Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Nghiên cứu phát triển du lịch làng nghề truyền thống tại thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 119 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




LÊ THỊ THANH YẾN




NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH LÀNG NGHỀ
TRUYỀN THỐNG TẠI THÀNH PHỐ SA ĐÉC,
TỈNH ĐỒNG THÁP


Chuyên ngành: Du lịch
(Chương trình đào tạo thí điểm)


LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. TRẦN THÚY ANH






Hà Nội, 2015



LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan, những số liệu, những kết quả điều tra được trình bày trong
luận văn là trung thực khách quan mà bản thân tôi trực tiếp thực hiện, những số liệu,
kết quả trên chưa được sử dụng, công bố bảo vệ trong bất kì công trình nghiên cứu
nào.
Tôi cũng cam đoan các số liệu, thông tin trích dẫn trong luận văn đều được trích
dẫn rõ nguồn gốc.


Hà Nội, ngày 15 tháng 09 năm 2014
Tác giả luận văn


Lê Thị Thanh Yến













LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi còn
nhận được sự quan tâm giúp đỡ của các cá nhân, tập thể trong và ngoài trường.
Tôi xin cảm ơn các thầy cô, cán bộ ở khoa Du lịch, khoa Sau Đại học Trường
Đại học KHXH&NV Hà Nội đã động viên và hết lòng giúp đỡ, truyền đạt cho tôi
những kiến thức quý báu trong quá trình học tập. Tôi cũng cám ơn Khoa Sau Đại
học, các thầy cô, cán bộ trường Đại học Văn hóa TPHCM đã giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập tại trường. Đặc biệt tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô Trần Thúy
Anh, giảng viên của Khoa Du lịch, Trường Đại học KHXH&NV Hà Nội. Người đã
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, chỉ bảo tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Tôi xin cảm ơn các hộ gia đình, các cá nhân, tập thể trong các làng nghề truyền
thống tại thành phố Sa Đéc đã giúp tôi trong suốt thời gian viết luận văn tốt nghiệp.
Tôi cũng xin cảm ơn các cán bộ, nhân viên ở Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Đồng Tháp và các phòng ban ở UBND thành phố Sa Đéc đã cung cấp cho tôi các số
liệu, thông tin cần thiết cho luận văn.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã tạo điều kiện động viên và giúp đỡ
tôi trong suốt thời gian viết luận văn này. Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn tới
tất cả những cá nhân, các ban ngành và tất cả những sự giúp đỡ quý báu đó.
Do thời gian có hạn, luận văn này hẳn không tránh khỏi những hạn chế và thiếu
sót. Vì vậy rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của quý thầy cô
cùng tất cả bạn đọc.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15 tháng 09 năm 2014
Tác giả luận văn


Lê Thị Thanh Yến





DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


STT
Chữ viết tắt
Ý nghĩa đầy đủ
01
TNDL
Tài nguyên du lịch
02
SPDL
Sản phẩm du lịch
03
LNTT
Làng nghề truyền thống
04
TCMN
Thủ công mỹ nghệ
05
TTCN
Tiểu thủ công nghiệp
06
ĐBSCL
Đồng bằng sông Cửu Long
07
UBND

Ủy ban nhân dân
08
CNH
Công nghiệp hóa
09
HĐH
Hiện đại hóa




1
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 4
1. Tính cấp thiết của đề tài 4
2. Lịch sử nghiên cứu 6
3. Mục đích, nhiệm vụ và ý nghĩa nghiên cứu của đề tài 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 8
5. Phương pháp nghiên cứu 9
6. Bố cục của luận văn 10
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN DU
LỊCH LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG 11
1.1. Các khái niệm cơ bản liên quan 11
1.1.1. Du lịch 11
1.1.2. Tài nguyên du lịch 12
1.1.3. Sản phẩm du lịch 13
1.1.4. Làng nghề 13
1.1.5. Làng nghề truyền thống 14
1.1.6. Làng nghề truyền thống phục vụ du lịch 16

1.1.7. Phát triển du lịch làng nghề truyền thống 17
1.2. Làng nghề truyền thống và mối quan hệ của nó với phát triển du lịch 23
1.2.1. Sự cần thiết phải khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống trong việc
phát triển du lịch 23
1.2.2. Vai trò của làng nghề truyền thống trong phát triển kinh tế - xã hội 25
1.2.3. Vai trò của làng nghề truyền thống đối với phát triển du lịch 31
1.2.4. Vai trò của du lịch đối với việc phát triển làng nghề truyền thống 33
1.3. Kinh nghiệm phát triển du lịch làng nghề truyền thống ở thế giới và Việt Nam 35
1.3.1. Phát triển du lịch làng nghề truyền thống ở một số nước trên thế giới và Việt
Nam 35


2
1.3.2. Những bài học rút ra đối với phát triển du lịch làng nghề truyền thống ở
thành phố Sa Đéc 43
Tiểu kết chương 1 45
CHƢƠNG 2 : THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH LÀNG NGHỀ
TRUYỀN THỐNG TẠI THÀNH PHỐ SA ĐÉC, TỈNH ĐỒNG THÁP 46
2.1. Những đặc điểm của thành phố Sa Đéc ảnh hưởng đến phát triển du lịch làng
nghề truyền thống 46
2.1.1. Đặc điểm về tự nhiên 46
2.1.2. Đặc điểm về kinh tế - xã hội 47
2.2. Thực trạng phát triển du lịch làng nghề truyền thống tại thành phố Sa Đéc, tỉnh
Đồng Tháp 48
2.2.1. Thực trạng phát triển du lịch ở thành phố Sa Đéc 48
2.2.2. Thực trạng phát triển du lịch làng nghề truyền thống tại thành phố Sa Đéc,
tỉnh Đồng Tháp 53
2.3. Một số vấn đề cần quan tâm trong phát triển du lịch làng nghề truyền thống tại
thành phố Sa Đéc 68
2.3.1. Nhìn từ góc độ kinh tế 68

2.3.2. Nhìn từ góc độ tài nguyên – môi trường 69
2.3.3. Nhìn từ góc độ xã hội 71
2.3.4. Nhìn từ góc độ quản lý nhà nước 71
2.3.5. Về sản phẩm du lịch 72
Tiểu kết chương 2 73
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH LÀNG NGHỀ TRUYỀN
THỐNG TẠI THÀNH PHỐ SA ĐÉC, TỈNH ĐỒNG THÁP 74
3.1. Những căn cứ để đưa ra các giải pháp 74
3.1.1. Kế hoạch phát triển tổng hợp kinh tế quốc dân tỉnh 74
3.1.2. Nhu cầu thị trường khách du lịch thế giới và trong nước thời gian tới 76
3.1.3. Thực trạng về khai thác và mức độ thu hút khách du lịch tại các làng nghề
truyền thống trong thời gian qua 76


