Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Chuyên đề tốt nghiệp phương hướng hoàn thiện công tác giám sát từ xa của bảo hiểm tiền gửi việt nam chi nhánh khu vực hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (717.36 KB, 68 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Sau nhiều năm thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế và vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế đã được phát triển và cải thiện đáng kể. Để có
thể nhanh chóng vượt qua được ngưỡng một nước nghèo, Việt Nam cần thúc
đẩy phát triển kinh tế ở tốc độ cao và bền vững trong nhiều năm tới. Tổ chức
có hiệu quả hoạt động bảo hiểm tiền gửi nhằm góp phần kiểm sốt rủi ro
trong hoạt động ngân hàng, đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người gửi tiền,
tạo điều kiện huy động tối đa nguồn lực trong nước cho đầu tư phát triển là
một trong các giải pháp hướng tới mục tiêu đó.
Hoạt động bảo hiểm tiền gửi có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới
hầu hết mọi thành viên của nền kinh tế thông qua các tác động và hiệu quả
của hoạt động này đối với người gửi tiền và hệ thống tài chính của quốc gia.
Mức độ phổ cập thơng tin về bản chất, tiện ích, vai trị, cơ chế hoạt động bảo
hiểm tiền gửi v.v... đóng vai trị quan trọng và có tính quyết định tới hiệu quả
của hoạt động này. Hơn nữa, hoạt động bảo hiểm tiền gửi mới được triển khai
phổ biến ở Việt Nam được năm năm. Nhận thức và khẳng định giá trị của
hoạt động này cũng như việc thiết lập mơ hình, cơ chế vận hành nó cịn cần
được tiếp cận đầy đủ, tồn diện hơn để có định hướng phát triển phù hợp với
tốc độ phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam và lộ trình hội nhập của
đất nước.
Với vai trị quan trọng của BHTG như vậy, sau một thời gian thực tập
ở BHTG VN chi nhánh Hà Nội, được sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo
PGS.TS Hồ Sỹ Sà và sự giúp đỡ của các anh chị phòng giám sát từ xa nên
em đã chọn đề tài: "Phương hướng hoàn thiện công tác giám sát từ xa của
BHTG VN chi nhánh khu vực Hà Nội" làm nội dung nghiên cứu trong
Chuyên đề thực tập của mình.
Kính mong thầy giáo xem xét và góp ý để em hồn thành chun đề
thực tập tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Nguyễn Thị Tâm




PHẦN 1: CƠ SƠ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BHTG.
I-

SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA BHTG.

1.

Vai trò, chức năng của BHTG.

Để tìm hiểu chức năng, vai trị của BHTG, trước hết cần phải hiểu thế
nào là BHTG. Theo định nghĩa, BHTG là cam kết công khai của tổ chức
BHTG đối với tổ chức tham gia BHTG về việc tổ chức BHTG sẽ trả tiền gửi
bao gồm phần gốc và lãi cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia BHTG bị
chấm dứt hoạt động và khơng có khả năng thanh tốn cho người gửi tiền.
Hoạt động BHTG là hoạt động cung cấp dịch vụ BHTG. Trong thực tế,
BHTG thể hiện được rất rõ bốn chức năng sau:
- Bảo vệ người gửi ít tiền, đối tượng mà có những hạn chế nhất định
trong tiếp cận thơng tin về điều hành và tình hình hoạt động của các tổ chức
tài chính.
- Góp phần đảm bảo cho hệ thống tài chính ổn định và tạo điều kiện cho các
giao dịch tài chính có hiệu quả hơn bằng cách phòng tránh đổ vỡ ngân hàng.
- Góp phần xây dựng một thị trường có tính cạnh tranh và bình đẳng cho
các tổ chức tài chính có qui mơ và trình độ phát triển khác nhau.
- Qui định rõ trách nhịêm và quyền của người gửi tiền, tổ chức tài chính,
chính phủ và giảm thiểu gánh nặng tài chính cho người đóng thuế trong
trường hợp có ngân hàng đổ bể.
Từ những chức năng cơ bản đó mà vai trị của hoạt động BHTG đối với
quốc gia có thể biểu hiện trên nhiều góc độ. Vai trị nổi bật của hoạt động

BHTG là thúc đẩy sự kết hợp hài hoà giữa nổ lực nâng cao chất lượng hoạt
động ngân hàng hướng tới thu hút được tối đa nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi
trong cộng đồng và sự cộng tác tích cực của các thành viên trong xã hội trên
cơ sở các bên cùng có lợi, từ đó tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế vững
chắc. Như vậy, vai trò của hoạt động BHTG đối với quốc gia được phản ánh
gián tiếp qua vai trò của hệ thống ngân hàng cuẩ quốc gia đó, được thể hiện
qua ba mặt:
- Góp phần củng cố niềm tin của cơng chúng đối với hệ thống ngân hàng.
- Góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống ngân hàng của quốc gia
phát triển.


- Góp phần thúc đẩy huy động tiết kiệm phục vụ đầu tư phát triển bền vững.
2.

Sự cần thiết khách quan của BHTG.

Tín dụng là một trong những hoạt động kinh tế phát triển khá mạnh mẽ
và đem lại lợi nhuận rất cao. Tuy nhiên, bên cạnh đó thì những rủi ro tín dụng
có thể xảy ra ở bất cứ lúc nào, gây tổn thất cho các tổ chức tín dụng như mất
mát, thiệt hại về tài sản, thu nhập ... làm cho quỹ tín dụng bị thua lỗ, thậm chí
bị phá sản.
Rủi ro tín dụng xảy ra có thể do nhiều nguyên nhân:
- Do môi trường kinh tế chưa ổn định làm cho một số doanh nghiệp
không đứng vững trên thị trường;
- Do quản lý Nhà nước còn sơ hở, tạo điều kiện cho một số cá nhân,
doanh nghiệp có hành vi lừa đảo;
- Do trình độ quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp còn hạn chế.. .
Cùng với những nguyên nhân trên, khách hàng cũng góp phần tạo ra
những rủi ro tín dụng. Chẳng hạn: Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, sản

xuất kinh doanh thua lỗ; hoặc người vay cố tình khơng trả nợ; hoặc tài sản thế
chấp, giấy tờ pháp lý của khách hàng khơng đảm bảo.
Bản thân các tổ chức tín dụng cũng gây ra những rủi ro như: Không
chấp hành nghiêm túc các thể lệ tín dụng và vi phạm q trình xét duyệt cho
vay; Không kiểm tra được việc sử dụng vốn của người vay; Quá chú trọng về
lợi nhuận, đặt tiêu chuẩn lợi nhuận lên trên các nguyên tắc.
Ngoài ra cịn có ngun nhân khác tác động đến rủi ro tín dụng như có
sự thay đổi, điều chỉnh về chính trị, chính sách, chế độ, luật pháp của Nhà
nước, thay đổi địa giới hành chính của các địa phương.. .
Những rủi ro tín dụng xảy ra có thể để lại hậu quả khôn lường.
- Đối với nền kinh tế: Hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng có
liên quan trức tiếp đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân, các tổ chức, các doanh
nghiệp, người gửi tiền. Nếu có rủi ro gây thiệt hại lớn hoặc làm phá sản một
vài tổ chức tín dụng sẽ tạo ra tâm lý không an tâm đối với nhân dân, họ đua
nhau rút tiền làm phá sản hàng loạt ngân hàng và tổ chức tín dụng, làm cho
nhiều doanh nghiệp mất vốn và ảnh hưởng đến nền kinh tế nói chung.


