xâm thực bóc mòn đặc biệt ở phần rìa bề mặt các bình sơn nguyên ( Đạ Chay,
Bắc Long Lanh-Lạc Dương, dãi thung lũng Nam Lang Bian-chân sườn Nam Lang Bian).
4. Trên các cao nguyên bazan Cenozoi có vỏ phong hóa khá dày (10-20m) với bề
mặt đỉnh khá bằng và sườn phân cắt từ thoải đến dốc (5-20°), thường xảy ra quá trình rửa
trôi bóc mòn là chính, có kèm theo trượt lở, sạt lở và xâm thực chia cắt đặc biệt ở khu
vực rìa các cao nguyên (Nam-TN Bảo Lộc, Nam-ĐN Lán Chanh, Lâm Hà).
5. Ở các khu vực chân sườn núi là các Pediment do hoạt động xâm thực bóc mòn
giật lùi, có độ dốc thoải (5-15°) được tích tụ deluvi chủ yếu thường xảy ra quá trình rửa
trôi – tích tụ và có thể kèm theo quá trình xâm thực – bóc mòn và trượt lở, sạt lở đất đá,
phát triển các khe rãnh xói, mương xói (dọc sườn Bắc-TB thung lũng Hiệp An, thung
lũng Đơn Dương).
6. Trong các thung lũng sông suối do dòng chảy hoạt động xâm thực – tích tụ, tích
tụ - xâm thực và tích tụ, tạo ra các thềm và bãi bồi, thường kèm theo các xâm thực xói lở,
sạt lở bờ sông. Ở các thung lũng trong khu vực núi có trắc diện dọc dốc, trắc diện ngang
hẹp, sườn bờ dốc còn hay bị lũ ống. Tại các thung lũng ở chân núi được mở rộng thường
xảy ra lũ quét, còn trong các thung lũng hẹp phát triển trên các bình sơn nguyên, cao
nguyên thường là các thung lũng hẹp, kéo dài, có khi khép kín, có tích tụ tạo đầm lầy lại
thường xảy ra lũ ống và lũ quét kết hợp.
- Bờ sông bị sạt lở (sông Đồng Nai ở Cát Tiên, Đạ Tẻh), sông Đa Dâng (Đinh
Văn), sông Krông Nô).
- Thung lũng bị lũ quét (Cát Tiên, Đạ Tẻh, Đạ Houai, Đạ Rsan,…).

II.2. Một số biện pháp phòng ngừa, khắc phục các tai biến địa chất.
Việc phòng ngừa và khắc phục các tai biến địa chất đòi hỏi phải có các nghiên cứu
cụ thể cho từng loại tai biến địa chất, tuy nhiên có những tai biến địa chất có thể dự đoán
trước được và vì thế có thể đưa ra các biện pháp phòng ngừa và khắc phục được. Trong
báo cáo này chỉ đưa ra một số biện pháp phòng ngừa hoặc khắc phục một số loại tai biến
địa chất thường gặp trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng.
1. Khi tiến hành làm đường giao thông hoặc làm nền các công trình trên vùng núi,
nhất thiết phải bạt sườn núi để làm nền đường, nền công trình, sẽ tạo ra ta-luy dương và
âm (vách) với độ dốc nhất định, từ đó dễ xảy ra sạt lở, trượt lở phần đất trên ta-luy khi
chúng có điều kiện. Để phòng ngừa và khắc phục hiện tượng này nhất thiết phải tuân thủ
theo thiết kế, không được vượt quá độ dốc và chiều cao ta-luy cho phép. Đặc biệt
cần chú ý trên những khu vực có hoạt động kiến tạo mạnh và có vỏ phong hóa dày, nhất
thiết phải có kè ở chân ta-luy.
2. Đối với hiện tượng bùng nền đường ở đoạn đèo Phú Hiệp của QL20 có thể thực
hiện theo hai cách để khắc phục là làm đường tránh hoặc làm đường trên cao qua hết
đoạn có sét Bentonit
3. Cần quy hoạch khu dân cư cũng như khu cơ quan công sở, xí nghiệp xa các
vùng có nguy cơ xảy ra các tai biến như trượt lở, sạt lở, đất truồi, nứt đất hoặc lũ quét,…
như đã chỉ ra ở trên. Đặc biệt đối với khu vực có địa hình sườn núi dốc lại bị phân cắt
mạnh bởi mạng thủy văn như vùng KNớ (Đam Rông), hoặc khu sườn vạt gấu nằm dưới
dải sườn dốc đá lở như dải sườn phía Bắc-TB thung lũng Đức Trọng-Hiệp An-Prenn,
thung lũng Đơn Dương, hoặc khu vực rìa các bề mặt bình sơn nguyên, cao nguyên bazan.
Với các nhận định như trên trước hết cần xem lại vị trí đặt trụ sở UBND huyện Đam
Rông cũng như một số khu dân cư khác như khu vực xã Đạ Tông, B.Rô Man,…
4. Cần phải gìn giữ và bảo tồn tốt các vùng rừng đầu nguồn trên toàn địa bàn tỉnh
Lâm Đồng, vì Lâm Đồng là vùng đầu nguồn của các lưu vực sông lớn của khu vực.
5. Cần có quy hoạch trong khai thác khoáng sản và có sự quản lý chặt chẽ, vì trên
địa bàn tỉnh Lâm Đồng có hoạt động khai thác khoáng sản khá phát triển.
KẾT LUẬN
Báo cáo đặc điểm địa mạo động lực là một trong các chuyên đề của đề tài “Nghiên

