Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Toàn cầu hóa tác động tới lao động và việc làm Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.15 KB, 42 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Danh mục từ viết tắt
CN,CX CÔNG NGHIỆP,CHẾ
XUẤT
CNKT CÔNG NHÂN KỸ
THUẬT
LĐ LAO ĐỘNG
TCH TOÀN CẦU HÓA
TCTK TỔNG CỤC THỐNG

TCCN TRUNG CẤP CHUYÊN
NGHIỆP

1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Danh mục các bảng
Bảng 1:Cơ cấu vốn đầu tư phân theo thành phần kinh tế từ năm 2001 dến 2008
Nguồn: Lao động đang làm việc hàng năm phân theo thành phần kinh tế
và phân theo ngành kinh tế năm 2008- TCTK
Bảng 2: Lao động chuyên môn kỹ thuật trong khu vực FDI từ năm 2004 đến
2008
Nguồn: Cơ cấu lao động đang làm việc hàng năm phân theo thành phần
kinh tế và phân theo ngành kinh tế
Bảng 3: Tỷ lệ lao động phân theo giới tính và trình độ chuyên môn kỹ thuật năm
2007
Nguồn: Điều tra lao động - việc làm năm 2007 của Bộ Lao động -Thương
binh và Xã hội
Bảng 4 . Tình trạng việc làm của lao động nữ (đơn vị %)
Nguồn: Tổng cục Thống kê (năm 2008)
Bảng 5: Sử dụng lao động theo trình độ chuyên môn kỹ thuật của các loại hình
doanh nghiệp


Nguồn: Điều tra lao động - việc làm năm 2008 Viện khoa học lao động và
các vấn đề xã hội

Bảng 6: Cơ cấu sử dụng lao động một số ngành công nghệ cao và dịch vụ
Nguồn: Điều tra lao động - việc làm năm 2008 Viện khoa học lao động và các
vấn đề xã hội
Bảng 7. Ngân sách chi thường xuyên của nhà nước dành cho giáo dục

Bảng 8:Các chi tiêu tài chính cho đào tạo và dự báo năm 2010
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đề tài:Toàn cầu hóa tác động tới lao động và việc
làm Việt Nam.
Sv thực hiện:Nguyễn Trung Dũng
Mã sv:CQ490407
Lớp :Kinh tế quốc tế 49A
A.Lời nói đầu
Thế giới đang chuyển từ đối đầu sang đối thoại, hoà bình, hợp tác, phát
triển.Quốc tế hoá, toàn cầu hoá đang trở thành xu hướng tất yếu của thời đại.Các
quốc gia dân tộc qua đó có thể giải quyết những vấn đề chung để cùng phát triển.
Tuy nhiên ta cũng nhận ra mặt trái của nó khi một thế giới bao gồm đa dạng các
quốc gia dân tộc, với sự phức tạp, muôn màu của các nền kinh tế, chính trị, văn
hoá-xã hội đang cũng tham gia vào quá trình này.
Trước xu hướng chung của thế giới, quá trình toàn cầu hoá đã mang lại nhiều
cơ hội cho tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội ở nước ta, là một trong những
nhân tố để cơ cấu lại và hiện đại hoá nền kinh tế phát triển nguồn nhân lực, làm
tăng năng suất lao động và cải thiện thu nhập của người lao động. Về cơ bản nước
ta có nền chính trị-xã hội ổn định, được coi là một trong những nơi an toàn cho
đầu tư, hợp tác và giao lưu quốc tế. Tăng trưởng kinh tế đã cải thiện được tình
trạng thu nhập bình quân đầu người quá thấp trước chuyển đổi kinh tế.Và thực

tiễn cho thấy, xu thế toàn cầu hoa không những tác động đến toàn bộ nền kinh tế
mà còn tác động lớn đến các vấn đề về lao động. Các nhân tố của toàn cầu hoá đã
tác động đến mở rộng việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển thị
trường thị trường lao động, tăng thu nhập của người lao động trong nhiều khu
vực, ngành nghề. Năng suất lao động trong nhiều khu vực, ngành đã đạt mức cao
hơn nhiều so với thời kỳ trước đổi mới. Tuy nhiên, toàn cầu hoá cũng đặt ra
những thách thức đối với vấn đề laođộng, việc làm và phát triển nguồn nhân lực
nước ta. Lực lượng lao động qua đào tạo chiếm tỷ lệ còn thấp, chất lượng đào tạo
còn bất cập chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động, đặc biệt là cho các
ngành, lĩnh vực công nghệ cao, các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, các
loại hình dịch vụ hiện đại; tỷ lệ thất nghiệp còn cao; thu nhập của người lao động
con thấp. Lao động Việt Nam còn phải khắc phục những bất cập theo chuẩn mực
lao động của khu vực và quốc tế để có đủ điều kiện tham gia hội nhập. Bên cạnh
đó, quá trình hội nhập cũng đặt ra nhiều vấn đề xã hội của lao động. Vì thế quá
trình hội nhập kinh tế đòi hỏi nước ta phải vượt qua những yếu kém rất cơ bản,yêu
cầu đất nước phải tích cực và chủ động nhiều hơn.Xuất phát từ tình hình thực tế
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trên, em đã chọn đề tài “ Toàn cầu hóa tác động tới lao động và việc làm Việt
Nam.”
1.Mục đích nghiên cứu:
Giúp tìm ra giải pháp,định hướng cho sự phát triển của nguồn nhân lực trong
nước trước xu thế toàn cầu hó.
2.Phương pháp nghiên cứu:
Đề tàichủ yếu sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, kết hợp
với các phương pháp phân tích, thống kê so sánh, đối chiếu tổng hợp,… để làm
sáng tỏ các vấn đề cần nghiên cứu.
3.Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một số lĩnh vực đó là những thuận lợi và khó
khăn mà với lao động Việt Nam gặp phải trong tiến trình toàn cầu hóa.