3
3.2. Các giải pháp phát triển du lịch làng nghề truyền thống tại thành phố Sa Đéc,
tỉnh Đồng Tháp 78
3.2.1. Giải pháp về sản phẩm du lịch 78
3.2.2. Giải pháp về kết cấu hạ tầng du lịch 79
3.2.3. Giải pháp về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực 80
3.2.4. Chú trọng công tác quy hoạch phát triển du lịch làng nghề 82
3.2.5. Huy động sự tham gia của cộng đồng trong việc bảo tồn giá trị văn hóa và
khai thác sản phẩm của làng nghề phục vụ phát triển du lịch 83
3.2.6. Giải pháp về vốn 84
3.2.7. Xúc tiến xác lập thương hiệu điểm đến cho làng nghề truyền thống 85
3.2.8. Các giải pháp về cơ chế, chính sách 87
3.2.9. Cải thiện môi trường trong các làng nghề truyền thống 88
3.3. Một số kiến nghị 90
Tiểu kết chương 3 94
KẾT LUẬN 95

TÀI LIỆU THAM KHẢO 98
PHỤ LỤC 101



4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Du lịch là ngành có quan hệ qua lại rộng rãi nhất với các ngành kinh tế khác và là
cầu nối liên kết các vùng miền và các quốc gia. Du lịch là trung tâm, là phương tiện
để giao lưu, trao đổi thông tin giúp chúng ta có thể tìm hiểu, khám phá thế giới. Du
lịch đem đến cho du khách thỏa mãn về nhu cầu giải trí và cân bằng trạng thái tinh
thần, thể lực sau những ngày lao động mệt mỏi. Do vậy, để du lịch phát triển bền
vững thì các cấp quản lý phải có những chính sách, kế hoạch phát triển cụ thể sao
cho sự phát triển của nó không tổn hại đến các nhân tố tự nhiên và văn hóa - xã hội.
Sự phát triển của du lịch phải song song với sự phát triển của các thành phần kinh tế
khác trong xã hội và cần phải mang lại lợi ích cho người dân địa phương, nơi có các
nguồn tài nguyên du lịch (TNDL). Để thực hiện được điều đó là một thách thức lớn
đối với ngành du lịch của các cấp quản lý và các hộ gia đình trong hệ thống các làng
nghề truyền thống (LNTT), rộng hơn là du lịch cả nước đang phải đối mặt với việc
quy hoạch và phát triển chưa đồng bộ, chưa có chiến lược phát triển bền vững gây
ra tác động tiêu cực đến tài nguyên môi trường.
Đảng và Nhà nước luôn coi trọng và quan tâm đến việc giữ gìn, bảo tồn và phát
huy giá trị di sản văn hóa dân tộc. Các di sản văn hóa, dù ở hoàn cảnh lịch sử nào,
giai đoạn cách mạng nào, Đảng ta luôn đặc biệt quan tâm bảo vệ vì nó là hồn của
dân tộc, là nền tảng tinh thần, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững, nhất là
giai đoạn đất nước ta đang trong quá trình đổi mới, hội nhập và phát triển hiện nay.
Các LNTT ở Việt Nam đã và đang có nhiều đóng góp cho GDP của đất nước
nói chung và đối với nền kinh tế nông thôn nói riêng. Nhiều LNTT hiện nay đã
được khôi phục, đầu tư phát triển với quy mô và kỹ thuật cao hơn, hàng hóa không

những phục vụ nhu cầu trong nước mà còn cho xuất khẩu với giá trị lớn. Tuy nhiên,
một trong những thách thức đang đặt ra đối với các làng nghề là vấn đề sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm, vấn đề khai thác giá trị văn hóa và tạo ra các sản phẩm độc đáo
phục vụ cho hoạt động du lịch.


5
Lịch sử hình thành và phát triển của thành phố Sa Đéc được bắt đầu từ công cuộc
khẩn hoang của các cộng đồng cư dân di cư từ miền Bắc và miền Trung khoảng thế
kỷ XVII, XVIII. Trải qua tiến trình khai phá đất hoang, kiên cường đấu tranh, đất và
người nơi đây đã hun đúc nên bản lĩnh kiên cường, bất khuất và truyền thống yêu
nước, cách mạng. Quá trình đó bồi đắp nên những giá trị nhân văn qua nhiều thế hệ,
hình thành những giá trị văn hóa truyền thống mang sắc thái riêng. Phát triển làng
nghề gắn với du lịch đã trở thành một điểm nhấn quan trọng trong tiến trình phát
triển du lịch ở thành phố Sa Đéc bởi nó thể hiện được nét văn hóa đặc trưng của
mỗi ngành nghề ở từng khu vực và được nhiều du khách quan tâm.
Hiện nay, thành phố Sa Đéc có 6 LNTT và các LNTT này đã trở thành tiêu
điểm chú ý gắn với hoạt động du lịch thu hút du khách đến tham quan như làng hoa
kiểng Sa Đéc, làng nghề sản xuất bột, làng làm kim hoàn Thành phố Sa Đéc đang
đầu tư phát triển du lịch gắn với việc bảo tồn các giá trị LNTT, văn hóa dân cư bản
địa và phối hợp chặt chẽ với người dân địa phương trong việc xây dựng, quy hoạch
làng nghề gắn với du lịch
Giá trị của các LNTT là vô cùng to lớn, nó gắn bó mật thiết với hoạt động du
lịch và được xem là tài nguyên của du lịch, song điều quan trọng là việc bảo tồn và
phát huy những giá trị của nó như thế nào để phát triển bền vững trong giai đoạn
hiện nay, làm thế nào để các LNTT góp phần vào tăng trưởng kinh tế bền vững
thông qua các hoạt động du lịch từ những giá trị văn hóa của làng nghề mang lại, đó
chính là vấn đề cần phải được giải quyết một cách khoa học, biện chứng.
Nhận thức được tầm quan trọng cũng như tính bức thiết của vấn đề nêu trên
ở thành phố Sa Đéc, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Nghiên cứu phát triển du lịch làng

nghề truyền thống tại thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp” làm luận văn tốt
nghiệp Cao học của mình. Mong muốn của học viên là các cấp, các ngành và toàn
thể xã hội cần quan tâm hơn nữa đến công tác bảo tồn và khai thác giá trị các LNTT
vào phát triển du lịch địa phương, phản ánh được tính cấp thiết của việc bảo tồn,
phát huy các giá trị văn hóa làng nghề gắn với việc phát triển du lịch bền vững trong
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trên quê hương Đồng Tháp hiện nay.