- Đối với ngân hàng và các tổ chức tín dụng: Rủi ro tín dụng ảnh hưởng
trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của họ như: Giảm lợi nhuận, thua lỗ hoặc
mất khả năng chi trả.
- Đối với khách hàng: Có thể mất vốn dẫn đến khó khăn trong sản xuất
kinh doanh.. .
Để đối phó với những rủi ro tổn thất không lường trước được do các rủi
ro gây ra, có rất nhiều biện pháp khác nhau nhưng biện pháp tốt nhất là bảo
hiểm, nghĩa là chuyển những rủi ro mà mình có thể gặp phải cho các tổ chức
Bảo hiểm.
Bảo hiểm tiền gửi đã ra đời nhằm bảo đảm an toàn tiền gửi cho những
người gửi tiền tại các tổ chức tham gia tiền gửi; góp phần duy trì sự ổn định
của các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động

của ngân hàng và các tổ chức tín dụng.
3.

Q trình hình thành phát triển của BHTG ở Việt Nam.

Cùng với công cuộc đổi mới của đất nước bắt đầu vào năm 1986, Hệ
thống Ngân hàng Việt Nam đã triển khai kế hoạch đổi mới từ năm 1988.
Trong giai đoạn này, ngân hàng đối mặt với một thực tế đầy thách thức: lạm
phát phi mã, lòng tin của người dân đối với ngân hàng đang bị giảm sủt
nghiêm trọng. Một trong những nhiệm vụ đặt ra cho Hệ thống Ngân hàng
trong thời kỳ đầu của đổi mới là kiểm chế lạm phát, củng cố niềm tin của dân
chúng đối với Hệ thống Ngân hàng Việt Nam.
Rút kinh nghiệm sau hậu quả hàng loạt hợp tác xã tín dụng nơng thơn
và quĩ tín dụng đơ thị trên tồn quốc bị đổ vỡ dây chuyền trong những năm
1988_1990, khi triển khai thí điểm mơ hình Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND)
theo Quyết định số 390/QĐ-TTg ngày 27/7/1993 của Thủ tướng Chính phủ,
quy tắc bảo hiểm trách nhiệm của QTDND đối với các khoản tiển gửi có kỳ
hạn đã được ban hành (kèm theo Quyết định số 101/TCQĐ-BH ngày
1/2/1994 của Bộ Tài chính). Theo quyết định này, Bảo Việt đã triển khai
nghiệp vụ BHTG, đây là sự khởi đầu hoạt động BHTG công khai ở Việt Nam.
Hoạt động BHTG do Bảo Việt thực hiện phát triển chậm và bộc lộ
nhiều hạn chế. Tính đến năm 1995 chỉ có 162 QTDND tham gia BHTG, tiền
gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm chiếm 33,22% tổng số dư tiển gửi tại các
QTDND và chỉ chiếm 0.2% tổng số dư tiền gửi trong cả nước tại thời điểm


đó. Đến cuối năm 1996, có 300 QTDND tham gia BHTG, cuối q I/1997 có
370 QTDND tham gia với số tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm là 322 tỷ
VND. Có thể nói, hoạt động BHTG do Bảo Việt thực hiện mới chỉ triển khai
được với một số lượng rất nhỏ khách hàng là đơn vị có huy động tiền gửi ( chỉ

có một số QTDND tham gia, cịn các loại hình có huy động tiền gửi khác
khơng tham gia BHTG)
Hạn chế của hoạt động BHTG do Bảo Việt thực hiện trong thời gian
này chủ yếu là không đảm bảo các yếu tố quyết định thành công đối với hoạt
động này trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
Sau quá trình thực hiện đổi mới, hoạt động ngân hàng ở Việt Nam đạt
được trình độ phát triển nhất định. Số lượng các đơn vị tham gia kinh doanh
ngân hàng cũng tăng lên nhiều. Hoạt động ngân hàng dần thể hiện tính thị
trường. Tính cạnh tranh trong huy động tiền gửi và cho vay là vấn đề bức bách
đối với các đối tác tham gia trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ và tín dụng.
Yếu tố rủi ro trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng ngày càng trở nên
phức tạp và cần có giải pháp phịng ngừa kịp thời. Cuộc khủng hoảng tài chính,
tiền tệ ở khu vực từ đầu năm 1997 phần nào đã có ảnh hưởng tới hoạt động của
hệ thống Ngân hàng Việt Nam, đặc biệt là các ngân hàng đầu tư vào các dự án
liên doanh hoặc xuất nhập khẩu. Hơn nữa, xu thế hội nhập trong khu vực và
trên thế giới mang lại cơ hội cho các ngân hàng Việt Nam đồng thời cũng phát
sinh nhiều thách thức và rủi ro ở mức cao hơn. Cùng với tốc độ mở cửa ngày
càng tăng, sự tác động đối với thị trường huy động vốn và tiêu thụ vốn trong
nước cũng sẽ chịu tác động trực tiếp của những thay đổi, biến động của thị
trường tài chính và tiền tệ tại các nước trong khu vực và trên thế giới.
Đồng thời, khoản 1, Điều 17, Luật các tổ chức tín dụng ban hành năm
1997 quy định: Tổ chức tín dụng có trách nhiệm tham gia tổ chức bảo toàn
hoặc Bảo hiểm tiền gửi . Để bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. Điều đó đặt
ra nhu cầu cần thành lập tổ chức Bảo hiểm tiền gửi hoặc Bảo hiểm tiền gửi
theo đúng nghĩa của nó vào thời điểm này.
Trước bối cảnh đó, ngày 1/9/1999 Chính phủ đã ban hành nghị định số
89/1999 NĐ-CP về Bảo hiểm tiền gửi. Ngày 9/11/1999 Thủ tướng chính phủ ban
hành quyết định số 218/1999 QĐ-TTg thành lập Bảo hiểm tiền gửi. Ngày
7/7/2000 Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam chính thức khai trương và đi vào hoạt động.



Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là tổ chức nhà nước, có tư cách pháp nhân,
hạch tốn độc lập, có tài sản và con dấu riêng. Hoạt động theo điều lệ do Thủ
tướng chính phủ phê duyệt hoạt động khộng vì mục tiêu lợi nhuận. Chế độ
tiền gửi cũng do Thủ tướng chính phủ quy định trên cơ sở đề nghị của ban tổ
chức và ý kiến của Ngân hàng Nhà Nước. Vốn điều lệ là 1000 tỷ đồng do
ngân sách nhà nước cung cấp với nguồn vốn bổ sung từ phí bảo hiểm hàng
năm và các nguồn vốn khác. Phí bảo hiểm được tính theo quý và được nộp
vào ngày cuối tháng của quý với tỷ lệ là 0.15%/năm. Nguồn vốn hình thành từ
quỹ này tổ chức Bảo hiểm tiền gửi sẽ sử dụng cho việc hỗ trợ khi có tổ chức
tín dụng nào gặp khó khăn, chi trả bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm nào xảy
ra và phần vốn nhàn rỗi được mang đi đầu tư theo luật định.
Như vậy, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã đi vào hoạt động được hơn 6
năm. Bốn năm qua Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã thể hiện được vai trị của
mình trong việc bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, góp phần đảm bảo an
tồn lành mạnh cho hệ thống ngân hàng từ đó góp phần ổn định xã hội.
II-

NỘI DUNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM.

1.

Đối tượng bảo hiểm.

*Tổ chức tham gia BHTG là các ngân hàng và các tổ chức tài chính
phi ngân hàng có hoạt động huy động tiền gửi. Các tổ chức này khi được
tham gia BHTG có trách nhiệm đóng góp tài chính cho tổ chức BHTG và
được quyền u cầu tổ chức BHTG chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền
tại tổ chức đó trong trường hợp tổ chức này mất khả năng thanh toán và bị cơ
quan có thẩm quyền chấm dứt hoạt động.

