1
Khai thác các giá trị văn hóa của nghệ thuật ca
trù ở đồng bằng Bắc Bộ tại Việt Nam phục vụ
phát triển du lịch
Trần Thị Huyền
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn; Khoa Du lịch
Chuyên ngành: Du lịch; Mã số: Chương trình đào tạo thí điểm
Người hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Phạm Hùng
Năm bảo vệ: 2012
Abstract. Trình bày những vấn đề cơ bản về ca trù, lịch sử phát triển của nghệ thuật
ca trù, nghệ thuật ca trù tại một số tỉnh đồng bằng sông Hồng và giá trị văn hoá của
nghệ thuật ca trù. Nghiên cứu thực trạng khai thác các giá trị văn hoá của nghệ thuật
ca trù vào hoạt động kinh doanh du lịch hiện nay ở Việt Nam. Từ đó đưa ra những
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác sản phẩm du lịch của nghệ thuật ca trù.
Keywords. Du lịch; Giá trị văn hóa; Nghệ thuật ca trù; Vùng Đồng bằng Bắc bộ;
Phát triển Du lịch; Việt Nam
Content.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày 1 tháng 10 năm 2009, tại Abu Dhab - thủ đô của các tiểu vương quốc Ả Rập
thống nhất, Ca trù đã trở thành di sản thứ tư của Việt Nam được công nhận , xếp vào
danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp. Đây là một tin vui với
những người yêu ca trù bởi giờ đây nghệ thuật ca trù không chỉ được biết tới, được
bảo tồn mà còn được khai thác phục vụ cho đời sống văn hóa tinh thần của người dân.
Những năm gần đây, du lịch Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ và đang
vươn lên thành ngành kinh tế mũi nhọn với tốc độ tăng trưởng cao. Đạt được điều này
cũng là nhờ vào việc khai thác các giá trị tài nguyên du lịch độc đáo của đất nước. Và
trong xu thế toàn cầu hóa , khi bản sắc văn hóa dần bị mai một thì du khách luôn
2
muốn tìm đến những giá trị văn hóa đặc trưng của từng vùng miền. Nắm bắt được điều
này nên đã có nhiều loại hình nghệ thuật được đưa vào khai thác kinh doanh du lịch
như chèo, múa rối nước, quan họ,… và đã đạt được những thành công nhất định.
Còn với nghệ thuật ca trù – một loại hình nghệ thuật quý giá, hấp dẫn của dân tộc
vẫn còn ở dạng tiềm năng trong kinh doanh du lịch. Việc đưa nghệ thuật ca trù vào
khai thác kinh doanh du lịch không chỉ nhăm quảng bá về một loại hình nghệ thuật
dân tộc độc đáo mà còn khai thác tối đa các giá trị kinh tế mang lại. Vì vậy tôi đã chọn
nghệ thuật ca trù làm đối tượng nghiên cứu cho đề tài:
“Khai thác các giá trị văn hóa của nghệ thuật ca trù ở đồng bằng Bắc Bộ tại Việt
Nam phục vụ phát triển du lịch”
Với mong muốn tìm ra các giá trị thực tiễn của nghệ thuật ca trù trong hoạt động
kinh doanh du lịch cũng như phương thức khai thác nghệ thuật ca trù trong kinh doanh
du lịch.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Qua công tác tìm hiểu tài liệu liên quan tới nghệ thuật ca trù nói chung, nghệ thuật
ca trù cho khai thác kinh doanh du lịch nói riêng. Tôi nhận thấy cũng có rất nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm tới vấn đề này:
Trong các thập kỷ 20,30,40 của thế kỷ XX đã có nhiều tập sách, báo của các tác
giả Phan Văn Duyệt, Nguyễn Mạnh Hồng, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Văn Ngọc,
Phạm Quỳnh, Nguyễn Đôn Phục,… viết về ca trù.
Về sau, phải kể đến Việt Nam ca trù biên khảo của Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng
Huề in năm 1962 tại Sài Gòn.
Năm 1980, Sở VHTT Hà Nội tổ chức biên soạn tập sách Hát cửa đình Lỗ Khê,
giới thiệu về một làng có truyền thống ca trù của thủ đô.
Năm 1987, có cuốn sách Tuyển tập thơ ca trù của tác giả Ngô Linh Ngọc và Ngô
Văn Phú.
Năm 2000, được sự tài trợ của Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam công trình Góp
phần tìm hiểu lịch sử ca trù của Nguyễn Xuân Diện đã được in tại Nxb Khoa học xã
hội và được công bố với công chúng.
3
Năm 2000, tại Viện Văn học, Nguyễn Đức Mậu bảo vệ thành công luận án tiến sĩ
ngữ văn với đề tài Thể loại hát nói trong sự vận động của lịch sử văn học.
Năm 2002, Giang Thu – Vũ Thiệu Loan xuất bản sách Tìm hiểu ca trù Hải Phòng;
Lê Huy Trâm xuất bản sách Khảo sát Ca công ở Thanh Hóa.
Năm 2003, Hoài Yên và Nguyễn Xuân Diện xuất bản Thơ Hát nói xưa và nay;
Nguyễn Đức Mậu giới thiệu và biên soạn sách Ca trù – nhìn từ nhiều phía; Hoàng
Tuấn Phổ xuất bản sách Hát nhà trò Văn Trinh
Năm 2007, Nguyễn Xuân Diện bảo vệ thành công luận án tiến sĩ Hán Nôm Lịch
sử và nghệ thuật ca trù Việt Nam - Khảo sát nguồn tư liệu tại Viện nghiên cứu Hán
Nôm.
Ngoài ra, còn có hàng loạt các cuộc hội thảo như năm 1998, Hội thảo ca trù Cổ
Đạm do Sở VHTT Hà Tĩnh tổ chức; năm 1999, Hội thảo ca trù Thăng Long – Hà Nội
do Sở VHTT Hà Nội và CLB Ca trù Hà Nội tổ chức; năm 2005, Chi hội Văn nghệ dân
gian Thanh Hóa tổ chức Hội thảo ca trù Thanh Hóa; năm 2006, diễn ra hội thảo quốc
tế về ca trù tại Việt Nam; năm 2011, Hội thảo tổng kết kiểm kê ca trù năm 2009 –
2010 tại Hà Nội,…
Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu cho đến nay đều mới nghiên cứu về nghệ thuật
ca trù dưới góc độ một loại hình âm nhạc hoặc một di sản văn hoá. Và chưa có nghiên
cứu nào ở cấp độ luận văn thạc sĩ về khai thác nghệ thuật ca trù trong du lịch.
3. Mục đích và nội dung nghiên cứu
Nghệ thuật ca trù là một di sản văn hóa quý báu, mang đậm bản sắc dân tộc. Vì
vậy, khi nghiên cứu không ngoài mục đích tìm hiểu cái hay, cái đẹp, cái độc đáo của
nghệ thuật ca trù. Mặt khác việc nghiên cứu nghệ thuật ca trù trong khai thác hoạt
động kinh doanh du lịch nhằm tìm ra những phương thức khai thác và những, giải
pháp giữ gìn, phát huy loại hình nghệ thuật này trong cuộc sống. Và cũng từ đó, làm
đa dạng hóa sản phẩm du lịch, góp phần thu lợi nhuận, thúc đẩy ngành du lịch phát
triển.
Với mục đích nghiên cứu trên, nội dung nghiên cứu của đề tài tập trung tìm hiểu
về giá trị văn hoá của nghệ thuật ca trù và thực trạng khai thác các giá trị văn hoá của
4
nghệ thuật ca trù vào hoạt động kinh doanh du lịch hiện nay, từ đó nhằm đưa ra những
giải pháp nâng cao hiệu quả khai thác sản phẩm du lịch của nghệ thuật ca trù.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng mà luận văn nghiên cứu tập trung chủ yếu là loại hình hát ca trù thính
phòng phục vụ nơi ca quán, chứ không bao gồm hát cửa đình hay hát trong cung đình
xưa. Ngoài ra đối tượng nghiên cứu chính là sản phẩm du lịch do nghệ thuật ca trù tạo
ra cũng như các yếu tố khác liên quan khác đến việc khai thác nghệ thuật ca trù cũng
như du khách , cơ sở vật chất , tổ chức quản lý, quảng bá.
