Tải bản đầy đủ (.pdf) (149 trang)

Khai thác các giá trị văn hóa nghệ thuật của đờn ca tài tử Nam Bộ Việt Nam phục vụ phát triển du lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.94 MB, 149 trang )





ĐI HC QUC GIA H NI
TRƯNG ĐI HC KHOA HC X HI V NHÂN VĂN






PHAN V THU TÂM








KHAI THÁC CÁC GIÁ TRỊ VĂN HA NGHỆ THUẬT
CA ĐN CA TI TỬ NAM B - VIỆT NAM
PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH









Luận văn Thạc sĩ Du lịch học









Hà Nội, 2014





ĐI HC QUC GIA H NI
TRƯNG ĐI HC KHOA HC X HI V NHÂN VĂN






PHAN V THU TÂM







KHAI THÁC CÁC GIÁ TRỊ VĂN HA NGHỆ THUẬT
CA ĐN CA TI TỬ NAM B - VIỆT NAM
PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH




Chuyên ngnh: Du lịch học
(Chương trnh đo to th đim)




Luận văn Thạc sĩ Du lịch học


NGƯI HƯNG DN KHOA HC: TS. DƯƠNG VĂN SU






Hà Nội, 2014

1

MỤC LỤC

MỤC LỤC 1
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT 4
MỞ ĐẦU 6
1. Lý do chọn đề ti 6
2. Lịch sử nghiên cứu đề ti 7
3. Mục đích nghiên cứu 8
4. Đối tượng v phạm vi nghiên cứu 8
5. Phương pháp nghiên cứu 9
6. Những đóng góp của luận văn 10
7. Bố cục luận văn 10
Chương 1 11
TỔNG QUAN VỀ NGHỆ THUẬT ĐN CA TI TỬ NAM B 11
1.1. Tên gọi, nguồn gốc v lịch sử đn ca ti tử Nam Bộ 11
1.1.1. Khái niệm 11
1.1.2. Tên gọi 11
1.1.3. Nguồn gốc 12
1.1.3.1. Đờn theo dòng nhạc tài tử Nam Bộ 13
1.1.3.2. Ca tài tử Nam Bộ 15
1.1.4. Khái quát quá trình tồn tại và phát triển 15
1.2. Những đặc điểm cơ bản của đn ca ti tử Nam Bộ 20
1.2.1. Thang âm nhạc tài tử [38] 20
1.2.2. Ngữ điệu và hơi trong nhạc tài tử - cải lương Nam Bộ 26
1.3. Những giá trị nổi bật của đn ca ti tử Nam Bộ 29
1.3.1. Giá trị lịch sử 29
1.3.2. Giá trị văn hóa – nghệ thuật 30
1.4. Cách thức tổ chức nghệ thuật đn ca ti tử Nam Bộ 31
1.4.1. Nghệ sĩ, phương tiện và đạo c biểu diễn 31
1.4.2. Thời gian và không gian biểu diễn 33
1.5. So sánh nhạc ti tử, nhạc cải lương 34
1.5.1. Nhạc tài tử 34

1.5.2. Nhạc cải lương 38
1.6. Nhị thập huyền tổ bản (20 bản tổ) của nhạc ti tử 42
Tiểu kết 43

2

Chương 2 44
THỰC TRNG KHAI THÁC CÁC GIÁ TRỊ CA NGHỆ THUẬT ĐN
CA TI TỬ NAM B PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH 44
2.1. Khái quát thực trạng đi sống văn hóa của cư dân đồng bằng Nam
Bộ 44
2.1.1. Đông Nam Bộ 44
2.1.2. Tây Nam Bộ 46
2.2. Vai trò, tầm quan trọng của đn ca ti tử Nam Bộ 53
2.2.1. Đờn ca tài tử trong đời sống xã hội của người dân Nam Bộ 53
2.2.1.1. Đờn ca tài tử Nam Bộ vùng nông thôn và thành thị 53
2.2.1.2. Đờn ca tài tử trong sự nghiệp bảo vệ quê hương, đất nước 55
2.2.1.3. Mối liên hệ giữa các nhóm đờn ca tài tử Nam Bộ thành thị và nông
thôn 56
2.2.2. Đờn ca tài tử trong kho tàng di sản văn hóa phi vật thể Việt Nam 57
2.2.3. Đờn ca tài tử trong hoạt động du lịch 66
2.3. Việc tổ chức khai thác các giá trị văn hóa nghệ thuật của đn ca ti
tử: 69
2.3.1. Đờn ca tài tử trong đời sống văn hóa – xã hội của ngành Văn hóa, Thể thao và
Du lịch 69
2.3.2. Các doanh nghiệp khai thác các giá trị của đờn ca tài tử Nam Bộ vào trong
hoạt động du lịch 74
2.4. Đánh giá những thuận lợi v khó khăn khi khai thác nghệ thuật đn
ca ti tử Nam Bộ phục vụ phát triển du lịch 78
2.4.1. Những thuận lợi cơ bản 78

2.4.1.1. Được sự quan tâm của Nhà nước 78
2.4.1.2. Chính quyền địa phương 80
2.4.1.3. Người dân nhiệt tình ủng hộ 80
2.4.1.4. UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại 81
2.4.2. Những khó khăn trước mắt 81
2.4.2.1. Cơ sở vật chất phc v cho Đờn ca tài tử Nam Bộ 81
2.4.2.2. Nguồn nhân lực trong hoạt động đờn ca tài tử 82
2.4.2.3. Chế độ, chính sách đối với đờn ca tài tử 83
Tiểu kết 84
Chương 3 86

3

GIẢI PHÁP KHAI THÁC, PHÁT TRIỂN CÁC GIÁ TRỊ CA
NGHỆ THUẬT ĐN CA TI TỬ NAM B PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN
DU LỊCH 86
3.1. Định hướng khai thác các giá trị của nghệ thuật đn ca ti tử Nam
Bộ 86
3.1.1. Định hướng của các cơ quan quản lý nhà nước thuộc ngành Văn hóa, Thể thao
và Du lịch trong bảo tồn và khai thác các giá trị của nghệ thuật đờn ca tài tử Nam
Bộ 86
3.1.2. Định hướng của các địa phương trong việc bảo tồn và khai thác các giá trị của
nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ 88
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả khai thác giá trị của đn ca ti tử phục
vụ phát triển du lịch Nam Bộ 92
3.2.1. Nghiên cứu, đánh giá hiệu quả khai thác các giá trị của đờn ca tài tử phc v
phát triển du lịch 92
3.2.2. Tìm ra nguyên nhân của việc được và chưa được trong khai thác đờn ca tài tử
phc v phát triển du lịch 93
3.2.3. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật tại các điểm biểu diễn đờn ca