6
2. Lịch sử nghiên cứu
Cho đến nay ở những góc độ khác nhau, đã có những đề tài nghiên cứu về
vấn đề phát triển du lịch làng nghề trên phạm vi cả nước. Các công trình nghiên cứu
đã đề cập một cách toàn diện, khái quát hoặc đi sâu phân tích giá trị của loại hình du
lịch làng nghề trong bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế - xã hội.
Trong thời gian qua, tại Đồng Tháp có một số công trình sưu tầm biên khảo về
LNTT, bên cạnh những công trình sử dụng kinh phí nhà nước, có không ít công
trình là công sức cá nhân. Trong đó, phải kể đến “Làng hoa Tân Quy Đông - Sa
Đéc” của Lê Kim Hoàng (1993); sách khổ bỏ túi, ghi nhận lịch sử hình thành làng
nghề cùng kỹ thuật ghép, lai tạo, trồng một số hoa kiểng của các nghệ nhân.
Gần đây, có một số luận văn tốt nghiệp đại học và sau đại học, khai thác một
số đề tài trong nguồn LNTT Đồng Tháp, cụ thể như:
- Tìm hiểu lịch sử hình thành và phát triển Làng Hoa kiểng Tân Quy Đông -
Sa Đéc của Nguyễn Thị Hồng Phượng (2009);
- Làng nghề Hoa kiểng Sa Đéc của Nguyễn Thị Thúy Ngọc (2010);
Ngoài ra, trong một số tạp chí như tạp chí Du lịch, các báo, đài truyền
hình trung ương và địa phương, mạng internet… cũng có giới thiệu nhiều bài
viết của các nhà nghiên cứu không chuyên, các nhà báo, các du khách về vấn
đề phát triển du lịch làng nghề ở tỉnh Đồng Tháp và thành phố Sa Đéc cũng như
cung cấp những thông tin bổ ích về hình ảnh các LNTT ở Sa Đéc cho mỗi người
dân được biết về vẻ đẹp của Sa Đéc và nét độc đáo của các làng nghề. Những

nghiên cứu đã qua cho thấy, thực tiễn các làng nghề ở Sa Đéc còn nhiều bất cập.
Các sản phẩm truyền thống không những là những mặt hàng có giá trị kinh tế cao,
tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động nông thôn, giảm thiểu thời gian nông nhàn,
mà còn có ý nghĩa văn hóa dân tộc sâu sắc. Thành phố Sa Đéc cũng có nhiều tiềm
năng cho phát triển du lịch LNTT như nguồn lao động khéo léo, giàu kinh nghiệm,
nguồn nguyên liệu phong phú… Song tốc độ phát triển các làng nghề như hiện nay
chưa tương xứng với tiềm năng, đặc biệt hiện trạng phát triển và trình độ công nghệ


7
cũng như thực trạng quản lý môi trường ở các làng nghề hiện tại là một thách thức
lớn đối với việc phát triển du lịch LNTT ở thành phố Sa Đéc.
Tuy nhiên, các công trình nêu trên chỉ đề cập những mặt nào đó của phát
triển du lịch làng nghề ở tỉnh Đồng Tháp và thành phố Sa Đéc; đồng thời điều
kiện phát triển du lịch hiện nay ở Đồng Tháp và Sa Đéc đã có nhiều thay đổi,
rất cần phải cập nhật và có biện pháp phù hợp với hoàn cảnh mới. Các giải
pháp phát triển du lịch mà các công trình nêu trên đã phát huy tác dụng trong
thời gian qua, nhưng phần lớn vẫn chưa đánh giá hết tiềm năng của du lịch làng
nghề. Vì vậy, đề tài của luận văn là bước tiếp nối để góp phần vào phát triển du
lịch Đồng Tháp nói chung và du lịch LNTT Sa Đéc nói riêng một cách bền
vững thông qua việc phân tích, đánh giá và nêu những giải pháp để phát huy và
khai thác tiềm năng phát triển du lịch của các LNTT một cách khoa học.
3. Mục đích, nhiệm vụ và ý nghĩa nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về mối quan hệ giữa phát
triển làng nghề với phát triển du lịch, luận văn đi sâu phân tích thực trạng và tiềm
năng phát triển du lịch của các LNTT tại thành phố Sa Đéc hiện nay. Từ đó, đề xuất
những giải pháp góp phần phát triển loại hình du lịch làng nghề trên địa bàn thành
phố Sa Đéc nói riêng và tỉnh Đồng Tháp nói chung trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đáp ứng mục đích nghiên cứu, đề tài có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Tìm hiểu thực trạng việc bảo tồn và khai thác tiềm năng phát triển các
LNTT gắn với phát triển du lịch tại thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.
- Tổng hợp có chọn lọc cơ lý luận, thực tiễn và những công trình có liên quan
đến đề tài, để vận dụng vào các nội dung phù hợp.
- Sưu tầm, thu thập số liệu thống kê, thông tin tài liệu về quá trình hình thành,
khai thác và bảo vệ LNTT có liên quan đến đề tài.
- Xử lý tư liệu, số liệu, thực hiện phân tích, đánh giá kết quả đạt được và
những hạn chế trong khai thác phát triển du lịch thời gian qua. Chú ý phân tích về


8
số lượng khách du lịch, thị trường khách du lịch và vấn đề duy trì môi trường đảm
bảo phát triển theo hướng bền vững.
- Đề xuất những giải pháp hợp lý để nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc
bảo tồn và khai thác tiềm năng phát triển du lịch LNTT.
3.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.3.1. Về lý luận
- Vận dụng thành công, hiệu quả cơ sở lý luận và thực tiễn vào nghiên cứu
phát triển du lịch tại các LNTT, tạo nên sự hấp dẫn thu hút mạnh mẽ khách du lịch.
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá nghiêm túc về các LNTT, tìm ra những lợi
thế nổi trội để phát triển du lịch.
3.3.2. Về thực tiễn
- Từ thực trạng phát triển du lịch ở các LNTT hiện nay còn đơn điệu chưa
tương xứng với tiềm năng; phát triển du lịch nhưng chưa quan tâm đến tương lai
của TNDL; tình trạng xâm hại đến giá trị văn hóa và môi trường tự nhiên diễn ra
phức tạp; khai thác phát triển du lịch chưa đáp ứng được phát triển kinh tế - xã hội
và môi trường; lượng khách du lịch đến còn hạn chế, thành phần và thị trường
khách đơn điệu; Lợi ích kinh tế đem lại từ du lịch thấp.
- Sẽ đem lại kết quả: Việc khai thác tài nguyên phát triển du lịch theo hướng

bền vững; bảo tồn nguồn tài nguyên; tạo được thị trường khách phong phú, đa dạng
hơn; đem lại hiệu quả kinh tế cao và lâu dài cho ngành du lịch; nâng cao cuộc sống
của dân cư địa phương cùng ý thức và trách nhiệm của họ ở các LNTT nói riêng và
cộng đồng xã hội nói chung.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Hoạt động du lịch tại các LNTT tại thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.
- Phát triển du lịch LNTT tại thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu thực trạng phát triển du lịch, các vấn đề liên quan
đến quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm của các LNTT; cơ chế quản lý, quan điểm