Tham gia BHTGVN là quy định bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng
và tổ chức khơng phải là tổ chức tín dụng được phép thực hiện một số hoạt
động ngân hàng theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng có nhận tiền gửi
của cá nhân. Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định
của Luật các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật để hoạt
động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và
sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh tốn. Tính đến
cuối năm 2000 có 1033 tổ chức tham gia BHTGVN, gồm các loại hình sau:


Ngân hàng thương mại Nhà nước



Ngân hàng thương mại cổ phần;




Ngân hàng liên doanh;



Chi nhánh ngân hàng nước ngồi;



Cơng ty tài chính;




Cơng ty cho th tài chính;



Quỹ tín dụng nhân dân;

Trên lãnh thổ Việt Nam có các tổ chức huy động tiền gửi cá nhân,
nhưng chưa có quy định hoặc được quy định không thuộc đối tượng bắt buộc
tham gia BHTG. Đó là tổ chức huy động tiền tiết kiệm bưu điện; tổ chức huy
động tiền gửi của các hội phụ nữ, hội nông dân v.v.. , Quỹ hỗ trợ phát triển
Việt nam, Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam.
Theo kinh nghiệm của các nước có hoạt động BHTG, các chi nhánh
ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam cũng thuộc đối tượng bắt buộc
tham gia BHTGVN. Một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam
này đã và đang tham gia BHTG ở chính quốc.
* Đối tượng bảo hiểm.
Điều 23 của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999 của Chính
phủ về BHTG quy định.
Tiền gửi được bảo hiểm là đồng Việt Nam của các cá nhân tổ chức
tham gia BHTG.
Thông tư số 03/2000/TT-NHNN5 ngày 26/3/2000 của Ngân hàng Nhà
nước hướng dẫn thực hiện nghị định số 89/1999/NĐ-CP, hướng dẫn cụ thể
hơn về đối tượng tiền gửi được bảo hiểm gồm:
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và có kỳ hạn.
- Tiền gửi tiết kiệm khơng kỳ hạn và có kỳ hạn gồm cả tiền gửi trên tài
khoản cá nhân.
- Tiền mua các chứng chỉ tiền gửi và các trái phiếu ghi danh cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cho phép tổ chức tham gia bảo hiểm tiểm gửi phát hành.
BHTGVN không bảo hiểm đối với các loại chứng chỉ tiền gửi và trái

phiếu vô danh do tổ chức tham gia BHTG phát hành.
2.

Phạm vi bảo hiểm.

2.1. Các rủi ro được bảo hiểm.
Trong BHTGVN, các rủi ro sau đây được bảo hiểm.


a. Sự phá sản của tổ chức tín dụng.
Phá sản là trường hợp tổ chức tín dụng khơng thể trả nợ một cách đầy
đủ hoặc quỹ tín dụng khơng thể tiếp tục kinh doanh vì thiếu vốn. Trong
trường hợp này, các công việc kinh doanh của tổ chức phải được giao cho ban
thanh lý tài sản xử lý các tài sản còn lại theo đứng quy định pháp lý về phá
sản của nhà nước.
b. Sự giải thể bắt buộc của tổ chức tín dụng.
Giải thể bắt buộc là do khơng tuân thủ các quy tắc, luật lệ của Nhà
nước hoặc có thể do chủ nợ đề nghị tồ án ra lệnh tun bố giải thể vì tổ chức
tín dụng từ chối thanh tốn và chỉ có cách này mới hy vọng thu hồi được tiền.
c. Phải chấp hành lệnh thanh lý vì một lý do khác với việc phá sản hay
mất khả năng thanh tốn của tổ chức tín dụng.
Trường hợp này xảy ra khi cơ quan có thẩm quyền xét thấy quỹ mặc
dù vẫn có khả năng thanh tốn nhưng khơng đúng mục đích đã đề ra, khơng
muốn tồ án can thiệp mà quyết định thanh lý quỹ không cho hoạt động tiếp.
Trong trường hợp này, bảo hiểm sẽ giải quyết bồi thường cho những người
gửi tiền nhưng sẽ được thế quyền để được hưởng số tiền thanh lý tài sản hay
đòi nợ.
d. Giải thể tự nguyện do bị đặt trong tình trạng có nguy cơ dẫn đến phá
sản của tổ chức tín dụng.
Tình trạng có nguy cơ dẫn đến phá sản của tổ chức tín dụng là tình trạng

tổ chức tín dụng bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh hoặc gặp khó khăn khi
đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh tốn
nợ đến hạn. Tuy nhiên, khơng muốn tồ án can thiệp, các cổ đơng của tổ chức
tín dụng chấp nhận tuyên bố giải thể. Trong trường hợp này, bảo hiểm cũng
có trách nhiệm bồi thường đối với các khoản tiền gửi có kỳ hạn mà tổ chức tín
dụng khơng thanh tốn hết sau khi có quyết định giải thể.
e. Khơng thể thực hiện việc thanh tốn cho những người gửi tiền vì
một mệnh lệnh của tồ án đối với tổ chức tín dụng.
Xảy ra trong trường hợp tổ chức tín dụng cố ý khơng thanh tốn nợ và
chủ nợ đệ đơn lên tồ án để có lệnh bắt buộc quỹ phải tuyên bố phá sản hay
thanh lý để trả nợ các chủ nợ cho rằng chỉ có cách này họ mới thu được các
khoản nợ.


2.2. Các rủi ro loại trừ.
Những rủi ro loại trừ (không thuộc phạm vi bảo hiểm) là những rủi ro gây ra
sự phá sản, thanh lý hay giải thể một tổ chức tín dụng trong các trường hợp:
- Vi phạm nghiêm trọng các quy định về tiền tệ tín dụng, thanh toán đã
nêu trong pháp lệnh ngân hàng của tổ chức tín dụng .
- Giải thể tự nguyện vì ngun nhân: Do cổ đông nhận thực thấy mục
tiêu khi thành lập tổ chức tín dụng khơng đạt được. Và do cổ đơng muốn thu
hồi lại vốn hoặc có nhu cầu cải tổ lại cơ cấu của tổ chức tín dụng.
- Tổ chức tín dụng ngừng hoạt động vì chiến tranh, đình cơng, bạo loạn
dân sự, nội chiến.
Đây là những rủi ro loại trừ không thông thường, không liên quan đến
hoạt động kinh doanh tiền tệ. Khi tổ chức tín dụng bị phá sản, thanh lý, giải
thể do các rủi ro này bảo hiểm cũng không chịu trách nhiệm bồi thường cho
những người gửi tiền.
3.


Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm.

3.1. Số tiền bảo hiểm.
Số tiền bảo hiểm là số dư tiền gửi trong báo cáo số dư tiền gửi mỗi quý
của tổ chức tín dụng.
3.2. Phí bảo hiểm.
Phí bảo hiểm là số tiền tổ chức tín dụng phải trả cho công ty bảo hiểm
để công ty bảo hiểm nhận bảo hiểm số dư tiền gửi của tổ chức tại thời điểm
cuối mỗi quý.
*.Cơ sở pháp lý cho việc nộp phí BHTG.
- Nghị định 89/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999 của Chính phủ về BHTG.
- Thông tư 03/2000/TT-NHNN ngày 16/3/2000 hướng dẫn thi hành Nghị
định số 89/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999 của Chính phủ về BHTG.
- Quyết định 1077/2001/QĐ-NHNN ngày 27/8/2001 về việc sửa đổi, bổ
sung một số nội dung tại thông tư 03/2000/TT-NHNN ngày 16/3/2000 của
Ngân hàng nhà nước.
*. Cách tính phí BHTG phải nộp mỗi kỳ đối với tổ chức tham gia bảo hiểm.