cứu tai biến địa chất, những vùng có nguy cơ nứt đất, trượt lở đất, lũ quét và các biện
pháp ngăn ngừa, khắc phục trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng”. Báo cáo đã được hoàn thành và
đạt được các mục tiêu đề ra.
Báo cáo đã nêu sơ lược về đặc điểm các KTHT bậc III và IV, đặc điểm các đơn vị
địa mạo động lực và phân vùng địa mạo động lực của tỉnh Lâm Đồng.
Theo đó trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng đã phân ra được 4 KTHT bậc III và IV và
11 KTHT bậc nhỏ hơn (V và VI).
Về các đơn vị địa mạo động lực được phân ra theo nguồn gôc sinh thành (theo
nguyên tắc bề mặt đồng nhất nguồn gốc), gồm 3 nhóm nguồn gốc chính: Nội sinh, ngoại
sinh và nhân sinh, từ đó đã xác định được 14 đơn vị địa mạo động lực cụ thể.
Từ các yếu tố KTHT và đặc điểm các đơn vị địa mạo động lực đã phân vùng địa
mạo. Theo đó trên lãnh thổ tỉnh Lâm Đồng đã phân ra được 5 vùng và 20 phụ vùng địa
mạo động lực. Đồng thời báo cáo cũng đã nêu tóm tắt về đặc điểm tân kiến tạo và lịch sử
phát triển địa hình tỉnh Lâm Đồng.
Một phần quan trọng của báo cáo địa mạo động lực là xác định các tai biến địa
chất xảy ra trên vùng nghiên cứu và dự baó các vùng có nguy cơ tai biến địa chất để
phòng ngừa trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng.
Từ các kết quả nghiên cứu địa mạo động lực cho thấy trên diện tích tỉnh Lâm
Đồng, chế độ hoạt động tân kiến tạo với xu hướng chung là nâng lên xâm thực-bóc mòn,
diễn ra tương đối mạnh từ Miocen sớm đến nay. Các quá trình địa mạo động lực hiện đại
chủ yếu là: Bóc mòn kèm theo quá trình xâm thực-lở, trượt lở đất đá dọc theo các sườn,
các thung lũng xâm thực sâu và đào lòng từ vài chục mét đến vài trăm mét, tạo sườn dốc
10-30° đến 35-45°. Các thành tạo phun trào bazan phát triển khá rộng, các thành tạo trầm
tích đệ tứ phân bố hạn chế dọc theo các thung lũng sông suối lớn, có bề dày mỏng
(<10m).
Tổng hợp các diễn biến phát triển các tai biến địa chất vùng Lâm Đồng chom thấy
trước hết cần có một số biện pháp ngăn ngừa, khắc phục như sau:
- Khi tiến hành làm đường giao thông hoặc làm nền các công trình phải bạt sườn
núi sẽ tạo ra ta-luy dương nhất thiết phải tuân thủ theo thiết kế, không được vượt quá độ
dốc và chiều cao cho phép. Đặc biệt trên vùng có hoạt động đứt gãy kiến tạo mạnh và vỏ

phong hóa dày.
- Cần quy hoạch các khu dân cư, khu cơ quan làm việc xa các vùng có nguy co
xảy ra các tai biến trượt lở, sạt lở và đổ lở (khu vực chân các khối núi, dãy núi có độ dốc
cao) như khu vực núi Lang Bian, Bi Doup, sườn Đông-ĐN dãy núi Quang Du. Cần xem
lại khu vực đặt trụ sở cơ quan UBND huyện Đam Rông.
- Để khắc phục hiện tượng bùng nền đường đoạn đèo Phú Hiệp có thể thực hiện
theo hai cách là: Làm đường tránh, hoặc làm đường trên cao qua hết diện tích có sét
Bentonit.
Với các kết quả nghiên cứu địa mạo động lực, báo cáo chuyên đề đã góp thêm tư
liệu cho đề tài nhằm hoàn thiện các mục tiêu nhiệm vụ của đề tài.
Bảng 2: Tổng hợp phân loại mức độ và nguyên nhân tai biến địa chất trên địa bàn tỉnh
Lâm Đồng theo số liệu khảo sát ở từng huyện
TT
Huyện
thị, thành
phố
Loại tai
biến
Số
lượng
Hiện
trạng
Nền cấu trúc
địa chất
Mức độ tai biến Nguyên nhân
Mới Cũ R.cao Cao TB
Nội
sinh,
ngoại
sinh