Tuy nhiên do điều kiện thực tế và khả năng của bản thân có hạn nên trong quá
trình nghiên cứu, tôi tập trung nghiên cứu về nghệ thuật ca trù đang được khai thác
hoạt động kinh doanh du lịch trên địa bàn Hà Nội. Còn nghệ thuật ca trù tại một số
tỉnh thành khác thuộc Đồng bằng sông Hồng, tôi chỉ xin giới thiệu như một tài nguyên
du lịch tiềm năng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để tìm hiểu những vấn đề liên quan đến đề tài, học viên đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thu thập tài liệu
Tài liệu sơ cấp: thu thập các tài liệu liên quan tới các nghệ thuật truyền thống của
Việt Nam, các tài liệu nghiên cứu về Ca trù nói chung, các tài liệu về hoạt động du lịch
tại Việt Nam,…
Tài liệu thứ cấp: thu thập các tài liệu về hoạt động du lịch trên địa bàn Hà Nội, các
hoạt động biểu diễn ca trù,…
- Phương pháp phân tích và tổng hợp dữ liệu:
Sau khi thu thập các tài liệu sơ cấp và thứ cấp liên quan đến luận văn, học viên
thực hiện phương pháp tổng hợp tài liệu, dữ liệu đã có. Đặc biệt các dữ liệu quan trọng,
liên quan trực tiếp tới bài viết thì phải vừa tổng hợp và phân tích cho phù hợp.
- Phương pháp tổng hợp phân tích số liệu
Kế thừa các tài liệu, sách báo, tạp chí, internet, các báo cáo, về các nghiên cứu ca
trù nói chung và hoạt động du lịch liên quan tới ca trù nói riêng từ đó tác giả bổ sung
hoàn thiện nội dung bài luận văn.
5
- Phương pháp khảo sát thực tế:
Do thời gian và khả năng của bản than có hạn, nên học viên tập trung chủ yếu cho
công tác khảo sát thực tế tại một số địa điểm sinh hoạt nghệ thuật truyền thống nhằm
phục vụ du khách trên địa bàn Hà Nội. Trong đó tập trung là các địa điểm biểu diễn ca
trù.
- Phương pháp điều tra xã hội học:
Trong quá trình khảo sát thực tế, học viên ngoài việc quan sát còn sử dụng các
phương pháp điều tra xã hội học như phỏng vấn nhanh, bảng hỏi đối với các nghệ
nhân, du khách, người quản lý,…
6. Bố cục đề tài
Nội dung đề tài gồm 3 chương ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo.
Kết cấu 3 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về tài nguyên du lịch văn hoá ca trù
Chương 2: Thực trạng khai thác giá trị nghệ thuật ca trù áp dụng vào du lịch
Chương 3: Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả khai thác các giá trị văn hoá
của nghệ thuật ca trù trong phát triển du lịch
7. Đóng góp của đề tài
Do điều kiện nghiên cứu của bản thân còn nhiều hạn chế nên sau khi hoàn thành đề tài,
tôi chỉ mong muốn đóng góp một số ý kiến nhỏ cho việc phát triển hoạt động kinh
doanh du lịch dựa trên nghệ thuật ca trù:
- Tìm hiểu tình hình thực tế của hoạt động khai thác kinh doanh du lịch dựa vào nghệ
thuật ca trù.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác kinh doanh du lịch dựa
vào nghệ thuật ca trù.
- Cung cấp một phần tài liệu cho việc nghiên cứu về nghệ thuật ca trù giúp thế hệ trẻ
thêm yêu mến, trân trọng, giữ gìn vốn cổ của dân tộc.
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÀI NGUYÊN DU LỊCH
VĂN HOÁ CA TRÙ
1.1 Tổng quan về lịch sử hình thành, phát triển của nghệ thuật ca trù
6
1.1.1 Khái niệm ca trù
- Ca trù (hay hát Ả đào) là tên gọi thông dụng hơn cả so với các khái niệm khác,
cho dù chưa phải là cách gọi tối ưu. Vậy Ca trù nghĩa là gì? Đó là một khái niệm chỉ
một lối hát gồm rất nhiều điệu (theo thống kê của Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề thì
Ca trù có 46 điệu): thét nhạc, non mai, hồng hạnh, hát nói,… Trong cách hiểu thông
thường, khái niệm Ca trù có thể được thay thế bằng các khái niệm khác như đã nói ở
trên mà vẫn được hiểu như nhau. Ở Thanh Hóa, Ca trù còn được gọi là hát ca công,
hát gõ. Về nghĩa chữ thì Ca trù trước nay được giải thích là hát Thẻ. Thẻ gọi bằng Trù,
làm bằng mảnh tre ghi chữ đánh dấu, dùng để thưởng đào hát hay thay cho trả tiền mặt
trực tiếp. Khi ả đào hát, quan viên thị lễ chia ngồi hai bên, một bên đánh chiêng, một
bên đánh trống. Trống đánh chát và chiêng đánh một tiếng khi thấy hát hay thì thưởng
cho đào một cái Trù. Xong tiệc hát, đào kép ứng theo trù thưởng mà tính tiền, nhận
tiền theo đúng quy định. Khái niệm Ca trù sớm nhất hiện biết là thế kỷ 16 trong bài
“Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn” của Lê Đức Mao.
- Ngoài ra còn có các tên gọi khác:
+ Hát Ả đào
+ Hát Cửa đình (hát Đình môn)
+ Hát Cửa quyền
+ Hát nhà Tơ
+ Hát Cô đầu
Tóm lại, Ca trù là tên gọi chung và thông dụng nhất về một loại hình âm nhạc cổ
truyền của Việt Nam. Nó có thể được thay thế bằng nhiều tên gọi khác như: hát ả
đào,hát cô đầu,… Tuy nhiên sự xuất hiện các tên gọi đó cũng như thời điểm xuất hiện,
tên nào có trước, tên nào có sau cho đến nay giới nghiên cứu dường như chưa đặt
thành một vấn đề riêng để tìm hiểu. Và như vậy, mỗi tên gọi được coi là “tấm biển”
chỉ đường ý nghĩa nhất định trong việc nghiên cứu về lịch sử phát triển của nghệ thuật
Ca trù.
1.1.2 Lịch sử phát triển của nghệ thuật Ca trù
1.1.2.1 Truyền thuyết về tổ nghề Ca trù
7
- Bản thần phả “Sự tích tổ sư giáo phường” soạn năm 1476 ở làng Lỗ Khê (Đông Anh,
Hà Nội) tổ ca trù là ông Đinh Dự và bà Đường Hoa
- Trong bài viết Ca trù qua một số truyền thuyết, tác giả Trần Thị An dẫn ý kiến của
cụ Chu Hà cho biết: tại các huyện Thiệu Yên, Thọ Xuân, Quảng Xương ở Thanh Hóa
có những dòng ca công phát triển đã thờ chung một vị tổ sư tên là Phong Quân.
- Sự tích tổ cô đầu ở làng Cổ Đạm, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh là sự tích được kể
chi tiết nhất. Truyền thuyết kể rằng: Vào đời nhà Lê, Đinh Lễ, tự Nguyên Sinh, người
làng Cổ Đạm, con nhà gia thế, tính tình phóng khoáng, không thích công danh bó
buộc, thường ôm đàn nguyệt đến bên bờ suối gảy, rồi ca hát để hòa với tiếng suối chảy.