B.Nội Dung
I. KHÁI QUÁT VỀ TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẤU HOÁ ĐỐI VỚI
LAO ĐỘNG,VIỆC LÀM VIỆT NAM
1. Khái quát chung về tác động của toàn cầu hoá
1.1. Khái niệm về toàn cấu hoá
1.2. Nhận xét chung về tác động của toàn cầu hoá đến lao động ,việc làm thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
2.Tổng quan về tác động của toàn cầu hoá đối với một số vấn đề lớn
trên thị trường lao động Việt Nam.
2.1. Tác động của toàn cầu hoá đối với vấn đề việc làm
2.2. Tác động của toàn cấu hoá đối với vấn đề nguồn nhân lực
2.3. Tác động của toàn cầu hoá đối với vấn đề quan hệ lao động.
II.THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG VN DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA
TOÀN CẦU HOÁ
1.Thực trạng về vấn đề việc làm đối với lao động Việt Nan trong
bối cảnh toàn cầu hoá
1.1.FDI và vấn đề việc làm
1.2. Tham gia các định chế thương mại khu vực, toàn cầu và ảnh hưởng tới việc
làm: Tham gia AFTA, APEC và các hiệp định thương mại khác
1.3. Biến động lao động và thất nghiệp dưới tác động của toàn cầu hoá
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.3.1Biến động lao động trong khu vực doanh nghiệp dưới tác động của toàn
cầu hóa
1..3.2. Vấn đề thất nghiệp dưới tác động của toàn cầu hoá
2.Thực trạng về vấn đề phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
toàn cầu hóa
2.1. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho phù hợp với quá trình chuyển
giao công nghệ
2.2. Vai trò của doanh nghiệp trong đào tạo, bồi dưỡng nhân lực

2.3. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh của lao động
nước ta
2.4.Những bất cập trong việc phát triển nguồn nhân lực VN đáp ứng yêu cầu
toàn cầu hóa
III.GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG VIỆT NAM DƯỚI
TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HOÁ
1.Giải pháp về việc làm và chống thất nghiệp
+) Ổn định nền kinh tế vĩ mô và đào tạo bầu không khí đầu tư lành
mạnh trong toàn xã hội
+)Lựa chọn công nghệ ngoại nhập thích hợp
+) Hoàn thiện các chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài
+) Xây dựng và hoàn thiện các chính sách đối phó với những khả
năng tác động mạnh mẽ của việc thực hiện các quá trình tự do hoá
thương mại.
2.Giải pháp về phát triển nguồn nhân lực
+)Đào tạo nhân lực cho phát triển các lĩnh vực công nghệ cao.
+)Đào tạo nguồn nhân lực cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cải
cách lao động ở nông thôn
+)Đào tạo nhân lực cho xuất khẩu lao động
+)Hoàn thiện các chính sách thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực
3.Giải pháp về chính sách lao động và giải quyết các vấn đề xã hội
của LĐ
+)Hoàn thiện chính sách lao động
+)Chính sách giải quyết các vấn đề xã hội của lao động
IV.KẾT LUẬN
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
I. KHÁI QUÁT VỀ TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẤU HOÁ ĐỐI VỚI
LAO ĐỘNG VIỆT NAM
1. Khái quát chung về tác động của toàn cầu hoá

1.1. Khái niệm về toàn cấu hoá
Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa vào cuối những năm 80 và đầu thập kỷ
90 đã làm biến đổi trật tự hệ thống thế giới. Cũng trong thời điểm chuyển đổi ấy,
khái niệm “toàn cầu hoá” bắt đầu hình thành và được sửdụng một cách phổ biến.
Những quan hệ, liên kết vượt lên trên quốc gia, đôi khi người ta cách điệu thành
“siêu quốc gia”, ấy được gọi là quá trình quốc tế hoá. Đa số bắt nguồn từ cơ sở
kinh tế, nhưng cũng có những quan hệ được dựng lên bởi những tham vọng, lý
tưởng chính trị không có nguồn gốc từ những cơ sở kinh tế – xã hội hiện thực.
Những quốc gia dân tộc đã thực sự trưởng thành đến lúc tham dự một cách có ý
thức vào một quá trình mới, hình thành hệ thống thế giới. Nó mở đường cho sự
hình thành một hệ thống toàn thế giới. Về mặt khái niệm, đó là lúc khái niệm
“quốc tế hoá” được thay thế bởi khái niệm “toàn cầu hoá”
Toàn cầu hoá là quá trình hình thành một chính thể thống nhất toàn thế giới. Đó
là sự ảnh hưởng, tác động, xâm nhập lẫn nhau xuyên biên giới trong các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội, trước hết và chủ yếu là trên lĩnh vực kinh tế, và
vận hành trong một trật tự hệ thống toàn cầu.Toàn cầu hoá có thể được xem xét
như một quá trình lịch sử tự nhiên.
Roland Robertson là người đi đầu trong quan niệm này.Ông gọi nó là quá
trình hội tụ thế giới trên phạm vi rộng, phân biệt với các quá trình trên phạm vi
nhỏ hơn diễn ra trong quốc gia hay địa phương. Hàm ý của R.Robertson là lịch sử
toàn thế giới đi theo một tiến trình hợp nhất, thông qua việc hình thành nên những
thực thể xã hội lớn dần ,mà lớn nhất là thực thể toàn cầu và ngay trong quá trình
hình thành các thực thể trung gian đã hàm chứa quá trình toàn cầu hoá, dưới dạng
manh nha. Ông cho rằng, tiến trình toàn cầu hoá bắt đầu ở Châu Âu đầu thế kỷ
XV. Nó được mở rộng ra ngoài phạm vi Châu Âu từ giữa thế kỷ XVIII. Robertson
phân quá trình này thành hai giai đoạn: từ 1750 đến 1870 là giai đoạn “toàn cầu
hoá phôi thai”, còn từ 1870 đến những năm 1920 như là giai đoạn thiết yếu của sự
“cất cánh” đưa đến sự thiết lập một xã hội toàn cầu. Hai giai đoạn này được xác
định với một hỗn hợp của những sự phát triển chính trị, kinh tế, văn hoá và công
nghệ. Từ cách tiếp cận xã hội học tôn giáo, Robertson vẫn có được một cái nhìn

