Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Một số quan điểm của hồ chí minh về xây dựng nền văn hoá mới và sự vận dụng của đảng cộng sản việt nam vào sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.66 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về văn hoá là một trong những lĩnh
vực phong phú và sâu sắc nhất, có giá trị bền vững nhất. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
văn hoá là sự kết tinh những tinh hoa văn hoá hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam,
phản ánh, định hướng các hoạt động văn hoá của nhân dân ta trong quá trình giành
độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết của UNESCO về Kỷ niệm 100
năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Sự đóng góp quan trọng về
nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong lĩnh vực văn hoá, giáo dục, nghệ thuật là
kết tinh truyền thống hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam. Những tư tưởng của
Người là hiện thân của những khát vọng dân tộc, là sự khẳng định bản sắc dân tộc
Việt Nam được nâng lên một tầm cao mới.
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã xây đắp
nên một nền văn hoá kết tinh sức sống trường tồn và in đậm bản sắc của dân tộc.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam luôn luôn
quán triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, xác định văn hoá là một mặt
trận quan trọng, là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát
triển kinh tế - xã hội. Quan điểm, đường lối về văn hoá luôn được Đảng quan tâm bổ
sung, phát triển và hoàn thiện để phù hợp và hiệu quả nhất đối với mỗi bước phát triển
của cách mạng.
Trong thời đại toàn cầu hóa, quốc tế hóa, bùng nổ thông tin và giao lưu văn hóa một
cách mạnh mẽ, chúng ta đang sống trong một thời đại mà khoa học, kỹ thuật và công
nghệ đã đem đến những biến đổi cực kỳ lớn lao cho cuộc sống của con người, trở thành
động lực vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Nhưng
cũng chính ở thời điểm này, nhiều vấn đề tiêu cực và khủng hoảng về xã hội đã nảy sinh
trong đời sống, buộc chúng ta phải nhìn nhận lại yêu cầu phát triển bền vững với vai trò,
vị trí đặc biệt của văn hóa. Vì lẽ đó, trở lại với quan điểm văn hóa trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về phát triển đất nước là một vấn đề vừa có ý nghĩa chiến lược vừa mang ý nghĩa
thời sự quan trọng
Vì vậy, em lựa chọn đề tài: “Một số quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng
nền văn hoá mới và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam vào sự nghiệp xây


dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ở nước ta hiện nay”
1
Trong phạm vi của tiểu luận, chỉ đề cập đến một số khía cạnh của vấn đề. Em rất
mong được sự góp ý của các thầy cô để tiểu luận được hoàn chỉnh hơn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Góp phần làm sáng tỏ nhận thức về một số nội dung trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hoá, từ đó có thể thấy rõ được tầm quan trọng của việc xây dựng nền văn
hoá mới ở nước ta hiện nay.
- Làm rõ một số vấn đề về đường lối xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam của Đảng ta.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: + Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá.
+ Đường lối xây dựng nền văn hoá Việt Nam của Đảng.
- Phạm vi nghiên cứu: Một số quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn
hoá mới; Đường lối xây dựng văn hoá của Đảng trong thời kỳ đổi mới.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Tìm hiểu, khái quát đề tài.
- Sưu tầm sách báo nói về tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
- Phương pháp thu thập tài liệu, tổng hợp so sánh, phân tích…
5. Kết cấu tiểu luận
- Mở đầu
-Nội dung: 2 chương
+ Chương 1: Một số quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hoá.
+ Chương 2: Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về văn hoá vào xây dựng và phát
triển nền văn hoá việt nam trong giai đoạn hiện nay
- Kết luận
- Tài liệu tham khảo
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HOÁ
1.1. Khái niệm văn hoá của Hồ Chí Minh.