Sinh đã đặt ra lối hát múa mới, rồi lấy hai thanh tre vót thật đẹp để cho nàng gõ trên
mảnh gỗ theo nhịp đàn mà hát.
- Lịch triều phong Đinh Lễ là Thanh Xà đại vương, Bạch Hoa là Mãn Đào Hoa công
chúa, lấy ngày 11 tháng Chạp làm ngày giỗ. Ở Hưng Yên, Nam Định, Hải Dương, Hà
Nội đều có đền thờ hai vị tổ sư này. Riêng giáo phường Thượng Mỗ (Đan Phượng, Hà
Nội) thì lại thờ vị tổ sư có tên là Đinh Triết. Phải chăng ông là hậu duệ của Đinh Lễ ở
Cổ Đạm? Tuy nhiên điều này chưa có đủ cứ liệu để chứng minh.
Như vậy, xung quanh các truyền thuyết về tổ ca trù thì ở các làng tổ nghề thường
gồm hai người (một nam, một nữ). Người đàn ông thường được gọi bằng cái tên
không giống nhau, khi thì Đinh Lễ (Cổ Đạm), khi thì Đinh Dự (Lỗ Khê), lúc lại là
Đinh Triết (Đan Phượng),… Các nhà nghiên cứu cũng quan sát thấy ở đâu có ả đào thì
thường liên quan đến họ Đinh, đã đặt ra nghi vấn nhưng chưa thiết lập giải đáp.
Nhưng các truyền thuyết, hầu hết đều thống nhất rằng vùng đất Thanh Nghệ là miền
quê phát tích. Mặc dù chưa thể đưa ra được kết luận về sự hình thành và phát triển của
thể loại qua những truyền thuyết, song đây cũng là một cứ liệu có ý nghĩa nhất định
trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu về nguồn gốc ca trù trong đời sống tâm thức dân
gian và trong đời sống sinh hoạt dân gian.
1.1.2.2 Lược sử phát triển của nghệ thuật ca trù
- Ở nước ta, từ thời Tiền Lê về trước không có sử sách nào ghi chép về vấn đề ca
vũ, nhưng từ thời Lý trở đi, có ghi chép đầy đủ với những quy định trong việc tổ chức
biên chế rất nghiêm ngặt (các sách chính sử và dã sử có ghi chép rõ ràng).
8
- Đến đời Trần, các lối múa hát được biểu diễn vào các dịp lễ tết, yến tiệc, các
buổi tiếp sứ hoặc trong các cuộc đi chơi của vua tôi nhà Trần.
- Cho đến cuối đời nhà Hồ (1400 - 1407), cái tên Ả đào xuất hiện gắn với sự kiện
người con hát họ Đào, làng Đào Xá, huyện Tiên Lữ, Hưng Yên đã lập mưu giết được
giặc Minh.
- Đến thời Lê (niên đại Hồng Đức), ca trù phát triển rực rỡ với việc đặt ra 2 bộ:
Nhã nhạc (luyện thanh) và Đồng văn (luyện tập âm luật) do quan Thái thường trông
coi. Âm nhạc ở dân gian thì đặt giáo phường cai quản. Cũng dưới đời Lê ca trù được
biết đến với các tên gọi: hát cửa quyền, hát cửa đình, hát nhà tơ, hát nhà trò, hát ả đào.
- Đầu thời Nguyễn, ca trù chuyển thành lối hát thính phòng, phần múa bị tước bỏ,
phần ca nhạc được nâng cao.
- Từ khi ra đời đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, ca trù chủ yếu tồn tại ở khu
vực phía Bắc (Hà Nội, Bắc Ninh, Hà Tây cũ, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Hải Phòng,
Huế,…). Đến năm 1940, một nghệ nhân ca trù ở Hải Phòng khi đó mới 16 tuối đã dẫn
một số đào kép vào Phú Nhuận, Sài Gòn mở ca quán hát ả đào tại thành phố phương
Nam này. Như vậy ca trù đã lan rộng khắp Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ XX. Cũng
trong thời gian này, người Pháp sang đô hộ nước ta, đường giao thông đi lại thuận tiện
hơn, Ả đào đua nhau mở nhà hát ở các tỉnh. Nạn đào rượu rộ lên. Ca trù đi dần vào
con đường suy tàn
- Đến năm 1945, để lập lại sự lành mạnh của nền văn hóa mới, ở Hà Nội, người ta
đã dẹp nạn đào rượu, nhưng đồng thời lối hát ca trù cũng bị lắng xuống, tinh thần ca
trù bị suy giảm do thành kiến Cô đầu là xấu xa.
- Từ năm 1977 trở đi, làn điệu ca trù thi thoảng mới được phát qua làn sóng của
đài tiếng nói trung ương. Một vài nhạc sĩ đã lấy chất liệu ca trù trong sáng để sáng tác
ca khúc của mình
- Và ngày nay, Hà Nội đã có câu lạc bộ ca trù. Điều đó cho thấy dòng nhạc Ca trù
đang được tái sinh. Ca trù vẫn bền bỉ sống trong lòng người dân yêu mến loại hình này
1.1.2.3 Sinh hoạt ca trù
Qua khảo sát về địa bàn sinh hoạt ca trù sẽ giúp ta hiểu được mối liên hệ mật thiết
của nghệ thuật ca trù với các sinh hoạt và phong tục làng xã trước đây.
9
Có hai vấn đề trong sinh hoạt ca trù: thứ nhất, về địa bàn phân bố loại bia liên
quan đến giáo phường chỉ thấy xuất hiện ở vùng đồng bằng sông Hồng, tỉnh có nhiều
nhất là Hà Tây và Hà Nội, có lẽ vì đây đây là vùng ven đô, giao thông đi lại thuận tiện,
đời sống kinh tế khấm khá hơn vùng khác nên các sinh hoạt văn hóa cũng có nhiều
hoạt động hơn. Thứ hai, về niên đại, văn bia tập trung vào thế kỷ 17, 18 và 19 (cụ thể
thế kỷ 17 có 15 văn bia; thế kỷ 18 có 39 văn bia; thế kỷ 19 có 12 văn bia).
Trong các lối hát và ngâm vịnh cổ truyền Việt Nam hiếm có một lối hát nào lại
xâm nhập sâu rộng hầu hết các sinh hoạt văn hóa tinh thần như là lối hát ca trù, một
lối hát mà cả Thần và Người đều chuộng. Nơi đình miếu, đền đài thâm nghiêm các vị
thần thánh nghe hát trong hương trầm đượm tỏa, trong sự sùng phụng của xã dân. Và
trong dân gian, mỗi khi khao vọng, từ khao họ, khao thi đỗ, khao thăng chức đến khai
trương cửa hiệu, mừng đón nhau đều vời đào kép ca trù, tùy việc tùy duyên mà thưởng
ngoạn câu thơ khổ phách cung đàn. Rồi những khi thư thả việc công, những khi buồn
thế thái nhân tình, hoặc tình duyên gặp trắc trở, ai đó lại đến ca quán vịn vào tiếng hát,
tiếng thơ, nhịp phách của ca trù để chia sẻ tâm sự, để hòa mình vào thế giới nội tâm,
để hào hứng dốc sạch túi tiền vào cuộc hát mà thưởng cho một ngón nghề tài hoa.
1.1.2.4 Tổ chức giáo phường
Giáo phường và Ty giáo phường là thuật ngữ xuất hiện khá sớm. Theo Phạm Đình
Hổ thì vào niên hiệu Hồng Đức đời Lê Thánh Tông, trong triều đình có đặt hai dinh
thự Đồng Văn và Nhã Nhạc, trong dân gian thì đặt Ty giáo phường để coi các việc về
âm nhạc. Theo ghi chép cổ xưa thì Ty giáo phường là tổ chức quản lý hoạt động ca
xướng tương đương với cấp huyện. Giáo phường các xã thuộc về Ty giáo phường của
huyện, mỗi huyện có một Ty giáo phường còn một xã có thể có nhiều hơn một Giáo
phường.