khá biện chứng về quá trình toàn cầu hoá. Ông không coi nó là quá trình đồng
nhất toàn cầu, mà là sự thâmnhập lẫn nhau giữa cái toàn cầu (the global) và cái địa
phương (the local).Trong kinh doanh, nó thể hiện bằng sự hợp tác toàn cầu đáp
ứng nhu cầu sản phẩm và thị trường của địa phương theo từng hoàn cảnh cụ thể,
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tương thích với sự thay đổi trong nhu cầu tiêu dùng. Từ đó, Robertson đưa ra khái
niệm “glocalization” hay “local globalization” (toàn cầu hoá có tính địa phương.
Tóm lại, toàn cầu hoá kinh tế bao hàm sự lưu chuyển ngày càng tự do hơn và
nhiều hơn hàng hoá, vốn, công nghệ và lao động vượt ra khỏi biên giới quốc
gia .Đó chính là phương thức để giải quyết mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình
phát triển của sức sản xuất, một quá trình làm cân đối cung cầu đối với những yếu
tố đầu vào và đầu ra của sản xuất, bao gồm vốn, công nghệ, quản lý, nhân công và
hàng hoá nhằm tối ưu hoá việc phân bố và sử dụng những yếu tố này trên phạm vi
toàn cầu.
Như vậy, toàn cầu hoá là một quá trình khách quan của xã hội loài người, cả
thế giới chỉ có một quá trình toàn cầu hoá duy nhất đang trải qua các giai đoạn
phát triển khác nhau, mỗi nước - đặt biệt là các nước đang phát triển – không thể
có sự lựa chọn: tẩy chay toàn cầu hoá này hay chỉ tham gia vào toàn cầu hoá kia,
hoặc chờ đợi làn sóng toàn cầu hoá mới nào đó có lợi cho mình. Việt Nam cũng
không là trường hợp ngoại lệ. Tổng thư ký Liên hợp quốc Kofi Anan đã nói “
Những người thua cuộc thực sự trong một thế giới còn rất nhiều bất bình đẳng
ngày nay không phải là những người đã phải đối mặt quá nhiều với toàn cầu hoá
mà là những người bị gạt ra lề của quá trình ấy”. Thủ tướng Phan Văn Khải cũng
không chỉ rõ: “Chúng ta cần cùng nhau tìm ra các biện pháp nhằm tối đa hoá các
mặt tích cực và tối thiểu hoá các mặt tiêu cực của quá trình toàn cầu hoá, đặc biệt
là ngăn chặn sự phát triển của đói nghèo tại các nước đang phát triển vì các nước
này tham gia vào quá trình toàn cầu hoá lànhằm đạt được một sự phát triển ổn
định và bền vững”.
1.2. Nhận xét chung về tác động của toàn cầu hoá đến thị trường lao động

và việc làm thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng
Trong xu thế toàn cầu hoá, do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và
sự bành trướng của các công ty xuyên quốc gia, nhất là tác động vào các nước
đang phát triển, hai xu thế tưởng chừng như trái ngược nhau đang diễn ra đồng
thời , đó là vừa thúc đẩy sự di chuyển lao động, vừa hạn chế dòng di chuyểnnày.
Một mặt, nhu cầu của thị trường lao động ở nhiều nước phát triển và các nước
khan hiếm lao động đã tạo ra một dòng chảy lao động tới những nước này từ
những nước đang phát triển và dư thừa lao động. Mặt khác, sự bành trướng của
các công ty xuyên quốc gia thông qua FDI vào các nước đang phát triển đã trở
thành yếu tố có tác dụng giữ lao động tại chỗ, hạn chế dòng di chuyển lao động
quốc tế, nhưng lại thúc đẩy dòng di chuyển lao động trong nước từ nông thôn ra
thành thị, từ những khu vực kém phát triển tới những địa phương phát triển hơn và
tới những ngành nghề có nhiều cơ hội việc làm và thu nhập cao hơn.
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Xét theo nghĩa rộng đây chính là những hình thức khác nhau của thị trường
lao động quốc tế vì lực lượng lao động làm việc trong các công ty được quản lý
tập trung theo những tiêu chuẩn nhất định, buộc người lao động phải học hỏi nâng
cao trình độ để đáp ứng yêu cầu công việc giống nhau trong các chi nhánh của
công ty tại các quốc gia khác nhau. Lao động tại các quốc gia đang phát triển
được thu hút vào các chi nhánh công ty xuyên quốc gia. Như vậy, thực chất vẫn
có sự dịch chuyển lao động nhưng không vượt qua biên giới quốc gia. Một hình
thức phân công lao động quốc tế và dịch chuyển lao động vô hình nữa là trong
thời đại tin học và Internet này nay, một người vẫn ngồi ở quốc gia mình mà vẫn
có thể làm việc cho một công ty ở quốc gia khác thông qua mạng Internet. Như
vậy, cho dù không có sự di chuyển lao động, trên thực tế lao động vẫn được quốc
tế hoá, có sự phân công và ràng buộc lẫn nhau. Đây là những điểm mới của thị
trường lao động quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay.
Toàn cầu hoá, cùng với những nỗ lực cải cách đi liền với nó, đã làm tăng áp
lực cạnh tranh trên các thị trường sản phẩm. Áp lực cạnh tranh gia tăng đến lượt

