Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Tiểu luận quản trị rủi ro quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương việt nam (techcombank)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 53 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường rủi ro trong kinh doanh là không thể tránh
khỏi, đặc biệt là trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Ngân hàng luôn đối
đầu với rủi ro như rủi ro tín dụng, hối đoái, thanh khoản, lãi suất,…Trong đó,
rủi ro tín dụng luôn là mối quan tâm hàng đầu. Bởi vì rủi ro tín dụng là đặc
trưng nhất và dễ xảy ra nhất. Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trong
nhất, có quy mô lớn nhất của ngân hàng thương mại, đó là tín dụng. Trên quan
điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là
khách quan, chỉ có thể đề phòng hạn chế chứ không thể loại trừ.
Ở nước ta vấn đề rủi ro tín dụng trong kinh doanh ngân hàng và vấn đề
quản lý nó cũn khá mới mẻ. Với sự non yếu về nghiệp vụ Ngân hàng, đồng
thời môi trường đầy rủi ro, vấn đề quản lý rủi ro tín dụng đang là vẫn đề cấp
bách trong hệ thống Ngân hàng cả nước. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
năm 2008 đã phần nào tạo ra một mối quan tâm tới vấn đề quản lý rủi ro tín
dụng trong hoạt động Ngân hàng.
Trong thời gian thực tập tại hội sở Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ
thương Việt Nam, em nhận thấy công tác quản lý rủi ro tín dụng được Ngân
hàng rất quan tâm và đầu tư. Năm 2010, Techcombank là Ngân hàng đầu tiên
tại Việt Nam hoàn thiện mô hình phê duyệt tín dụng tập trung, phân luồng và
phân cấp phê duyệt hồ sơ tín dụng theo các mức từ Chi nhánh, đến các khối
chức năng và hội đồng tín dụng cao cấp. Mô hình hiện đại này đảm bảo cho
Ngân hàng luôn kiểm soát được rủi ro khách hàng, duy trì được tỷ lệ nợ xấu ở
mức thấp. Do vậy, em đã chọn đề tài “Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam” để làm chuyên để thực tập tốt
nghiệp.
Chuyên đề được kết cấu thành ba chương:
Chương I: Tổng quan về quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
thương mại.
Chương II: Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương
mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam (Techcombank).
Chương III: Giải pháp hoàn thiện quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân


hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam.
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Khái quát về tín dụng tại ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm tín dụng
“Tớn dụng” có nguồn gốc từ thuật ngữ Latin “Creditium” có nghĩa là sự tin
tưởng. Có thể hiểu tín dụng là một sự ứng trước “giỏ trớ hiện tại” để đổi lấy
“giỏ trị tương lai” với mong muốn rằng “giỏ trị tương lại” sẽ lớn hơn “giỏ trị
hiện tại”. Quan hệ tín dụng hình thành từ khi xuất hiện sản xuất hàng hóa, bắt
đầu có sự phân công lao động xã hội và sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất,
hình thức sơ khai của quan hệ tín dụng là cho vay nặng lãi. Mục đích của người
đi vay là để duy trì cuộc sống sinh hoạt chứ không phải để phát triển sản xuất.
Đặc điểm của tín dụng thời kỳ này là không phục vụ phát triển sản xuất.
Khi chuyển sang thời kỳ tư bản chủ nghĩa nền kinh tế đòi hỏi phải có một
số tư bản lớn để phát triển sản xuất kinh doanh. Lúc này, mức lãi suất cao của
hình thức nặng lãi không khuyến khích được các nhà tư bản vay tiền để sản
xuất kinh doanh dẫn đến cản trở sự phát triển của kinh tế. Do đó, hình thức tín
dụng nặng lãi ngày càng bị thu hẹp lại đồng thời xuất hiện hình thức tín dụng
mới phù hợp hơn – tư bản cho vay ra đời. Đặc điểm của tư bản cho vay là
người đi vay sử dụng vốn vay để đầu tư vào sản xuất với mục đích tạo giá trị
thặng dư. Nguồn vốn cho vay không dừng lại ở tiền dư thừa của người giàu có
mà bao gồm cả khối lượng vốn nhàn rỗi trong toàn xã hội. Trong điều kiện
phát triển mạnh của các hình thái tín dụng cần thiết phải có một cơ quan trung
gian đứng ra làm nghiệp vụ tín dụng, ngân hàng ra đời đáp ứng yêu cầu đó hình
thành nên tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các tổ chức
kinh tế và các cá nhân. Trong thực tế hoạt động tín dụng rất phong phú và đa
dạng nhưng bất kỳ hình thức tín dụng nào cũng có hai giai đoạn : người cho
vay chuyển giao vốn cho người đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định,
và sau khi đến thời hạn do hai bên thỏa thuận người đi vay sẽ trả lại cho người

vay một khoản giá trị lớn hơn, phần tăng thêm gọi là tiền lãi.
Mặc dù tín dụng ngân hàng ra đời từ rất lâu nhưng đến nay, định nghĩa về
tín dụng vẫn chưa được thống nhất. Tín dụng là quan hệ vay mượn, gồm cả cho
vay và đi vay. Tuy nhiên khi gắn với chủ thể nhất định như ngân hàng (hoặc
các trung gian khác) thỡ chỉ bao hàm nghĩa là ngân hàng cho vay. Theo
K.Mark thỡ “Tớn dụng – dưới hình thức biểu hiện của nó là sự tín nhiệm ít
nhiều có căn cứ đã khiến người này giao cho người khác một số tư bản nào đó
dưới hình thái hàng hóa được đánh giá thành một số tiền nhất định. Số tiền này
bao giờ cũng phải được trả lại trong một thời gian đã được ấn định. Như vậy,
tín dụng có đặc điểm cơ bản là:
- Người sở hữu có một số vốn (biểu hiện bằng hàng hóa hay tiền) chuyển
giao cho người khác sử dụng trong một thời gian nhất định.
- Hết hạn sử dụng, người sử dụng vốn phải hoàn trả vốn cho người chủ sở
hữu với một giá trị lớn hơn. Phần chênh lệch đó gọi là lãi suất tín dụng. Như
vậy, trong quan hệ tín dụng, người cho vay chỉ trao đổi quyền sử dụng vốn chứ
không trao đổi quyền sở hữu vốn cho người đi vay.
1.1.2 Phân loại tín dụng
1.1.2.1 Phân loại theo thời hạn tín dụng
Căn cứ vào tiêu thức này, người ta chia tín dụng làm hai loại:
- Tín dụng có thời hạn: Là loại tín dụng mà thời điểm trả nợ được xác
định cụ thể. Bao gồm:
+ Tín dụng ngắn hạn: Là laoij tín dụng có thời hạn dưới một năm và được
sử dụng để bổ sung sự thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của doanh nghiệp và
phục vụ các nhu cầu sinh hoạt của các cá nhân. Với loại tín dụng này, ít có rủi
ro cho ngân hàng vì trong thời gian ngắn ít có biến động xảy ra và nếu có xảy
ra thì ngân hàng có thể dự tính được.
+ Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm và
chủ yếu được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật,
mở rộng sản xuất và xây dựng các công trình nhỏ, có thời hạn thu hồi nhanh.
Loại tín dụng này có mức độ rủi ro không cao vì ngân hàng có khả năng dự