Điều quan trọng trong nội quy giáo phường là đào kép phải giữ tư cách phẩm giá,
giữ gìn nề nếp, luân lý gia đình cũng như quan hệ giáo phường và quan hệ xã hội. Đào
kép có nhiệm vụ kèm cặp, bảo ban, giám sát nhau khi ở nhà cũng như khi đi hát nơi
xa.
10
Giáo phường ca trù không chỉ biểu diễn phục vụ trong các lễ hội dân gian ở các
làng xã mà còn vượt ra khỏi địa phương để tham gia vào các nghi thức tiếp khách của
nhà nước.
1.1.2.5 Diễn trình buổi biểu diễn
* Nhạc khí và ban nhạc
Hát ca trù truyền thống tự nó khu biệt với các lối hát khác nên bộ khí nhạc rất đơn
giản gồm cỗ phách, đàn đáy, trống chầu. Bên cạnh đó, tiếng hát của đào nương cũng
được coi là một nhạc khí – nhạc khí đặc biệt, thể hiện các bài thơ, với yêu cầu diễn
cảm ý thơ, tình thơ rất cao.
Có thể nói, bộ nhạc khí của ca trù đã được tinh giảm đến mức tối đa nhưng lại đến
hiệu quả thật bất ngờ. Âm thanh của từng nhạc khí hòa quyện với nhau, gắn bó với
nhau mật thiết đến mức ta không thể thêm bớt nhạc cụ nào nữa. Ban nhạc cũng rất đơn
giản, gồm có ả đào vừa hát vừa gõ phách, kép đệm đàn. Về sau, khi ca trù trở thành lối
hát thính phòng, một thú chơi tao nhã thì quan viên trở thành một thành viên của ban
nhạc. Quan viên là người đi nghe hát, người thưởng thức tiếng hát của đào nương.
Người quan viên cầm chầu ngoài chức năng tham gia vào ban nhạc với vai trò cầm
quyền âm nhạc, còn có nhiệm vụ quan trọng là chấm thưởng mỗi khi đào nương hát
hay hoặc hát đến câu văn hay, chữ hay, ý hay và còn chấm cả đàn hay, phách hay.
* Buổi biểu diễn
Trình tự một buổi hát có thể hình dung như sau:
Tao nhân mặc khách đến một gia đình, hay một ca quán, ở đó đã bố trí chỗ cho
khách trà rượu và chỗ để đào kép hát. Về phía khách sẽ tự có một quan viên đánh
trống chầu.
Bắt đầu buổi hát, quan viên điểm 5 hồi trống: 3 hồi đầu để giục đào kép
Đầu tiên đào nương hát một bài hát mở hay Bắc phản, tiếp đó là các bài hát nói,
hát mưỡu, hát ru, mười thương, nhịp ba cung bắc, huê tình,… Mưỡu thường là câu lục
bát đi kèm với Hát nói (ở trên gọi là Mưỡu đầu, ở dưới gọi là Mưỡu hậu) nêu tóm tắt ý
tưởng của bài hát đó.
Hòa vào với tiếng hát du dương, trong mịn là tiếng đàn đáy đục trong, khoan nhặt,
tiếng phách giòn ríu ran, và tiếng trống chầu tom, chát. Tất cả đan quyện vào nhau, tạo
11
nên một không gian nghệ thuật đặc biệt, tạo nên một thứ “ma lực” hấp dẫn, say đắm
lòng người.
1.1.3 Nghệ thuật Ca trù tại một số tỉnh đồng bằng sông Hồng
* Tại Hà Nội
- Làng Lỗ Khê thuộc xã Liên Hà, huyện Đông Anh ngoại thành Hà Nội
- Làng Phú Đô thuộc xã Mễ Trì, huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội
- Câu lạc bộ ca trù Thăng Long,
- Câu lạc bộ ca trù Hà Nội,
- Trung tâm văn hóa ca trù Thăng Long,
- Câu lạc bộ ca trù Thái Hà,…
* Tại Hà Tây
Phù Xa, Đông Tác (Sơn Tây), Gạch (Phúc Thọ), Thượng Mỗ (Đan Phượng), Sơn
Đồng, Ngãi Cầu (Hoài Đức)
* Hải Phòng
CLB ca trù Đông Môn, xã Hoà Bình, huyện Thuỷ Nguyên
* Thái Bình
Ca Trù ở tỉnh Thái Bình đậm đặc nhất ở hai trung tâm là thành phố Thái Bình và
huyện Kiến Xương gồm: CLB Ca trù của Trung tâm Văn hóa tỉnh và CLB Ca trù xã
Bình Định.
* Nam Định
12
Nghệ thuật Ca trù phát triển mạnh tại xã Hồng Thuận (Giao Thủy), xã Nghĩa Thắng
(Nghĩa Hưng), xã Đồng Sơn (Nam Trực)
1.1.4 Các giá trị của nghệ thuật Ca trù
1.1.4.1 Giá trị văn học (Lời thơ)
- Ca trù là một loại hình ca hát có giá trị cao về mặt văn chương. Các điệu hát Ca trù
ngày xưa như Đại thạch, Dâng hương, Gửi thư … hãy còn mộc mạc chất phác; thì về
sau với các điệu Hát nói, Hát mưỡu, Tỳ bà… từ ngữ đã chau chuốt, bóng bẩy hơn.
- Trong quá trình phát triển của mình, Ca trù bị coi là loại hình âm nhạc phục vụ
cho mục đích chính trị. Đó là những tiếng cười trào phúng, đả kích, những tiếng nói
căm thù, vạch tội bọn cướp nước, bán nước; đó còn là những lời kêu gọi đồng bào,
đồng chí cùng nhau đứng dậy, đòi lại nước nhà cho bằng được.
- Ngày nay, hòa mình vào không khí chung của thời đại, chủ đề của Hát nói ngày
càng phong phú hơn. Nội dung chủ yếu là ca ngợi cảnh đẹp quê hương đất nước, ca
ngợi cách mạng, sự nghiệp đổi mới của đất nước
- Có thể nói, Ca trù là tiếng hát của thơ Việt Nam. Trong Ca trù có cả cổ kim, có
cả chất dân gian, bình dân đến phong kiến, bác học; có niêm luật thơ cũ mà có cả chất
hiện đại của thơ mới. Thơ ca trù – một lối thơ phong phú, có mẹo luật mà vẫn có thể
ra ngoài khuôn khổ. Đây là một sự tổng hợp, biến hóa linh hoạt, uyển chuyển, tinh tế
mà khó thể loại thơ nào sánh nổi.
1.1.4.2 Giá trị âm nhạc
- Nghệ thuật Ca trù, theo như nhiều nhà nghiên cứu thì nó mang tính hàn lâm và bác
học. Tính nghệ thuật không chỉ thể hiện bằng sự kết hợp hài hòa giữa nhạc và thơ, sự
hòa quyện âm thanh của tiếng hát, tiếng phách, tiếng đàn, tiếng trống; mà nó còn thể
hiện ở sự đồng điệu về tâm hồn giữa người biểu diễn (đào, kép) và người thưởng thức
(quan viên).
+ Về cách phát âm và cách lấy hơi, mỗi lối hát lại có một phương pháp riêng. Ở ca
trù, nghệ nhân sử dụng “hơi trong” là chủ yếu
+ Về tiết tấu, rất ít tiết tấu có chu kì ngắn và đều như những thứ nhịp điệu của
những bài hát thông thường.
13
+ Một điều quan trọng cần chú ý là ở lối Ca trù này, chúng ta một hư từ nào xen
vào lời hát, như những chữ: tình bằng, ấy mấy, dẫu, mã,… ở trong các lối hát chèo hay
quan họ.