mình sẽ làm giảm bớt mức độ định đoạt tiền lương và phân biệt đối xử với lao
động nữ của những người sử dụng lao động.Không chỉ có vậy, nhờ có thương mại
hàng hoá và dịch vụ, nhờ sự chu chuyển về vốn và các luồng di chuyển trên thị
trường, thu nhập từ lao động trong xu hướng dài hạn ở các nước đang phát triển
ngày một tăng.Tác động tích cực của toàn cầu hoá đến tiền lương trước hết được
chỉ ra trong mối liên hệ chặt chẽ giữa tiền lương và năng suất ở trong một quốc
gia. Nhìn chung các nhà kinh tế thừa nhận: Năng suất lao động tăng nhanh hơn ở
những nền kinh tế mở hơn, trong khi đến 90% sự khác biệt về tiền lương được giải
thích bởi sự khác biệt về năng suất lao động. Với chừng mực nhất định, sự di
chuyển các luồng vốn quốc tế có thể làm cho khủng hoảng tài chính dễ xảy ra
hơn, những mất mát về thu nhập do toàn cầu hoá gây nên có thể lớn hơn rất nhiều
so với những gì mà thương mại quốc tế mang lại. Khủng hoàng tài chính nổ ra
làm giảm mức thu nhập từ lao động là do các luồng vốn đã ngày càng tự do di
chuyển , trong khi lao động thì không như vậy. Do vậy, đồng thời với việc “làm
thông thoáng” thị trường lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cần quản
lý kinh tế vĩ mô tốt và thực thi những chính sách tài chính có hiệu quả. Trong khi
tác động ngắn hạn của tự do hoá thương mại đến tiền lương có thể là tiêu cực, thì
tích cực ngắn hạn của đầu tư trực tiếp nước ngoài lại là tích cực. Do vậy, mở cửa
nền kinh tế, tự do di chuyển lao động mà không thu hút được vốn đầu tư nước
ngoài sẽ dẫn đến những mất mát lớn về tiền lương và thu nhập từ lao động. Tại
Việt Nam cũng đang diễn ra những xu hướng tiền lương và dòng dichuyển lao
động khác nhau. Những cơ hội việc làm được tạo ra bởi dòng FDI, nhất là ở
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
những khu công nghiệp và khu chế xuất và sự trả công hấp dẫn hơn đã tạo nên
dòng di chuyển lao động từ vùng nông thôn ra thành thị, từ khu vực nông nghiệp
chuyển đến khu công nghiệp, từ nơi có thu nhập thấp hơn đến khu có thu nhập cao
hơn. Ngoài ra, dòng di chuyển lao động ra nước ngoài làm việc cũng tuân theo
quy luật trên, tức là tới những nơi có cơ hội việc làm nhiều hơn và trả công cao
hơn. Xét về khía cạnh kinh tế, đây là những sự dịch chuyển lao động tuân theo

quy luật thịtrường, làm cho nguồn lực lao động được sử dụng hợp lý hơn, hiệu
quảhơn. Tuy nhiên, sự di chuyển lao động theo quy luật thị trường nhiều khi lại
không phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Thể hiện rõ nhất là sự bất
hợp lý trong việc tập trung quá nhiều lao động có trình độ đại học các đô thị, trong
khi loại hình lao động này lại đang rất thiếu ở những vùng kinh tế khó khăn.
Ngoài ra, khác với sự di chuyển của vốn và hàng hoá, di chuyển lao động là sự di
chuyển con người nên bao giờ cũn phátsinh nhiều vấn đề đòi hỏi có sự can thiệp
và trợ giúp hiệu quả và kịp thời của của Nhà nước. Đây là những thách thức lớn
xét từ góc độ quản lý lao động.
Toàn cầu hoá đang đặt ra những yêu cầu và điều kiện cho việc điều chỉnh cơ cấu
lao động xã hội sao cho có hiệu quả nhất đối với nền kinh tế. Toàn cầu hoá mở ra
khả năng cho các quốc gia phát triển chậm hơn nhanh chóng tham gia vào hệ
thống phân công lao động quốc tế, từ đó hình thành một cơ cấu kinh tế – xã hội có
hiệu quả hơn, đẩy nhanh, rút ngắn tiến trình hiện đại hoá. Xu hướng phân công lao
động quốc tế đang chuyển từ phâncông theo chiều dọc sang phân công lao động
theo chiều ngang , với nội dung của nó là phân công theo bộ phận cấu thành sản
phẩm. Các cơ sở sản xuất ở khắp các nơi trên thế giới tham gia vào sản xuất các
bộ phận, chi tiết, linh kiện theo một quy chuẩn rồi ráp nối với nhau thành sản
phẩm hoàn chỉnh. Về lâu dài, với hình thức phân công này, Việt Nam có thể tham
gia vào công đoạn nào đó của quá trình phân công lao động quốc tếmà đẩy nhanh
tiến trình điều chỉnh kết cấu ngành của nền kinh tế quốc gia như một số quốc gia
trong khu vực, đặc biệt là các “con rồng, con hổ” đã và đang áp dụng. Về chiến
lược phát triển nguồn nhân lực, các nước phát triển thường tập trung vào những
ngành kỹ thuật cao, có tỷ trọng công nghệ cao và vốn cao hơn trong khi các nước
đang phát triển lại tập trung nhiều vào những ngành sử dụng nhiều lao động. Điều
đó cũng phản ánh một bức tranh chung về phân công lao động quốc tế. Tuy nhiên,
trong điều kiện phát triển đan xen hiện nay, một mặt ta tiếp tục phát triển những
ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, mặt khác vẫn có thể đầu tư phát triển
nguồn nhân lực đáp ứng cho những ngành công nghệ cao để đa dạnh hoá cơ cấu
lao động và cơ cấu kinh tế. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực không thể cách