đoán được những biến động có thể xảy ra.
+ Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm được sử dụng
để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công
trình thuộc cơ sở hạ tầng (đường xá, bến cảng, sân bay…), cải tiến và mở rộng
sản xuất với quy mô lớn. Loại tín dụng này có mức độ rủi ro rất lớn vì trong
thời gian dài thỡ cú những biến động xảy ra không đo lường trước được.
- Tín dụng không thời hạn: Là loại tín dụng mà thời hạn hoàn trả tiền vay
không được xác định khi ký hợp đồng vay mà thay vào đó là điều kiện về việc
thu hồi khoản tiền cho vay của ngân hàng hoặc việc trả nợ của người vay. Ví
dụ ngân hàng khôn thu gối theo thời hạn nhát định mà chỉ thu lãi; người vay sẽ
trả nợ cho ngân hàng khi ngu cầu vay thêm không cần thiết nữa do quy mô sản
xuất giảm hoặc doanh nghiệp lấy nguồn khác để tự bổ sung; ngân hàng muốn
th hôi gốc phải báo trước cho người vay. Như vậy, khi quy mô sản xuất của
doanh nghiệp tăng lên, doanh nghiệp sẽ đi vay không thời hạn (vì hết tiền đầu
tư cho chu kỳ sản xuất kinh doanh này lại cần tiếp).
1.1.2.2 Phân loại theo tài sản bảo đảm
Căn cứ vào tiêu thức này, tín dụng được chia làm hai loại:
- Tín dụng có bảo đảm: Là loại tín dụng dựa trên cơ sở các bảo đảm như
thế chấp, cầm cố, hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba. Ngân hàng nắm giữ tài
sản của người vay để xử lý thu hồi nợ khi người vay không thực hiện được các
nghĩa vụ đã được cam kết trong hợp đồng tín dụng. Hình thức này được áp
dụng đối với những khách hàng không có uy tín cao với ngân hàng.
Mặc dù là có tài sản đảm bảo nhưng hình thức tín dụng này vẫn có độ rủi ro
cao vì tài sản có thế bị mất giá hay người bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ
của mình.
- Tín dụng không có bảo đảm: Là loại tín dụng không có tài sản thế chấp,
cầm cố, hoặc không có sự bảo lãnh của người thứ ba. Việc cấp tín dụng chỉ dựa
vào uy tín của bản thõn khách hàng. Muốn vậy, ngân hàng phải đánh giá hiệu
quả sử dụng tiền vay của người vay, khách hàng không được phép giao dịch
với bất kỳ ngân hàng nào khác. Mặc dù không có tài sản đảm bảo nhưng đây là

một loại tín dụng ít rủi roc ho ngân hàng vì khách hàng có uy tín rất lớn và khả
năng trả nợ rất cao thì mới được cấp tín dụng mà không cần đảm bảo.
1.1.2.3 Phân loại theo mục đích sử dụng của người vay
Căn cứ vào tiêu thức này, người ta chia tín dụng ra làm hai loại:
- Tín dụng đối với người sản xuất và lưu thông hàng hóa: Là loại cấp tín
dụng cho các đơn vị kinh doanh để tiên hành sản xuõt, lưu thông hàng hóa.
Nguồn trả nợ của hoạt động này là kết quả hoạt động kinh doanh. Vì vậy, ngân
hàng cần phải có đầy đủ các thông tin cần thiết về khách hàng của mình, về
phương án sản xuất kinh doanh của họ.
- Tín dụng tiêu dùng: Là loại tín dụng cho các cá nhân để đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng như mua sắm nhà cửa, xe cộ, các loại hàng hóa lâu bền như máy giặt,
điều hòa, tủ lạnh…ở đây, nguồn trả nợ là thu nhập trong tương lai của người
vay.
Với cách phân loại này, ngân hàng sẽ có quy trình nghiệp vụ cụ thể để đảm
bảo ngân hàng có đủ tiền để cho vay và thu hồi nợ theo đánh giá mức độ rủi ro
và mức lãi xuất được đặt ra cho từng loại.
1.1.2.4 Phân loại khác
- Theo đặc điểm luân chuyển vốn gồm:
+ Tín dụng vốn lưu động
+ Tín dụng vốn cố đinh
- Theo thành phần kinh tế
+ Tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh: Là quan hệ tín dụng giữa
ngân hàng với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bao gồm: Tổ sản xuất,
HTX, công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Doanh nghiệp tư nhân và
hộ cá thể.
+ Tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh : Là quan hệ tín dụng giữa
Ngân hàng với các doanh nghiờp Nhà nước.
1.2 Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm rủi ro tín dụng
Trong cơ chế quản lý kế hoạch tập trung với hệ thống ngân hàng độc

quyền, rủi ro tín dụng ít được đề cập tới, khi rủi ro tín dụng xảy ra thì ngân
hàng thường sử dụng các biện pháp hành chính để ngăn chặn như: Phát hành
thêm tiền, không cho doanh nghiệp và cá nhân rút tiền mặt,…Nhưng khi
chuyển sang nền kinh tế thị trường, hiện tượng mất khả năng thanh toán ở
doanh nghiệp này, cá nhân kia hay cho vay không thu hồi được nợ, người gửi
tiền rút tiền ồ ạt khỏi ngân hàng, các ngân hàng kinh doanh thua lỗ hoặc thậm
chí phá sản là hiện tượng có nhiều khả năng xảy ra. Nước ta trong công cuộc
đổi mới kinh tế, vấn đề vốn trở thành một vấn đề hết sức nóng bỏng và cấp
bách. Thị trường ngân hàng kinh doanh là thị trường có nhiều rủi ro nhất. Rủi
ro có thể xảy ra trong bất kỳ một nghiệp vụ nào với những mức độ khác nhau.
Tuy nhiên, việc tìm ra một phương pháp thực hiện các nghiệp vụ có thể hoàn
toàn loại trừ được rủi ro và đẩm bảo được một kết quả tài chính nhất định là
một việc không thể thực hiện được. Chúng ta chỉ có thể lường trước và hạ thấp
rủi ro đến mức thấp nhất.
Như vậy: Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng
phải chịu do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả
đầy đủ vốn và lãi.
1.2.2 Phân loại rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng
Không thu
hồi được
lãi đúng
hạn
Không thu
được vốn
đúng hạn
Không thu
đủ lãi
Không thu
đủ vốn

(mất vốn)
Rủi ro tín dụng có thể xảy ra ở 4 trường hợp đối với nợ lãi và nợ gốc. Đó là
việc không thu được lãi đúng hạn hoặc không thu đủ lãi, không thu được vốn
đúng hạn hoặc không thu đủ vốn. Tùy trường hợp mà ngân hàng hạch toán vào
các khoản mục theo dõi khác nhau như lãi treo hoặc nợ quá hạn. Khi không thu
được lãi đúng hạn, nguy cơ rủi ro đang ở mức thấp và chỉ đưa vào mục lãi treo
phát sinh. Nếu ngân hàng không thể thu đủ lói thỡ sẽ có khoản mục lãi treo
đóng băng, trừ những trường hợp ngân hàng miễn giảm lói đú cho doanh
nghiệp. Còn khi không thu được vốn đúng hạn, ngân hàng sẽ có khoản nợ quá
hạn phát sinh.
Tuy nhiên, khoản vay này chưa có thể coi là khoản mất mát hoàn toàn của
ngân hàng vì có thể vì lý do nào đó doanh nghiệp chẩm trả nợ gốc và sẽ trả sau
hạn cam kết trong hợp đồng. Nếu như khoản này ngân hàng không thể thu hồi
được (do doanh nghiệp bị phá sản chẳng hạn) thì lúc này ngân hàng coi như
gặp rủi ro tín dụng ở mức độ cao vỡ đó phát sinh khoản nợ không có khả năng
thu hồi, trừ những trường hợp đặc biệt, doanh nghiệp vay vốn hội tụ đủ các
điều kiện theo quy định về xóa nợ thì ngân hàng có thể xem xét để xóa nợ cho
doanh nghiệp.
Rủi ro tín dụng tồn tại dưới nhiêu hình thức, các hình thức đú luụn chuyển
biến cho nhau mà mức độ cuối cùng là nợ không có khả năng thu hồi. Khi
nghiên cứu về rủi ro tín dụng người ta thường chú trọng vào các nguy cơ xảy ra
rủi ro như lãi treo và đặc biệt là nợ phát sinh, cũn lói treo đóng băng và nợ quá
hạn không có khả năng thu hồi được coi là các tình huống rủi ro thực sự nên
thường được xem xét để giải quyết hậu quả và rút ra bài học.
1.2.3 Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng
1.2.3.1 Rủi ro tín dụng do nguyên nhân khách quan
a, Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định
 Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới:
Nền kinh tế VN vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp và
công nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên

Lãi treo
phát sinh
Nợ quá
hạn phát
sinh
1.Lãi treo
đóng băng
2.Miễn giảm
lãi
1.Nợ không
có khả
năng thu
hồi
2.Xóa nợ
liệu), dầu thô, may gia cụng,… vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả
thế giới, nên dễ bị tổn thương khi thị trường thế giới biến động xấu.
Ngành dệt may trong một số năm gần đây đã gặp không ít khó khăn vì bị
khống chế hạn ngạch làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp nói riêng và của các ngân hàng cho vay nói chung. Ngành
thủy sản cũng gặp nhiều lao đao vỡ cỏc vụ kiện bán phá giá vừa qua.
Không chỉ xuất khẩu, các mặt hàng nhập khẩu cũng dễ bị tổn thương không
kém. Mặt hàng sắt thép cũng bị ảnh hưởng lớn của giỏ thộp thế giới. Việc tăng
giá phụi thộp làm cho một số doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải
ngưng sản xuất do chi phí giá thành rất cao trong khi không tiêu thụ được sản
phẩm.
 Rủi ro tất yếu của quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế:
Quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia
tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh
nghiệp, những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với nguy
cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó, bản

thân sự cạnh tranh của các ngân hàng thương mại trong nước và quốc tế trong
môi trường hội nhập kinh tế cũng khiến cho các ngân hàng trong nước với hệ
thống quản lý yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các
khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các ngân hàng nước ngoài thu hút.
 Sự tấn công của hàng nhập lậu:
Với hàng trăm km biên giới trên bộ và trên biển cùng địa hình địa lý phức
tạp và tình hình đời sống nghèo khó của dân cư vùng biên giới, cuộc chiến đấu
với hàng lậu đã kéo dài dai dẳng từ rất nhiều năm nay mà kết quả là hàng lậu
vẫn tràn lan tại các thành phố lớn, làm điêu đứng các doanh nghiệp trong nước
và các ngân hàng đầu tư vốn cho các doanh nghiệp này. Các mặt hàng kim khí
điện máy, gạch men, đường cát, vải vóc, quần áo, mỹ phẩm,… là những ví dụ
tiêu biểu cho tình hình hàng lậu ở nước ta.
 Thiếu sự quy hoạch, phân bổ đầu tư một cách hợp lý đã dẫn đến khủng
hoảng thừa về đầu tư trong một số ngành:
Nền kinh tế thị trường thị trường tất yếu sẽ dẫn đến cạnh tranh, các nhà
kinh doanh sẽ tìm kiếm ngành nào có lợi nhất để đầu tư và sẽ rời bỏ những
ngành không đem lại lợi nhuận cho họ và do đó có sự chuyển dịch vốn từ
ngành này qua ngành khác và đây cũng là một hiện tượng khách quan. Tuy
nhiên ở nước ta thời gian qua, sự cạnh tranh đã phát triển một cách tự phát,
hoàn toàn không đi kèm với sự quy hoạch hợp lý, hợp tác, phân công lao động,
chuyên môn hoá lao động, sự bất lực trong vai trò của các hiệp hội nghề nghiệp
và sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Điều này dẫn đến sự gia tăng quá đáng vốn
đầu tư vào một số ngành, dẫn đến khủng hoảng thừa, lãng phí tài nguyên quốc
gia.
b, Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi
 Sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương:
Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội, Chính
phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN)và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều
luật,văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín
dụng ngân hàng. Tuy nhiên, luật và các văn bản đã có song việc triển khai vào

hoạt động ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều vướng
mắc bất cập như một số văn bản về việc cưỡng chế thu hồi nợ. Những văn bản
này đều có quy định: Trong những hợp khách hàng không trả được nợ, NHTM
có quyền xử lý tài sản đảm bảo nợ vay. Trên thực tế, các NHTM không làm
được điều này vì ngân hàng là một tổ chức kinh tế, không phải là cơ quan
quyền lực nhà nước, không có chức năng cưỡng chế buộc khách hàng bàn giao
tài sản đảm bảo cho ngân hàng để xử lý hoặc việc chuyển tài sản đảm bảo nợ
vay để Tòa án xử lý qua con đường tố tụng… cùng nhiều các quy định khác
dẫn đến tình trạng NHTM không thể giải quyết được nợ tồn đọng, tài sản tồn
đọng.
 Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của NHNN:
Bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra ngân
hàng và đảm bảo an toàn hệ thống chưa có sự cải thiện căn bản về chất lượng.
Năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một
số nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới Thanh tra ngân hàng còn chưa theo
kịp. Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát lạc hậu, chậm đựơc đổi mới.
Vai trò kiểm toán chưa đựơc phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ chức
một cách hữu hiệu. Thanh tra tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, khả năng
kiểm soát toàn bộ thị trường tiền tệ và giám sát rủi ro còn yếu. Thanh tra ngân
hàng còn hoạt động một cách thụ động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát sinh, ít
có khả năng ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro và vi phạm. Mô hình tổ chức của
thanh tra ngân hàng còn nhiều bất cập. Do vậy mà có những sai phạm của các
NHTM không được thanh tra NHNN cảnh báo, có biện pháp ngăn chặn từ đầu,
để đến khi hậu quả nặng nề đã xảy ra rồi mới can thiệp. Hàng loạt các sai phạm
về cho vay, bảo lãnh tín dụng ở một số NHTM dẫn đến những rủi ro rất lớn, có
nguy cơ đe dọa sự an toàn của cả hệ thống lẽ ra có thể đã được ngăn chặn ngay
từ đầu nếu bộ máy thanh tra phát hiện và xử lý sớm hơn.
 Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập:
Hiện nay ở VN chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh
nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của

NHNN đã hoạt động đó quỏ một thập niên và đã đạt được những kết quả bước
đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt
động tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp
một cách độc lập và hiệu quả, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật
và ngoài ra việc kết nối thông tin với trang Web – CIC qua đường X25 của Chi
cục tin học ngân hàng còn nhiều trục trặc, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu
tra cứu thông tin .
1.2.3.2 Rủi ro tín dụng do nguyên nhân chủ quan
a, Rủi ro do các nguyên nhân từ phía khách hàng vay
 Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay:
Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều cú cỏc phương án kinh
doanh cụ thể, khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố
ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên những vụ
việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh
hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác.
 Khả năng quản lý kinh doanh kém:
Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh,
đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào
mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh,
tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so
với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh
doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
 Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch:
Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nơ so với vốn tự có cao là đặc
điểm chung của hầu hết các doanh nghiệp VN. Ngoài ra, thói quen ghi chép
đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp
tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh
nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là
thực chất. Khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của doanh
nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế

và xác thực. Đây cũng là nguyên nhân vì sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng
phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng.
b, Rủi ro do các nguyên nhân từ phía ngân hàng cho vay
 Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng:
Kiểm tra nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra NHNN ở tính thời gian vỡ nó
nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người
kiểm tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công
việc kinh doanh. Nhưng trong thời gian trước đây, công việc kiểm tra nội bộ
của các ngân hàng hầu như chỉ tồn tại trên hình thức. Kiểm tra nội bộ cần phải
được xem như hệ thống “thắng” của cỗ xe tín dụng. Cỗ xe càng lao đi với vận
tốc lớn thì hệ thống này càng phải an toàn, hiệu quả thì mới tránh cho cỗ xe
khỏi đi vào những ngã rẽ rủi ro vốn luôn luôn tồn tại thường trực trên con
đường đi tới.
 Bố trí cán bộ thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ:
Một số vụ án kinh tế lớn trong thời gian vừa qua có liên quan đến cán bộ
NHTM đều có sự tiếp tay của một số cán bộ ngân hàng cùng với khách hàng
làm giả hồ sơ vay, hay nâng giá tài sản thế chấp, cầm cố lên quá cao so với
thực tế để rút tiền ngân hàng.
Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố tối quan trọng để giải quyết vấn
đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm,
nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô
cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng.
 Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay:
Các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm
định trước khi cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau
khi cho vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý
một cách chủ động để đảm bảo sẽ đựơc hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong
những trách nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân
hàng nói chung. Việc theo dõi hoạt động của khách hàng vay nhằm tuân thủ
các điều khoản đề ra trong hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng

nhằm tìm ra những cơ hội kinh doanh mới và mở rộng cơ hội kinh doanh. Tuy
nhiên trong thời gian qua các NHTM chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này
một phần do yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng của cán bộ ngân
hàng, một phần do hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các
doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin
mà NHTM yêu cầu.
 Sự hợp tác giữa các NHTM quá lỏng lẻo, vai trò của CIC chưa thực sự
hiệu quả:
Kinh doanh ngân hàng là một nghề đặc biệt huy động vốn để cho vay hay
nói cách khác đi vay để cho vay, do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng
là không thể tránh khỏi, các ngân hàng cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau
nhằm hạn chế rủi ro. Sự hợp tác nảy sinh do nhu cầu quản lý rủi ro đối với
cùng một khách hàng khi khách hàng này vay tiền tại nhiều ngân hàng. Trong
quản trị tài chính, khả năng trả nợ của một khách hàng là một con số cụ thể, có
giới hạn tối đa của nó. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin, dẫn đến việc nhiều
ngân hàng cùng cho vay một khách hàng đến mức vượt quá giới hạn tối đa này
thì rủi ro chia đều cho tất cả chứ không chừa một ngân hàng nào.
Trong tình hình cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng gay gắt như hiện
nay, vai trò của CIC là rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin kịp thời,
chính xác để các ngân hàng cú cỏc quyết định cho vay hợp lý. Đáng tiếc là hiện
nay ngân hàng dữ liệu của CIC chưa đầy đủ và thông tin cũn quỏ đơn điệu,
chưa được cập nhật và xử lý kịp thời.
Tóm lại, rủi ro tín dụng có thể phát sinh do rất nhiều nguyên nhân chủ quan
hoặc khách quan. Các biện pháp phòng chống rủi ro có thể nằm trong tầm tay
của các NHTM nhưng cũng có những biện pháp vượt ngoài khả năng của riêng
từng ngân hàng, liên quan đến vấn đề nội tại của bản thân nền kinh tế đang
chuyển đổi, đang định hướng mô hình phát triển ở VN. Trong phạm vi tầm tay
của các ngân hàng, rủi ro tín dụng phụ thuộc vào năng lực của bộ phận tín dụng
trong việc phát hiện và hạn chế rủi ro từ lúc xem xét quyết định cho vay cũng
như trong suốt thời gian vay. Năng lực cấp tín dụng phụ thuộc vào chuyên môn

của cán bộ tín dụng và nhân viên của họ và các nguồn lực của ngân hàng về
nhân sự cũng như về cơ sở vật chất. Do vậy biện pháp phòng ngừa rủi ro tín
dụng sâu sắc nhất vẫn là các biện pháp liên quan đến việc đào tạo, bố trí cán bộ
và cơ chế kiểm tra, giám sát hành vi của cán bộ trong quá trình xử lý công việc.
Thực hiện tốt các biện pháp này có thể cho rằng con đường quản lý rủi ro tín
dụng của ngành ngân hàng coi như đã đi được hơn một nửa.
1.3 Quản lý rủi ro tín dụng ngân hàng thương mại
1.3.1 Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng
Bản chất tự nhiên của hoạt động ngân hàng là rủi ro. Quản lý rủi ro là hoạt
động trung tâm của ngân hàng. Các ngân hàng được coi là thành công khi mức
độ rủi ro họ tham gia vào ở mức độ hợp lý, được kiểm soát trong pham vi và
năng lực tài chính của họ. Rủi ro có thể được đo lường cho các loại sản phẩm,
dịch vụ khác nhau của ngân hàng. Rủi ro là những tình huống xảu ra ngoài dự
kiến gây nên những tổn thất kinh tế, làm chi phí tăng lên, thu nhập giảm và làm
lợi nhuận giảm đi so với dự kiến ban đầu. Thông thường lợi nhuận mong đợi
càng cao thì xác suất rủi ro xảy ra cũng cao. Ngân hàng thương mại là một
doanh nghiệp, vì một doanh nghiệp bản thân nó trước nhất phải tự trang bị cho
mình cách thức để sinh tồn truong môi trường kinh tế phát triển, làm sao cho
vừa tăng trưởng vừa đảm bảo an toàn. Người ta gọi đó là quản rủi ro ngân
hàng.
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có qui mô lớn nhất
của ngân hàng thương mại – hoạt động tín dụng. Trên quan điểm quản lý toàn
bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan. Rủi ro tin
dụng là bạn đường trong kinh doanh, có thể đề phòng, hạn chứ không thể loại
trừ.
Như vậy, quản lý rủi ro tín dụng là một trong những nội dung quản lý
của NHTM bao gồm: Nhận diện và đánh giá mức độ rủi ro, thực thi các
biện pháp hẹn chế khả năng xảy ra rủi ro và giảm thiểu tổn thất khi rủi ro
tín dụng xảy ra.
Mục đích hoạt động quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại là

nhằm đảm bảo các tài sản và công nợ, vị trí kinh doanh, khả năng cạnh tranh,
sự tồn tại và phát triển của bản thân ngân hàn. Việc quản lỷ rủi ro tín dụng tốt
giúp đảm bảo mức độ rủi ro tín dụng mà ngân hàng gánh chịu không vượt quá
khả nưng về vốn và tài chính của ngân hàng.
1.3.2 Các nguyên tắc quản lý rủi ro tín dụng ngân hàng thương mại
Nguyên tắc chấp nhận rủi ro: Loại bỏ hoàn toàn rủi ro trong hoạt động
ngân hàng là không thể, bởi vì rủi ro luôn hiện diện một cách khách quan vốn
có trong nghiệp vụ của ngân hàng. Do vậy, muốn đạt được lợi nhuận các nhà
quản lý ngân hàng phải biết chấp nhận rủi ro tín dụng ở mức cho phép nào đó.
Nguyên tắc điều hành rủi ro ở mức cho phép: Như đã nói ở trên, các nhà
quản lý chấp nhận rủi ro ở mức độ nào đó. Tuy vậy, mức độ rủi ro chấp nhận
luôn phải nằm trong một ngưỡng cho phép và không được cao quá mức độ thu
nhập của ngân hàng. Mức độ và loại rủi ro cho phép này thường phải có khả
năng điều tiết được trong quá trình quản lý, không phụ thuộc vào hoàn cảnh
khách quan. Đối với các loại rủi ro không có khả năng điều tiết được cần phải
được chuyển đẩy sang các công ty bảo hiểm bên ngoài.
Nguyên tắc quản lý độc lập rủi ro tín dụng với các loại rủi ro khác trong
ngân hàng: Một trong những nguyên lý cơ bản của lý thuyết quản lý rủi ro là
các loại rủi ro khá độc lập với nhau. Và những tổn thất của ngân hàng do các
loại rủi ro gây nên là khác nhau. Do vậy, quản lý rủi ro tín dụng cần phải điều
tiết riêng biệt, không thể áp dụng hoàn toàn các phương pháp điều hành rủi ro
tín dụng cho các loại rủi ro khác và ngược lại.
Nguyên tắc phù hợp với chiến lược chung của ngân hàng: Hệ thống quản
lý rủi ro cần phải được dựa trên nền tảng những tiêu chí chung của chiến lược
phát triển ngân hàng cũng như các chính sách điều hành từng hoạt động riêng
biệt của ngân hàng.
1.3.3 Nội dung quản lý rủi ro tín dụng
1.3.3.1 Nhận diện và đánh giá rủi ro tín dụng
a, Nhận biết rủi ro tín dụng dựa vào các dấu hiệu sau:
(1)Các dấu hiệu tài chính