Có con
người
tác
động
1 Đam
Rông
Trượt lở,
sạt lở
Xói lở
18
9
18
9
-
-
VPH sét tt J
2
VPH sét tt J
2
và tt Q
x
x
x
x
-
-
x
x
x
-

2 Lạc
Dương
Đổ lở
Trượt lở -
sạt lở
Xói lở
4
68
7
3
22
7
1
46
-
VPH đá pt
K
2
VPH sét pt
K
2
VPH sét tt +
pt Q
2
x
x
-
x
x
x

-
-
x
x
x
x
x
x
-
3 Lâm Hà Đổ lở
Trượt lở -
sạt lở
Xói lở
Nứt đất
Bùng nền
1
4
5
4
1
1
4
5
4
1
-
-
-
-
-

VPH sét xn
K
2
VPH sét xn
K
2
TT Q
2
sông
VPH bazan,
VPH sét xn
TT Q ?
-
x
-
x
x
x
x
x
x
x
-
-
x
-
-
x
x
x

-
x
4 Đà Lạt Đổ lở
Trượt lở -
sạt lở
Xói lở
1
10
3
1
7
3
-
3
-
VPH đá, sét
VPH sét
Bờ sông suối
x
x
-
x
x
x
-
-
-
x
x
x

x
x
x
5 Đức
Trọng
Đổ lở
Trượt lở-
sạt lở
Xói lở
Nứt đất
Bùng nền
7
7
3
2
2
1
6
3
2
2
6
1
-
-
-
VPH vỡ vụn
đá pt K
2
VPH vỡ vụn

+ sét pt K
2
VPH sét +
deluvi
Đá bazan Q
Trầm tích Q
x
x
x
x
x
x
x
x
-
x
-
-
-
-
-
x
x
x
x
x
-
x
x
x

x
6 Đơn
Dương
Đổ lở
Trượt lở-
sạt lở
Xói lở
3
11
5
-
11
5
3
-
-
VPH vỡ vụn
đá pt K
2
VPH sét pt
K
2
VPH sét + tt
Q
-
x
-
x
x
x

-
-
x
x
x
x
-
x
x
7 Di Linh Đổ lở 13 13 - VPH vỡ vụn x x - x x
TT
Huyện
thị, thành
phố
Loại tai
biến
Số
lượng
Hiện
trạng
Nền cấu trúc
địa chất
Mức độ tai biến Nguyên nhân
Mới Cũ R.cao Cao TB
Nội
sinh,
ngoại
sinh
Có con
người

tác
động
Trượt lở-
sạt lở
Xói lở
Nứt đất
40
10
12
40
10
12
-
-
-
đá gốc
VPH sét các
đá
VPH
VPH bazan
Sét bentonit
x
-
x
x
x
x
-
-
-

x
-
-
x
x
x
x
x
-
-
x
8 BảoLâm -
Bảo Lộc
Đổ lở
Trượt lở-
sạt lở
Xói lở
1
1
1
1
1
1
-
-
-
VPH vỡ vụn
đá gốc
VPH sét
bazan và đá

gốc
VPH, tt Q
x
x
-
-
x
x
-
-
x
x
x
x
-
x
-
9 Cát Tiên Xói lở 10 10 - Tt Q
2
bờ
sông
x x - x x
10 Đạ Teh Trượt lở-
sạt lở
Xói lở
1
3
1
3
-

-
VPH sét J
2
Tt Q
2
bờ
sông
x
x
x
x
-
-
x
x
x
x
11 Đạ Houai Đổ lở
Trượt lở-
sạt lở
Xói lở
6
1
1
6
1
1
-
-
-