ly, mà luôn phải gắn chặt với chiến lược phát triển kinh tế– xã hội, vừa có tác
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
dụng phục vụ, vừa có tác dụng thúc đẩy chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Đây
cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước trong lĩnh vực quản
lý và phát triển nguồn nhân lực trong tiến trình toàn cầu hoá.Mặc dù toàn cầu hoá
đặt ra nhiều vấn đề nghiêm trọng, với nguy cơ về sựkhông ổn định và gạt ra bên lề
một số nước, kinh nghiệm hiện tại cho thấy toàn cầu hoá mở ra những triển vọng
mới cho hội nhập của các nước đang phát triển vào nền kinh tế thế giới.
1.2.1Những cơ hội mở ra đối với Việt Nam
Toàn cầu hoá đang mở ra những cơ hội chưa từng có cho các nước trên
thếgiới. Nhờ những tiến bộ của công nghệ thông tin và viễn thông mà chi phí giao
dịch giảm đi rất nhiều, khoảng cách về không gian và thời gian giữa các quốc gia
được thu hẹp, tốc độ và điều kiện tiếp cận với tri thức mới được tăng lên. Toàn
cầu hoá làm tăng thêm tính tự chủ của các tác nhân tham gia quá trình này vì làm
tăng cơ hội lựa chọn của họ, Toàn cầu hoá có lợi cho việc thúc đẩy các nhân tố
kinh tế như tiền tệ, kỹ thuật, tri thức, phân bổ hợp lý hoá các nguồn lực, mở rộng
hoạt động thương mại, nâng cao hiệu quả kinh tế, gắn chặt mối liên kết kinh tế ,
kỹ thuật giữa các nước và khu vực. Thị trường thế giới đã trở thành một nguồn
công nghệ và vốn vô cùng lớn lao mà các nước đều có cơ hội để khai thác. Tri
thức của loài người và thông tin toàn cầu được phổ biến rộng rãi mà mọi người
đều có cơ hội tiếp cận.
Đối với nước ta, toàn cầu hoá tạo cơ hội thu hút các nguồn vốn đầu tư nước
ngoài, tiếp thu các công nghệ mới để thúc đẩy phát triển kinh tế. Toàn cầu hoá
thúc đẩy phát triển thương mại và tạo điều kiện cho nước ta tham gia sâu rộng hơn
vào phân công lao động quốc tế nhằm phát huy tốt hơn lợi thế cạnh tranh của nền
kinh tế. Như vậy, với những điều kiện phù hợp, toàn cầu hoá có thể đóng góp
đáng kể vào tăng trưởng kinh tế, xoá đói giảm nghèo và mở ra con đường phát
triển lâu dài bền vững tiến kịp các nước đi trước.
1.2.2Những thách thức lớn đối với Việt Nam

Tuy nhiên cũng cần phải nhấn mạnh rằng, cơ hội, xét về ý nghĩa thực tiễn chỉ
là tiềm năng. Bản thân các cơ hội không mang lại các giá trị cụ thể. Các cơ hội có
thể trở thành hiện thực khi và chỉ khi các điều kiện cần thiết để thực hiện đã được
hội đủ. Tham gia vào quá trình toàn cầu hoá cũng có nghĩa là nước ta cần phải
tuân thủ hàng loạt các yêu cầu để hôị nhập, từ các luật lệ về bản quyền đến các
tiêu chuẩn về ngân hàng. Trong khi đó , rất nhiều chuẩn mực, quy tắc quốc tế
được soạn thảo trong tình hình các nước phát triển giữ vai trò chính. Như vậy, đối
với các nước có trình độ phát triển thấp như nước ta, rủi ro trong vận hành kinh tế
sẽ gia tăng.
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Toàn cầu hoá kinh tế đưa đến nhiều cơ hội lập nghiệp, nhiều cơ hội việc làm,
nhưng kèm theo là đổi mới kỹ thuật nhanh hơn , vòng quay tuổi thọngắn hơn, vốn
lưu thông linh hoạt hơn, sự cạnh tranh nhân lực sâu sắc hơn và tính rủi ro trong
việc làm cũng cao hơn. Những thách thức lớn nhất đối với nước ta hiện nay và
trong tương lai là làm thế nào để vượt qua được những yếu kém của nền kinh tế và
sự tụt hậu của nguồn nhân lực như: Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nói
chung và của từng loại hàng hoá, dịch vụ nói riêng còn thấp hơn nhiều so với các
nước trong khu vực và trên thế giới và về chất lượng, giá cả, mẫu mã...; Cơ sở hạ
tầng (đướng sá, bến cảng, giao thông, thông tin liên lạc, điện nước...) kém phát
triển chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế; Trình độ công nghệ của các
ngành kinh tế rất lạc hậu (đi sau các nước trong khu vực từ 3-5 thế hệ). Việc ứng
dụng công nghệ thông tin vào quản lý và kinh doanh còn ở mức rất thấp; Các thể
chế kinh tế thị trường chưa được thiết lập và phát triển đồng bộ;Chất lượng nguồn
nhân lực còn bất cập. Ngoài trình độ chuyên môn nghiệp vụ, những phẩm chất
khác như ý thức chấp hành kỷ luật lao động và kỷ luật công nghệ, khả năng ngoại
ngữ, tình trạng sức khoẻ... cũng đáng lo ngại;Cơ sở vật chất của hệ thống đào tạo,
dạy nghề nước ta lạc hậu so với trình độ chung của nhiều nước trong khu vực và
trên thế giới. Trong khi khả năng đầu tư cho đào tạo, dạy nghề còn ở mức rất thấp
so với các nước trong khu vực. Xu hướng thương mại hoá giáo dục, đào tạo cản

trở yêu cầu tăng cường giáo dục và đào tạo cho người lao động tại các vùng chậm
phát triển và cho người nghèo .
2.Tổng quan về tác động của toàn cầu hoá đối với một số vấn đề lớn
trên thị trường lao động Việt Nam
Đối với Việt Nam trong gần hai thập kỷ qua, nhiều thay đổi đã và đang diễn ra
dưới những tác động kép. Thứ nhất, đó là những thay đổi do quá trình đổi mới mà
Đảng và nhân dân ta chủ động khởi xướng và thực hiện mang lại. Thứ hai là tác
động của xu hướng toàn cầu hoá. Đường lối đổi mới của Việt nam được thực hiện
trong bối cảnh trên thế giới đang diễn ra xu hướng toàn cầu hoá và yếu tố toàn cầu
hoá được tính đến trong quá trình triển khai đường lối đổi mới. Bởi vậy, chúng ta
cần đánh giá, dự báo đúng những thay đổi đã và có thể diễn ra dưới những tác
động của nhữngyếu tố nội tại trong đường lối đổi mới và những tác động từ bên
ngoài của xu hướng toàn cầu hoá. Nói cách khác, chúng ta cần đánh giá đúng
mức độ và phạm vi tác động của toàn cầu hoá đổi với những thay đổi của Việt
Nam để có những đối sách thích hợp. Trong lĩnh vực lao động – việc làm và các
vấn đề xã hội, có thể khái quátmột số tác động của toàn cầu hoá như sau
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.1. Tác động của toàn cầu hoá đối với vấn đề việc làm
Về tổng thể trên phạm vi toàn cầu, quá trình toàn cầu hoá làm tăng lưu lượng
giao dịch trên cả 3 thị trường là thị trường hàng hoá-dịch vụ, thị trường tài chính
và thị trường lao động. Đối với thị trường lao động thế giới, tổng cầu về lao động,
tức số việc làm mới được tạo ra nhiều hơn, nhưng đi kèm theo đó sẽ là sự dư thừa
lao động cục bộ, tức thất nghiệp do sự cạnh tranh và sự phân bổ lại các nguồn lực
dưới tác động điều chỉnh của thị trường toàn cầu. Như vậy, sự gia tăng của tổng
cầu về lao động và suy giảm cục bộ về lao động chính là hai yếu tố mang đến thời
cơ và thách thức cho mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp trong quá trình toàn cầu
hoá. Trong khi toàn cầu hoá vừa làm mất đi việc làm vừa tạo ra việc làm mới, hai
quá trình này không diễn ra đồng thời. Trong giai đoạn tự do hoá thương mại, và
nói chung hơn là giai đoạn của cải cách kinh tế, tốc độ mất việc làm có thể cao