- Các chỉ số thanh khoản: Thông qua việc phân tích và đánh giá các tỷ lệ
phản ánh khả năng thanh toán như tỷ lệ thanh toán ngắn hạn, tỷ lệ thanh toán
nhanh, … bên cho vay sẽ đo lường được khả năng thanh toán nợ của khách
hàng, qua đó nhận định khả năng hoàn trả nợ của khách hàng.
- Các chỉ số khả năng sinh lời: Ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả nợ gốc
và lói: cỏc chỉ tiêu tỷ suất sinh lời, khả năng sinh lợi so với tổng tài sản (ROA),
khả năng sinh lời so với nguồn vốn chủ sở hữu (ROE), …
- Các vòng quay hoạt động thể hiện sự suy yếu
- Cơ cấu vốn không hợp lý
- Các vòng quay hoạt động thể hiện sự suy yếu
(2)Các dấu hiệu phi tài chính
- Dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý với khách hàng
 Có sự thay đổi về cơ cấu nhân sự trong hệ thống quản trị
 Thuyên chuyển nhân viên quá thường xuyên
 Xuất hiệ sự bất đồng trong hệ thống điều hành
 Quản lý có tính gia đình
 Ít kinh nghiêm, xuất hiện nhiều hành động nhất thời
- Dấu hiệu về công nghệ và marketing
 Khó khăn trong phải triển sản phẩm mới, hoặc không có sản phẩm
thay thế
 Sản phẩm có tính thời vụ cao
 Có biểu hiện cắt giảm chi phí
 Thay đổi trờn thỡ trường về lãi suất, tỷ giá, mất khách hàng lớn,
vấn đề thị hiếu,…
b, Đánh giá RRTD
Đánh giá RRTD là bước rất quan trọng để Ngân hàng xác định được mức độ
xảy ra rủi ro tín dụng và có những biện pháp phòng ngừa và hạn chế kịp thời.
Để đánh giá rủi ro xảy ra trong hoạt động tín dụng theo 2 phương pháp định
tính và định lượng.
 Mô hình định tính

- Phân tích tín dụng : Áp dụng mô hình 6C để phân tích đặc điểm của
khách hàng trong việc hoàn trả vốn vay với việc tập trung vào khả năng và điều
kiện của khách hàng, các nhà quản lý trong lĩnh vực tín dụng thường áp dụng
nguyên tắc 6C:
Quy tắc 6C trong tín dụng bao gồm:
1. Character (Tư cách người vay)
• Quan hệ vay trả đã qua
• Kinh nghiệm của các Ngân hàng khác đối với khách hàng này• Mục đích
khoản vay
• Mục đích khoản vay
• Khả năng phân tích, dự báo về hoạt động kinh doanh của chủ doanh
nghiệp• Phân loại tín dụng, mức độ tín chấp của khoản vay
• Phân loại tín dụng, mức độ tín chấp của khoản vay
• Có người bảo lãnh cho khoản vay hay không
2. Capacity (Năng lực của người vay)
• Năng lực hành vi dân sự của chủ doanh nghiệp và của người bảo lónh•
Những hồ sơ pháp lý chứng minh năng lực pháp lý của doanh nghiệp vay
vốn• Mô tả quá trình hoạt động của doanh nghiệp đến thời điểm hiện tại, cơ
cấu sở hữu, chủ sở hữu, tính chất hoạt động, sản phẩm, khách hàng chính,
người cung cấp chính của doanh nghiệp
• Những hồ sơ pháp lý chứng minh năng lực pháp lý của doanh nghiệp vay
vốn
• Mô tả quá trình hoạt động của doanh nghiệp đến thời điểm hiện tại, cơ
cấu sở hữu, chủ sở hữu, tính chất hoạt động, sản phẩm, khách hàng chính,
người cung cấp chính của doanh nghiệp
3. Cashflow (Thu nhập của người vay)
• Thu nhập đã qua, tình hình phân chia cổ tức, doanh thu bán hàng•
Cashflow hiện tại và dự kiến
• Cashflow hiện tại và dự kiến
• Tính thanh khoản của tài sản lưu động

• Vòng quay nợ phải thu, phải trả và tồn kho
• Cơ cấu nguồn vốn, tình trạng vay nợ• Kiểm soát chi phí
• Các tỷ lệ về khả năng trả lãi
• Khả năng và chất lượng quản lý
•Những thay đổi gần đây trong phương pháp hạch toán kế toán
4. Collateral (Tài sản đảm bảo)
• Cú cỏc tài sản gì?
• Khả năng bị lỗi thời, mất giá của tài sản
• Giá trị tài sản
• Mức độ chuyên biệt của tài sản
•Tình trạng đã bị cầm cố, thế chấp của tài sản, các hạn chế khỏc• Tình trạng
bảo hiểm
• Tình trạng bảo hiểm
• Đã được dùng để bảo lãnh cho người khác
• Vị thế của Ngân hàng đối với việc đòi cầm cố/thế chấp đối với tài sản•
Nhu cầu vay vốn trong tương lai
• Nhu cầu vay vốn trong tương lai
5. Conditions (Các điều kiện)
• Địa vị cạnh tranh hiện tại của khách hàng trong ngành công nghiệp và thị
phần dự kiến
• Kết quả hoạt động của khách hàng so với các đối thủ cạnh tranh khác
trong ngành• Tình hình cạnh tranh của sản phẩm
• Tình hình cạnh tranh của sản phẩm
• Mức độ nhạy cảm của khách hàng đổi với chu kỳ kinh doanh và những
thay đổi về công nghệ
• Điều kiện/tỡnh trạng thị trường lao động trong ngành hay trong khu vực
thị trường mà khách hàng đang hoạt động
• Ảnh hưởng của lạm phát đối với bảng cân đối kế toán và với CF của
khách hàng• Tương lai của ngành
• Tương lai của ngành