+ Về phần bạn tấu, tức là nhạc cụ đi kèm với giọng hát đã được tinh giản đến mức
tối đa.
+ Các nhạc cụ: phách, đàn đáy, trống chầu
1.1.4.3 Giá trị văn hoá
- Ca trù là một bộ môn nghệ thuật độc đáo của văn hoá Việt. Ca trù xưa và cổ kính
như đang giấu mình trong lớp trầm tích của văn hoá Việt Nam mà mỗi người dân
chúng ta đều có quyền tự hào, và tự thấy mình phải có trách nhiệm giữ gìn lưu truyền
và tìm cho nó vị trí xứng đáng trong đời sống văn hóa hôm nay.
+ Lối ứng xử linh hoạt trong ca trù là điểm mà nhiều người khi thưởng thức ca trù
có thể dễ dàng nhận thấy
+ Địa điểm sinh hoạt: Trước đây, vào những ngày hội ở các làng quê, Ca trù được
mời về biểu diễn ngay tại sân đình. Các cuộc hát thơ, ca tụng công đức của các vị thần,
vị thánh được cất lên thiêng liêng và trang trọng. Và chính nơi đây trở thành “nhà hát
nhân dân” của cả cộng đồng làng xã.
+ Cách thưởng trong ca trù cũng được coi là một nét văn hoá đặc biệt - một nét
đẹp trong văn hoá thưởng thức nghệ thuật của ông cha ta xưa.
+ Một điểm nữa cũng dễ dàng thấy được, Ca trù là cách khán giả thưởng thức thơ
và cũng là cách thơ được phổ nhạc.
- Có thể nói, Ca trù chứa đựng đầy đủ trong đó những ứng xử đạo đức, những
phong tục tập quán, những bản sắc văn hoá của người Việt
1.2 Di sản văn hoá Ca trù và việc khai thác di sản văn hoá Ca trù trong du lịch
1.2.1 Quá trình Ca trù trở thành di sản văn hoá thế giới
- Trước khi Ca trù trở thành di sản văn hoá phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp,
thì Ca trù cũng đã có một quá trình “đi ra” thế giới qua những băng ghi âm, những
cuộc liên hoan âm nhạc và những giới thiệu của những người yêu ca trù
- Quá trình Ca trù trở thành di sản thế giới:
+ Viện Âm nhạc là đơn vị được Bộ Văn hoá thể thao và du lịch giao nhiệm vụ lập hồ
14
sơ quốc gia về hát Ca trù người Việt trình UNESCO công nhận là di sản truyền khẩu
và phi vật thể của nhân loại.
+ Vào ngày 1 tháng 10 năm 2009, tại Abu Dhab, Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất,
Ca trù chính thức được UNESCO công nhận là di sản phi vật thể cần được bảo vệ
khẩn cấp.
1.2.2 Di sản văn hoá Ca trù - một sản phẩm du lịch độc đáo, đậm đà bản sắc
dân tộc
- Nghệ thuật Ca trù là một di sản quý báu của dân tộc ta.
+ Trong dân nhạc Việt Nam chỉ có Ca trù mới sản sinh ra một thể loại văn học là
Hát nói và đó là điều thực sự khác với các loại dân nhạc khác như quan họ, chèo, lý,…
+ Ca trù còn hấp dẫn người xem ở những nhạc khí vô cùng đơn giản nhưng lại có
khả năng hoà tấu tuyệt vời, tạo nên những giai điệu hấp dẫn, tạo nên cái cốt cách của
lối hát.
- Ca trù còn mang nặng bản sắc dân tộc. Bởi nó là tiếng hát của thơ Việt Nam, của
nhạc Việt Nam; là tiếng hồn của dân tộc, luôn song hành với sự thăng trầm của lịch sử.
- Với những giá trị độc đáo, đặc sắc của nghệ thuật Ca trù cho thấy đây là một
nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, nếu ngành du lịch biết khai thác. Trên thực tế đã có
nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống (chèo, múa rối nước, quan họ,…) khi đưa vào
phục vụ khách đã mang lại sự thích thú cho du khách và hiệu quả kinh tế cho ngành
du lịch. Do vậy việc bảo tồn và phát huy loại hình âm nhạc này cần có sự phối kết hợp
của các bộ ngành.
1.2.3 Triển vọng thu hút khách của nghệ thuật Ca trù
- Thế giới biến đổi và phát hiện đời sống ngày càng được nâng cao thì du lịch văn hoá
ngày càng phát triển mạnh mẽ.
- Cũng theo xu hướng chung, ở nước ta cũng đã có sự kết hợp khá tốt các di tích
lịch sử, văn hoá, các danh lam thắng cảnh để tạo ra những sản phẩm du lịch độc đáo,
đặc thù.
- Việc đưa Ca trù vào hoạt động du lịch là việc nên làm, có tính khả thi. Cùng với
nhiều sản phẩm du lịch khác, nghệ thuật Ca trù sẽ tạo thành một sản phẩm du lịch rất
riêng biệt và có sức hấp dẫn với du khách.
15
1.3 Những vấn đề đặt ra trong việc khai thác nghệ thuật ca trù phát triển du
lịch
1.3.1 Tính tất yếu của việc khai thác nghệ thuật ca trù phát triển du lịch
Theo GS.TS Ngô Đức Thịnh trong Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập, ông có nói về khuynh hướng
biến đổi văn hóa trên thế giới thì một khuynh hướng đang diễn ra mạnh mẽ đó là các
loại hình văn hóa truyền thống đang nhanh chóng thích ứng với sự phát triển mạnh mẽ
của nền kinh tế hiện đại.
Còn trong “Hội nghị đánh giá kết quả kiểm kê di sản văn hóa ca trù 2009-2010”
vừa diễn ra tại Hà Nội từ ngày 13/10 đến ngày 16/10/2011 , đã có nhiều ý kiến tâm
huyết của các học giả, các nhà quản lý trên địa bàn toàn quốc đối với ca trù-môn nghệ
thuật truyền thống đặc sắc của dân tộc. Đặc biệt là những đề xuất có giá trị trong công
cuộc bảo vệ ca trù, nhằm đưa ca trù từ vị trí là “Di sản phi vật thể cần được bảo vệ
khẩn cấp” thành di sản “đại diện của nhân loại”.
Như vậy, chúng ta có thể thấy ngay được vấn đề khai thác du lịch đối với nghệ
thuật ca trù đang rất được quan tâm, coi đây như một giải pháp hữu hiệu cho vấn đề
bảo tồn phát huy nghệ thuật ca trù. Và theo tiến trình phát triển, hội nhập chung của
nền văn hóa Việt Nam thì chúng ta thấy rõ việc khai thác nghệ thuật ca trù trong du
lịch là tất yếu, vừa để cộng đồng tiếp cận dễ hơn, vừa giúp cho nghệ thuật ca trù phát
huy hết các giá trị văn hóa của mình.
1.3.2 Những bài học kinh nghiệm trong nước và quốc tế
Vấn đề khai thác các giá trị văn hóa truyền thống trong hoạt động kinh doanh du
lịch đã được các quốc gia trên thế giới áp dụng từ rất sớm và đều mang lại những hiệu
quả kinh tế, văn hóa, xã hội rõ rệt. Tôi có thể điểm ra đây một vài ví dụ tại các quốc
gia có hoạt động du lịch văn hóa sôi động trên thế giới:
+ Tại Trung Quốc
+ Tại Thái Lan
+ Tại Hàn Quốc
16
Tại Việt Nam, các loại hình văn hóa truyền thống, đại diện là các nghệ thuật biểu
diễn truyền thống như múa rối, chèo, quan họ, cải lương, đều đã được nghiên cứu và
đưa vào khai thác kinh doanh du lịch nhằm mục đích bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa.