Phí BHTG được tính và nộp làm bốn kỳ trong một năm theo các quý
và được nộp vào tài khoản của BHTGVN chậm nhất vào ngày 20 tháng đầu
tiên của quý thu phí BHTG.
Cơ sở tính phí BHTG là số dư các loại tiền gửi thuộc đối tượng bảo
hiểm của quý trước sát với quý thu phí BHTG.
Đối với tổ chức được cấp giấy phép thành lập và hoạt động hoặc giấy
phép hoạt động hoặc giấy phép mở chi nhánh (đối với chi nhánh ngân hàng
nước ngồi) sau ngày Thơng tư này có hiệu lực thì việc nộp phí BHTG kỳ đầu
tiên được thực hiện theo hướng dẫn của BHTGVN tại Công văn số 652/CVBHTG, ngày 12/12/2003 của Tổng Giám đốc BHTGVN .
Số phí BHTG phải nộp cho mỗi quý tính bằng cơng thức sau đây:


S0 + S 3
+ S1 + S 2
0,15
2
P=
×
3
100 × 4
Trong đó :
P: là số phí bảo hiểm tiền gửi phải nộp trong quý.
So : là số dư tiền gửi thuộc đối tượng bảo hiểm đầu tháng thứ nhất của
quý trước sát với quý thu phí BHTG.
S1, S2, S3: Là số dư tiền gửi thuộc đối tượng bảo hiểm ở cuối các tháng
thứ nhất, thứ hai, thứ ba của quý trước sát với quý thu phí BHTG

0,15
: Là tỷ lệ phí BHTG phải nộp cho một q trong năm.
100 × 4
Số phí BHTG phải nộp được tính làm trịn đến đơn vị nghìn đồng.
Đối với các tổ chức tham gia BHTG có số phí Bảo hiểm tiền gửi bình
qn phải nộp tính được cho một q nhỏ hơn 500.000đ thì việc nộp phí
BHTG được thực hiện theo hướng dẫn của BHTGVN tại Công văn số
220/CV-BHTG, ngày 6/9/2001 và Công văn số 22/CV-BHTG, ngày
5/2/2002.
4.

Số tiền chi trả bồi thường.

Khi tổ chức tham gia BHTG bị phá sản hoặc bị đình chỉ hoạt động và
mất khả năng thanh tốn, tổ chức tham gia BHTG làm thủ tục trình BHTGVN

để được chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo
hiểm tại tổ chức đó. Theo đó, BHTGVN có trách nhiệm niêm yết thơng báo


cũng như danh sách những người gửi tiền được chi trả tại trụ sở chính và chi
nhánh tổ chức tham gia BHTG bị tuyên bố chấm dứt hoạt động và tại trụ sở
chính, chi nhánh, văn phịng đại diện của BHTGVN.
Sau khi hồn tất các thủ tục, trong vịng 15 ngày BHTGVN tiến hành
việc chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền tại các địa điểm mà người gửi
tiền đã đăng ký. Việc chi trả được tiến hành như sau:
- Mức tiền tối đa mà một người gửi tiền tại một tổ chức tham gia BHTG
được BHTGVN trả là 30 triệu đồng ( gồm cả gốc và lãi).
- Người có tổng số tiền gửi ( gồm cả gốc và lãi) tại một tổ chức tham gia
BHTG bằng hoặc nhỏ hơn 30 triệu đồng sẽ được BHTGVN trả đủ 100%.
Người gửi tiền có tổng số tiền gửi (gồm cả gốc và lãi) lớn hơn 30 triệu đồng
tại một tổ chức tham gia BHTG thì phần vượt so với quy định trên đây sẽ
được hồn trả trong q trình thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG bị
phá sản phù hợp với quy định của pháp luật về phá sản doanh nghiệp
- Trong trường hợp người có nghĩa vụ nợ đối với tổ chức tham gia
BHTG tuyên bố chấm dứt hoạt động và mất khả năng thanh toán, việc chi trả
tiền bảo hiểm được thực hiện sau khi đã trừ các khoản nợ của người gửi tiền
theo đề nghị của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
5.

Nguyên tắc và quy trình chi trả.


Ngun tắc:

Tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng VNĐ của các cá nhân và

được thể hiện đầy đủ trên sổ sách, chứng từ kế toán của tổ chức tham gia
BHTG theo quy định của pháp luật.
- Việc chi trả tiền bảo hiểm được thực hiện căn cứ vào danh sách người
gửi tiền được hội đồng quản trị BHTGVN phê duyệt và trong giới hạn mức
tối đa do chính phủ quy định.
- Người nhận tiền bảo hiểm phải có đầy đủ các giấy tờ hợp pháp, hợp lệ và
thực hiệ đầy đủ các thủ tục được quy định. Trong đó các tổ chức tham gia
BHTG phải chuẩn bị hồ sơ đề nghị chi trả tiền bảo hiểm còn người gửi tiền phải
thực hiện đăng ký nhận tiền bảo hiểm và chuẩn bị những giấy tờ để nhận tiền.
*. Quy trình chi trả gồm các bước sau:
- Tiếp nhận hồ sơ đề nghị chi trả từ tổ chức tham gia BHTG mất khả
năng thanh toán BHTG.


- Kiểm tra thủ tục, kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của hồ sơ đề nghị chi trả.
- BHTG lập phướng án chi trả.
- Trình hội đồng quản trị BHTGVN phê duyệt phương án chi trả.
- Tiến hành chi trả.
II-

VAI TRÒ CỦA NGHIỆP VỤ GIÁM SÁT KHÁCH HÀNG THAM GIA
BHTG.

1.

Các nghiệp vụ chính của BHTG.

1.1. Nghiệp vụ Kiểm tra tổ chức tham gia BHTG.
Trên cơ sở quy định tại Nghị định số 89/1999/NĐ-CP, BHTGVN có
quyền kiểm tra tổ chức tham gia BHTG thực hiện các quy định về BHTG và

quy định đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng. Nội dung kiểm tra chấp
hành các quy định BHTG bao gồm: Kiểm tra hồ sơ pháp lý đảm bảo là thành
viên tham gia BHTG, kiểm tra việc niêm yết chứng nhận BHTG, kiểm tra tính
đầy đủ trong nộp phí chấp hành thời hạn nộp phí và nộp phạt ( nếu có), kiểm
tra việc cung cấp thơng tin cho tổ chức BHTG.
Nội dung kiểm tra việc tuân thủ các quy định đảm bảo an toàn trong
hoạt động ngân hàng được thực hiện căn cứ vào các chỉ tiêu an toàn mà Hệ
thống Ngân hàng Việt Nam đề ra. Công tác kiểm tra tuân thủ quy đinh an toàn
tập trung vào các tiêu chí: tuân thủ quy định giới hạn huy động vốn theo địa
bàn; tuân thủ quy định về chế độ hạch toán kế toán và chứng từ kế toán; quy
định đảm bảo vốn điều lệ; quy định đảm bảo an tồn trong cho vay; quy định
về tính pháp lý của hồ sơ vay vốn; khả năng tạo lợi nhuận, trích lập các quỹ;
quy định về quản trị, kiểm sốt và điều hành.
1.2. Nghiệp vụ giám sát tổ chức tham gia BHTG.
Nghiệp vụ giám sát tổ chức tham gia BHTG được tiến hành trên cơ sở
thông tin thu thập được để nắm bắt tình hình hoạt động của các tổ chức tham
gia BHTG. Các nguồn thông tin chủ yếu mà BHTGVN có được gồm: các loại
báo cáo nhận được từ khách hàng, thông tin truy cập từ Ngân hàng nhà nước.
Kết quả của công tác giám sát phản ánh về tình hình nộp phí bảo hiểm, tình
hình tn thủ một số chỉ tiêu về an toàn trong hoạt động ngân hàng. Hàng
quý, các chi nhánh khu vực của BHTGVN, trên cơ sở thơng tin tổng hợp có
báo cáo gửi BHTGVN phản ánh tình hình hoạt động, tình hình tuân thủ các
qui định về an toàn của tất cả các khách hàng thuộc chi nhánh mình quản lý.