tài tử phc v du lịch 94
3.2.4. Đào tạo nguồn nhân lực phc v phát triển du lịch 96
3.2.4.1. Đội ngũ nghệ sĩ biểu diễn 96
3.2.4.2. Những người khai thác văn hóa, kinh doanh du lịch 100
3.2.5. Nghiên cứu, phát triển các làn điệu và nội dung của các bài bản gắn với việc
bảo tồn, khai thác và phát triển loại hình đờn ca tài tử 101
3.2.6. Xây dựng các sản phẩm du lịch văn hóa đặc thù từ đờn ca tài tử 103
3.2.7. Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch văn hóa gắn
với các tuyến điểm có tổ chức đờn ca tài tử 106
3.2.8. Tổ chức liên kết, phối hợp hoạt động giữa các cơ quan trong ngành văn hóa và
du lịch trong khai thác đờn ca tài tử 110
3.2.9. Các giải pháp bổ trợ khác. 112
3.3. Kiến nghị 113
3.3.1. Đối với UBND các tỉnh, thành phố có hoạt động đờn ca tài tử 113
3.3.2. Đối với Sở văn hóa, thể thao và du lịch các tỉnh, thành có hoạt động đờn ca tài
tử 114
3.3.3. Đối với doanh nghiệp kinh doanh du lịch 116
Tiểu kết 117
KẾT LUẬN 118
TI LIỆU THAM KHẢO 120


4

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1
APA
Asian - Pacific Alliance
Liên minh Châu Á - Thái Bình Dương
2

CLB
Câu lạc bộ
3
ĐBSCL
Đồng bằng sông Cửu Long
4
ĐCTT
Đờn ca tài tử
5
ĐH
Đại học
6
DSVH
Di sản văn hóa
7
GDP
Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm quốc nội
8
GS-TS
Giáo sư - Tiến sĩ
9
KH-BVHTTDL
Kế hoạch - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
10
NQ/TW
Nghị quyết/Trung ương
11
Nxb
Nhà xuất bản

12
QĐ-BVHTTDL
Quyết định - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
13
QĐ-TTg
Quyết định - Thủ tướng
14
QĐ-UBND
Quyết định - Ủy ban nhân dân
15
TP
Thành phố
16
TP.HCM
Thành phố Hồ Chí Minh
17
TT-BVHTTDL
Thông tư - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
18
UBND
Ủy ban nhân dân
19
UBND-VX
Ủy ban nhân dân – Văn xã
20
UNDP
United Nations Development Programme
Chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc
21
UNESCO

United Nations Educational Scietific and Cultural
Organization
Tổ chức Giáo duc, Khoa học và Văn hóa của Liên
Hiệp Quốc

5



22
USD
United States Dollars
Đô la Mỹ
23
VHTTDL
Văn hóa, Thể thao, Du lịch
24
WB
World Bank
Ngân hàng Thế giới
25
UNWTO
United Nations World Tourism Organization
Tổ chức Du lịch Thế giới

6

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề ti
Âm nhạc là một nhu cầu trong đời sống tinh thần của con người. Bằng

ngôn ngữ đặc thù của mình: Giai điệu, nhịp điệu, tính chất chặt chẽ về tiết tấu,
sự hài hòa về âm thanh đã giúp mang lại cảm xúc êm dịu, thoải mái, tạo sự phấn
khởi trong tinh thần, giúp con người sống thân thiện, hòa nhã, giáo dc con
người sống tốt hơn.
Hiện nay ở Việt Nam có rất ít đề tài nghiên cứu chuyên sâu về loại hình
nghệ thật đờn ca tài tử Nam Bộ mặc dù ở nhiều địa phương trong khu vực Đồng
bằng sông Cửu Long có các đội, nhóm, câu lạc bộ đờn ca tài tử sinh hoạt định
kỳ mỗi tuần, mỗi tháng. Đề tài nghiên cứu sẽ cung cấp một phần tài liệu cho
việc nghiên cứu về nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ giúp thế hệ trẻ thêm yêu
mến, trân trọng, giữ gìn văn hóa của dân tộc. Bên cạnh đó, đề tài cũng đưa ra
những hướng đi mới trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống của
đờn ca tài tử phc v cho việc phát triển du lịch, thúc đẩy nền kinh tế của Nam
Bộ nói riêng và Việt Nam nói chung.
Đờn ca tài tử Nam Bộ được giới thiệu đến UNESCO từ những năm 1960
mà người có công lao to lớn trong việc đưa loại hình âm nhạc này đến với bạn
bè thế giới là Giáo sư Trần Văn Khê. Năm 1963 Giáo sư đã nhờ nhạc sĩ Nguyễn
Hữu Ba thu một đĩa đờn ca tài tử để giới thiệu với UNESCO. Một đĩa tương tự
đã được thực hiện vào năm 1972 với phần trình tấu của GS.TS Trần Văn Khê
và nhạc sư Vĩnh Bảo. Ngoài ra, Cocora Radio France - một cơ quan truyền thông
của Pháp - đã mời ông cùng ông Vĩnh Bảo (năm 1972) và nghệ sĩ đàn tranh Hải
Phượng (năm 1994) ghi âm hai đĩa Ðờn ca tài tử khác và cả hai đĩa này đều nằm
trong danh sách đĩa nhạc bán chạy nhất nước Pháp, được nhận giải Phê bình âm
nhạc vào năm phát hành. Các bộ đĩa thu Đờn ca tài tử theo lời mời của UNESCO
của các ông vẫn được lưu trong kho lưu trữ âm nhạc dân tộc của tổ chức này.
Bấy nhiêu cũng đủ để thấy nghệ thuật Đờn ca tài tử không chỉ được người Việt
Nam yêu mến mà cả những người nước ngoài tại các nước trên thế giới từ lâu