9
định hướng và giải pháp nhằm vừa bảo tồn làng nghề vừa phát triển kinh tế du lịch
bền vững từ việc khai thác có hiệu quả những giá trị của các LNTT trên địa bàn
thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.
- Về không gian: Phạm vi nghiên cứu là các LNTT trên địa bàn thành phố Sa
Đéc, tỉnh Đồng Tháp.
- Về thời gian: Các số liệu phục vụ đánh giá thực trạng quản lý, bảo tồn và
khai thác phát triển du lịch của các LNTT: từ năm 2009 đến 2013.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập thông tin, tài liệu
Đây là phương pháp quan trọng và xuyên suốt trong quá trình thực hiện luận
văn. Những thông tin, các nguồn tài liệu, văn liệu cho phép chúng ta hiểu biết
những thành tựu nghiên cứu về lĩnh vực này. Trên cơ sở những tài liệu phong phú
đó, việc tổng hợp sẽ giúp chúng ta có một tài liệu toàn diện, khái quát về vấn đề
nghiên cứu. Đặc biệt hiện nay công nghệ thông tin phát triển mạnh, việc khai thác
các nguồn tài liệu quan trọng qua mạng internet sẽ là nguồn tài liệu quý hỗ trợ cho
việc tổng hợp các vấn đề nghiên cứu.

- Phương pháp nghiên cứu thực địa
Trong quá trình nghiên cứu thực địa tôi đã tiến hành khảo sát ở các LNTT và
khu vực cư dân quanh thành phố Sa Đéc. Các LNTT và những sản phẩm du lịch bổ
trợ được nghiên cứu ghi chép, đánh giá về TNDL, cơ sở hạ tầng du lịch, cơ sở vật
chất kỹ thuật, trên cơ sở đó đưa ra những phân tích, đánh giá cụ thể.
- Phương pháp chuyên gia
Trong qua trình khảo sát thực địa tại các LNTT ở thành phố Sa Đéc tôi có
tham khảo ý kiến của các chuyên gia, Ban quản lý doanh nghiệp, dân địa phương,
khách du lịch…các ý kiến đều được chọn lọc, trên cơ sở đó phân tích, tổng hợp,
đánh giá và rút ra những nhận định sát với thực tiễn.
- Phương pháp phân tích thống kê
Nghiên cứu hoạt động du lịch làng nghề ở thành phố Sa Đéc qua các số liệu ở
nhiều lĩnh vực như lượng khách, doanh thu, đầu tư… các số liệu đều mang tính định


10
lượng. Nghiên cứu, phân tích các số liệu này để có những nhận định, đánh giá, khoa
học phù hợp với thực tế.
Các số liệu sử dụng trong luận văn chủ yếu từ UBND thành phố Sa Đéc, Ban
Quản lý doanh nghiệp trong LNTT và Sở Văn hóa – Thể Thao và Du lịch tỉnh Đồng
Tháp cung cấp. Trên cơ sở nguồn số liệu đó tôi xử lý, phân tích, đánh giá để có
những dự báo phù hợp trong tương lai, đồng thời xây dựng được các bảng đồ, biểu
đồ và đưa ra được những kết luận chính xác, chân thực.
- Phương pháp điều tra xã hội học
Đối tượng tác giả điều tra, khảo sát bằng bảng hỏi gồm: những người đã từng
đi du lịch đến LNTT ở thành phố Sa Đéc. Địa bàn phỏng vấn ở thành phố Sa Đéc,
thành phố Cao Lãnh và trường Đại học Đồng Tháp. Việc xác định mẫu dựa trên mối
tương quan về số lượng khách du lịch.
- Phương pháp dự báo
Công tác dự báo dựa trên việc tính toán của tác giả trên cơ sở thực tiễn và

những tiềm năng du lịch của LNTT ở Sa Đéc, có tham khảo chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh; phương hướng và nhiệm vụ phát triển du lịch của Sở Văn
hóa – Thể Thao và Du lịch Đồng Tháp, Đề án quy hoạch phát triển Du lịch thành
phố Sa Đéc và Đề án quy hoạch phát triển thành phố hoa Sa Đéc. Các tính toán dự
báo chủ yếu ở phương hướng trung bình, đó là phương án khả thi phù hợp với thực
tiễn của LNTT ở thành phố Sa Đéc trong phát triển loại hình du lịch làng nghề.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu , Kết luâ
̣
n, Danh mu
̣
c tài liệu tham khảo và Phụ lục , nội
dung chính của luâ
̣
n văn được trình bày trong ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển du lịch làng nghề truyền
thống.
Chương 2: Thực trạng phát triển du lịch làng nghề truyền thống tại thành
phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.
Chương 3: Giải pháp phát triển du lịch làng nghề truyền thống tại thành phố
Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.


11
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN DU
LỊCH LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
1.1. Các khái niệm cơ bản liên quan
1.1.1. Du lịch
Ngày nay, du lịch đang phát triển rất mạnh mẽ và trở thành hoạt động không
thể thiếu của toàn xã hội. Thuật ngữ “du lịch” xuất hiện từ rất lâu và đã có rất nhiều

nghiên cứu. Cũng vì vậy, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về du lịch do các nhà
nghiên cứu có các cách tiếp cận và quan điểm riêng. Có người cho rằng du lịch chỉ
là sự đi chơi của các cá nhân trong một khoảng cách nhất định về địa lý. Một số
khác khi đề cập đến khái niệm du lịch thì lại quan tâm đến sự lưu trú qua đêm của
khách. Ngoài ra, du lịch còn được mô tả một cách đa dạng, gắn liền với việc nghỉ
ngơi, giải trí, thỏa mãn các nhu cầu khác của con người, về cơ bản, tất cả các hoạt
động di chuyển của con người ở trong hay ngoài nước đều bao hàm trong đó ý
nghĩa du lịch (trừ việc nhập cư, cư trú chính trị, đi tìm việc làm hay xâm lược).
Theo Machaud, nhà địa lý học người Pháp, du lịch được hiểu “Du lịch là tập
hợp những hoạt động sản xuất và tiêu thụ, phục vụ cho việc đi lại và ngủ lại ít nhất
một đêm ngoài nơi ở thường xuyên với lý do giải trí, kinh doanh, sức khỏe, hội họp,
thể thao và tôn giáo” [Giáo trình Kinh tế du lịch, NXB Lao động – Xã hội, 2004].
Còn rất nhiều quan điểm khác nhau về du lịch của các học giả trong và ngoài nước,
nhưng khái niệm về du lịch được sử dụng phổ biến ở Việt Nam là của I.I.Pirogionic,
“Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi, liên quan tới sự di
chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa
bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức văn hóa hoặc
thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hóa”.
Khái niệm du lịch được định nghĩa trong Luật Du lịch Việt Nam (2005): “Du
lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú
thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghĩ
dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định” [Luật Du lịch, 2005].
Như vậy, định nghĩa về du lịch chứa đựng những nội dung cơ bản sau:


12
- Là sự di chuyển và cư trú tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên của
khách nhằm thỏa mãn nhu cầu đa dạng.
- Cùng với mục đích du lịch là việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh
tế, văn hóa và dịch vụ ở điểm đến của khách.