hơn so với tốc độ tạo việc làm. Những nguyên nhân thường được nêu ra là:
- Do phải sắp xếp lại lao động khi dỡ bỏ những rào cản thương mại, đặt biệt là
trong những ngành được Nhà nước chính thức bảo hộ dựa vào nguồn lao động rẻ
và chất lượng thấp.
- Song song với quá trình trên là việc thu hẹp “đặc quyền” và giảm dư thừa lao
động trong doanh nghiệp Nhà nước cùng các cơ quan hành chính. Quá trình này
làm tăng đáng kể tỷ lệ thất nghiệp trong những năm đầu của “mở cửa”.
Nhưng hội nhập với thị trường thế giới, đẩy mạnh cạnh tranh, cổ phần hoá
doanh nghiệp Nhà nước, bãi bỏ độc quyền trong một số ngành cung cấp dịch vụ
công cộng, cải cách thủ tục hành chính, đặc biệt là chính sách mở cửa thu hút vốn
đầu tư nước ngoài đã gắn liền với việc tạo ra khối lượng công ăn việc làm lớn, mở
rộng thị trường lao động phi nông nghiệp và hướng mạnh vào các ngành xuất
khẩu. Việc làm tạo ra dễ thấy là nhờ đầu tư trực tiếp nước ngoài, cụ thể nhất là
trong các khu công nghiệp và khu chế xuất. Đây chính là những động lực tạo việc
làm mạnh mẽ, bởi lẽ khu vực này không chỉ trực tiếp tạo việc làm mà còn tác
động “lan tỏa” tạo cầu lao động mới và thu hút vào các dự án liên qua. Nhìn
chung, những đánh giá dài hạn và kinh nghiệm hội nhập cho thấy trong cả quá
trình, tốc độ tạo việc làm mới cao hơn nhiều so với tốc độmất việc làm.
Đối với Việt Nam, với tư cách là một nước phát triển, toàn cầu hoá có tác dụng
tích cực trong việc tạo ra việc làm mới trong bốn khu vực: Thứ nhất là khu vực
đầu tư nước ngoài FDI, Thứ hai là các doanh nghiệp sản xuất và chế biến hàng
xuất khẩu, thứ ba là xuất khẩu lao động, và thứ tư là tại các khu vực khác, toàn
cầu hoá đã có ảnh hưởng nhất định tới kích cầu nội địa về hàng hoá-dịch vụ đã có
tác dụng tăng cầu lao động, tức tạo thêm việc làm.
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Theo số liệu thống kê, số lao động làm việc trong khu vực đầu tư nước ngoài
tăng từ 373,7 nghìn người năm 2000 đến 1674,1 nghìn người năm 2008 và ứng
với đó là cơ cấu lao động tăng từ 0.99% đến 3.73%.Hàng triệu lao động được thu
hút vào những ngành nghề sản xuất hàng xuất khẩu, trong đó có những ngành có

tổng kim ngạch xuất khẩu lớn và sử dụng nhiều lao động như dệt may, giày dép,
nuôi trồng và chế biến thuỷ sản, thủ công mỹ nghệ, trồng các loại cây nông nghiệp
và công nghiệp như lúa, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, cao su, cây ăn quả....
Về xuất khẩu lao động, Cục Quản lý lao động ngoài nước cho biết từ đầu năm
2009 đến nay, cả nước đã đưa được 65.787 người đi xuất khẩu lao động, đạt
73,1% kế hoạch. Xét trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, kết quả này thể
hiện sự nỗ lực của đội ngũ làm công tác xuất khẩu lao động. Tuy nhiên, nhiều nhà
phân tích cho rằng, đằng sau các con số là những vấn đề cần mổ xẻ một cách
nghiêm túc, để đánh giá triển vọng một cách chính xác.Nhiều doanh nghiệp xuất
khẩu lao động cho rằng, diễn biến trên thị trường lao động ngoài nước thời gian
qua là khá phức tạp và không sát dự kiến. Ví dụ, khoảng 2 năm trở về trước,
Malaysia là thị trường dẫn đầu về số lượng, tiếp nhận khoảng 35.000 - 40.000 lao
động/năm.Bộ Lao động - Thương binh và xã hội cũng xác định từ năm 2009 trở
về sau, thị trường Trung Đông đóng vai trò trọng điểm, với mục tiêu mỗi năm đưa
được khoảng 25.000 người. Ngoài ra, thị trường Đông Âu (gồm Nga, Czech,
Slovakia, Bulgaria, Romania,...) cũng từng được đặc biệt quan tâm với kỳ vọng
mỗi năm giải quyết việc làm cho hàng chục ngàn người.
Tuy vậy, số liệu tổng kết từ Bộ Lao động - Thương binh và xã hội cho thấy,
năm 2009, Đài Loan là thị trường tiếp nhận nhiều nhất, với 19.577 người lao
động, Hàn Quốc 7.175 người, Nhật Bản 4.959 người. Điều khá bất ngờ, Lào đột
ngột “bứt phá” và vươn lên trở thành thị trường lao động xuất khẩu lớn thứ tư, với
4.580 người. Kế đến là Libya 4.550 người, UAE 3.933 người... Các thị trường
được xác định là trọng điểm trước đây, hoặc cơ bản không còn tồn tại (như Đông
Âu), tiếp nhận lao động nhỏ giọt (như Trung Đông), hoặc thiếu “nguồn” (như
Malaysia).
Ngoài ra, còn phải kể đến hàng chục ngàn lao động bằng cách này cách khác đã
tìm được cách ra nước ngoài làm ăn sinh sống, phần lớn ở các nước Đông Âu và
các nước cộng hoà thuộc Liên Xô cũ, và trong thời gian gần đây là sang Trung
Quốc và Căm Pu Chia. Trong số này có những người làm ăn nghiêm túc, có
những đóng góp cho kinh tế của nước sở tại và tạo thu nhập cho bản thân và gia