7

đã biết đến và quý trọng vốn nghệ thuật vừa bình dân vừa cao quý này. Còn hiện

tại, Đờn ca tài tử vẫn là loại hình nghệ thuật dân tộc được nhiều du khách nước
ngoài chọn khám phá, thưởng thức khi đến Việt Nam.
Từ nhỏ tôi đã nghe đờn ca tài tử và lớn lên cùng với những bản Nam Ai,
câu hò, điệu lý của bà và mẹ, đi vào giấc ngủ bởi câu hát vọng cổ thật mùi mẫn,
trữ tình của ông… những điều ấy đã ăn sâu vào tâm trí tôi và thôi thúc tôi thực
hiện đề tài nghiên cứu này để làm món quà gửi đến ông bà, cha mẹ và bạn bè
của tôi – những người luôn yêu quý và tự hào vì đã có đờn ca tài tử.
2. Lịch sử nghiên cứu đề ti
Bàn về vấn đề đờn ca tài tử Nam Bộ Đã có nhiều công trình nghiên cứu
của các học giả, chuyên gia âm nhạc… Các công trình nghiên cứu đã được công
bố như:
- Tác giả Trần Phước Thuận đã công bố quyển “Bước đầu tm hiu tác
giả v tác phẩm cổ nhc Bc Liêu”, năm 2002. Công trình giới thiệu cho người
đọc các tác giả cổ nhạc Bạc Liêu như Nhạc Khị, Nguyệt Chiếu, Cao Văn Lầu,
Mộng Vân, Trần Tấn Hưng, Trọng Nguyễn… Các bản cổ nhạc truyền thống
gồm 20 bản tổ… Đặc biệt công trình có phần bàn về thời điểm ra đời, nguồn
gốc của bản Dạ cổ hoài lang.
- Tác giả Võ Tấn Hưng đã nhiều năm tâm huyết với nghề, yêu mến và
quý trọng nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ đã có công trình nghiên cứu “Cổ
nhc tầm nguyên”, xuất bản năm 1958. Công trình bao gồm các bài bản căn
bản của nhạc Tài tử và các bài bản nhỏ sân khấu cải lương (bản đờn và bài ca).
- Tác giả Trần Ngọc Thạch với công trình nghiên cứu “Cổ nhc Việt
Nam – Đờn ca ti tử”, năm 2001. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả bàn
về sự ra đời của dòng nhạc Tài tử Nam Bộ, sưu tầm, góp nhặt các bài bản Tài
tử cổ và những sáng tác mới của đờn ca tài tử Việt Nam.
- Tác giả Nhị Tấn (nhạc sĩ Nhị Tấn – luật sư Nguyễn Tấn Nhì) đã nghiên
cứu, biên soạn quyển “Nhc ti tử Nam Bộ”, xuất bản năm 1997. Công trình
gồm 2 phần, phần 1 sưu tầm các bản đờn và bài ca trong hệ thống Bắc, Hạ, Nam,

8


Oán, Ngự; phần 2 ghi lại các buổi sinh hoạt câu lạc bộ, các bài ca, sưu tầm,
nghiên cứu liên quan đến nhạc tài tử.
Nhìn chung, tuy có nhiều công trình nghiên cứu về các bài bản, các tác
giả, tác phẩm, các nhân vật có công trong việc xây dựng và phát triển nghệ thuật
Đờn ca tài tử Nam Bộ nhưng chưa có công trình khoa học nào công bố công
trình nghiên cứu khai thác các giá trị của nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ phc
v phát triển du lịch ở Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu
- Mục đch:
Tìm hiểu các giá trị văn hóa nghệ thuật của đờn ca tài tử Nam Bộ và đưa
nghệ thuật âm nhạc dân tộc đặc sắc này vào hoạt động du lịch, giúp phát triển
du lịch tại các địa phương có đờn ca tài tử.
- Nhiệm vụ:
+ Tổng hợp cơ sở lý luận và thực tiễn về Đờn ca tài tử Nam Bộ.
+ Khảo sát, thu thập thông tin, tài liệu về tiềm năng và thực trạng của
Đờn ca tài tử Nam Bộ.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng khai thác các giá trị của nghệ thuật Đờn
ca tài tử Nam Bộ.
+ Đưa ra những định hướng và giải pháp khai thác các giá trị của nghệ
thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ phc v phát triển du lịch.
4. Đối tượng v phạm vi nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu ứng dng những giá trị văn hóa nghệ thuật của đờn
ca tài tử ở các tỉnh Tây Ninh, TP. Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Bến Tre, Kiên
Giang và Bạc Liêu để đưa vào khai thác kinh doanh du lịch tại Nam Bộ.
Về nội dung: Đề tài gồm có những vấn đề chính sau:
- Tìm hiểu tình hình thực tế của hoạt động khai thác kinh doanh du lịch
dựa vào nghệ thuật Đàn ca tài tử.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác kinh doanh
du lịch dựa vào nghệ thuật Đàn ca tài tử.


9

- Cung cấp một phần tài liệu cho việc nghiên cứu về nghệ thuật Đàn ca
tài tử giúp thế hệ trẻ thêm yêu mến, trân trọng, giữ gìn vốn cổ của dân tộc.
Khả năng ứng dng trong thực tiễn: Xây dựng tuyến du lịch về chương
trình tham quan và xem biểu diễn nghệ thuật Đàn ca tài tử tại các tỉnh Đồng
bằng sông Cửu Long
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện để hoàn thành khóa luận, người viết sử dng
những phương pháp nghiên cứu sau”
- Phương pháp sưu tầm và nghiên cứu tài liệu: phương pháp sưu tầm và
nghiên cứu tài liệu là phương pháp truyền thống thường được sử dng trong
nghiên cứu khoa học nói chung và nghiên cứu du lịch nói riêng. Nguồn tài liệu
được tác giả sưu tầm và nghiên cứu rất đa dạng, phong phú, bao gồm sách, báo,
các tài liệu đã được công bố, xuất bản, tài liệu lưu trữ, báo đài và những tài liệu
được đăng trên các website như: Viện nghiên cứu phát triển du lịch, Tổng cc
Du lịch, Cc quản lý di sản, các trang web của địa phương khu vực Nam Bộ…
Trên cơ sở những tài liệu thu thập được, tác giả đã so sánh, đối chiếu và tiến
hành lựa chọn thông tin cẩn thận nhằm kế thừa một cách có chọn lọc những
thành tựu nghiên cứu của quá khứ.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Trên cơ sở nguồn thông tin, tư
liệu, số liệu thu thập được từ các công trình nghiên cứu trước đây, từ việc khảo
sát thực tiễn… tác giả tiến hành phân tích, tổng hợp số liệu thông tin theo mc
tiêu nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp so sánh và đối chiếu: Những số liệu, thông tin có từ nhiều
nguồn khác nhau đã được tác giả so sánh, đối chiếu với để đưa vào đề tài sao
cho sát với thực tế nhất.
- Phương pháp liên ngành du lịch – văn hóa: Bởi âm nhạc luôn gắn với
truyền thống văn hóa của dân tộc, cho nên tác giả đã xem xét các yếu tố từ góc

nhìn văn hóa, ưu tiên phát triển du lịch dựa vào văn hóa nhưng không làm mất
đi bản sắc văn hóa của dân tộc.

10

- Phương pháp khảo sát thực tế: Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã
nhiều lần đến các địa phương có liên quan để khảo sát, tham dự các buổi liên
hoan, sinh hoạt đờn ca tài tử của các đội, nhóm, câu lạc bộ đờn ca tài tử ở các
địa phương như Tiền Giang, Bến Tre, Cần Thơ, Hậu Giang, Bạc Liêu…
6. Những đóng góp của luận văn
- Cung cấp một phần tài liệu cho việc nghiên cứu về nghệ thuật Đàn ca
tài tử giúp thế hệ trẻ thêm yêu mến, trân trọng, giữ gìn vốn cổ của dân tộc.
- Tìm hiểu tình hình thực tế của hoạt động khai thác kinh doanh du lịch
dựa vào nghệ thuật Đờn ca tài tử.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác kinh doanh
du lịch dựa vào nghệ thuật Đàn ca tài tử.
- Khả năng ứng dng trong thực tiễn: Xây dựng tuyến du lịch về chương
trình tham quan và xem biểu diễn nghệ thuật Đàn ca tài tử tại các tỉnh Đồng
bằng sông Cửu Long.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mc đề tài, tài liệu tham khảo, ph
lc, cấu trúc đề tài gồm có 3 chương:
- Chương 1: Tìm hiểu chung về nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ.
- Chương 2: Thực trạng khai thác các giá trị văn hóa của nghệ thuật Đờn
ca tài tử Nam Bộ - Việt Nam phc v phát triển du lịch.
- Chương 3: Một số giải pháp nhằm khai thác các giá trị văn hóa của
nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ - Việt Nam phc v phát triển du lịch.