- Là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế có liên
quan đến khách du lịch.
1.1.2. Tài nguyên du lịch
Theo quy định tại điểm 3, điều 10 Luật Pháp lệnh Du lịch năm 2005, TNDL
được hiểu: “TNDL là cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, di tích cách mạng, giá
trị nhân văn, công trình lao động, sáng tạo của con người có thể sử dụng nhằm thỏa
mãn nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các điểm du lịch, khu du lịch,
nhằm tạo ra sự hấp dẫn du lịch”.
TNDL có thể coi là tiền đề để phát triển du lịch. Thực tế đã chứng minh,
TNDL càng đặc sắc, càng phong phú thì sức hấp dẫn, hiệu quả du lịch càng cao.
Trên cơ sở đó, có thể hiểu: “TNDL là tổng thể tự nhiên và văn hóa – lịch sử
cùng các thành phần của chúng sử dụng cho nhu cầu trực tiếp hay gián tiếp hoặc
cho việc tạo ra các dịch vụ du lịch nhằm góp phần khôi phục và phát triển thể lực
và trí lực cũng như khả năng lao động và sức khỏe của con người”.
TNDL được chia thành 2 nhóm: TNDL tự nhiên và TNDL nhân văn.
TNDL tự nhiên bao gồm các thành phần, các thể tổng hợp tự nhiên, được
khai thác trực tiếp hay gián tiếp, được sử dụng để tạo ra sản phẩm du lịch phục vụ
cho mục đích phát triển du lịch, như địa hình, khí hậu, nguồn nước, sinh vật…
TNDL nhân văn là những giá trị văn hóa lịch sử, các di tích lịch sử - văn hóa,
kiến trúc nghệ thuật, các lễ hội, các LNTT, văn hóa ẩm thực, các thành tựu chính trị
và kinh tế có ý nghĩa đặc trưng cho sự phát triển du lịch ở một điểm, một vùng, một
quốc gia. Điểm khác biệt giữa TNDL tự nhiên và TNDL nhân văn là TNDL nhân
văn do con người tạo nên, vì thế, chúng phản ánh tư tưởng, trình độ phát triển của
con người ở mỗi địa phương, mỗi quốc gia. Do đó, chúng có sức hấp dẫn đặc biệt
với số đông khách du lịch có nhu cầu tìm hiểu và có trình độ hiểu biết cao.


13
Trong các loại TNDL nói trên thì LNTT là một loại TNDL nhân văn quan
trọng, đã hình thành và phát triển từ lâu, có sức lôi cuốn một lượng lớn du khách.

1.1.3. Sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch (SPDL) là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu
cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch. SPDL được cấu thành từ những bộ
phận như các dịch vụ, TNDL…bao gồm:
- SPDL đặc trưng: là những sản phẩm hấp dẫn khách du lịch, tạo ra mục đích
của khách du lịch tại điểm đến như: danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử - văn hóa,
nơi nghỉ mát, chữa bệnh, thăm quan
- SPDL cần thiết: là những sản phẩm phục vụ các nhu cầu thiết yếu trong quá
trình đi du lịch như: phương tiện vận chuyển, ăn, nghỉ
- SPDL bổ sung: là những sản phẩm phục vụ các nhu cầu phát sinh trong quá
trình đi du lịch như: cắt tóc, giặt là, massage, mua sắm hàng lưu niệm
Các dịch vụ được sử dụng trong SPDL là: dịch vụ vận chuyển, dịch vụ lưu trú,
dịch vụ giải trí, dịch vụ mua sắm. Ngoài ra còn có các dịch vụ trung gian như : dịch
vụ thu gom, sắp xếp các dịch vụ lẻ thành một SPDL; dịch vụ bán lẻ sản phẩm…
1.1.4. Làng nghề
Từ buổi ban đầu, ngay trong một làng, phần lớn người dân đều làm nông
nghiệp, càng về sau có những bộ phận dân cư sống bằng nghề khác, họ liên kết chặt
chẽ với nhau, khiến cho nông thôn Việt Nam có thêm một số tổ chức theo kiểu nghề
nghiệp, tạo thành các phường hội như Phường gốm, Phường đúc đồng, Phường dệt
vải…Từ đó, các nghề được lan truyền và phát triển thành các làng nghề.
Như vậy, làng xã Việt Nam là nơi sản sinh ra nghề thủ công truyền thống và
các sản phẩm mang dấu ấn tinh hoa của nền văn hóa, văn minh dân tộc. Quá trình
phát triển của làng nghề là quá trình phát triển của TTCN ở nông thôn. Lúc đầu sự
phát triển đó từ một vài gia đình, rồi đến cả họ và sau đó lan ra cả làng. Thông qua
lệ làng mà làng nghề định ra những quy ước như: không truyền nghề cho người làng
khác, không truyền nghề cho con gái, hoặc uống rượu ăn thề không để lộ bí
quyết…Trải qua một thời gian dài lịch sử, lúc thịnh, lúc suy, có những nghề được


14

lưu giữ, có những nghề bị mai một hoặc mất hẳn và có những nghề mới ra đời. Vì
vậy, quan niệm về làng nghề cũng có nhiều ý kiến khác nhau.
Từ những cách tiếp cận của các tác giả về khái niệm làng nghề, chúng ta có thể
thấy làng nghề liên quan đến các nghề thủ công cụ thể. Vào thời gian trước đây,
khái niệm làng nghề chỉ bao hàm các nghề thủ công nghiệp, còn ngày nay với xu
hướng trên thế giới khu vực kinh tế thứ ba đóng vai trò quan trọng và trở thành
chiếm ưu thế về mặt tỷ trọng thì các nghề buôn bán dịch vụ trong nông thôn cũng
được xếp vào các làng nghề.
Vậy, làng nghề là gì? Làng nghề là một cụm dân cư sinh sống trong một thôn
(làng) có một hay một số nghề được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh
doanh độc lập. Thu nhập từ các nghề đó chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị sản
phẩm của toàn làng [27, tr.11-13].
- Làng nghề bao gồm các loại sau:
+ Làng một nghề: làng duy nhất có một nghề xuất hiện và tồn tại hoặc có
một nghề chiếm ưu thế tuyệt đối, các nghề khác chỉ có ở một vài hộ hoặc không
đáng kể.
+ Làng nhiều nghề là những làng nghề xuất hiện và tồn tại nhiều nghề, có
tỷ trọng các nghề chiếm ưu thế gần tương đương nhau.
+ LNTT: là những làng nghề xuất hiện từ lâu đời trong lịch sử và còn tồn
tại đến ngày nay.
+ Làng nghề mới là những làng nghề xuất hiện do sự phát triển lan tỏa của
các LNTT hoặc được du nhập từ các địa phương khác trong những năm gần đây,
đặc biệt trong thời kỳ đổi mới chuyển sang nền kinh tế thị trường.
1.1.5. Làng nghề truyền thống
Có nhiều quan niệm khác nhau về LNTT:
Quan niệm thứ nhất: LNTT là một cộng đồng dân cư cư trú trong một phạm
vi địa bàn tại các vùng nông thôn tách rời khỏi sản xuất nông nghiệp, cùng làm một
hoặc nhiều nghề thủ công có truyền thống lâu đời, để sản xuất ra một hoặc nhiều
loại sản phẩm bán ra thị trường để thu lợi. Quan niệm này mới thể hiện được yếu tố