Như vậy, qua một vài ví dụ nêu trên tại các quốc gia trên thế giới và tại Việt Nam,
chúng ta có thể thấy ngay được bài học kinh nghiệm với vấn đề khai thác kinh doanh
du lịch với các di sản văn hóa truyền thống; với nghệ thuật ca trù cũng không nằm
ngoài các kinh nghiệm được rút ra từ bài học này. Điều này càng khẳng định việc khai
thác các giá trị văn hóa trong hoạt động kinh doanh du lịch là việc làm đúng đắn và tất
yếu hiện nay
1.3.3 Những vấn đề cần được nghiên cứu khi khai thác nghệ thuật ca trù trong du
lịch
Dựa vào bài học kinh nghiệm được rút ra từ việc khai thác các giá trị văn hóa
truyền thống trong kinh doanh dịch tại các quốc gia và tại Việt Nam. Cũng như căn cứ
vào yêu cầu thực tiễn đặt ra hiện nay với nghệ thuật ca trù trong việc bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa, chúng ta cần nghiên cứu thực trạng các vấn đề sau:
- Vấn đề công tác tổ chức quản lý trong khai thác kinh doanh du lịch
- Vấn đề cơ sở vật chất
- Vấn đề nhân lực
- Vấn đề thị trường và du khách
- Vấn đề xúc tiến, quảng bá, marketing
- Vấn đề bảo tồn
- Vấn đề hiệu quả kinh tế - xã hội
Tuy nhiên do năng lực của bản thân và thời gian có hạn, cũng như yêu cầu của đề
tài, tôi lựa chọn các vấn đề cơ bản sau để nghiên cứu thực trạng khai thác kinh doanh
du lịch với nghệ thuật ca trù hiện nay:
- Vấn đề công tác tổ chức quản lý trong khai thác kinh doanh du lịch
- Vấn đề cơ sở vật chất
- Vấn đề nhân lực
- Vấn đề du khách
17
- Vấn đề xúc tiến, quảng bá
Tiểu kết
Nghệ thuật ca trù là một môn nghệ thuật độc đáo, có sức sống mãnh liệt qua thăng
trầm của lịch sử dân tộc. Đến nay, nghệ thuật ca trù đã được thế giới công nhận và
vinh danh, mang lại sức sống mới cho ca trù. Về lịch sử ra đời và phát triển nghệ
thuật ca trù vẫn được các nhà nghiên cứu quan tâm và làm phong phú thêm nguồn tư
liệu chứng tỏ các giá trị văn hóa, nghệ thuật của ca trù. Hiện nay, nghệ thuật ca trù tại
các tỉnh đồng bằng sông Hồng đang dần trở thành một sản phẩm du lịch độc đáo, đậm
đà bản sắc dân tộc thu hút du khách trong và ngoài nước. Và để thấy được thực trạng
của vấn đề này, tôi xin trình bày cụ thể trong chương 2.
Chương 2: THỰC TRẠNG KHAI THÁC CÁC GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT
CA TRÙ VÀO KINH DOANH DU LỊCH
2.1 Công tác tổ chức quản lý
2.1.1 Nhà nước
- Trong các định hướng phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm tới phát
huy các giá trị văn hoá truyền thống nhằm xây dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc.
- Nhà nước đã ban hành và xây dựng các cơ quan quản lý mang tầm vĩ mô với các loại
hình văn hoá
- Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã đề ra và xây dựng những chiến lược cụ thể cho
phát triển nghệ thuật ca trù
2.1.2 Doanh nghiệp
- Nhiều doanh nghiệp du lịch hiện nay đã đặt ra những kế hoạch cụ thể cho công tác
marketing và thực hiện các chương trình du lịch có liên quan tới các giá trị văn hoá
truyền thống nói chung và nghệ thuật ca trù nói riêng
- Doanh nghiệp du lịch đã xây dựng sản phẩm du lịch dựa trên nghệ thuật ca trù và
ngày càng hoàn thiện chúng, nhằm mục đích quản lý chặt chẽ và hiệu quả hơn.
2.1.3 Địa phương
Luôn quan tâm và phát huy các giá trị văn hoá của nghệ thuật ca trù nhằm tạo môi
trường quản lý thuận lợi cho nghệ thuật ca trù đến được với đông đảo người dân
18
2.2 Cơ sở vật chất
2.2.1 Sân khấu chuyên nghiệp
Nhắc đến các sân khấu chuyên nghiệp chuyên phục vụ biểu diễn ca trù cho du
khách và khán giả hiện nay tại miền Bắc chúng ta phải kể đến các câu lạc bộ ca trù
như câu lạc bộ ca trù Thăng Long, câu lạc bộ ca trù Hà Nội và Trung tâm văn hóa ca
trù Thăng Long.
Với câu lạc bộ ca trù Thăng Long thì đến thời điểm hiện tại câu lạc bộ ca trù
Thăng Long đã thiết lập được hai điểm biểu diễn cố định phục vụ cho du khách.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng có thể tìm thấy một sân khấu biểu diễn ca trù chuyên
nghiệp cho du khách tại Hà Nội chính là câu lạc bộ ca trù Hà Nội tại đình Kim Ngân
số 42 Hàng Bạc do nghệ sĩ Bạch Vân sáng lập.
Trung tâm văn hóa ca trù Thăng Long được xây dựng và thành lập bởi công ty cổ
phần đầu tư và thương mại Nguyên Lai - một đơn vì hoạt động trong lĩnh vực văn hóa
nghệ thuật. Trung tâm và địa chỉ đầu tiên và duy nhất hiện nay tổ chức biểu diễn ca trù
chuyên nghiệp với phòng diễn đầy đủ trang thiết bị tiện nghi hiện đại nhưng không làm
mất đi nét văn hóa Việt và không gian trang trọng tôn quý của ca trù
2.2.2 Câu lạc bộ sinh hoạt ca trù
Ngày 6/10, tại Hà Nội, Học viện Âm nhạc quốc gia Việt Nam phối hợp với Cục Di
sản văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) tổ chức họp báo thông tin về Hội nghị
"Đánh giá kết quả kiểm kê di sản văn hóa ca trù 2009 - 2010”. Theo những báo cáo
kết quả kiểm kê tại hội nghị thì thấy được so với số liệu kiểm kê thời điểm lập hồ sơ
trình UNESCO, số lượng câu lạc bộ ca trù tăng hơn gấp đôi, số người biết đàn hát tăng
lên hơn gấp ba.
Bởi theo số liệu thống kê của các nhà nghiên cứu, năm 2004 cả nước có 24 câu lạc
bộ ca trù, năm 2006 chỉ có khoảng 150 đào nương biết hát ca trù và đến giữa năm 2009
có 63 câu lạc bộ với khoảng 769 người (bao gồm 513 đào nương và 256 kép đàn và
người đánh trống chầu) ở 14 tỉnh, thành phố (Hà Nội, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh,
Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Ðịnh, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà
Tĩnh, Quảng Bình, TP. Hồ Chí Minh) có hoạt động thường xuyên và có kế hoạch luyện
tập truyền nghề ca trù.
19
2.2.3 Hội diễn, liên hoan nghệ thuật
Một sân chơi dành cho các nghệ sĩ ca trù rất được mong đợi, đó là các hội diễn,
liên hoan nghệ thuật ca trù. Bởi đây là nơi các nghệ sĩ trên khắp cả nước gặp và trao
đổi kinh nghiệm, chia sẻ những vui buồn trong nghề nghiệp, đúc rút những bài học
trong việc phát triển nghệ thuật ca trù. Tuy nhiên đến nay các hội diễn, liên hoan nghệ
thuật dành riêng cho ca trù chưa nhiều.