11


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ NGHỆ THUẬT ĐN CA TÀI TỬ NAM B
1.1. Tên gọi, nguồn gốc v lịch sử đn ca ti tử Nam Bộ
1.1.1. Khái niệm
Đờn ca tài tử Nam Bộ là sản phẩm văn hóa phi vật thể của Nam Bộ, vừa
mang tính bác học, vừa dân gian gắn liền với mọi sinh hoạt cộng đồng dân cư
Nam Bộ, được cải biên từ nhạc cung đình Huế và sáng tác mới trên nền tảng âm
nhạc dân ca, hát đối, hò vè của vùng đất Nam Bộ.
1.1.2. Tên gọi
Trước đây đã lâu, trong giới đàn ca tài tử và trong dân gian có ba cách
gọi khác nhau:
- Ca nhạc tài tử
- Đàn ca tài tử
- Đờn ca tài tử
Gọi như vậy cũng đúng, mọi người cũng hiểu, nhưng chưa thật sự đầy
đủ, chưa nhất quán và chưa thể hiện được tính đặc thù của vùng đất Nam Bộ.
Tên gọi “ca nhạc tài tử”, “đàn ca tài tử” còn mang hơi hướng tân nhạc,
chỉ có “đờn ca tài tử” thể hiện được tính dân gian và tính đặc thù của vùng đất
Nam Bộ, nhưng chỉ gọi “đờn ca tài tử” không là chưa đủ nghĩa, vì đờn ca tài tử
của vùng nào chưa được đề cập tới. Qua một thời gian khá dài, các nhà nghiên
cứu âm nhạc truyền thống, các nghệ nhân, nghệ sĩ đã nhiều năm tranh luận với
nhau thông qua diễn đàn báo chí, các cuộc hội nghị, hội thảo, tọa đàm… ở các
cấp, cuối cùng đã thống nhất tên gọi là “Đờn ca tài tử Nam Bộ”.
Đờn ca tài tử Nam Bộ, có hai tính chất cơ bản: Bác học và dân gian. Tính
bác học là một dòng nhạc được định hình theo hệ thống thang âm ngũ cung (hò,
xự, xang, xê, cống), có điệu thức âm nhạc (hơi, điệu, bài bản) và mang tính triết
lý đạo học Phương Đông, thể hiện đầy đủ nguyên lý học thuật. Tính dân gian là
tự phát qua các thời kỳ (trước khi định hình), trong mọi giai cấp, tầng lớp xã hội
gọi là “tri kỷ, tri âm”. Đờn ca tài tử Nam Bộ có trường phái mà không có trường


12

lớp đào tạo chính quy, truyền dạy theo hình thức truyền nghề truyền thống “cầm
tay chỉ việc” (cả đàn và ca), những người truyền nghề đó thường là các bậc nghệ
nhân. Đờn ca tài tử Nam Bộ rất gần gũi với cuộc sống của con người, nó vừa
biểu hiện được tính giao tiếp, vừa là tính tiêu khiển, diễn ra ở bất cứ nơi nào,
hoàn cảnh nào, không phân biệt sang – hèn – địa vị xã hội, có lúc nhàn rỗi “trà
dư, tửu hậu”, có lúc trang trọng, trang nghiêm trong lễ hội, đám tiệc trang trọng
quý phái… nhưng khi vào cuộc chơi thì người chơi thường chơi hết mình, say
sưa vô điều kiện và những “tài tử, giai nhân” khi đã nhập cuộc thì họ dường như
quên cả sự đời, chỉ biết gửi trọn hồn vào cuộc chơi. Diễn tấu, đờn ca chuẩn mực,
đúng bài bản, đúng điệu thức, đúng nhịp, đúng câu, đúng lớp cùng lúc như đã
hẹn, có thể gọi là đồng điệu “tâm đầu, ý hợp”.
Đờn ca tài tử Nam Bộ là một bộ phận trong nền văn hóa dân gian Nam
Bộ, phản ánh được tình cảm của con người với con người, con người với thiên
nhiên, với hoàn cảnh lịch sử của từng giai đoạn, được biểu hiện bằng những
điệu thức âm nhạc, lời ca, do các nghệ nhân, nghệ sĩ sáng tạo nên, rồi truyền
nghề từ thế hệ này sang thế hệ khác.
1.1.3. Nguồn gốc
Từ trước đến nay có một số nhà nghiên cứu đã nghiên cứu loại hình đàn
ca tài tử Nam bộ, nhất là tìm tư liệu để chứng minh ai là người có công đã sáng
tác ra dòng nhạc tài tử Nam Bộ, nhưng vẫn chưa có kết luận nào đáng tin cậy,
kể cả các cuộc hội thảo về nghệ nhân Nguyễn Quang Đại (ba Đợi) với nhạc lễ,
nhạc tài tử Nam Bộ do Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Long An tổ chức vào tháng
3 năm 1996.
Theo như phủ tự họ Nguyễn Nhữ thì ông Nguyễn Quang Đại (Ba Đợi)
thuộc dòng dõi họ Nguyễn Nhữ ở Hải Quế ngày nay. Ông sinh năm Mậu Ngọ
1858, ông là quan nhạc của triều đình thời Nguyễn, được triều đình trọng dng
dưới thời Tự Đức (1848 – 1883) và Hàm Nghi (1844 – 1885)

Sau biến cố Kinh đô Huế thất thủ năm 1885 của triều đình Hàm Nghi,
ông Nguyễn Quang Đại cùng nhiều quan lại, dân lính triều đình chạy về phương