• Các yếu tố chính trị, pháp lý, xã hội, công nghệ, môi trường ảnh hưởng
đến hoạt động kinh doanh, ngành nghề của khách hàng.
6. Control (Kiểm soát)
• Các luật, qui định, qui chế hiện hành liên quan đến khoản tín dụng đang
được xem xét
• Hồ sơ giấy tờ cho vay, giải ngân phải có đầy đủ và phải được ký bởi cỏc
bờn• Mức độ phù hợp của khoản vay đối với qui chế, qui định của Ngân
hàng• Ý kiến của cỏc chuyờn giỏ kinh tế, kỹ thuật về môi trường của
ngành, về sản phẩm, về các yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến khoản vay
• Mức độ phù hợp của khoản vay đối với qui chế, qui định của Ngân hàng
• Ý kiến của các chuyên giá kinh tế, kỹ thuật về môi trường của ngành, về
sản phẩm, về các yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến khoản vay.
- Kiểm tra tín dụng:
Nguyên tắc chung đang được áp dụng trong hầu hết các ngân hàng hiện
nay bao gồm:
•Tiến hành kiểm tra tất cả các loại tín dụng theo định kỳ nhất định. Ví dụ:
30, 60, 90 ngày đối với các khoản tín dụng nhỏ và vừa, đối với những khoản
tín dụng lớn thì phải thường xuyên hơn.
•Xây dựng kế hoạch quá trình kiểm tra một cách thận trọng của mỗi
khoản tín dụng đều được kiểm tra bao gồm: kế hoạch trả nợ của khách hàng,
chất lượng và điều kiện của tài sản dùng làm bảo đảm tín dụng, tính đầy đủ và
hợp lệ của hợp đồng tín dụng, đánh giá điều kiện tài chính và những dự báo về
người vay,…
•Kiểm tra thường xuyên các khoản tín dụng lớn
•Quản lý chặt chẽ và thường xuyên các khoản tín dụng có vấn đề
•Tăng cường kiểm tra tín dụng khi nền kinh tế có những biểu hiện đi
xuống hoặc những ngành nghề sử dụng nhiều tín dụng cảu ngân hàng có những
khó khăn trong sản xuất.
 Mô hình định lượng
Áp dụng mô hình xếp hạng Moody’s và Standard & poor’s:

Dịch vụ xếp hạng tín nhiệm đã phát triển từ lâu trên thế giới, Moody’s và
Standard & Poor’s (S&P) là hai tổ chức xếp hạng tín nhiệm có uy tín trên thị
trường tài chính thế giới. Đối với S&P mức tín nhiệm cao nhất là AAA, trong
khi của Moody’s là Aaa. Việc xếp hạng giảm dần xuống AA và Aa sau đó tiếp
tục giảm xuống thể hiện rủi ro tín dụng lên cao.
Bảng 1.1: Mô hình xếp hạng của Moody’s
Hạng mức tín dụng của Moody’s
Xếp hạng Tình trạng
Aaa Mức tín nhiệm cao nhất
Aa Mức tín nhiệm cao
A Mức tín nhiệm cao vừa
Baa Mức tín nhiệm vừa
Ba Nhiều yếu tố đầu cơ
B Đầu cơ
Caa Mức tín nhiệm kém
Ca Đầu cơ có rủi ro cao
C Mức tín nhiệm thấp nhất
Bảng 1.2: Mô hình xếp hạng Standard & Poor’s
Hạng mức tín nhiệm Standard & Poor’s
Xếp hạng Tình trạng
AAA
Doanh nghiệp nằm
trong vùng an toàn
Trái phiếu có thể
đầu tư
AA+
AA
A+
A
BBB

BBB-
Doanh nghiệp nằm
trong vùng cảnh báo,
Trái phiếu có độ
rủi ro cao
BB+
BB
B
B- Doanh nghiệp nằm
trong vùng cảnh báo,
nguy cơ phá sản cao
Trái phiếu không
nên đầu tư
CCC+
CCC
CCC-
D
1.3.3.2 Xây dựng các phương án quản lý rủi ro tín dụng
- Xây dựng cơ cấu tổ chức quản lý
Cơ cấu tổ chức QLRRTD đầu tư có ý nghĩa quan trọng trong công tác
QLRRTD. Cơ cấu tổ chức được tạo lập một cách có hệ thống, phù hợp với tiêu
chuẩn và thông lệ quốc tế sẽ tạo điều kiện nâng cao chất lượng, đảm bảo an
toàn trong hoạt động tín dụng và hạn chế RRTD.
Cơ cấu tổ chức QLRRTD tốt phải phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của
từng bộ phận; phân cấp, uỷ quyền rõ ràng trong hoạt động của hệ thống; xác
định rõ quyền hạn và trách nhiệm của từng bộ phận; phát huy hiệu quả công tác
kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
- Chính sách tín dụng
Hoạt động tín dụng là một hoạt động bao trùm của ngân hàng. Với tầm
quan trọng và quy mô lớn, hoạt động này luôn cần thực hiện theo một chính

sách rõ ràng, đã được xây dựng và hoàn thiện qua nhiều năm, đú chớnh là
chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng cung cấp cho các cán bộ tín dụng và
nhà quản lý một khung chỉ dẫn chi tiết để đề ra các quyết định cũng như định
hướng danh mục đầu tư trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Xây dựng
được chính sách tín dụng hợp lý có vai trò rất lớn trong việc điều hành hoạt
động tín dụng trôi chảy và việc quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân
hàng.
- Quy trình QLRRTD
Quy trình tín dụng là quy định cụ thể các bước nghiệp vụ, yêu cầu và nội
dung của từng bước nghiệp vụ từ nhận và thẩm định hồ sơ đến nghiệp vụ cho
vay, thu nợ, kiểm tra, kiểm soát hoạt động tín dụng,… đồng thời phân định rõ
trách nhiệm của từng bộ phận tham gia thực hiện công tác tín dụng.
Quy trình tín dụng được xây dựng hợp lý sẽ giúp cho công tác quản lý
tín dụng được thống nhất, khoa học, hạn chế và phòng ngừa rủi ro. Quy trình
tín dụng phải xác định được người thực hiện công việc và trách nhiệm của cán
bộ liên quan trong quá trình cho vay. Quy trình tín dụng phải đảm bảo tuân thủ
các văn bản pháp lý của Nhà nước và quy định riêng của tổ chức tín dụng.
- Phân loại nợ
Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN “Nợ bao gồm: Các khoản cho vay, ứng
trước, thấu chi và cho thuê tài chính; các khoản chiết khấu, tái chiết khâu
thương phiếu và giấy tờ có giá khỏc; cỏc khoản bao thanh toán; các hình thức
tín dụng khác. Việc phân loại nợ được tiến hành theo Quyết định 18/2007/QĐ-
NHNN bổ xung cho quyết định 493 ban hành năm 2005. Được phân loại như
sau:
• Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ trong hạn được đánh giá có khả
năng thu hồi đủ gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh
trong tương lai như các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay, chấp nhận
thanh toán.
• Nhóm 2: Nợ cần chú ý, bao gồm nợ quá hạn dưới 90 ngày và nợ cơ cấu
lại thời hạn trả nợ;

• Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180
ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày;
• Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao gồm nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày và
nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày; và
• Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày,
nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trên 180 ngày và nợ khoanh chờ Chính phủ
xử lý.
- Quản lý nợ có vấn đề
Sau khi phát sinh khoản nợ có vấn đề, việc thực hiện quản lý thường
được thực hiện qua các bước:
•Thông tin trong nội bộ.
Qua quá trình quản lý các khoản vay, khi có dấu hiệu phát sinh khoản nợ
vay có vấn đề, có thể ảnh hưởng xấu đến chất lượng của khoản vay và khả
năng trả nợ của người vay, CBTD cần phải thông báo bằng văn bản cho Lãnh
đạo phũng, cỏc phũng có liên quan, ban lãnh đạo. Nội dung truyền đạt cần phải
nêu rõ được: Bản chất của vấn đề và nguyên nhân; Vấn đề được phát hiện ra
như thế nào; Những ảnh hưởng có thể phát sinh của vấn đề này đối với tổ chức
tín dụng, trường hợp dễ xảy ra nhất và trường hợp xấu nhất; Đề xuất về các
hành động khẩn cấp mà TCTD cần thực hiện.
•Kiểm tra hồ sơ khoản vay.
CBTD cần ngay lập tức kiểm tra lại hồ sơ của khoản vay để biết được: Hồ
sơ có đầy đủ và hợp lệ không; Biến cố không trả được nợ đã xảy ra chưa hoặc
biến cố không trả được nợ chắc chắn sẽ xảy ra trong tương lai gần hay không;
TCTD có những quyền gỡ, cú những khả năng hành động nào để thực hiện
những quyền này. Giai đoạn này CBTD có thể tham khảo ý kiến của bộ phận
pháp chế.
•Thông tin với người vay để người vay thấy được TCTD đã biết vấn đề
và khẳng định lại tính chính xác của thông tin. Đồng thời TCTD kiểm tra thái
độ của người vay, kế hoạch hành động của người vay.
•Thay đổi phân loại tín dụng.