Đồng thời, chi nhánh BHTG khu vực có thơng báo cảnh báo nhắc nhở, uốn
nắn khách hàng tuân thủ các quy định đảm bảo an toàn trong hoạt động và
quy định về BHTG.
1.3 . Nghiệp vụ chi trả tiền BHTG và theo dõi sau chi trả.
Khi tổ chức tham gia BHTG bị phá sản hoặc vị đình chỉ hoạt động và

mất khả năng thanh toán, tổ chức tham gia BHTG làm thủ tục trình BHTGVN
để được chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo
hiểm tại tổ chức đó. Theo đó, BHTGVN thành lập đồn chi trả tiến hành tổ
chức chi trả tìên bảo hiểm cho người gửi tiền ngay tại địa bàn của tổ chức
tham gia BHTG đó một cách nhanh gọn và thuận lợi. Người gửi tiền được
bảo hiểm trong tình huống được nhận tiền BHTG có thể trực tiếp đến nhận
tiền mặt tại bàn chi trả tiền bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG vào thời gian
được cơng bố hoặc có thể đề nghị chuyển tiền qua ngân hàng hoặc bưu điện
đến một địa điểm khác. Qui trình và thủ tục thực hiện chi trả được qui định cụ
thể ở các văn bản do BHTGVN ban hành, đề cập đến các vấn đề: hồ sơ đề
nghị chi trả tiền bảo hiểm, trách nhiệm của tổ chức tham gia BHTG, thủ tục
đăng ký nhận tiền bảo hiểm, giấy tờ hợp pháp, hợp lệ để nhận tiền bảo hiểm,
thủ tục nhận tiền bảo hiểm, thời hạn đăng ký và nhận tiền bảo hiểm.
Công tác theo dõi thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG sau chi
trả được tiến hành dưới hình thức nắm thông tin về hoạt động của Hội đồng
thanh lý thông qua chi nhánh NHNN tỉnh để đốc thúc việc thu hồi trong thanh
lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG được chi trả, giám sát việc thực hiện
thanh toán cho các chủ nợ để đảm bảo trả nốt phần tiền gửi của người gửi tiền
trên hạn mức chi trả đã được BHTGVN thực hiện và hoàn BHTGVN tiền đã
chi trả.
1.4. Nghiệp vụ tuyên truyền, quảng cáo.
Hoạt động tuyên truyền đã được tiến hành với mục đích phổ cập thơng
tin về hoạt động BHTG tới tồn thể cơng chúng. Các vấn đề về quyền lợi và
trách nhiệm của người gửi tiền, tổ chức tham gia BHTG, tổ chức BHTG, mực
đích, vai trị của hoạt động này đã được BHTGVN tuyên truyền tới công
chúng trên các phương tiện thông tin đại chúng, ấn phẩm, hội thảo, v.v.. . Đến
nay, tại tất cả các tỉnh và thành phố, BHTGVN đã tổ chức các hội thảo về
BHTG với thành viên tham gia là đại diện các tổ chức tham gia BHTGVN,



các cơ quan chính quyền địa phương liên quan, các cơ quan thơng tấn báo chí
và chi nhánh NHNN tỉnh và thành phố. Cùng với BHTGVN, các tổ chức
tham gia BHTG cũng bắt đầu quảng cáo về hoạt động BHTG tới công chúng.
Một trang web về BHTGVN cũng được thiết lập trên mạng internet để quảng
bá về hoạt động này và trao đổi thông tin với cộng đồng được hiệu quả hơn.
2.

Vị trí của nghiệp vụ giám sát từ xa khách hàng tham gia BHTG.

Giám sát từ xa là nghiệp vụ quan trọng hàng đầu của các tổ chức
BHTG, nó giúp phát hiện và cảnh báo sớm những sai phạm của các tổ chức
tham gia BHTG, buộc những tổ chức này phải khắc phục những sai phạm, từ
đó tránh được những sai phạm lớn hơn có thể dẫn đến đổ vỡ.
Công tác giám sát từ xa tổ chức tham gia BHTG của tổ chức BHTG được
tiến hành thường xuyên trên cơ sở các nguồn thông tin về khách hàng tham gia
BHTG mà tổ chức BHTG có được. Nội dung của nghiệp vụ giám sát từ xa là
đánh giá hoạt động của tổ chức tham gia BHTG và từ đó đưa ra các khuyến nghị
uốn nắn hoạt động của các tổ chức đó với mục đích đảm bảo tn thủ các quy
định về BHTG và quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng.
Hoạt động giám sát từ xa của tổ chức BHTG còn là cơ sở để tiến hành
nghiệp vụ kiểm tra tổ chức tham gia BHTG. Trong giai đoạn đầu mới triển
khai hoạt động BHTG, tình trạng tổ chức BHTG chuẩn bị một đội ngũ nhân
lực lớn để tiến hành công tác kiểm tra thường xuyên khách hàng tham gia
BHTG có thể sẽ là khó khăn cho cả tổ chức BHTG và khách hàng tham gia
BHTG. Hoạt động giám sát từ xa cho phép tổ chức BHTG có thể tiến hành
kiểm tra theo phương thức chọn mẫu, không nhất thiết phải kiểm tra đồng loạt
các tổ chức tham gia BHTG. Hơn nữa, khi nền kinh tế càng phát triển, điều
tiết đối với nền kinh tế cần được tổ chức ở trình độ cao hơn, tránh các hoạt
động điều tiết trực tiếp, cần tìm các giải pháp để khuyến khích tính tuân thủ
các quy định điều tiết từ các tổ chức tham gia BHTG một cách tự giác.

Tình trạng chấp nhận rủi ro quá mức trong hoạt động của tổ chức tham
gia BHTG sẽ được hạn chế và tiến tới chấm dứt nếu công tác giám sát từ xa
của các đơn vị chức năng được tăng cường. Ngoài các đơn vị chức năng độc
lập và đơn vị thực hiện công tác giám sát từ xa của ngành ngân hàng, tổ chức
BHTG đóng một vai trị quan trọng trong cơng tác giám sát từ xa hoạt động
của các tổ chức tham gia BHTG. Triển khai hoạt động BHTG không chỉ


nhằm mục đích ngăn chặn đổ vỡ ngân hàng do hoạt động yếu kém của chính
ngân hàng đó gây nên mà có tác dụng cho phép các ngân hàng đó có thể rút
khỏi lĩnh vực kinh doanh ngân hàng một cách có trật tự và khơng làm ảnh
hưởng tởi tâm lý của ngưởi gửi tiền. Như vậy, sẽ làm cho hoạt động của hệ
thống ngân hàng ổn định và có hiệu quả hơn.
Công tác giám sát từ xa của tổ chức BHTG đối với các tổ chức tham
gia BHTG có tác dụng phát hiện, xử lý kịp thời các sai phạm và cảnh báo
phòng tránh vi phạm các quy định về BHTG cũng như các qui định đảm bảo
an toàn hoạt động của tổ chức tham gia BHTG.
Vai trò của tổ chức BHTG trong việc bảo vệ quyền lợi của người gửi
tiền và tính ổn định của hệ thống ngân hàng đạt được một phần nhờ vào tác
dụng của công tác giám sát từ xa. Nếu khơng có một hệ thống giám sát từ xa
hữu hiệu, BHTG và các phương thức khác của hệ thống đảm bảo an toàn hoạt
động ngân hàng và khơng có hiệu quả và sẽ làm tăng chi phí và nhiều tổn thất
khác cho việc giải quyết khủng hoảng tài chính.
Thực tiễn hoạt động BHTG ở nhiều quốc gia cho thấy khơng có hệ
thống thanh tra, giám sát từ xa ngân hàng chặt chẽ thì hệ thống BHTG cùng
với ngân hàng trung ương có thể sẽ cung cấp hỗ trợ cho các ngân hàng khơng
có khả năng thanh toán tham gia vào các hoạt động rủi ro. Như vậy có thể sẽ
làm nguy hại đến tính ổn định trong hoạt động của cả hệ thống tài chính của
quốc gia.
Để thực hiện có hiệu quả cơng tác giám sát từ xa một số vấn đề cần được

đề cập và thực hiện. Đó là cơ chế cung cấp thông tin, quyền và trách nhiệm của
tổ chức BHTG trong công tác giám sát từ xa tổ chức tham gia BHTG .
3.