13

Nam lánh nạn, với vốn ca nhạc Huế sẵn có ông đã cải biên một số bài bản trở
thành đặc trưng âm nhạc Nam Bộ và tạo nên phong trào Đờn ca tài tử Nam Bộ
ở miền Đông do ông đứng đầu, nhóm miền Tây (Vĩnh Long, Sa Đéc, Mỹ Tho)
do ông Trần Quang Quờn đứng đầu, nhóm Bạc Liêu, Rạch Giá do ông Lê Tài
Khị (1862 – 1924) quê ở Bạc Liêu đứng đầu và ông được tôn là hậu tổ nhạc
Khị.
Sau nhiều năm, ông Nguyễn Quang Đại (Ba Đợi), Trần Quang Quờn,
nhạc Khị và nhiều nghệ nhân khác ở Nam Bộ đã cải biên, sáng tạo bổ sung một
số bài bài từ điệu thức Bắc, Nam. Đặc biệt điệu thức Oán Chánh, Oán Ph là
hoàn toàn do những người sống ở vùng đất Nam Bộ sáng tạo nên. Tất cả các bài
bản được cải biên, sáng tạo bổ sung đều thể hiện được tính đặc trưng Nam Bộ.
Trong hàng trăm bài bản của dòng nhạc tài tử Nam Bộ, có một số bài bải
do các nghệ sĩ, nghệ nhân Nam Bộ sáng tạo nên. Qua đó cũng khẳng định rằng
dòng nhạc tài tử Nam Bộ và phong trào Đờn ca tài tử Nam Bộ là do nhiều bậc
nghệ nhân, nhạc sĩ và nhiều lớp người sống trên vùng đất Nam Bộ và lợi thế về
nền tảng âm nhạc dân ca Nam Bộ, về thiên nhiên… từ đó sáng tạo nên. Từ nhạc
cung đình Huế lan tỏa vào, trên cơ sở đó các nghệ nhân, nhạc sĩ cải biên thêm
thành nhạc tài tử Nam Bộ.
Đờn ca tài tử Nam Bộ ra đời vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ
XIX (khoản năm 1885).
Đờn ca tài tử Nam Bộ bao gồm Đờn và ca:
1.1.3.1. Đờn theo dòng nhạc tài tử Nam Bộ
Nhạc tài tử Nam Bộ gồm có 05 nốt nhạc chính: Hò, xự xang, xê cóng.
Nốt nhạc ph: Phạn, tồn, là, oan.
Nốt nhạc cách nhau quãng tám (gọi theo nhạc tân) có ú, liu, xang, xê,

xàng.
Ú cách quãng tám với chữ XỰ
LIU cách quãng tám với chữ HÒ, còn gọi là CÒNG
XÊ cách quãng tám với chữ XÊ, còn có chữ XỀ, XỄ

14

XANG cách quãng tám với chữ XNG, còn có chữ XNG
Nếu dùng nhạc theo thang âm từ trên xuống và từ dưới lên thì tùy thuộc
chữ nhạc, nhưng có đôi khi bỏ dấu khác nhau.
Ví d: Thang âm từ trên xuống: LIU CNG XÊ XÀNG
Thang âm từ dưới lên: XỀ LIU
Nhạc tài tử Nam Bộ khoản 136 bài bản, nhưng chủ yếu vẫn là 20 bài bản
chính (còn gọi là 20 bài tổ) và một số bài bản ph. Bao gồm: 3 Nam, 6 Bắc, 7
Bài, 4 Oán:
Ba Nam: Nam Xuân, Nam Ai, Nam Đảo (Đảo ngũ cung).
Sáu Bắc: Lưu Thủy Trường, Phú Lc, Bình Bán, Cổ Bản, Xuân Tình,
Tây Thi.
Bảy Bài: Xàng Xê, Ngũ Đối Thượng, Ngũ Đối Hạ, Long Đăng, Long
Ngâm, Vạn Giá, Tiểu Khúc.
Bốn Oán: Tứ Đại Oán, Cửu Khúc Giang Nam, Phng Cầu, Phng Hoàng.
Ngoài ra còn có các bài Oán Ph (Cải biên): Bình Sa Lạc Nhạn, Thanh
Dạ Đề Uyên, Cung Thềm Ly Oán, Xuân Nữ, Ngươn Tiêu Hội Oán, Võ Văn Hội
Oán và còn nhiều oán nhỏ khác.
Đặc biệt về sau này, còn phát triển nhiều bài, bản ngắn theo hơi điệu
quãng như: Sương Chiều, Tú Anh, Khóc Hoàng Thiên, Sái Phi, Tân Sái Phi,
Phong Ba Đình, Xang Xừ Líu, Liễu Thuận Nương… (Ông Mộng Vân – quê ở
Bạc Liêu có công lớn trong dòng nhạc này).
Mỗi bài bản trong 20 bản tổ của dòng nhạc tài tử Nam Bộ đều phân chia
ra nhiều lớp, thường gọi là lớp 1, lớp 2, lớp 3, lớp 4… Hoặc còn gọi là lớp HÒ,

lớp XÊ, lớp CÓNG, XANG VẮN, XANG DI, lớp HỒI THÙ, lớp DỰNG, lớp
TRNG, lớp MI… Đặc biệt bản Cửu Khúc Giang Nam (trong Bốn Oán) vừa
phân chia lớp, lại vừa phân chia khúc, gồm 9 khúc, thường gọi là bài Giang
Nam.

15

1.1.3.2. Ca tài tử Nam Bộ
Là ca theo bài bản có sẵn, người viết chỉ dựa vào đó mà đặt lời ca sao
cho phù hợp với âm nhạc
Trong Đờn ca tài tử Nam Bộ (nguyên gốc) là chỉ ca va thể hiện tình cảm
trong lời ca thôi (ca không ra bộ). Khi biểu diễn (đờn ca) thì thường là đờn vô
trước, ca vô sau. Có khi ca nguyên bài bản, có khi ca từng lớp, tùy thuộc vào
người đặt bài ca.
Đờn ca tài tử Nam Bộ thường sử dng nhịp 1, nhịp 2, nhịp 4, nhịp 8, nhịp
32 (nhịp 16, 32 là phát triển từ bài Dạ Cổ Hoài Lang đến bài vọng cổ ngày nay),
nhưng phổ biến vẫn là nhịp 4 và nhịp 8.
1.1.4. Khái quát quá trnh tồn ti v phát trin
Lần theo những tư liệu của các nhà nghiên cứu, các văn nghệ sĩ Nam Bộ
và những người yêu nghệ thuật Đờn ca tài tử, cải lương, người ta có thể biết
rằng, kể từ nửa cuối thế kỉ XIX tới nay, Đờn ca tài tử Nam Bộ đã có một quá
trình phát triển trên một trăm năm. Con số đó thật nhỏ nhoi so với lịch sử âm
nhạc của một quốc gia đã có tuổi đời hàng ngàn năm. Mặc dù vậy, thể loại ca
nhạc này đã có một sức phát triển thật đáng khâm phc – không chỉ bởi tốc độ
phát triển nhanh chóng của nó, mà cả bởi sức chống chọi với bối cảnh khắt
nghiệt mà nó phải đương đầu.
Những chặng đường quan trọng nhất trong quá trình hình thành và phát
triển của Đờn ca tài tử Nam Bộ - kể cả cội nguồn sâu xa nhất, nơi đã đặt nền
tàng ban đầu cho sự thai nghén thể loại ca nhạc này.
Nửa đầu thế kỉ XIX