15
truyền thống lâu đời của làng nghề, còn những làng nghề mới, những tuân thủ yếu
tố truyền thống của vùng hay của khu vực chưa được đề cập đến.
Quan niệm thứ hai: LNTT là những làng nghề làm nghề thủ công có truyền
thống lâu năm, thường là qua nhiều thế hệ. Quan niệm này cũng chưa đầy đủ bởi vì
khi nói đến LNTT ta không thể chú ý đến các mặt đơn lẻ, mà phải chú trọng đến
nhiều mặt trong cả không gian và thời gian, nghĩa là quan tâm đến tính hệ thống,
toàn diện của làng nghề đó, trong đó yếu tố quyết định là nghệ nhân, sản phẩm, kỹ
thuật sản xuất và thủ pháp nghệ thuật.
Quan niệm thứ ba: LNTT là những làng có tuyệt đại đa số bộ phận dân số
làm nghề cổ truyền. Nó được hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời trong lịch sử,
được nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác kiểu cha truyền con nối hoặc ít nhất
cũng tồn tại hàng chục năm. Trong làng sản xuất mang tính tập trung, có nhiều nghệ
nhân tài hoa và một nhóm người có tay nghề giỏi làm hạt nhân để phát triển nghề.
Đồng thời sản phẩm làm ra mang tính tiêu biểu độc đáo, tinh xảo, nổi tiếng và đậm
nét văn hóa dân tộc. Giá trị sản xuất và thu nhập, TTCN ở làng chiếm tỷ lệ 50% so
với tổng giá trị sản xuất và thu nhập của làng trong năm. Khái niệm này được xem
là tương đối đầy đủ.
Để xác định một làng nghề là LNTT cần có những tiêu thức sau:
- Số hộ và số lao động làm nghề truyền thống ở làng nghề đạt từ 50% trở lên
so với tổng số hộ và lao động của làng.
- Giá trị sản xuất và thu nhập từ ngành nghề truyền thống ở làng đạt trên 50%
tổng giá trị sản xuất và thu nhập của làng trong năm.
- Sản phẩm làm ra có tính mỹ nghệ mang đậm nét yếu tố văn hóa và bản sắc
dân tộc Việt Nam.
- Sản xuất có quy trình công nghệ nhất định, truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác [21].
Như vậy, từ những cách tiếp cận trên, có thể định nghĩa LNTT là những thôn
làng có một hay nhiều nghề thủ công truyền thống được tách ra khỏi nông nghiệp để

sản xuất kinh doanh và đem lại nguồn thu nhập chiếm chủ yếu trong năm. Những


16
nghề thủ công đó được truyền từ đời này sang đời khác, thường là nhiều thế hệ.
Cùng với thử thách của thời gian, các làng nghề thủ công này đã trở thành nghề nổi
trội, một nghề cổ truyền, tinh xảo, với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay
bán chuyên nghiệp đã chuyên tâm sản xuất, có quy trình công nghệ nhất định và
sống chủ yếu bằng nghề đó. Sản phẩm làm ra của làng nghề có tính mỹ nghệ và đã
trở thành hàng hóa trên thị trường [27, tr.13-15].
LNTT được phân loại như sau:
- LNTT chuyên sản xuất hàng TCMN: gốm sứ, dệt tơ tằm, chạm khắc gỗ, đá,
thêu ren…
- LNTT chuyên sản xuất các mặt hàng phục vụ cho sản xuất và đời sống như:
rèn, mộc, nề, đúc đồng, nhôm, gang, sản xuất vật liệu xây dựng…
- LNTT chuyên sản xuất các mặt hàng cho nhu cầu thông thường như: dệt
vải, dệt chiếu cói, làm nón, may mặc…
- LNTT chuyên chế biến lương thực, thực phẩm: xay xát, làm bún, chế biến
hải sản
LNTT nước ta có truyền thống lâu đời, phát triển đa dạng và phong phú và có
một số đặc điểm cơ bản sau đây:
- LNTT phát triển đa dạng về quy mô, cơ cấu ngành nghề và gắn chặt với
sản xuất nông nghiệp.
- Sản phẩm của các LNTT mang tính đơn chiếc và tính mỹ thuật cao.
- LNTT có khả năng giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.
- Hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh của LNTT có sự thay đổi rõ rệt, phù
hợp với quá trình phát triển của kinh tế đất nước.
- LNTT là một sự kết tinh giá trị văn hóa, văn minh lâu đời của dân tộc.
1.1.6. Làng nghề truyền thống phục vụ du lịch
Từ khái niệm LNTT đề cập ở trên, có thể hiểu LNTT phục vụ du lịch là làng

nghề có một không gian lãnh thổ nông thôn mang đậm nét văn hóa, lịch sử, có các
nghệ nhân tiêu biểu thực hiện tổ chức sản xuất một hoặc một số sản phẩm thủ công
truyền thống, đồng thời các làng nghề này còn cung cấp các dịch vụ phục vụ và thu
hút khách du lịch [24].