2
Văn hoá là một hiện tượng xã hội có phạm vi biểu hiện rất rộng. Vì thế khi tìm
hiểu về lĩnh vực này, từ trước đến nay đã có nhiều cách hiểu khác nhau về văn hoá:
- Theo nghĩa rộng: Văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do loài
người sáng tạo ra để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của mình trong tiến trình đi
lên của lịch sử. Văn hoá là đặc trưng cho toàn bộ đời sống của loài người. Xây dựng
văn hoá là xây dựng tất cả các mặt của đời sống xã hội và quan tâm đến trình độ phát
triển của con người.
- Theo nghĩa hẹp hơn: đó là những giá trị tinh thần, là đời sống tinh thần của xã
hội, như đạo đức, tín ngưỡng, tôn giáo, thẩm mỹ, tâm linh, nghệ thuật… Như vậy, văn
hoá chỉ là một mặt chứ không phải là toàn bộ đời sống xã hội loài người.
- Theo nghĩa hẹp nhất: văn hoá là trình độ học vấn của con người.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, chúng ta thấy rằng Người cũng
quan niệm về văn hoá theo những nghĩa như trên và tuỳ theo từng thời kỳ, Người sử
dụng khái niệm văn hoá với những nội hàm rộng hẹp khác nhau. Nhưng khi bắt tay
vào xây dựng đời sống văn hoá mới, Người coi văn hoá là đời sống tinh thần, thuộc
kiến trúc thượng tầng để có sự phân biệt tương đối với các mặt khác của đời sống xã
hội như kinh tế, chính trị, đạo đức và thấy rõ được mối quan hệ khăng khít giữa văn
hoá với các lĩnh vực đó.
Trong Mục đọc sách ở phần cuối tập Nhật ký trong tù (1942- 1943), lần đầu tiên
Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm về văn hoá như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục
đích của cuộc sống, loài người mới phát minh và sáng tạo ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những phát minh và
sáng tạo đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt
cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu
cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa là xuất phát từ cách tiếp cận mác-xít và
rất gần gũi với nhận thức hiện đại, khi coi văn hóa không chỉ đơn thuần là đời sống
tinh thần của con người - xã hội (theo cách phân khúc rời rạc), mà từ trong bản chất

của mình, nó chính là linh hồn, là hệ thần kinh của một xã hội, là sức mạnh trường tồn
của cả dân tộc, là sức sống vươn lên của thời đại. Văn hóa không phải là toàn bộ đời
sống con người xã hội, mà là phần cốt tử, là tinh hoa được chưng cất, kết tụ nên cái
bản chất, bản sắc, tính cách của dân tộc, của thời đại. Nó được thăng hoa từ hơi thở
3
cuộc sống, từ năng lực, trình độ và phương thức sống của mỗi cá nhân, mỗi cộng
đồng. Và đến lượt mình, văn hóa hiện diện trong mọi hoạt động từ suy tư đến hành
động thực tế, từ hoạt động cá nhân đến những vận động xã hội, từ hoạt động vật chất
đến những sáng tạo tinh thần những phát minh, sáng chế, tạo ra những giá trị mới của
sản xuất vật chất, khoa học - kỹ thuật - công nghệ, văn học - nghệ thuật.
Năm 1970, nghĩa là gần 30 năm sau thời điểm Hồ Chí Minh viết những lời này,
tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hóa họp ở Vơ-ni-dơ (I-ta-li-a),
UNESCO đã thừa nhận khái niệm do Ph.Mây-ơ (F. Mayor) - nguyên Tổng Giám đốc
của tổ chức này đưa ra là khái niệm chung, chính thức của cộng đồng quốc tế về văn
hóa: “Văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác,
từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lối
sống và lao động”. Nếu so sánh, có thể thấy, khái niệm này của UNESCO về văn hóa
có nội dung cơ bản như nội dung khái niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cái khác nhau
của hai khái niệm này là ở chỗ, khái niệm của ông Ph.Mây-ơ chỉ nhấn mạnh đến tính
đặc thù của các giá trị văn hóa, tức là “cái làm cho dân tộc này khác với dân tộc
khác”. Còn trong khái niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa, văn hóa không chỉ là cái
tạo nên tính đặc thù của dân tộc, mà còn là những “giá trị nhằm thích ứng với những
nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Nó cũng cho chúng ta thấy rằng, trong
quan điểm của Hồ Chí Minh, văn hoá bao hàm hai lĩnh vực là văn hoá vật chất và văn
hoá tinh thần tương ứng với hai hình thức sản xuất của xã hội loài người là sản xuất
vật chất và sản xuất tinh thần. Văn hoá vật chất biểu hiện lĩnh vực hoạt động vật chất
và toàn bộ kết quả của hoạt động này, bao gồm: công cụ lao động, nhà ở và những vật
dụng cần thiết cho đời sống hàng ngày như ăn, mặc, đi lại, thông tin, giao lưu.v.v…
Văn hoá tinh thần được phản ánh trong hoạt động ý thức, hoạt động sản xuất tinh
thần, cùng với toàn bộ kết quả của nó như: hoạt động nhận thức, đạo đức, pháp luật,