VPH vỡ vụn
pt J
3
-K
VPH sét, vỡ
vụn J
2
VPH sét, tt
Q
2
x
x
-
x
x
x
-
-
-
x
x
x
x
x
-
Tổng cộng 277 261 16 25 31 6 35 25
Bảng tổng hợp các loại tai biến địa chất theo số liệu khảo sát
TT Vùng
Các loại tai biến
Đổ lở,

sụp lở
Trượt lở Sạt lở Xói lở Nứt đất
Bùng
nền
1 Đam Rông - - 18 9 - -
2 Lạc Dương 4 1 67 7 1 -
3 Lâm Hà 1 - 4 5 4 1
4 Đà Lạt 1 3 7 3 - -
5 Đức Trọng 7 - 7 3 2 2
6 Đơn Dương 3 - 11 5 - -
TT Vùng
Các loại tai biến
Đổ lở,
sụp lở
Trượt lở Sạt lở Xói lở Nứt đất
Bùng
nền
7 Di Linh 13 12 28 10 1 2
8 Bảo Lâm -
Bảo Lộc
1 3 18 1 - -
9 Cát Tiên - - - 10 - -
10 Đạ Teh - - 1 3 - -
11 Đạ Houai 6 - 1 1 - -
Cộng 36 29 143 57 8 5
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Đức An, 1978. Một số nét về lớp phủ bazan Nam Việt Nam.
2. Lê Đức An, Ma Công Cọ, 1979. Vài nét về đặc điểm tân kiến tạo Nam Việt Nam.
3. Lê Đức An, Ma Công Cọ, 1981. Các bề mặt san bằng Nam Việt Nam.
4. Lê Đức An và nnk, 1984. Bản Đồ Địa Mạo Việt Nam, tỷ lệ: 1/500.000.

5. Đào Đình Bắc, 2000. Địa Mạo Đại Cương.
6. Nguyễn Xuân Bao và nnk, 1994. Kiến tạo sinh khoáng Nam Việt Nam.
7. Nguyễn Văn Cường và nnk, 1995. Báo cáo kết quả đo vẽ bản đồ địa chất và tìm
kiếm khoáng sản, nhóm tờ Đà Lạt, tỷ lệ: 1/50.000.
8. Đỗ Công Dự và nnk, 1989. Báo cáo địa chất vùng Bảo Lộc – Di Linh, tỷ lệ:
1/50.000.
9. Hà Quang Hải và nnk, 1993. Báo cáo thuyết minh bản đồ địa mạo động lực tỉnh
Lâm Đồng.
10.Đỗ Văn Lĩnh, Ma Công Cọ, Đặng Văn Rời, 2004. Vài suy nghĩ về khả năng liên
quan đến các trận động đất gần đây với các hệ thống đứt gãy Nam Trung Bộ và
Nam Bộ.
11.Phạm Huy Long và nnk, 1995. Đều tra địa chất về nứt đất đang diễn biến ở các
tỉnh Đắc Lắc, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Sông Bé và các miền ảnh hưởng của
chúng.
12.Nguyễn Quang Lộc và nnk, 1994. Báo cáo kết quả đo vẽ bản đồ địa chất và tìm
kiếm khoáng sản, nhóm tờ Tây Sơn – Lâm Đồng, tỷ lệ: 1/50.000.
13.Nguyễn Quang Lộc và nnk, 2005. Báo cáo đo vẽ bản đồ địa chất và điều tra
khoáng sản nhóm tờ Bắc Đà Lạt, tỷ lệ: 1/50.000.
14.Nguyễn Văn Mài và nnk, 2005. Báo cáo quy hoạch khoáng sản tỉnh Lâm Đồng
giai đoạn đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020.
15.Nguyển Đức Thắng và nnk, 1987. Báo cáo đo vẽ bản đồ địa chất và tìm kiếm
khoáng sản nhóm tờ Bến Khế-Đồng Nai, tỷ lệ:1/200.000.
16.Nguyễn Đức Thắng và nnk, 1998. Báo cáo đo vẽ lập bản đồ địa chất và tìm kiếm
khoáng sản nhóm tờ Vĩnh An, tỷ lệ: 1/50.000.
17.Cao Đình Triều, Phạm Huy Long, 2002. Kiến tạo đứt gãy lãnh thổ Việt Nam.
18.Nguyễn Thành Vạn, 1987. Các thành hệ vỏ phong hóa ở phần phía Nam Việt Nam
và một số khoáng sản liên quan.
19.Vũ Văn Vĩnh, 1996. Các kiến trúc hình thái Nam Trung Bộ.
20.Vũ Văn Vĩnh và nnk, 2004. Nghiên cứu, dự báo nứt đất, trượt lở đất phục vụ cho
việc phòng tránh, giảm thiểu thiệt hại, rủi ro do chúng gây ra ở khu vực Gia Nghĩa

- Kiến Đức, tỉnh Đăk Nông.
21.Liên đoàn Địa chất 6, 1987 – 1988. Báo cáo địa mạo – vỏ phong hóa khu vực Di
Linh – Bảo Lộc.

×