Nhà Nguyễn lên ngôi, kinh đô đặt ở miền Trung. Các thể chế chính trị,
xã hội và văn hóa nghệ thuận, trong đó có âm nhạc – đặc biệt là nhạc lễ, của
triều đại này có ảnh hưởng không nhỏ tới cả nước, đặc biệt là vùng đất phía
Nam – nơi mà những ảnh hưởng của họ Nguyễn đã hiện diện từ trước đó trên
hai trăm năm khi các chúa Nguyễn cát cứ ở Đàng Trong.
Nửa cuối thế kỉ XIX

16

Thực dân Pháp tiến hành cuộc xâm lăng nước ta. Dân tộc Việt Nam rơi
vào cảnh nước sôi lửa bỏng – chiến tranh, đàn áp, chết chóc và sự áp bức bóc
lột tàn khốc khiến cho cả dân tộc phải rên xiết, khổ đau và căm thù chất chồng.
Trớ trêu thay, chính trong hoàn cảnh đó Đờn ca tài tử lại nảy sinh và chẳng bao
lâu sau khi chào đời nó đã phải cất lên tiếng khóc đau đớn và căm hận quân xâm
lược, nhắc nhở người dân chớ quên nỗi đau mất nước, đồng thời kiên cường
chống chọi với những trào lưu nghệ thuật, âm nhạc mới từ phương Tây tràn vào
cùng những khuynh hướng “Tây phương hóa” ngay trong nước để bảo tồn quốc
hồn quốc túy của dân tộc.
Trở lại bối cảnh của nửa cuối thế kỉ XIX. Trong cơn quốc nạn, cùng với
sự lung lay nghiêm trong của vương triều nhà Nguyễn, ca nhạc cung đình cùng
những thú vui của hoàng gia cũng suy tàn dần. Thể loại nhạc thính phòng của
các ông hoàng bà chúa nhà Nguyễn – Đờn Huế và ca Huế đã theo các nghệ nhân
cung đình truyền ra ngoài dân, rồi phát tán đi các nơi. Một trong những dòng
chảy của nó đã xuôi về phía Nam, qua đất Quảng, vào sau tới tận Nam Bộ. Thể
loại nhạc này tuy không phải là cội nguồn trực tiếp đặt nền móng đầu tiên cho
sự hình thành phong trào Đờn ca tài tử ở Nam Bộ, nhưng là một trong những
tác nhân góp thêm động lực và có sự ảnh hưởng quan trọng tới hướng phát triển
của Đờn ca tài tử Nam Bộ.
Sự giao lưu và thi đua giữa các môn phái tài tử miền Đông và miền Tây
lúc bấy giờ đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của đờn ca tài tử - chẳng

những về kĩ thuật đờn, ca, mà cả về phương diện ghi chép, hệ thống hóa, tu
chỉnh những bản nhạc cổ, đào tạo những nghệ sĩ đờn ca, sáng tác, nhờ đó dẫn
tới sự phát triển mạnh mẽ của phong trào sáng tác mới theo lối cổ nhạc. Theo
nghệ sĩ Ba Vân, khoảng 1910, bên cạnh những điệu hò, lý, ngâm ở Nam Bộ
đã có đủ 3 Nam, 6 Bắc, 4 Oán, 7 bài lớn, 8 bài ngự, 10 bài liên hoàn. Toàn bộ
hệ bài bản cơ bản của ca nhạc tài tử - trong đó bao gồm cả 20 bản tổ, được đúc
kết trong “công thức” ngắn gọn: “Nhất lý, Nhì ngâm, Tam Nam, Tứ Oán, Ngũ
Điếm, Lc Xuất, Thất Chính, Bát Ngự, Cửu Nhĩ và Thập thủ liên hườn”. Chừng

17

đó thôi đã có tới 72 bản mà giới tài tử xưa coi như ngưỡng tối đa mà người chơi
đàn buộc phải bỏ công phu luyện tập cho thành thc trên dây đàn – như cố nhạc
sư Nguyễn Văn Thinh đã từng chỉ bảo: “Thậm đa lịch luyện thất thập nhị huyền
công”. Ấy là chưa kể vô vàn dị bản của chúng và rất nhiều bản mới do các nhạc
sư, nghệ sĩ tài năng sáng tác, trong số đó có nhiều bản còn được lưu truyền cho
tới nay cùng hàng trăm bài ca gắn với di sản âm nhạc phong phú đó.
Sức phát triển nhanh chóng của đờn ca tài tử không chỉ dừng ở đây.
Khoảng 1914 – 1915, khi những lời hô hào đầu tiên về việc canh tân “hí kịch”
vừa xuất hiện, thì – với tinh thần canh tân và thích ứng nhanh nhạy với thời đại,
nghệ sĩ tài tử Nam bộ đã mau chóng tạo những chuyển biến mới cho loại hình
nghệ thuật này. Từ lới sinh hoạt tri âm tri kỷ trong khuôn viên gia đình, chòm
xóm hoặc trên dòng nước lung linh bóng trăng, đờn ca tài tử bước lên về phương
thức và hình thức trình diễn. Chỉ trong vòng trên dưới mười năm, lối ca Tứ đại
oàn “Bùi Kiệm – Nguyệt Nga” như có vấn đáp của cô Ba Đắc đã gợi ý cho sự
sáng tạo từng bước hình thức ca ra bộ, rồi hát chập, hát lớp, cuối cùng dẫn tới
sự hình thành một thể loại sân khấu kịch hát mới – thể loại kịch hát “vua”, có
sức lan truyền mạnh mẽ nhất trong cả nước ở thế kỉ XX: hát cải lương, tức sân
khấu cải lương.
Từ sau khi sân khấu cải lương “lên ngôi” cho tới nay

Chặng đường này tuy dài và trải qua nhiều bước thăng trầm, nhung về
cơ bản không có những bước chuyển đột biến lớn lao như ở giai đoạn trước.
Trong suốt chặng đường trên nửa thế kỉ ấy, đờn ca tài tử phải đối mặt với những
thách thức mới: sự bành trướng và sức hấp dẫn mãnh liệt của hát cải lương, và
sau đó chẳng bao lâu là của tân nhạc (nhạc mới) Việt Nam. Bên cạnh đó là
những trào lưu văn hóa nghệ thuật Âu Mỹ vẫn tiếp tc xâm nhập và ảnh hưởng
không nhỏ tới tập quán, lối sống, thị hiếu của người dân.
Trong bối cảnh đó, ngay cả thể loại kịch hát “vua” cũng đã phải nhiều
phen chao đảo và dần bị lai tạp – khi Tàu, khi Tây. Tuy nhiên, bất chấp tất cả,
đờn ca tài tử vẫn tiếp tc con đường của mình: thích ứng với thời đại, sẵn sàng