nghệ thuật, giáo dục đào tạo, tôn giáo tín ngưỡng.v.v…Việc phân định hai lĩnh vực
văn hoá trên đây chỉ là tương đối vì mỗi kết quả của những hoạt động này đều hàm
chứa trong mình nó cả hai giá trị, giá trị vật chất và giá trị tinh thần.
“Nhu cầu đời sống” của con người luôn phát triển cũng như “đòi hỏi của sự sinh
tồn” của xã hội loài người luôn luôn nâng cao, hoàn thiện. Cũng có nghĩa, nói đến văn
hóa là nói đến giá trị, nhưng là những giá trị kết tinh lao động sáng tạo của con người
trên các bình diện hoạt động nhằm cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo chính bản
thân mình, hướng tới chân, thiện, mỹ, tức là hướng tới sự tốt đẹp, nhân văn và không
4
ngừng hoàn thiện của nhân loại. Nói đến văn hóa không chỉ là nói đến những giá trị
tĩnh, kết tinh ngưng đọng, mà còn là sự vận động, phát triển và hoàn thiện những giá
trị ấy trong thời gian và không gian.
Từ nhận thức khái quát về văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra một cách cụ thể
về nội dung, yêu cầu xây dựng nền văn hóa dân tộc. Người viết tiếp: “Năm điểm lớn
xây dựng nền văn hóa dân tộc.
1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.
2. Xây dựng luận lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong
xã hội.
4. Xây dựng chính trị: dân quyền.
5. Xây dựng kinh tế”
Việc chỉ ra những điểm lớn trên chứng tỏ rằng, khi phân định nội hàm khái niệm
văn hóa, Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ rằng, xây dựng nền văn hóa dân tộc phải đặt
trong mối quan hệ qua lại với các mặt khác của đời sống dân tộc như: tâm lý, luân lý,
xã hội, chính trị, kinh tế. Xây dựng văn hóa phải gắn liền với từng bình diện ấy, làm
cho văn hóa trở thành phẩm chất tốt đẹp, đặc trưng riêng có và ý nghĩa tích cực của
những lĩnh vực đời sống đó.
Tóm lại, có thể nói rằng, ngay từ năm 1943, quan điểm về văn hóa và nền văn
hóa dân tộc của Hồ Chí Minh đã tỏ rõ tính hiện đại. Quan điểm này thể hiện tầm
chiến lược thiên tài của Người trong việc xác định vai trò, vị trí và những tiêu chí cơ

bản nhằm định hướng phát triển nền văn hóa Việt Nam làm cơ sở cho sự phát triển
toàn diện của xã hội Việt Nam tương lai.
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của văn hoá.
Văn hóa, theo Hồ Chí Minh có vai trò to lớn trong đời sống của mỗi quốc gia dân
tộc.
Trước hết, văn hóa là mục tiêu, động lực của cách mạng.
Văn hóa là kiến trúc thượng tầng của xã hội, vì vậy việc lật đổ chế độ xã hội cũ, xã
hội thực dân phong kiến và xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN)
tốt đẹp là mục tiêu của văn hóa. Cách mạng XHCN ở nước ta, theo Hồ Chí Minh là
phải “thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu
xa hàng ngàn năm… Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước
văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”. Khi chỉ rõ “văn hóa phải soi đường cho
5
quốc dân đi”, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh vai trò động lực của văn hóa. Theo Người:
tiến lên CNXH phải có cả vật chất lẫn tinh thần, song con người là quyết định; để đưa
đất nước đi lên, không thể không đặt trọng tâm vào kinh tế, nhưng chủ thể của hoạt
động kinh tế lại chính là con người và thước đo trình độ con người lại chính là văn
hóa.
Thứ hai, với một cảm quan văn hóa trên bình diện rộng, Hồ Chí Minh coi văn
hóa là một mặt hợp thành toàn bộ đời sống xã hội, văn hóa là đời sống tinh thần của
xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng.
Người nhấn mạnh: “trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề chú ý
đến; cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”. Vì thế, văn
hóa không thể đứng ngoài “mà phải ở trong kinh tế và chính trị” và ngược lại kinh tế,
chính trị cũng nằm “trong văn hóa”. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn
hóa và giải quyết những vấn đề xã hội; nếu chỉ coi tăng trưởng kinh tế là mục tiêu duy
nhất thì chẳng những môi trường văn hóa – xã hội bị hủy hoại mà mục tiêu kinh tế
cũng không đạt được.
Trong quan hệ với kinh tế: kinh tế thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc
xây dựng văn hóa, do đó phải chú trọng xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng để