17
Cần phân biệt rõ sự khác nhau cơ bản giữa LNTT thông thường hay làng
nghề thương mại và LNTT phục vụ du lịch ở chỗ LNTT phục vụ du lịch có lợi thế
thu hút khách du lịch (có giá trị văn hóa lịch sử, thuận tiện về mặt vị trí địa lý…) và
các dịch vụ phục vụ du lịch (trưng bày, bán hàng, biểu diễn quy trình sản xuất,
hướng dẫn tham quan…).
LNTT phục vụ du lịch có những đặc điểm cơ bản sau:
- Có lợi thế về giá trị văn hóa - lịch sử hay về mặt vị trí địa lý để thu hút
khách du lịch.
- Sản phẩm của các làng nghề này có tính độc đáo riêng, không làng nghề
nào có và đặc trưng cho nền văn hóa dân tộc Việt Nam, mang tính mỹ thuật cao và
không được sản xuất hàng loạt theo công nghệ hiện đại.
- Các dịch vụ phục vụ du lịch như trưng bày, bán hàng, biểu diễn quy trình
sản xuất, hướng dẫn tham quan, hướng dẫn du khách làm những sản phẩm của làng
nghề…là phát triển hợp lý phù hợp với nhu cầu cũng như thị hiếu của du khách
trong và ngoài nước.
- Nơi sản xuất cũng là địa điểm làm du lịch.
1.1.7. Phát triển du lịch làng nghề truyền thống
1.1.7.1. Khái niệm du lịch làng nghề truyền thống
Làng nghề nước ta, với những sản phẩm thủ công truyền thống độc đáo, kết
hợp với các lễ hội, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, đã trở thành những vùng du
lịch hấp dẫn, góp phần quan trọng vào hoạt động phát triển du lịch văn hóa, du lịch
sinh thái phong phú, đa dạng trong TNDL nước ta.
Theo Vũ Quốc Tuấn, du lịch LNTT là loại hình du lịch văn hóa chất lượng

cao, khai thác các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể, các sản phẩm TCMN do
nghề thủ công của các LNTT tạo ra, như là một TNDL có giá trị, được khai thác để
phục vụ cho nhu cầu vui chơi, giải trí, nghiên cứu tìm hiểu văn hóa, tham quan, du
lịch, xe, hoặc tham gia vào các công đoạn sản xuất sản phẩm đặc trưng của làng
nghề đó, mang lại lợi ích kinh tế cho địa phương và đất nước, góp phần tôn vinh,
bảo tồn giá trị truyền thống văn hóa và tăng cường vai trò kinh tế của làng nghề


18
[21, tr.123]. Khách du lịch có thể tiếp xúc với các nghệ nhân, những người được tổ
chức UNESCO gọi là “Báu vật nhân văn sống”; lại có thể trực tiếp xem các nghệ
nhân thao tác. Thú vị hơn nữa, trong quá trình tham quan, khách du lịch có thể tham
gia vào một số công đoạn đặc trưng của sản phẩm làng nghề, có thể ký tên vào sản
phẩm, như một cách ghi lại kỷ niệm đáng nhớ trong hành trình du lịch của mình.
Phát triển du lịch LNTT không chỉ phát triển thị trường trong nước, đẩy mạnh
xuất khẩu tại chỗ, đem lại lợi ích kinh tế to lớn cho làng nghề mà du lịch làng nghề
thực chất là du lịch văn hóa, là giới thiệu để khách du lịch trong nước và nước ngoài
hiểu thêm những đặc trưng văn hóa, truyền thống của mỗi làng nghề.
1.1.7.2. Những tài nguyên của du lịch làng nghề truyền thống
Dọc theo chiều dài đất nước ta, hầu như ở địa phương nào, du khách cũng có
thể dừng chân để tìm hiểu làng nghề, sản phẩm TCMN truyền thống, những nghề đã
gắn với tên địa phương và đi vào lòng người một cách tự nhiên. Đồng bằng Bắc bộ
là nơi có nhiều LNTT nhất, như lụa Vạn Phúc, gốm sứ Bát Tràng, mây tre đan Phú
Vinh, thêu Văn Lâm, chạm khảm Chuôn Ngọ thuộc Hà Nội; gò đồng Đại Bái - Bắc
Ninh; vàng bạc Châu Khê - Thái Bình; đúc đồng Ý Yên - Nam Định, v.v…Miền
Trung có điêu khắc đá Non Nước – Ninh Bình; Làng nghề thêu, đúc đồng, gốm
Phước Tích – Huế; đúc đồng Phước Kiều, gốm Kim Bồng, làng trống Lâm Yên –
Quảng Nam; rượu Bàu Đá, nón ngựa Bình Định; thổ cẩm Mỹ Nghiệp, gốm Bàu
Trúc – Ninh Thuận; v.v…ĐBSCL có làng dệt thổ cẩm Châu Phong và dệt thổ cẩm
Văn Giáo, đường thốt nốt – An Giang; gốm Vĩnh Long; sứ Lái Thiêu – Bình

Dương; kẹo dừa và sản phẩm từ dừa Bến Tre; bánh pía, lạp xưởng Sóc Trăng; v.v…
Làng nghề phát triển đã thực sự tạo nên bộ mặt mới phong phú của nhiều vùng
nông thôn trong cả nước, tạo nên những SPDL đặc sắc mang đậm đặc trưng mỗi
làng nghề, mỗi vùng kinh tế. Tìm hiểu, thưởng thức những nét văn hóa đậm màu
sắc của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền trong các sản phẩm TCMN cũng là một yêu
cầu không thể thiếu của mỗi du khách trong du lịch văn hóa.
Một nét đặc sắc của làng nghề truyền thống nước ta là các lễ hội tôn vinh các
vị Tổ nghề; nhiều vị Tổ nghề đồng thời được tôn vinh là Thành hoàng làng. Hằng


19
năm, bằng những hoạt động tín ngưỡng tôn nghiêm, sôi nổi, hào hứng, các lễ hội đã
thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây” của dân
tộc, đồng thời góp phần làm phong phú thêm các sản phẩm du lịch làng nghề. Lịch
sử đã ghi lại ba cụ Hứa Vĩnh Kiều, Đào Trí Tiến, Lưu Phong Tú học được nghề
gốm sứ đã truyền dạy cho dân làng Bát Tràng (Hà Nội) và hai làng Thổ Hà, Phù
Lãng (Bắc Ninh); cụ Tổ nghề khảm trai Lê Công Thành; cụ Tổ nghề thêu Lê Công
Hành; cụ Tổ nghề dệt lụa Lã Thị Nga; cụ Tổ nghề đúc đồng Không Lộ thiền sư;
v.v…Tham dự những ngày lễ hội, khách du lịch có thể chứng kiến những nghi lễ
tôn vinh Tổ nghề, những giải pháp phát triển, nêu cao giá trị của nghề; qua đó, hiểu
thêm truyền thống văn hóa đặc sắc của làng nghề.
Cũng có nhiều làng nghề gắn với di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh của đất
nước có thể giới thiệu với du khách. Ngày nay, khách du lịch đến làng nghề lụa Vạn
Phúc không chỉ tham quan làng lụa, mà còn tham quan một hệ thống đền, chùa,
miếu độc đáo, có những nét tiêu biểu của kiến trúc, điêu khắc truyền thống, lại là
nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng từng làm việc trong những ngày
đầu kháng chiến chống Pháp. Khách du lịch đến Bến Tre cũng không chỉ tham quan
các làng nghề kẹo dừa, bánh tráng, bánh phồng, mà còn đến thăm di tích các danh
nhân văn hóa, như Võ Trường Toản, Phan Thanh Giản, Nguyễn Đình Chiểu, v.v…
Sẽ là thiếu sót nếu không nói đến quá trình hình thành và phát triển của mỗi