18

tiếp nhận cái mới để phát triển, nhưng kiên cường gìn giữ bản sắc cố hữu của
mình. Nó tồn tại song song dưới cả hai hình thức – sinh hoạt thính phòng tri kỷ
như thuở xữa và những hình thức trình diễn mới: trên sân khấu – trước đông
đảo công chúng, hoặc tách biệt hẳn với công chúng qua phương thức thu – phát
trên các phương tiện truyền thông mới du nhập và các đĩa hát Đáng nể hơn
nữa, nó đã không bị những hình thức hát mới thay thế hoặc làm li tàn. Trái lại,
đờn ca tài tử còn tiếp tc làm chổ dựa vững chắc và là nguồn hỗ trợ đắc lực cho
sự phát triển của sân khấu cải lương.
Trên thực tế, nhiều nghệ sĩ thời đó vừa là thành viên những ban, nhóm
tài tử, vừa tham gia diễn cho các gánh cải lương. Lễ giỗ tổ cổ nhạc không có sự
phân biệt người của giới tài tử hay của giới cải lương. Tuy nhiên, giữ được
nghiêm ngặt nhất những nét tinh tế và các tinh hoa của cổ nhạc vẫn là lối đờn
ca tài tử. Nghệ sĩ Bảy Nhiêu đã có nhận xét: “Ca hát trên sân khấu dễ dàng hơn
ca tài tử”. Còn về phần đờn, nhà nghiên cứu Đắc Nhân đánh giá: “ kỹ thuật biểu
diễn bài bản nhạc của các dàn nhạc tài tử ất là tế nhị so với lối biểu diễn trên
sân khấu và có một sức hấp dẫn kỳ diệu”. Bởi vậy, trở nên dễ hiểu là đờn ca tài
tử không những tiếp tc là “lò” đào tạo nhiều danh ca, danh cầm cho chính

mình, mà còn là nguồn cung cấp nhân tài cho cải lương. Sáng tác của các nghệ
sĩ tài tử không chỉ làm giàu cho vốn bài bản tài tử, mà còn góp thêm nguồn dự
trữ cổ nhạc phong phú cho sân khấu cải lương.
Mặc dầu vậy, mối quan hệ giữa đờn ca tài tử và hát cải lương là mối quan
hệ tương hỗ hai chiều. Cải lương không chỉ dựa vào đờn ca tài tử, mà ngược lại,
nó cũng tiếp thêm sức sống trẻ trung cho thể loại đã sinh thành và làm chổ dựa
vững chắc cho né. Trước hết, cải lương kích thích thêm động lực cho sự nở rộ
của phong trào sáng tác những tác phẩm nhạc mới theo lối cổ nhạc trong giới
tài tử. Những thuật ngữ “cầm ca tân điệu”, “cổ nhạc canh tân” ra đời từ đó. Vào
những thập kỉ giữa của thế kỉ XX; hàng trăm nhạc phẩm thuộc loại này được
sáng tác. Nhiều bài trong số đó còn tiếp tc đọng lại cả trong sinh hoạt đờn ca
tài tử cũng như trên sân khấu cải lương. Người trong nghề đương thời và nhiều

19

thế hệ sau hó có thể quên Mộng Vân – hiện tưởng nổi bật của trào lưu sáng tác
và canh tên nói trên. Theo sự bành trướng mạnh mẽ của sân khấu cải lương, cổ
nhạc cùng những sáng tác của giới tài tử Nam Bộ đã được lan truyền ra khắp
đất nước, thậm chí sang cả các nước láng giềng – nơi có Việt Kiều sinh sống,
rồi bằng nhiều con đường, được truyền bá tới tận những nước xa xôi khác
Đờn ca tài tử và cải lương do đó đã trở thành một cặp đồng hành ăn ý,
hỗ trợ đắc lực cho nhau trên đường phát triển, cũng như trên đường bảo tồn gìn
giữ vốn cổ nhạc cũng như canh tân và tiếp thu những yếu tố mới. Nhờ đó, cả
hai đều có sức phát triển và tiếp tc tồn tại vững vàng giữa những luồng ca nhạc
và nghệ thuật ngoại lai ngập tràn cũng như những thể loại ca nhạc, nghệ thuật
mới trong nước với lòng tin và tự hào mãnh liệt đối với di sản cổ nhạc của dân
tộc. Cái tên “Nhạc cổ điển Việt Nam” mà nhóm tài tử Hậu Giang đã dùng để
tôn vinh cổ nhạc dân tộc – với hàm ý như một sự đối trọng với “nhạc cổ điển
phương Tây” mà nhiều người đương thời ngưỡng mộ như đỉnh cao duy nhất của
âm nhạc thế giới, chính là biểu hiện c thể của lòng tin và tự hào đáng trân trọng

đó.
Cũng không thể quên nhắc nhớ rằng, sự phát triển của phong trào đờn ca
tài tử và hát cải lương không chỉ tạo động lực cho sự phát triển của nghệ thuật
đờn, ca và sáng tác, mà còn tạo đà cho cả nghề làm đàn cũng như việc nghiên
cứu biên soạn các sách về cổ nhạc. Thành của của hoạt động này trổ bông kết
trái với những công trình suy tầm, biên soạn và nghiên cứu được xuất bản trong
những thập niên 50 – 60 ở miền Nam của Trịnh Thiên Tư (ca nhạc cổ điển), Võ
Tấn Hưng (Cổ nhạc tầm nguyên), nhóm nhạc sĩ Hậu Giang (Nhạc cổ điển Việt
Nam), Lê Văn Tiến (Hướng dẫn sử dng một số nhạc c dân tộc qua bài bản
Cải lương), Đắc Nhẫn – Ngọc Thới (Bài bản cải lương) ở miền Bắc – dẫu bàn
về âm nhạc cải lương, song cũng đã đem lại cho công chúng nhiều hiểu biết sau
hơn về cổ nhạc Nam bộ. Đó là chưa kể nhiều bài viết rất có giá trị trên các báo
và tạp chí

20

Cùng với cải lương, giới tài tử cũng đã rất nhanh nhạy trong việc tiếp
nhận thể nghiệm nhiều nhạc c mới của phương Tây như violon, mandoline,
guitare và Việt hóa chúng để trình diễn cổ nhạc. Tuy nhiên, không xô bồ như
sân khấu cải lương, giới tài tử đã tiếp thu những nhạc c này một cách có chọn
lọc. Thành công nhất là đàn guitare Tây Ban Nha khoét lõm phím với cái tên
nhập tịch “làng” cổ nhạc – “lc huyền cầm”, và violon với cái tên “vĩ cầm” cùng
những cách lên dây riêng. Chúng bổ sung cho dàn đờn ca cổ nhạc những âm
hưởng mới mẻ mà không làm mất chất cố hữu của thể loại ca nhạc cổ truyền
này.
Ở nửa sau thế kỉ XX – tuy có phần giảm sút hơn trước, song phong trào
sáng tác và nghiên cứu cổ nhạc vẫn tiếp diễn. Những tìm tòi nghiên cứu để áp
dng Âm – Dương ngũ hành vào sáng tác và bản Ngũ châu minh Phổ chào đời
năm 1979 của nhạc sư Nguyễn Văn Thinh ở miền Đông trong sự đăng đối với
Tứ bửu Liên thành của nhạc sư Lê Tài Khí (Nhạc Khị) ở miền Tây thuở trước,