Trên cơ sở đánh giá ảnh hưởng những thông tin trên, TCTD cần thay đổi
xếp loại đối với khoản vay để đánh giá đúng tình hình hoạt động tín dụng.
•Chiến lược hành động và xử lý nợ có vấn đề.
TCTD cần phải nhanh chóng đề ra và thực hiện chiến lược của mình.
Những hành động này phải được xây dựng một cách thận trọng trên cơ sở
đánh giá của TCTD về: Nguyên nhân thực sự của vấn đề; Thái độ, hành
động ban lãnh đạo của DN; Vị thế của TCTD. Qua đó, TCTD xây dựng
được các giải phải giải quyết vấn đề trờn, cỏc bước hành động.
1.3.3.3 Kiểm tra, kiểm soát rủi ro tín dụng
Là những hoạt động tập trung vào việc né tránh, ngăn chặn, giảm bớt
hoặc kiểm soát những RRTD. Cần phải có các chốt kiểm tra nằm trong các quy
trình nghiệp vụ (ví dụ: hệ thống kiểm soát nội bộ) để kiềm chế RRTD đầu tư
trong hạn mức cho phép đồng thời có biện pháp để theo dõi các trường hợp
vượt hạn mức rủi ro đã quy định. Các phương pháp kiểm soát rủi ro gồm :
- Né tránh rủi ro: là né tránh những hoạt động, con người, tài sản làm phát
sinh tổn thất. Biện pháp đầu tiên là chủ động né tránh trước những rủi ro xảy ra
và biện pháp thứ hai là loại bỏ những nguyên nhân gây ro rủi ro
- Ngăn ngừa tổn thất: tập trung vào việc giảm bớt số lượng tổn thất xảy ra
hay giảm mức thiệt hại khi tổn thất xảy ra.
- Giảm thiểu rủi ro: Những nỗ lực giảm thiểu tổn thất khi rủi ro xảy ra chỉ
có thể tập trung vào sự tương tác giữa mối nguy cơ và yếu tố môi trường. Còn
kết quả trực tiếp và hậu quả lâu dài của rủi ro đó sẽ được đề xướng sau khi tổn
thất xuất hiện và nhà quản trị rủi ro phải tối thiểu hoá kết quả và hậu quả của
nó.
1.3.3.4 Các biện pháp hạn chế khi tổn thất rủi ro xảy ra
- Xây dựng quỹ dự phòng rủi ro
- Mua bảo hiểm tín dụng
- Phân tán rủi ro
1.4 Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng
1.4.1 Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu

- Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn
thỏa thuận ghi trên hợp đồng tín dụng.
Tỷ lệ nợ quá hạn = Nợ quá hạn / Tổng dư nợ
Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn phản ánh chất lượng tín dụng, nó đo độ
an toàn và đánh giá rủi ro tín dụng của ngân hàng.
- Nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn đó quỏ một kỳ gia hạn nợ
Tỷ lệ nợ khó đòi = Nợ khó đòi / Tổng dư nợ
Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi phản ánh tổn thất trong hoạt động tín dụng
của ngân hàng.
- Nợ xấu là khoản nợ dây dưa tồn đọng khó có thể thu hồi và không được
tái cơ cấu.
Tỷ lệ nợ xấu = Nợ xấu/Tổng dư nợ cho vay: Hệ số này cho biết tỷ trọng
nợ xấu (nợ nhóm 3 – 5) trong tổng dư nợ. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là chỉ
số cơ bản để đánh giá chất lượng tín dụng của tổ chức tín dụng
1.4.2 Hệ số rủi ro tín dụng
Hệ số RRTD = Nợ quá hạn/Tổng tài sản có
Chỉ tiêu này phản ánh tỷ lệ nợ quá hạn chiếm trong tổng tài sản có.
1.4.3 Tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu
Tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu = Tổng vốn tự cú/Tổng tài sản điều chỉnh theo
trọng số rủi ro. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là một thước đo độ an toàn vốn thể
hiện khả năng chịu đựng các cú sốc tài chính liên quan đến hoạt động của
TCTD. Các TCTD (trừ chi nhánh các ngân hàng nươc ngoài) phải duy trì tủy
lệ giữa vốn tự có và tổng tài sản “Cú” rủi ro ở mức tối thiểu 8%. Với các ngân
hàng thương mại nhà nước mà tủy lệ này thấp hơn mức 8% thì trong thời hạn
tối đa 3 năm phải tăng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu này lên bằng mức quy định.
1.4.4 Khả năng bù đắp rủi ro tín dụng
Khả năng bù đắp RRTD = DPRRTD được trích lập/Nợ quá hạn.
1.4.5 Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng
Tỷ lệ DPRRTD = DPRRTD được trích lập/Dư nợ tín dụng cho kỳ báo cáo
Tỷ lệ này phản ánh số dư quỹ dự phòng rủi ro mà TCTD trích lập so với dư nợ

tín dụng cho vay. Chỉ tiêu này nói lên sự chuẩn bị của TCTD cho khoản tổn thất tín
dụng thông qua việc trích lập quỹ DPRRTD hàng năm từ thu nhập hiện tại của
TCTD.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI
NGÂN HÀNG TMCP KỸ THƯƠNG (TECHCOMBANK)
2.1 Giới thiệu sơ lược về NH TMCP Kỹ thương (Techcombank)
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
Theo giấy phép hoạt động số 0400/NH-GP do Thống đốc ngân hàng Nhà
nước Việt Nam cấp ngày 06/08/1993, giấy phép thành lập số 1534/QĐ-UB do
UBND thành phố Hà Nộ cấp 04/09/1993, giấy phép kinh doanh số 055697 do
Trọng tài kinh tế Hà Nội (nay là Sở kế hoạch và đầu tư Hà Nội) cấp
07/09/1993, ngày 27/09/1993 Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương Việt
Nam – Techcombank được chính thức thành lập, tên giao dịch quốc tế là:
Vietnam Technological and Commercial Joint stock Bank- Techcombank (viết
tắt là TCB). Đây là một trong những Ngân hàng Thương mại Cổ phần đầu tiên
của Việt Nam được thành lập trong bối cảnh đất nước đang chuyển sang nên
kinh tế thị trường với số vốn điều lệ là 20 tỷ đồng, được chia thành 4000 cố
phiếu, mỗi cổ phiếu có mệnh giá 5 triệu đồng. Cổ đông lớn nhất của ngân hàng
là hãng Hàng không Việt Nam với tổng số vốn góp là 6 tỷ đồng. Ngoài ra còn
có một số doanh nghiệp nhà nước như Tổng công ty Da giầy, Tổng công ty Dệt
may và một số cá nhân. Trụ sở chính ban đầu được đặt tại số 24 Lý Thường
Kiệt, Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Không ngừng lớn mạnh cùng với thời gian, tới năm 1995 TCB đã tăng
vốn điều lệ lên 51,495 tỷ đồng. Trong thời gian này TCB cũng đã thành lập Chi
nhánh TCB Hồ Chí Minh, khởi đầu cho quá trình phát triển nhanh chóng của
TCB tại các đô thị lớn.
Năm 1996, TCB thành lập tiếp chi nhành TCB Thăng Long cựng phũng
giao dịch Nguyễn Chí Thanh tại Hà Nội, thành lập Phòng giao dịch Thắng lợi
trực thuộc TCB Hồ Chí Minh và tiếp tục tăng vốn điều lệ lên 70 tỷ đồng.
Năm 1998, trụ sở chính của TCB được chuyển sang tòa nhà TCB – 15