đình. Bên cạnh đó, cũng còn những người có những hoạt động vi phạm pháp luật
nước sở tại. Việc di chuyển lao động quốc tế mang tính tự phát này cũng phản ánh
tác động của xu thế toàn cầu hoá. Dòng di chuyển này đang ẩn chứa trong nó cả
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nguy cơ. Một mặt, nó góp phần giải quyết việc làm, tạo cơ hội cho một bộ phận
dân cư. Mặt khác nó cũng kèm theo nhiều hiện tượng xã hội phức tạp, thậm chí tội
phạm. Thu nhập dân cư tăng, giao lưu quốc tế tăng, thông tin trao đổi trong và
ngoài nước đã kích thích nhu cầu tiêu dùng trong nước tăng cả về lượng lẫn về
chất. Đây chính là yếu tố kích thích cầu của thị trường hàng hoá và dịch vụ trong
nước và là tác động gián tiếp của toàn cầu hoá đối với việctạo việc làm trong
nước. Trong hơn hai năm thực hiện Luật doanh nghiệp, đã có hơn 42 ngàn doanh
nghiệp và hơn 300 ngàn hộ kinh doanh mới đăng ký, thu hút thêm vốn đầu tư
tương đương 4 tỷ đô la Mỹ và tạo được khoảng 750 ngàn chỗ làm việc mới. Ngoài
tác động tích cực trong việc tạo việc làm mới, toàn cầu hoá cũng buộc các doanh
nghiệp của Việt Nam phải không ngừng nâng cao tính cạnh tranh, sử dụng hợp lý
và có hiệu quả các nguồn lực, trong đó có nguồn lực lao động. Chính sức ép này
đang tạo ra những thách thức đối với vấn đề việc làm, nhất là trong khu vực kinh
tế quốc doanh. Trước hết, cần khảng định chủ trương tổ chức, sắp xếp lại các
doanh nghiệp Nhà nước là chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm làm cho khu
vực kinh tế Nhà nước làm ăn có hiệu quả hơn, sử dụng hợp lý và kinh tế hơn các
nguồn lực của xã hội. Quá trình sắp xếp , tổ chức lại doanh nghiệp Nhà nước lại
diễn ra trong điều kiện toàn cầu hoá nên nhiều doanh nghiệp chịu sức ép cạnh
tranh hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp từ thị trường quốc tế. Trong thời đại ngày nay,
khó có thể tìm thấy một doanh nghiệp nào mà các yếu tố đầu vào hoặc đầu ra,hoặc
các phần cấu thành nên yếu tố đầu vào không chịu ảnh hưởng của giá cả thi
trường quốc tế. Trong bối cảnh đó, nhiều doanh nghiệp Nhà nước đã bộc lộ yếu
kém trong quản lý và sử dụng nguồn lực, trong đó có nguồn lực lao động. Để đảm
bảo tính hiệu quả và sức cạnh tranh của từng doanh nghiệp và của toàn bộ khu vực
kinh tế Nhà nước, một bộ phận lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp

Nhà nước sẽ thuộc diện dôi dư. Bởi vậy, trong những năm tới, xử lý vấn đề lao
động dôi dư từ các doanh nghiệp Nhà nước đang là vấn đề trọng tâm của ViệtNam
trong lĩnh vực lao động việc làm.
2.2. Tác động của toàn cấu hoá đối với vấn đề nguồn nhân lực
Toàn cầu hoá không chỉ là vấn đề của Quốc gia, khu vực mà là công việc của
từng cá nhân và từng doanh nghiệp, họ là chủ thể chính của quá trình toàn cầu hoá
đang diễn ra trên thế giới. Với cách nhìn này nhiều người còn nói toàn cầu hoá là
một hiện tượng vi mô. Bởi lẽ:
Quá trình toàn cầu hoá hiện nay với nền kinh tế tri thức ngày càng phát triển,
yếu tố con người được phát huy hơn bao giờ hết so với giai đoạn phát triển trước
đây của xã hội loài người. Tính chất toàn cầu hoá trong sản xuất và cạnh tranh của
mỗi quốc gia ngày càng đi vào chiều sâu; sự phát triển của nền kinh tế tri thức với
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
động lực là sự tiến triển vũ bão và không ngừng của khoa học kỹ thuật và công
nghệ ngày càng làm sâu sắc thêm đặc điểm trên, qua đó con người – với tính cách
và trình độ từng cá nhân – ngày càng đóng vaitrò trung tâm trong mọi hoạt động,
mọi quyết định của quá trình sản xuất và cạnh tranh.
Môi trường để con người phát huy vai trò nói trên của mình là doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là người trực tiếp nhất trong đối chọi hay hợp tác với mọi đối tác
trong nền kinh tế toàn cầu hoá- Nhà nước chỉ đứng đằng sau làm hậu thuẫn.
Đương nhiên đến lượt mình, bản thân sự phát triển của mỗi doanh nghiệp lại cũng
do yếu tố con người quyết định. Lao động giản đơn ngày càng giảm ý nghĩa trong
sản xuất và cạnh tranh mang tính toàn cầu, trái lại năng lực và tư chất con người
quyết định biến những cơ hội do môi trường mới mang lại thành những hoạt động
sản xuất thiết thực, mở đường “tiến kịp” các nước đi trước.Toàn cầu hoá càng
phát triển, các thị trường càng được mở rộng, thương mại càng tự do thì sức ép về
tính cạnh tranh càng cao đối với mỗi nền kinh tế, mỗi doanh nghiệp, thậm chí mỗi
cá nhân. Trước đây, giá nhân công rẻ là lợi thế của các nước đang phát triển, trong
đó có Việt Nam, để thu hútvốn đầu tư nước ngoài và xuất khẩu lao động. Nhưng