những công trình nghiên cứu lớn nhỏ tiếp tc được xuất bản
1.2. Những đặc điểm cơ bản của đn ca ti tử Nam Bộ
1.2.1. Thang âm nhc ti tử [38]
Ba thang âm cơ sở
Thang bồi âm: Đây là thang âm hình thành do sợi dây đàn hoặc ống hơi khi
rung tự chia thành nhiều phần âm bằng nhau và những phần âm ấy cùng rung
lên. Chúng tạo nên một chuỗi âm theo nguyên lý: âm trên có tần số bằng tần số
của âm dưới sát nó cộng với tần số của âm cơ bản. Do nó được hình hình thành
từ một định luật vật lý nên tôi gọi nó là thang âm của trời. Về mặt tần số, thang
bồi âm là là một thang âm có tần số các âm ở các bậc là những số hạng của một
cấp số cộng, trong đó số hạng đầu là tần số cơ bản của âm ở bậc khởi đầu và
công sai cũng là tần số cơ bản đó:




21


Bảng 1.1. Thang bồi âm







Thang âm Pythagoras - Quản tử: Tương truyền là thang âm của Pythagoras,
nhà triết học và toán học người Hy Lạp, sồng vào thế kỷ thứ VI trước Công
nguyên. Ông đã lần lượt chia sợi dây đàn thành 3 phần bằng nhau rồi lấy 2 phần

thì được một âm cao hơn âm gốc một quãng 5 đúng. Cũng khoảng thời gian này,
tại Trung Quốc, Quản Tử đã thực hiện như trên với các ống hơi và cũng thu
được kết qủa tương tự. Ông nêu quy tắc nổi tiếng: Chia ba, bớt một, thêm một.
Hai cách làm trên đều cho ta một loại thang âm trong đó các nốt nhạc được liên
tiếp chồng theo quãng 5 đúng tự nhiên:
a) Lấy Do (C) làm âm khởi đầu và với tỷ tần bằng 1 = 0,000 xen, ta có:
f c g d
1
a
1
e
2
h
2

2
3
1
3
2

(
3
2
)
2

(
3
2

)
3

(
3
2
)
4

(
3
2
)
5

b) Đưa những âm trên về cùng một quãng tám:
c d e f g a h c
1
Tỷ tần: 1
9
8

81
64

4
3

3
2


27
16

243
128
2

Xen: 0 203,910 407,820 498,045 701,955 905,865 1109,775 1200
c) Khoảng cách giữa các bậc:
c d e f g a h c
1


Tỷ tần:
9
8

9
8

256
243

9
8

9
8


9
8

256
243



22

Thang bảy bậc chia đều - Ý niệm chia đều: Nhiều nghệ nhân nhạc cổ tuyền
ở ta thường coi thang bảy bậc chia đều là thang âm gốc rễ. Nó được sinh ra ở
Ấn Độ từ thời cổ đại với cái tên Gândhara-Grâma rồi truyền sang nước thuộc
vùng Đông Nam châu . Ở đảo Java (Indonesia), trước đây nó có tên là Pelog.
Nó cũng đã có mặt trong nhạc cổ tryên của Thái Lan, Lào, Campuchia và bóng
dáng của nó vẫn còn tồn tại tới ngày nay. Về mặt tần số, thang bảy chia đều là
một thang âm có tần số các âm ở các bậc là những số hạng của cấp số nhân trong
đó số hàng đầu là tần số cơ bản của âm ở bậc khởi đầu và có bội bằng 2
1/7.
Tám thang âm nhạc cổ truyền Việt Nam
Thang âm bắc: Về đại thể, cách thành lập thang âm Bắc trùng hợp với
nguyên lý cấu tạo thang âm Pythagoras – Quản Tử. Riêng bậc Xang và vậc Phan
hơi chênh cao.Chúng có tỷ tần bằng căn bậc hai của tích giữa tỷ tần Xang hoặc
Phan trong thang bảy bậc chia đều với tỷ tần của Fa hoặc Si-giáng trong thang
âm Pythagoras. Do đó, chúng có số cents bằng trung bình cộng của các bậc ấy:
Xang = (2
3/7
x 4/3)
1/2
= 1.339602027 = 506.165 cents

Phan = (2
6/7
x 16/9
1/2
= 1.79453359 = 1012.331 cents
Khác với các bài bản thuộc điệu Bắc mà thang âm của chúng có thể quy
về cùng một dạng cơ bản, thang âm của các bài bản thuộc các hơi trong điệu
Nam không thể làm như vậy vì chúng không giống nhau.
Thang âm quá dộ Xuân: Sự thâm nhập đầu tiên của thang bồi âm vào
thang bảy bậc chia 6đều xảy ra ở âm quãng năm trên âm cơ bản, tức bồi âm số
12. Âm này đã chia quãng tám thành hai phần không bằng nhau, do đó sự chia
đều chỉ có thể xảy ra trong nội bộ từng phần (quãng 5 đúng và quãng 4 đúng)
Thang âm Xuân: Để có màu sắc tươi tắn hơn, tạo được những giai điều
nhẹ nhàng, sảng khoái và nghiêm trang của hơi Xuân, người ta đẩy âm Xừ cao
ngang với bồi âm số 10 và hạ thấp Xang bằng cách “mượn” âm Xang ở thang
bảy bậc chia đều. Đồng thời nâng cao hai bậc Xự, Cống để chúng có cao độ
đứng giữa Xự, Cống của thang âm quá đô Xuân và thang âm Bắc:
Xự = [(3/2)
1/4
x 9/8]
1/2
= 1.11580337 = 198.699 cents

23

Bảng 1.2. Thang âm Xuân
Bảng 1.3. Thang âm quá độ Ai
Công = [3/2(4/3)
1/3
x 27/16]

1/2
= 1.669131845 = 886.918 cents









Cao độ của hai bậc Xự, Cống chứng tỏ thang âm Xuân có mối liên hệ gián
tiếp với thang âm Bắc và bậc Xang, dấu tích của thang bảy âm chia đều là bằng
chứng về mối liên hệ trực tiếp giữa thang âm Xuân với thang bậc chia đều.
Thang âm qua dộ Ai: Ngoài bồi âm số 12, nay thêm bồi âm số 9 thâm nhập
vào thang bảy bậc chia đều. Chúng trở thành hai điểm chốt chia cắt từ Xự đến
Líu thành hai phần bằng nhau: Xự - Xê và Xê - Líu. Đây là hai quãng 4 đứng
chồng liên tiếp và khi chia đều thì ta có sáu quãng bằng nhau:







×