làng nghề gắn với quá trình phát triển của đất nước ta qua hàng nghìn năm lịch sử.
Đây cũng chính là một nét đặc sắc trong làng nghề mà chúng ta cần giới thiệu với
du khách trong nước cũng như ngoài nước. Chúng ta đã có những nghề thủ công
xuất hiện từ hàng trăm năm, có nghề như gốm xuất hiện từ hàng nghìn năm (gốm
Bàu Trúc – Ninh Thuận), và trong quá trình phát triển ấy, đã trải qua nhiều thăng
trầm, song xu hướng chung vẫn là phát triển ngày càng đa dạng, phong phú về mẫu
mã, kiểu dáng (như từ thủ công chuyển sang TCMN, từ gốm sứ dân dụng chuyển
sang gốm sứ mỹ nghệ với những sản phẩm gốm đặc sắc…), đồng thời từng bước
ứng dụng công nghệ mới, tiên tiến trong quá trình sản xuất, vừa nâng cao chất
lượng, vừa tăng năng suất lao động, vừa giảm thiểu ô nhiễm môi trường.


20
Làng nghề tồn tại và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước, gắn
với quá trình đấu tranh giành độc lập, thống nhất của đất nước. Trong quá trình ấy,
làng nghề nước ta tiếp thu những tinh hoa văn hóa thế giới, không những không bị
“đồng hóa” mà còn không ngừng phát huy sáng tạo, tô điểm thêm nét văn hóa cho
các sản phẩm TCMN của làng nghề, giữ được những nét riêng của Việt Nam.
Những người có công đầu trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa làng nghề
chính là những nghệ nhân, thợ giỏi làng nghề. Khi đến tham quan làng nghề, du
khách thường muốn gặp gỡ nghệ nhân, tìm hiểu quá trình học tập, sáng tạo cùng
những đóng góp của họ cho sự phát triển của làng nghề. Đây cũng là một thế mạnh
của du lịch làng nghề cần được khai thác.
1.1.7.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của du lịch làng nghề
truyền thống
Thứ nhất là thị trường khách du lịch: Thị trường là nhân tố quan trọng của sự
phát triển, để đẩy nhanh tốc độ phát triển cần có những sản phẩm phù hợp với từng
loại thị trường và không ngừng mở rộng, phát triển thị trường. Du lịch LNTT tại
thành phố Sa Đéc là loại hình du lịch gắn với việc tìm hiểu và mua sắm sản phẩm
của các làng nghề để tăng thêm thu nhập cho các doanh nghiệp kinh doanh và cư

dân lao động trong làng nghề. Vì vậy, việc mở rộng thị trường khách du lịch trong
nước, đặc biệt là khách quốc tế, việc nghiên cứu thị trường khách du lịch là một vấn
đề đáng quan tâm đối với các LNTT trong việc phát triển du lịch.
Thứ hai là vốn cho phát triển sản xuất: Đây là nguồn lực vật chất quan trọng
đối với bất kỳ hoạt động kinh doanh nào. Nhiệm vụ chủ yếu nhất của nguồn vốn là
đầu tư phát triển sản xuất, cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng, công nghệ…Do vậy sự
phát triển thịnh vượng của làng nghề cũng phụ thuộc rất lớn vào các nguồn vốn
được huy động. Trước đây trong nền kinh tế tự cấp tự túc, vốn phục vụ cho sản xuất
thường nhỏ bé, vốn chủ yếu là tự có hoặc huy động từ người thân trong gia đình.
Ngày nay để đáp ứng với nền sản xuất quy mô lớn, đáp ứng nhu cầu cao của nền
kinh tế thị trường thì lượng vốn cần lớn hơn để đầu tư đổi mới công nghệ, đưa thiết
bị, máy móc vào sản xuất, góp phần tăng nâng suất, chất lượng sản phẩm.


21
Thứ ba là cơ sở hạ tầng: Bao gồm hệ thống đường giao thông, cấp nước, thoát
nước, thông tin liên lạc, các công trình dịch vụ thương mại, công cộng…Đây là yếu
tố tạo điều kiện cho quá trình sản xuất, khai thác và phát huy tiềm năng sẵn có của
mỗi làng nghề. Các yếu tố này đảm bảo cho quá trình cung cấp nguyên liệu sản
xuất, tiêu thụ sản phẩm cũng như mở rộng quy mô sản xuất, áp dụng các tiến bộ
khoa học, công nghệ vào sản xuất, đồng thời làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường
của làng nghề. Do vậy ở những nơi có cơ sở hạ tầng đầy đủ và đồng bộ thì các
LNTT có điều kiện phát triển mạnh. Tuy nhiên hiện nay phần lớn các LNTT còn
đang gặp nhiều khó khăn vì điều kiện cơ sở hạ tầng còn yếu kém và chưa đồng bộ.
Thứ tư là nguồn nhân lực: Trong các LNTT có các nghệ nhân, thợ thủ công giỏi,
trình độ rất tinh xảo. Họ là những người tâm huyết và gắn bó với nghề, đặc biệt
quan trọng trong việc truyền nghề, dạy nghề, đồng thời là người sáng tạo những sản
phẩm độc đáo. Hiện nay vẫn còn nhiều nghệ nhân tâm huyết với nghề, muốn giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc và truyền thống của ông cha. Vấn đề đào tạo nâng cao
trình độ kỹ thuật còn nhiều hạn chế, chất lượng nguồn lao động chưa cao, trình độ

chuyên môn và văn hóa thấp, nhất là đối với các chủ doanh nghiệp trong việc đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và quốc tế.
Thứ năm là sức ép kinh tế: Nguồn sống chủ yếu của người dân ở nông thôn là
thu nhập từ nông nghiệp. Nhiều nơi do đất chật, người đông hoặc do điều kiện khí
hậu, thổ nhưỡng mà thu nhập từ nông nghiệp thấp, không đảm bảo nhu cầu cuộc
sống, do đó bắt buộc người dân phải tìm kiếm các ngành nghề phi nông nghiệp để
có thu nhập thêm. Trong quá trình đó họ đã lựa chọn được ngành nghề phù hợp và
dần dần hình thành nên làng nghề. Nhiều LNTT tồn tại và phát triển mạnh mẽ đến
ngày nay đều có mật độ dân số cao, diện tích canh tác nông nghiệp bình quân đầu
người thấp, như làng Ninh Hiệp, làng Đồng Kỵ, làng tranh dân gian Đông
Hồ…Vùng đồng bằng sông Hồng trở thành nơi xuất hiện sớm nhất, tập trung nhất
LNTT có lẽ là do sức ép kinh tế.
Thứ sáu là vị trí địa lý: Số liệu thống kê cho thấy hầu hết các LNTT phát triển
đều nằm ở vị trí thuận lợi về giao thông hoặc gần nguồn nguyên liệu. Những vị trí

×