2.3 Nhân lực
- Các nghệ nhân chuyên nghiệp:
+ Các nghệ nhân cao tuổi
+ Các nghệ sĩ chuyên nghiệp
+ Các nghệ sĩ trẻ
- Các nghệ nhân không chuyên
- Nhân lực quản lý
- Nhân lực ngành du lịch
2.4 Thị trường và du khách
- Số lượng khách còn rất hạn chế, chưa tạo ra sức hút với đông đảo du khách trong và
ngoài nước do một số nguyên nhân như: những cản trở trong việc cảm nhận nghệ
thuật ca trù, đòi hỏi không gian biểu diễn không cho phép sự tham gia của số lượng
lớn khán giả trong cùng một thời điểm, hoạt động của các câu lạc bộ biểu diễn, và sự
kết nối giữa nhà kinh doanh du lịch và người biểu diễn.
- Nguồn khách:
+ Nhóm khách du lịch trong nước
+ Nhóm khách du lịch nước ngoài
- Nhu cầu, thị hiếu:
+ Về hình thức biểu diễn
+ Về chương trình du lịch
+ Về các vấn đề liên quan khác
2.5 Công tác tuyên truyền quảng bá
+ Về mặt văn hoá:
20
Tuyên truyền dưới góc độ bảo tồn di sản văn hoá đang bị mai một
+ Về mặt du lịch:
Tuyên truyền, marketing dưới góc độ sản phẩm du lịch
2.3 Những nhận xét
2.3.1 Những thuận lợi
- Nghệ thuật ca trù đã dẹp bỏ được những quan niệm sai lầm do nạn đào rượu trước
đây để lại
- Ngày càng có được sự quan tâm, ưu ái của đông đảo người dân, nhà quản lý và nhà
kinh doanh du lịch
- Nghệ thuật ca trù đã tạo được sự chú ý của không chỉ các nhà nghiên cứu văn hoá mà
với cả cộng đồng quốc tế thông qua các chuyến lưu diễn, những nghiên cứu khoa học
và đặc biệt khi UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật cần được bảo vệ khẩn
cấp năm 2009
2.3.2 Những khó khăn
- Bị cạnh tranh với các hình thức biểu diễn hiện đại
- Nhiều doanh nghiệp du lịch khi nghiên cứu sản phẩm du lịch vẫn chưa hiểu hết các
giá trị văn hoá vốn có của nghệ thuật ca trù
- Công tác tuyên truyền quảng bá còn nhiều hạn chế, nhất là khả năng tiếp cận với
cộng đồng quốc tế.
Tiểu kết
Qua các thông tin của chương 2, chúng ta đã thấy được nghệ thuật ca trù đã và đang
được đưa vào khai thác kinh doanh du lịch trong thời gian gần đây và bước đầu đã
mang lại hiệu quả kinh doanh du lịch cũng như trong công tác bảo tồn di sản. Qua đây
cũng thấy được thực trạng của hoạt động du lịch trong khai thác các giá trị của nghệ
thuật ca trù bằng việc nghiên cứu thực trạng số lượng khách du lịch, cơ sở vật chất,
nguồn nhân lực và công tác tuyên truyền quảng bá. Thông qua đây tôi cũng nhận thấy
các vấn đề cần giải quyết trong thời gian tới nhằm nâng cao hiệu quả khai thác.
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ
KHAI THÁC CÁC GIÁ TRỊ VĂN HOÁ CỦA
21
NGHỆ THUẬT CA TRÙ TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
3.1 Căn cứ đề xuất
3.1.1 Căn cứ lý thuyết
- Dựa vào các văn bản về định hướng, chiến lược phát triển văn hoá truyền thống nói
chung và nghệ thuật ca trù nói riêng của các cơ quan quản lý
- Dựa vào các giải pháp đã được đưa ra trong các nghiên cứu về nghệ thuật ca trù
trước đây.
3.1.2 Căn cứ thực tiễn
- Dựa trên những nghiên cứu của học viên về thực trạng khai thác các giá trị của nghệ
thuật ca trù trong khai thác kinh doanh du lịch
3.2 Các giải pháp
3.2.1 Bảo tồn và phát triển nghệ thuật Ca trù
- Việc cần thiết trước tiên đó là tập hợp, lên danh sách các tư liệu, các bài nghiên
cứu có liên quan đến Ca trù ở các lĩnh vực như: khảo cổ học, sử học, âm nhạc học,
Hán Nôm, mĩ thuật, kiến trúc, ngôn ngữ học.
- Cần tìm đến các nghệ nhân, những người hiểu và biết về ca trù; vận động các cụ
nhớ lại những bài hát, mẩu chuyện của ca trù để ghi âm, ghi hình, sao chép bằng văn
bản để tàng trữ lại trong các bảo tàng.
- Việc tổ chức các hội thảo về ca trù để có cái nhìn toàn diện hơn, từ đó đề ra
những biện pháp bảo tồn và phát triển kịp thời, phù hợp.
- Để có thể gìn giữ và đưa nghệ thuật ca trù đến gần với công chúng hơn đòi hỏi
phải có sự hỗ trợ và quan tâm của Nhà nước. Nhà nước cần có chính sách thiết thực,
tạo điều kiện cho việc khôi phục và phát huy nghệ thuật ca trù về địa điểm biểu diễn
hay về mặt kinh phí.
+ Về việc truyền dạy
+ Phát động phong trào học và hát ca trù, mở hội diễn ca trù hàng năm.
+ Hát ca trù được coi là một nghề trong xã hội, được quan tâm một cách thoả đáng;
các nghệ sĩ có thể sống bằng chính nghề của mình.
- Cần đưa hát ca trù trở thành một sản phẩm du lịch độc đáo, rất riêng của Việt
22
Nam vào trong chương trình du lịch, cũng có thể biểu diễn ca trù trong các khách sạn
nhưng phải đảm bảo về chất lượng, tính nguyên vẹn của các bài hát ca trù cũng như về
thời gian, không gian thưởng thức.
3.2.2 Xây dựng môi trường biểu diễn hợp lý
- Lựa chọn địa điểm biểu diễn phải hết sức chú ý về tính đặc thù của loại hình nghệ
thuật này.
- Cần chú ý đến việc sắp xếp chỗ ngồi cho du khách và bục biểu diễn sao cho du
khách có thể quan sát một cách tốt nhất và nghe được rõ nhất.
- Xây dựng đội ngũ các nghệ nhân, nghệ sĩ biểu diễn chuyên nghiệp đảm bảo phục vụ
thường xuyên liên tục.
- Về thời gian biểu diễn, ta có thể đưa ca trù vào loại hình du lịch đêm bởi đây là thời
gian thích hợp nhất để ca trù có thể thể hiện và hấp dẫn đặc biệt đối với những người
thưởng thức.
- Các tiết mục biểu diễn
- Về mặt trang phục và nhạc cụ thì tốt hơn cả vẫn phải là đạo cụ, trang phục truyền
thống.
- Chính sách giá cả
- Có các dịch vụ bổ sung như bán đồ lưu niệm
3.2.3 Đưa nghệ thuật Ca trù vào chương trình du lịch
- Với tư cách là một loại hình văn hoá nghệ thuật truyền thống, ca trù xứng đáng là
một sản phẩm du lịch độc đáo.
- Ca trù có thể coi là một sản phẩm du lịch mới để bổ sung nhằm tăng thêm tính đa
dạng và phong phú cho loại hình du lịch đêm.
3.2.4 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá nghệ thuật ca trù
- Về mặt xúc tiến quảng cáo, chúng ta có nhiều phương thức như phát hành các tập
gấp, những quyển sách nhỏ giới thiệu một cách khái quát nhất về nghệ thuật ca trù,
giới thiệu về chương trình biểu diễn ca trù tại Hà Nội, hay đưa nó vào các chương
trình du lịch và gửi tới các đại lý gửi khách ở một số quốc gia trên thế giới có tiềm lực
về du lịch. Giới thiệu ca trù trên các phương tiện thông tin đại chúng như đài báo, tivi
và cần tăng cường thời lượng phát sóng hơn nữa.