Đào Duy Từ, Hà Nội và thành lập chi nhánh tại Đà Nẵng. Như vậy chỉ sau năm
năm hoạt động, TCB đã nhanh chóng mở rộng thị trường và có mặt tại ba
thành phố lớn của cả nước, đó là Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng.
Số vốn điều lệ của TCB đã tăng lên 80,020 tỷ đồng vào năm 1999 và tiếp
tục tăng lên 102,345 tỷ đồng vào năm 2001. Đây cũng là năm đáng nhớ của
TCb khi ngân hàng triển khai hệ thống phần mềm ngân hàng Globus cho toàn
hệ thống TCB nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, Quan tâm tới
nhu cầu của khách hàng, chăm lo tới khách hàng luôn là phương châm kinh
doanh hàng đầu của TCB.
Với những nỗ lực không biết mệt mỏi của tập thể Ban lãnh đạo và của
toàn thể cán bộ công nhân viên, TCb đã dần chiếm lĩnh thị trường ngân hàng
vốn rất sôi động và đầy thách thức, thu hút ngày càng nhiều khách hàng trong
và ngoài nước. Để mở rộng thị trường và thuận lợi cho nhu cầu giao dịch của
khách hàng, năm 2002, TCB đã thành lập một loạt các chi nhánh tại các tỉnh và
thành phố trong cả nước. Đố là chi nhánh Chương Dương và Hoàn Kiếm tại Hà
Nội, Chi nhánh Hải Phòng tại Hải Phòng, Chi nhánh Thanh Khê tại Đà Nẵng,
Chi nhánh Tõn Bỡnh tại thành phố Hồ Chí Minh. TCB cũng là Ngõng hàng
thương mại cổ phần có mạng lưới giao dịch rộng nhất tại Thủ đô Hà Nội. Mạng
lưới bao gồm Hội sở chính và tám chi nhánh cùng bốn phòng giao dịch tại các
thành phố lớn trong cả nước.
Năm 2004, khai trương biểu tượng mới của Techcombank và tăng vốn
điều lệ lên 412 tỷ đồng.
Năm 2005, thành lập các chi nhành cấp 1 tại: Lào Cai, Hưng Yên, Vĩnh
Phúc, Bắc Ninh, T.P Nha Trang, Vũng Tàu… Ngày 29/9/2005 tăng vốn điều lệ
lên 555 tỷ đồng.
Năm 2006, TCB vinh dự nhận giải thưởng về thanh toán quốc tế từ the
Bank of New Yorks, Citibank, Wachovia và nhận cúp vàng “Vỡ sự tiến bộ xã
hội và phát triển bền vững” do Tổng liên đoàn lao động Việt Nam trao. Tháng
8/2006: Moody’s, hãng xếp hạng tín nhiệm hàng đầu thế giới đã công bố xếp
hạng tín nhiệm của Techcombank, ngân hàng TMCP đầu tiên tại Việt Nam

được xếp hạng bởi Moody’s.
Năm 2007, Tổng tài sản của TCB đạt gần 2,5 tỷ USD và trở thành ngân
hàng có mạng lưới giao dịch lớn thứ hai trong khối ngân hàng TMCP với gần
130 chi nhánh và phòng giao dịch tại thời điểm cuối năm 2007. Cổ đông chiến
lược của TCB là HSBC tăng phần vốn góp lên 15% và trực tiếp hỗ trợ tích cực
trong quá trình hoạt động của Techcombank.
Năm 2008, Nhận các giải thưởng Sao Vàng Đất Việt 2008 do Hội Doanh
nghiệp trẻ trao tặng, giải thưởng “Thương hiệu chứng khoán uy tớn” và “Cụng
ty cổ phần hàng đầu Việt Nam” do UBCK trao tặng. Tăng tỷ lệ sở hữu của đối
tác chiến lược HSBC từ 15% lên 20% và tăng vốn điều lệ lên 3.165 tỷ đồng.
Năm 2009, TCB tăng vốn điều lệ lên 5.400 tỷ đồng. Nhận giải thưởng
“Top 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2009” do Việt Nam Report
trao tặng và giải thưởng “Ngõn hàng xuất sắc trong hoạt động thanh toán quốc
tế” do ngân hàng Wachovina trao tặng.
Năm 2010, Tăng vốn điều lệ lên 6.932 tỷ đồng . Đồng thời , triển khai các
chương trình chuyển đổi chiến lược tổng thể, công bố tầm nhìn sứ mệnh và các
giá trị cốt lõi của Techcombank. Đồng thời thực hiện việc tái cấu trúc mụ
mỡnh kinh doanh và quản lý và chuyển đổi văn hóa doanh nghiệp.
Trải qua hơn 16 năm hoạt động, đến nay Techcombank đã trở thành một
trong những ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu Việt Nam với tổng tài
sản đạt trên 107.910 tỷ đồng (tớnh đên hết tháng 6/2010). Techcombank có cổ
đông chiến lược là ngân hàng HSBC với 20% cổ phần. Với mạng lưới gần 230
chi nhánh, phòng giao dịch trên hơn 40 tỉnh và thành phố trong cả nước, dự
kiến đến gần cuối năm 2011, Techcombank sẽ tiếp tục mở rộng, nâng cao tổng
số chi nhánh và phòng giao dịch lên 300 điểm trên toàn quốc. Techcombank
còn là ngân hàng đầu tiên và duy nhất được Financial Insights tặng danh hiệu
Ngân hàng dẫn đầu về giải pháp và ứng dụng công nghệ. Hiện tại, với đội ngũ
nhân viên lên tới 4000 người, Techcombank luôn sẵn sàng đáp ứng mọi yêu
cầu về dịch vụ dành cho khách hàng, Techcombank hiện phục vụ trên 1 triệu
khách hàng vỏ nhõn, gần 42000 khách hàng doanh nghiệp.

2.1.3 Sơ đồ cơ cấu tổ chức
ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
Ban điều hành
UB Thường trực
UB kiểm toán và rủi ro
UB xử lý nợ và RRTD
UB nhân sự và lương
thưởng
Ban kiểm soát
EXCO
ALCO
HĐ tín dụng cao cấp
HĐ đầu tư tài chính
HĐ đầu tư tài sản
HĐ đầu tư công nghệ tin học
HĐ sản phẩm
VP HĐQT
Văn phòng đại
diện miền Nam
Văn phòng đại
diện miền Trung
K.Quản trị rủi ro
Khối pháp chế
K.Tài chính&Kế hoạch
K.Chiến lược&phát triển
NH
K.Ngân
hàng giao
dịch

K.KH
DN
lớn
K.KH
định
chế tài
chính
K.DVH
KHDN
vừa và
nhỏ
K.Nguồn
vốn &
Thị
trường
TC
K.DV
và TC

nhân
K.Vận
hành&
Công
nghệ
K.Bán
hàng&
Kênh
phân phối
Khối
Marketing

K.Quản
trị nguồn
nhân lực

×