Nội dung hoạt động giám sát từ xa của tổ chức BHTGVN.

3.1. Nội dung hoạt động giám sát từ xa của tổ chức BHTG.
Theo quy định tại khoản 3, Điều 5, Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg,
ngày 9/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ quy định BHTG Việt Nam có trách
nhiệm"theo dõi, giám sát và kiểm tra việc chấp hành các quy định tại Nghị
định của Chính phủ về BHTG và các quy định về an toàn trong hoạt động
ngân hàng của tổ chức tham gia BHTG".
3.1.1 Giám sát việc chấp hành các quy định của pháp luật về BHTG


Hoạt động giám sát việc chấp hành các quy định của pháp luật về BHTG
gồm các nội dung cơ bản sau:
• Giám sát hồ sơ tham gia BHTG gồm:
Hồ sơ đăng ký tham gia BHTG gồm phiếu đăng ký tham gia BHTG; Bản
sao có cơng chứng của Quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập và hoạt
động do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp, Điều lệ tổ chức và hoạt động,
danh sách thành viên HĐQT, Tổng giám đốc và Ban Kiểm soát, giấy Chứng
nhận đăng ký kinh doanh, các báo cáo tài chính 3 năm gần nhất và những thay
đổi, bổ sung trong q trình hoạt động.
• Giám sát việc chấp hành các quy định về báo cáo của BHTG Việt
Nam gồm việc nộp các báo cáo
- Bảng cân đối tài khoản kế toán tháng;
- Báo cáo kết quả kinh doanh năm;
- Kết quả kiểm toán năm (nếu có);
- Các báo cáo khác theo yêu cầu của BHTG Việt Nam.

• Giám sát việc nộp phí và bảng tính phí BHTG
Căn cứ để giám sát việc nộp phí và bảng tính phí BHTG là hình thức nộp
phí BHTG và thời gian nộp phí BHTG và bảng tính phí BHTG.
Hiện nay các tổ chức tham gia BHTG có thể nộp phí theo 2 hình thức;
- Nộp phí theo q đối với đơn vị có số phí BHTG phải nộp trên 500.000
đ/quý;
- Nộp phí gộp một năm 2 lần, hoặc 1 năm một lần áp dụng đối với đơn vị
tham gia BHTG có số phí nhỏ hơn 500.000đ/q và được sự đồng ý của
BHTG Việt Nam.
- Ngày nộp phí chậm nhất là ngày 20 tháng đầu tiên của kỳ hoặc lần của
kỳ thu phí.


3.1.2 Giám sát việc chấp hành các quy định về an tồn trong hoạt đơng
động ngân hàng
Nội dung giám sát này được thực hiện theo Quy chế giám sát số
217/2002/QĐ-HĐQT của Hội đồng quản trị BHTG Việt Nam với những tiêu
chí cơ bản khơng khác nhiều so với nội dung giám sát của NHNN Việt Nam.
Cụ thể như sau:
• Giám sát về vốn
• Giám sát tỷ lệ cho vay trung và dài hạn
• Giám sát về góp vốn cổ phần
• Giám sát về mua sắm tài sản cố định
• Giám sát tỷ lệ an tồn vốn tối thiểu
• Giám sát về kết quả kinh doanh
• Giám sát về việc trích lập dự phòng rủi ro
Cho đến nay, do những thay đổi về văn bản pháp lý của NHNN liên
quan đến các chỉ tiêu về an toàn trong hoạt động NH1, ví dụ như Quyết định
số 457/2005/QĐ-NHNN ngày tháng 9 năm 2005 của NHNN đã được ban
hành thay thế cho Quyết định số 297/1999/QĐ- NHNN5. Tuy nhiên, cho đến

này việc thi hành quyết định cịn rất nhiều khó khăn, vướng mắc. Do vậy, chỉ
tiêu về Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu đã chưa giám sát được vì thơng tin về vốn
cấp 2 hiện nay khó xác định. Hơn nữa, nguồn thông tin đầu vào để thực hiện
giám sát khá nghèo nàn (chỉ dựa vào cân đối kế tốn tháng), vì vậy Chi nhánh
khu vực Hà Nội chỉ giám sát được một số chỉ tiêu như vốn tự có, kết quả kinh
doanh, tỷ lệ mua sắm, đầu tư vào tài sản cố định, tỷ lệ góp vốn cổ phần.
3.1.3 Xử lý sau giám sát
Căn cứ vào kết quả giám sát, kết hợp với kết quả kiểm tra tại chỗ đối với
từng tổ chức tham gia BHTG trên địa bàn, hoặc những vấn đề qua giám sát do
Trụ sở chính BHTG Việt Nam thông báo, Giám đốc chi nhánh khu vực Hà Nội
1

Xem chi tiết tại phần 1.3.2.1


đã tổ chức chỉ đạo phịng giám sát gửi thơng báo, cảnh báo nhắc nhở đơn vị hoặc
thực hiện các hình thức xử lý khác tùy theo mức độ vi phạm, cụ thể:
• Thơng báo và u cầu tổ chức tham gia BHTG trên địa bàn khắc phục
vi phạm quy định về việc tính, nộp phí BHTG và các vi phạm an tồn trong
hoạt động;
• Kiểm tra việc khắc phục, chỉnh sửa vi phạm của tổ chức tham gia
BHTG đã được thơng báo;
• Kiến nghị và phối hợp chặt chẽ với Chi nhánh NHNN, thành phố
trong việc kiểm tra, đôn đốc các NHTM cổ phần, QTDND cơ sở chấp hành
các quy định về BHTG, về an toàn trong hoạt động ngân hàng và việc khắc
phục vi phạm;
. Đề nghị Tổng giám đốc xử lý những trường hợp vượt thẩm quyền
3.2. Phương pháp phân tích làm cơ sở cho việc giám sát từ xa .
Để thực hiện nhiệm vụ của mình, công tác giám sát từ xa vừa phải sử
dụng phương pháp nghiên cứu của một số môn khoa học đồng thời phải sử

dụng phương pháp riêng biệt của mình. Tuỳ thuộc vào những đối tượng cụ thể
và vào nội dung cần phân tích mà bộ phận giám sát từ xa sẽ áp dụng một
trong những phương pháp phân tích sau đây:


Phương pháp so sánh.

Phương pháp này nhằm đánh giá hoạt động kinh doanh giữa các tổ
chức tín dụng nhằm nắm được tình hình phát triển của một tổ chức tín dụng.
Sự so sánh sẽ giúp cho các thanh tra viên kịp thời phát hiện những nguy cơ
của tổ chức tín dụng được so sánh. Để tiến hành so sánh phải đảm bảo:
- Phải có ít nhất hai chỉ tiêu hoặc hai đại lượng dùng để so sánh.
- Các chỉ tiêu so sánh phải đồng nhất về nội dung kinh tế, thống nhất về
phương pháp tính tốn, đơn vị đo lường và phải cùng một thời điểm cũng
như trong một độ dài thời gian.