ngày nay, lợi thế này đang dần mất đi ý nghĩa. Trong bối cảnh khả năng tiếp cận
đối với các thiết bị, máy móc, công nghệ hiện đại của các doanh nghiệp là gần
nhưnhau, yếu tố tạo nên sức cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp, mỗi nền kinh tếchủ
yếu nằm ở yếu tố quản lý và chất lượng nguồn nhân lực. Ngoài ra, yếu tố giá lao
động rẻ chỉ có lợi thế tuyệt đối với những ngành kinh tế sử dụng công nghệ cao
hoặc những ngành sử dụng nhiều vốn. Bởi vậy, việc không ngừng nâng cao tính
cạnh tranh của nguồn nhân lực đang trở thành cuộc chạy đua giữa các doanh
nghiệp, giữa các nền kinh tế. Có thể nói toàn cầu hoá đang tạo ra yêu cầu, động
lực và điều kiện để phát triển nguồn nhân lực, đào tạo và nâng cao tay nghề
chuyên môn kỹ thuật. Đây vừa là điều kiện thuận lợi , vừa là thách thức lớn đối
với Việt Nam trong lĩch vực phát triển nguồn nhân lực. Về mặt thuận, toàn cầu
hoá đã có một số tác động tích cực đối việc nâng cao chất lượng lao động của Việt
Nam.
Thứ nhất, toàn cầu hoá kích thích sự phát triển nhanh chóng củakhoa học
công nghệ đòi hỏi người dân nói chung và lực lượng lao động nói riêng phải
không ngừng nâng cao trình độ cho theo kịp sự phát triển của khoa học, công nghệ
và yêu cầu của công việc, của cuộc sống. Toàn cầu hoá cũng tạo điều kiện cho
người lao động nhanh chóng tiếp nhận được thông tin, tri thức mới, góp phần
nâng cao dân trí. Đây là điều kiện và động lực quan trọng đối với việc nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực.
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thứ hai, đối với số lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp có phương pháp
quản lý tiên tiến, sử dụng công nghệ hiện đại ở trong và ngoài nước, qua quá trình
làm việc họ đã học tập, tiếp thu thêm về tay nghề, năng lực quản lý và tác phong
làm việc. Quá trình hội nhập quốc tế cũng đã làm bộc lộ những hạn chế của lực
lượng lao động của Việt Nam. Cả nước đang chứng kiến một nghịch lý là trong
khi chúng ta thừa lao động trên thị trường lao động thì vẫn thiếu cục bộ đối với
một số ngành nghề đang có nhu cầu tại một số khu chế xuất, khu công nghiệp và
đặc biệt là đối với thị trường lao động ngoài nước. Sức cạnh tranh chưa cao của

lao động nước ta không chỉ thể hiện ở trình độ chuyên môn, tay nghề chưa cao ,
thiếu ngoại ngữ, mà còn ở tinh thần chấp hành kỷ luật, hiểu biết pháp luật còn hạn
chế, văn hoá ứng sử trong công việc chưa phù hợp với tác phong làm việc hiện
đại. Tính cạnh tranh chưa cao của lực lượng lao động Việt Nam tiếp tục là những
thách thức lớn đối với Việt Nam trong quá trình toàn cầu hoá, đòi hỏi chúng ta
phải có những cố gắng lớn hơn trong chiến lược giáo dục và phát triển nguồn nhân
lực cho phù hợp với yêu cầu của thời đại.
2.3. Tác động của toàn cầu hoá đối với vấn đề quan hệ lao động
Dưới tác động của toàn cầu hoá kinh tế cơ chế quan hệ lao động mới được hình
thành. Trong đó, cơ chế thoả ước lao động tập thể (cộng đồng hiệp ước) và hợp
đồng lao động nguyên tắc cơ sở để người lao động và người sử dụng lao động cam
kết thực hiện quan hệ lao động. Thoả ước lao động tập thể và hợp động lao động
được sử dụng rộng rãi trong quan hệ lao động tại các nước kinh tế thị trường trên
thế giới, là căn cứ để bảo vệ người lao động và người sử dụng lao động trước pháp
luật có sự tham gia của đại diện Công đoàn, Nghiệp đoàn.Nhà nước thực hiện việc
điều chỉnh quan hệ lao động thông qua Bộ luật lao động và các văn bản pháp luật
hướng dẫn áp dụng Bộ luật lao động. Cơ chế quan hệ lao động mới bao hàm việc
trao quyền tự chủ hoàn toàn cho người sử dụng lao động trong tuyển dụng, sử
dụng, trả lương (trảcông) và kết thúc hợp đồng đối với người lao động trên cơ sở
tuân thủ các quy định pháp luật lao động, bảo vệ các lợi ích của người lao động và
của người sử dụng lao động. Dưới tác động của toàn cầu hoá kinh tế với sự phát
triển của nhiều loại hình doanh nghiệp, quan hệ lao động có những đặc trưng
riêng. Đó là quan hệ lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hoá, hợp tác xã
kiểu mới, doanh nghiệp FDI. Nhà nước đã có một số quy định riêng đối với quan
hệ lao động trong các doanh nghiệp loại này; đặc biệt là về tiền lương tối thiểu, cổ
phần của các cổ đông, các quyền lợi vật chất khác của người lao động... Phù hợp
với quan hệ lao động mới, quyền đình công của người lao động được luật pháp lao
động quy định. Cơ chế giải quyết tranh chấp lao động mang tính phổ biến của các
nước trên thế giới được hình thành (hệ thống hoà giải lao động, toà án lao động...).
16

×