23
- Trang bị vốn kiến thức về nghệ thuật Ca trù cho đội ngũ hướng dẫn viên
- Có thể nói, có rất nhiều hình thức quảng bá cho một sản phẩm du lịch, nhưng cách
quảng cáo tốt nhất vẫn là chính bản thân chất lượng của sản phẩm ấy.
3.2.5 Yêu cầu khi khai thác nghệ thuật Ca trù vào hoạt động du lịch
- Các loại hình nghệ thuật truyền thống đã và đang bị các công ty du lịch lợi dụng
để kinh doanh, kiếm lời, thậm chí làm méo mó và làm mất đi vẻ đẹp cổ truyền vốn đã
được gìn giũ từ bao đời nay.
- Câu trả lời là bảo tồn, phát triển và khai thác thì cần thận trọng và có những giải
pháp bảo đảm phẩm chất vốn có của nó. Đây cũng là yêu cầu lớn nhất khi khai thác
nghệ thuật truyền thống nói chung và nghệ thuật ca trù nói riêng trong hoạt động kinh
doanh du lịch.
Tiểu kết
Đưa nghệ thuật ca trù vào khai thác kinh doanh du lịch là một việc làm rất có ý
nghĩa trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của loại hình văn hóa truyền
thống này. Tuy nhiên để khai thác có hiệu quả và làm tốt công tác bảo tồn, theo tôi
hiện nay cần nhanh chóng tiến hành các giải pháp sau:
Giải pháp bảo tồn và phát triển nghệ thuật ca trù
Giải pháp xây dựng môi trường biểu diễn hợp lý
Giải pháp xây dựng sản phẩm du lịch dựa trên nghệ thuật ca trù
Giải pháp về công tác tuyên truyền quảng bá
Sau khi đã tìm được giải pháp thì cần có sự kiên quyết trong việc thực hiện triệt để
các giải pháp. Hy vọng trong tương lai gần chúng ta thấy những thay đổi tích cực
trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của nghệ thuật ca trù thông qua khai
thác kinh doanh du lịch.
KẾT LUẬN
Nghệ thuật ca trù là một loại hình nghệ thuật có từ lâu đời của Việt Nam. Qua quá
trình phát triển liên tục, từ một lối hát Cửa đình dần trở thành một hình thức ca hát
thính phòng, một thú chơi tao nhã của tầng lớp trí thức ở các tỉnh phía Bắc. Đó là hình
thức ca hát mà trong đó cả người hát, người đàn và người thưởng thức đều tham gia
vào cuộc hát. Họ phối hợp ăn ý cả về ký thuật, hoà đồng về tâm linh, làm cho nét thơ,
24
điệu nhạc hoà quyện với nhau. Họ cùng nhau giãi bày những tâm sự, thể hiện ý
nguyện của mình. Cuộc hát vì vậy không bị tẻ nhạt mà đầy sức lôi cuốn, trang trọng,
lịch lãm. Với các giá trị văn hoá và nghệ thuật đặc sắc, độc đáo của mình, nghệ thuật
ca trù không chỉ đơn thuần là một sản phẩm văn hoá mà còn là một sản phẩm du lịch
đầy tiềm năng cần được khai thác. Đưa ca trù vào hoạt động kinh doanh du lịch không
chỉ nhằm đa dạng hoá các sản phẩm du lịch, mà còn làm phong phú them đời sống văn
hoá tinh thần của người dân. Bên cạnh đó, đưa ca trù vào trong hoạt động kinh doanh
du lịch còn góp phần quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy môn nghệ thuật cổ
truyền này.
Trong luận văn này, học viên đã đi tìm hiểu về nghệ thuật ca trù như tên gọi, lịch
sử phát triển, các giá trị văn hóa của nghệ thuật ca trù. Trong chương 1, tôi cũng tìm
hiểu về quá trình ca trù trở thành di sản văn hóa thế giới khẳng định rõ hơn về các giá
trị văn hóa của loại hình nghệ thuật này. Và bước đầu đặt ra các vấn đề trong việc khai
thác loại hình nghệ thuật ca trù trong kinh doanh du lịch.
Chương 2, tôi bước đầu tìm hiểu về thực trạng khai thác nghệ thuật ca trù trong
kinh doanh du lịch thông qua các khía cạnh: cơ quan tổ chức quản lý, du khách, cơ sở
vật chất, nguồn nhân lực và công tác tuyên truyền quảng bá. Qua đây thấy được những
hiệu quả mang lại từ việc khai thác kinh doanh trong du lịch. Nhưng qua các vấn đề về
thực trạng, tôi cũng nhận thấy những khó khăn, hạn chế còn tồn tại trong quá trình thu
hút du khách.
Chương 3, thông qua các vấn đề nghiên cứu, tôi nhận thấy những tồn tại cần khắc
phục nhằm nâng cao hơn nữa hoạt động khai thác du lịch. Vì vậy tôi xin đưa ra một số
giải pháp cần giải quyết trong thời gian tới như: vấn đề bảo tồn, vấn đề xây dựng môi
trường biểu diễn, vấn đề xây dựng sản phẩm du lịch và vấn đề tuyên truyền quảng bá
cho nghệ thuật ca trù.
Người viết cũng tự nhận thấy, những tìm hiểu và nghiên cứu của bản thân còn sơ
sài, và nhiều hạn chế. Vì vậy học viên rất mong nhận được sự đóng góp của thầy cô,
bạn bè giúp học viên có thể hoàn chỉnh bài luận văn.
References.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
25
1. Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hóa sử cương, NXB TP Hồ Chí Minh, tái bản,
TP Hồ Chí Minh
2. Trần Thị Kim Anh (1999), Lệ thưởng đào của làng Đông Ngạc và các bài văn
thưởng đào, Tạp chí Hán Nôm, số 2, trang 23-26
3. Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục. NXB. TP. Hồ Chí Minh
4. Trường Chinh (1949) Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam, Hội văn nghệ Việt
Nam
5. Nguyễn Xuân Diện (2007), Lịch sử và nghệ thuật Ca trù, NXB Thế Giới, Hà Nội
6. Nguyễn Xuân Diện (2000), Góp phần tìm hiểu lịch sử ca trù, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội
7. Nguyễn Xuân Diện (1995), Vẻ đẹp độc đáo của nghệ thuật Ca trù, Tạp chí Văn
học nghệ thuật, số 10-1995, trang 23-24
8. Nguyễn Xuân Diện (2006), Về lịch sử và sự phát triển của ca trù Việt Nam, Thông
báo khoa học số 16, In trong sách “Đặc khảo ca trù”, Viện Âm nhạc xuất bản, Hà
Nội
9. Phạm Duy (1972), Đặc khảo về âm nhạc Việt Nam, Sài Gòn
10. Nguyễn Văn Đính, Nguyễn Văn Mạnh (1996), Giáo trình tâm lý và nghệ thuật
giao tiếp, ứng xử trong kinh doanh du lịch, NXB Thống Kê, Hà Nội
11. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu về tiến trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội
12. Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ Trọng Huề (1962),Việt Nam ca trù biên khảo, Sài Gòn
13. Phạm Văn Đồng (1994), Văn hóa và đổi mới, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội
14. Dương Quảng Hàm (1950), Việt Nam – Văn học sử yếu, NXB Hội nhà văn, Hà Nội
15. Hồ Hoàng Hoa (1998), Lễ hội một nét đẹp trong văn hóa cộng đồng, NXB Khoa
học Xã hội
16. Phạm Đình Hổ (2003), Vũ trung tùy bút, Trần Thị Kim Anh (dịch), Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội
17. Nguyễn Mạnh Hồng (1991), Cuộc thưởng ca ở Hữu Thanh Oai, Tạp chí Nam
Phong
18. Trịnh Khải (1993), Ca trù – một nền âm nhạc bác học, Tạp chí âm nhạc, số 4,