Phương pháp phân tích tỷ lệ.

Phương pháp này được áp dụng nhằm hỗ trợ cho các công tác phân
tích và tìm hiểu báo cáo tài chính của các tổ chức tín dụng trong qúa trình
đánh giá hoạt động kinh doanh ngân hàng. Nhờ phương pháp phân tích này


mà ta có thể hiểu rõ hơn về bản chất của các hiện tượng cũng như sự biến
động của các hiện tượng đó.
Tỷ lệ là một chỉ số tốn học so sánh một yếu tố này với một yếu tố khác. Tỷ
lệ được lập bởi việc tập hợp hai số liệu hoặc nhiều số liệu tạo ra một mối quan hệ
nào đó. Qua các tỷ lệ phân tích bảng cân đối tài sản, báo cáo dư nợ của quý, năm,
có thể thấy được xu hướng cùng tiến độ của hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

Nếu tỷ lệ này có xu hướng khơng tốt thì tất yếu sẽ khơng thuận lợi cho các ngân
hàng, trên cơ sở đó giúp thanh tra biết được cần thiết phải kiểm tra, tìm hiểu theo
phương hướng nào để sau đó khuyến nghị các tổ chức tín dụng kịp thời có biện
pháp điều chỉnh như thế nào cho phù hợp.


Phương pháp phân tổ.

Đây là phương pháp quan trọng trong việc phân tích các hiện tượng và
kết quả kinh tế thường rất phong phú và đa dạng. Dựa vào việc phân chia ra
những chỉ tiêu tổng hợp thành các chỉ tiêu bộ phận và việc phân chia các chỉ
tiêu kinh tế, người thanh tra có thể nhận thức được bản chất mối quan hệ cấu
thành và quan hệ nhân quả cũng như quy luật tạo thành và phát triển của các
hiện tượng kinh tế.
Để đạt được u cầu trên người phân tích có thể chia các chỉ tiêu kinh
tế theo thời gian, không gian và theo yếu tố cấu thành.


Phương pháp Dupont.

Đây là phương pháp phân tích nhằm đánh giá sự tác động tương hỗ giữa
các chỉ tiêu. Là phương pháp giúp phân tích một tỷ lệ sơ cấp thành các tỷ lệ thứ
cấp, sau đó tỷ lệ thứ cấp trở thành tỷ lệ sơ cấp cho sự phân tích tiếp theo.


PHẦN II. TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ GIÁM SÁT TỪ XA KHÁCH
HÀNG THAM GIA BHTG TẠI CHI NHÁNH HÀ NỘI.
I-

VÀI NÉT VỀ TỔ CHỨC CHI NHÁNH BHTG HÀ NỘI.


Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam khu vực Hà Nội được thành
lập ngày 26 tháng 12 năm 2001 theo quyết định của Tổng giám đốc
BHTGVN và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 27/5/2002 với nhiệm vụ là
quản lý các tổ chức tham gia BHTG tại địa bàn 7 tỉnh, thành phố gồm Thành
phố Hà Nội, Hà Tây, Hịa Bình, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hưng Yên, Vĩnh Phúc,
Phú Thọ và thực hiện các nhiệm vụ khác theo yêu cầu của Tổng giám đốc
BHTG Việt Nam.
Với chức năng và nhiệm vụ của mình, BHTG VN khu vực Hà Nội qua
4 năm hoạt động đã không ngừng phát triển cả trên phương diện tổ chức bộ
máy, quy mô, năng lực và chất lượng hoạt động. Trong thời gian qua, BHTG
khu vực Hà Nội đã cùng các chi nhánh khác trong cả nước góp phần quan
trọng vào việc thực hiện cơng cuộc đổi mới đát nước, đặc biệt là đổi mới
trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ - ngân hàng trên địa bàn; bảo vệ được quyền
và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ
chức tham gia BHTG và sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân
hàng, giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội trên 7 tỉnh và
thành phố, trong đó đặc biệt có thành phố Hà Nội - thủ đơ của cả nước, phát
triển mạnh mẽ trong cả lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngoại giao. . . hơn nữa chi
nhánh cịn tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho việc phát huy nguồn vốn
nội lực, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.
*.Cơ cấu tổ chức


CHI NHÁNH BẢO HIỂM TIỀN GỬI KHU VỰC HÀ NỘI
Trụ sở tại: 22 Láng Hạ - Đống Đa - Hà Nội
Fax: 7761286
Điện thoại phòng Giám sát từ xa : 7761285 - 7762049
Giám đốc


P.Giám đốc

P.Giám đốc

P.HC-NS

P.KTr1

P.KSNB

P.KTr2

P.Kế toán

P.Chi trả
&TDTP

P.Tổng hợp

P.Giám sát từ
xa

Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức Chi nhánh khu vực Hà Nội

Về quy mô và cơ cấu tổ chức của Chi nhánh khu vực Hà Nội hiện đã có
sự thay đổi lớn so với buổi đầu thành lập. Với tổng số 67 cán bộ, viên chức
làm việc tại 7 phòng, bộ phận nghiệp vụ, hầu hết đều có trình độ đại học
chuyên chuyên ngành về tài chính - ngân hàng, có kinh nghiệm làm việc tại
các NHTM nhà nước. Lợi thế này sẽ giúp Chi nhánh giải quyết tốt các vấn đề
trong hoạt động nghiệp vụ BHTG, là yếu tố quan trọng quyết định sự thành

công và trưởng thành của Chi nhánh trong hơn 4 năm qua.


II-

TỔ CHỨC GIÁM SÁT TỪ XA KHÁCH HÀNG THAM GIA BHTG TẠI
CHI NHÁNH HÀ NỘI.

1.

Phân tích khách hàng tham gia BHTG tại chi nhánh Hà Nội.

Khách hàng tham gia BHTG với hình thức bắt buộc là các tổ chức tín
dụng . Hiện nay ở Việt Nam, các tổ chức tín dụng được phân làm hai loại là tổ
chức tín dụng ngân hàng và tổ chức tín dụng phi ngân hàng.
Các tổ chức tín dụng ngân hàng được phân theo các hình thức sau:
- Theo hình thức sỡ hữu:
+ Ngân hàng thương mại quốc doanh.
+ Ngân hàng thương mại.
+ Ngân hàng liên doanh.
+ Ngân hàng nước ngồi.
- Theo hình thức hoạt động có:
+ Ngân hàng cơng thương.
+ Ngân hàng ngoại thương.
+ Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
+ Ngân hàng Đầu tư và phát triển.
+ Ngân hàng chính sách.
- Các quỹ tín dụng nhân dân gồm có:
+ Quỹ tín dụng nhân dân trung ương.
+ Quỹ tín dụng nhân dân khu vực.

+ Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở.
- Các tổ chức tín dụng phi ngân hàng gồm có:
+ Cơng ty tài chính.
+ Cơng ty cho th tài chính.
+ Các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác.
Như vậy, tất cả các tổ chức tín dụng, tổ chức khơng phải là tín dụng
được phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của luật tín
dụng, hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam và có nhận tiền gửi bằng tiền Việt
Nam đều là khách hàng tham gia BHTG .


2.

Tổ chức giám sát từ xa khách hàng tham gia BHTG tại chi nhành
Hà Nội.

Nhận thức được tầm quan trọng của công tác giám sát từ xa đối với
các tổ chức tham gia BHTG, ngay sau khi được thành lập và đi vào hoạt
động, chi nhánh đã nghiên cứu đề ra biện pháp để tiếp cận và thu thập thông
tin đầu vào từ các nguồn thông tin khác nhau: Đề nghị tổ chức tham gia
BHTG gửi BCĐTK tháng thay vì BCĐTK q để có cơ sở phân tích đánh
giá; đề nghị và nhận sự hỗ trợ cung cấp thông tin từ chi nhánh NHNN tỉnh,
thành phố và khai thác thông tin từ phong giám sát BHTGVN. Chính vì vậy
chỉ trong thời gian ngắn sau khi khai trương hoạt động chi nhánh đã triển khai
tốt nghiệp vụ giám sát từ xa đối với các tổ chức tham gia BHTG trên địa bàn.
Trên cơ sở thông tin đầu vào thu thập được, định kỳ hàng quý chi nhánh
đã tiến hành phân tích, đánh giá các tổ chức tham gia BHTG, tổng hợp kết
quả và lập báo cáo giám sát gửi BHTGVN đảm bảo theo quy định.
Căn cứ vào kết quả giám sát, chi nhánh đã tiến hành gửi thông báo,
cảnh bảo đến các tổ chức tham gia BHTG trên địa bàn vi phạm những quy

định của Nhà nước về BHTG, quy định đảm bảo an toàn trong hoạt động
ngân hàng. Đồng thời kiến nghị và phối hợp chặt chẽ với chi nhánh ngân
hàng Nhà nước tỉnh, thành phố trên địa bàn trong việc kiểm tra, đôn đốc các
tổ chức tham gia BHTG có biện pháp chấn chỉnh tồn tại, sai sót
Nội dung các thông báo, cảnh báo tập trung vào những vấn đề sau:
+ Thông báo tỷ lệ nợ quá hạn cao;
+ Thông báo chưa gửi và gửi thiếu báo cáo;
+ Thông báo trích lập dự phịng rủi ro chưa đúng theo quy định;
+ Thông báo sử dụng vượt giới hạn vốn tự có để đầu tư, mua sắm TSCĐ;
+ Thơng báo chưa đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu.
Từ đó lập báo cáo giám sát và các báo cáo khác theo quy định. Đồng
thời phối kết hợp thường xuyên với phòng, Ban, Chi nhánh của BHTG VN,
các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước và các đơn vị khác để tiếp nhận, cung
cấp các thơng tin có liên quan đến các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.


3.

Quản lý khách hàng tham gia BHTG tại chi nhánh Hà Nội.

Đối tượng của hoạt động BHTG không chỉ là hàng nghìn tổ chức tham
gia BHTG mà cịn nhiều chục triệu lượt người gửi tiền được bảo hiểm và
công chúng khác có liên quan đến hoạt động BHTG trong xã hội.
Để tiến hành hoạt động quản lý khách hàng tham gia có hiệu quả chi
nhành đã tiến hành các nội dung sau:
- Giám sát việc chấp hành thời hạn nộp phí, số phí nộp thừa hoặc thiếu
của các tổ chức tham gia BHTG .
- Giám sát việc chấp hành quy định của pháp luật về an toàn trong hoạt
động ngân hàng.
Công tác quản lý, theo dõi việc tham gia BHTG của các TCTD là rất

quan trọng đối với BHTG VN nói chung và tại chi nhánh Hà Nội nói riêng.
Bảo hiểm với ý nghĩa là các bảo đảm, phòng ngừa cho những rủi ro trong
tương lai trên nguyên tắc số đơng bù số ít nên theo dõi việc tham gia BHTG
của các TCTD sẽ là cơ sở đảm bảo cho nguyên tắc này được thực thi. Do vậy,
ngày càng nhiều các TCTD sẽ đăng ký tham gia BHTG nên khối lượng công
việc của giám sát, của kiểm tra điều kiện để cấp giầy chứng nhận BHTG đối
với các tổ chức này cũng tăng lên. Khi có tổ chức mới đăng ký tham gia
BHTG, BHTGVN cần tiến hành kiểm tra điều kiện của các TCTD đó một
cách nhanh chóng và hướng dẫn đơn vị hoàn chỉnh hồ sơ, thủ tục cũng như bổ
sung kịp thời những thiếu sọt để trình Tổng giám đốc cấp giấy chứng nhận
BHTG cho TCTD nếu như có đủ điều kiện:
- Thơng báo trao đổi thơng tin với NHNN để nắm bắt kịp thời những
TCTD đang có dấu hiệu bất thường để tiến hành giám sat, kiểm tra, tìm rõ
ngun nhân chính xác để đưa ra biện pháp xử lý kịp thời và phù hợp.
- Hiện nay cơng tác thu phí được thực hiện tại một địa điểm duy nhất là
tại hội sở của BHTG VN do vậy cơng tác quản lý, theo dõi việc nộp phí
BHTG khá nhiều và vất vả. Để giảm bớt số lượng cũng như cơng tác giám sát
việc thu và nộp phí tại hội sở chính như hiện nay, BHTG VN cần xem xét và
cho thực hiện thu phí trực tiếp tại chi nhánh của các tổ chức tham gia BHTG
và giao cho các chi nhánh BHTG VN khu vực phụ trách nhiệm vụ này.


III- NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TỪ HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ GIÁM
SÁT TỪ XA KHÁCH HÀNG THỜI GIAN QUA TẠI TỔ CHỨC
BHTGVN CHI NHÁNH HÀ NỘI.

3.1. Những kết quả thu được của công tác giám sát từ xa tại tổ chức
BHTG chi nhánh Hà Nội.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác giám sát từ xa đối với các
tổ chức tham gia BHTG, Chi nhánh khu vực Hà Nội đã có biện pháp tiếp cận,

thu thập và xử lý thông tin đối với 100% các tổ chức tham gia BHTG trên địa
bàn. Quan trọng nhất là hoạt động giám sát của Chi nhánh bước đầu đã là một
công cụ hữu ích góp phần cùng với Chi nhánh NHNN tại 7 tỉnh, thành phố
trên địa bàn kiểm soát hiệu quả việc chấp hành các quy định về an toàn hoạt
động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn, đơn đốc và nhắc nhở các tổ chức
tham gia BHTG kịp thời có biện pháp chấn chỉnh những sai sót, vi phạm
3.1.1. Giám sát từ xa về việc chấp hành các quy định pháp luật về BHTG VN.
3.1.1.1. Giám sát việc đăng ký tham gia BHTG :
BHTG là loại hình bảo hiểm bắt buộc đối với các tổ chức có huy động
tiền gửi bằng đồng Việt Nam. Chính vì vậy số lượng của tổ chức tham gia
BHTG là rất lớn. Để thực hiện công tác giám sát việc đăng ký tham gia
BHTG của các đối tượng theo quy định bắt buộc phải tham gia BHTG . Đây
là một công việc tưởng chừng đơn giản đối với tổ chức BHTG, song trên thực
tế thì đây là một cơng việc rất phức tạp bởi hàng năm đều có những tổ chức
tín dụng mới được thành lập nhất là các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở.
Từ khi thành lập đến nay, chi nhánh đã tiếp nhận, hồn thiện hồ sơ
trình tổng giám đốc cấp, thu hồi giấy chứng nhận BHTG cho các tổ chức
tham gia BHTG trên địa bàn chi nhánh quản lý, Cụ thể đã cấp mới cho 16 tổ
chức tham gia BHTG và thu hồi giấy chứng nhận BHTG đối với 7 đơn vị,
đồng thời tiếp nhận từ trung ương 04 NHTM Nhà nước, từ chi nhánh TP Hồ
Chí Minh 01 Cơng ty tài chính.
Như vậy, tính đến 31/3/2005 tổng số tổ chức tham gia BHTG trên địa
bàn là 209 đơn vị. Tăng so với ngày đầu thành lập là 14 đơn vị. Gồm:
+ Ngân hàng thương mại nhà nước: 4 đơn vị.


×