có điều kiện xây dựng và phát triển văn hóa. Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng;
nhưng cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được và có đủ
điều kiện phát triển được. Như vậy, kinh tế phải đi trước một bước. Người viết:
“Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không
nói phát triển văn hóa và kinh tế. Tục ngữ ta có câu: có thực mới vực được đạo, vì thế
kinh tế phải đi trước”. Tuy nhiên, đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ
Chí Minh không nhấn mạnh một chiều về sự phụ thuộc “thụ động” của văn hóa vào
kinh tế, chờ cho kinh tế phát triển xong rồi mới phát triển văn hóa. Văn hóa có tính
tích cực, chủ động, đóng vai trò to lớn như một động lực, thúc đẩy sự phát triển của
kinh tế và chính trị. Người nói: “Trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp cho
chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ
văn hóa của nhân dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước
hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.
Trong quan hệ với chính trị, xã hội: chính trị, xã hội được giải phóng thì văn hóa
mới được giải phóng. Chính trị mở đường cho văn hóa phát triển. Người nói: “xã hội
thế nào, văn nghệ thế ấy… Dưới chế độ thực dân và phong kiến, nhân dân ta bị nô lệ,
6
thì văn nghệ cũng bị nô lệ, bị tồi tàn, không thể phát triển được”. Để văn hóa phát
triển tự do, phải làm cách mạng chính trị trước. Ở Việt Nam, tiến hành cách mạng
chính trị thực chất là tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc để giành chính
quyền, giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó giải phóng văn hóa, mở đường
cho văn hóa phát triển.
Như vậy, văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị,
phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế, có nghĩa là:
+ Kinh tế và chính trị cũng phải có tính văn hóa. Điều mà chủ nghĩa xã hội và
thời đại đang đòi hỏi. Ngày nay, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta
chủ trương gắn văn hóa với phát triển, chủ trương đưa các giá trị văn hóa thấm sâu
vào kinh tế và chính trị, làm cho văn hóa thực sự vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
+ Văn hóa phải tham gia thực hiện những nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng

và phát triển kinh tế. Quan điểm này định hướng cho việc xây dựng một nền văn hóa
mới ở Việt Nam, định hướng cho mọi hoạt động văn hóa. Văn hóa không đứng ngoài
mà ở trong cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc và cuộc kháng chiến trở thành
cuộc kháng chiến có văn hóa
Ba là, trong tư tưởng Hồ Chí Minh văn hóa là linh hồn, bản sắc dân tộc.
Hồ Chí Minh cho rằng, văn hóa không thể tách rời với quốc gia dân tộc, văn hóa
trước hết là văn hóa của một dân tộc, nó mang tâm hồn, diện mạo dân tộc, đó chính là
bản sắc dân tộc của văn hóa. Rất nhiều lần Người thường nhắc nhở phải “chăm lo đặc
tính dân tộc”, “phát huy cốt cách dân tộc”, “lột cho hết tinh thần dân tộc” trong xây
dựng văn hóa, trong sáng tác nghệ thuật. Với văn hóa Việt Nam, Người tự hào: “nghệ
thuật của cha ông ta hay lắm”, “âm nhạc dân tộc của ta rất độc đáo” và “tiếng nói là
thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó,
quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp”. Từ đó, Hồ Chí Minh nhấn
mạnh: “Lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn hóa nay trau dồi cho văn hóa
Việt Nam thật có tinh thần thuần túy Việt Nam”, “cần phải mở rộng kiến thức của
mình về văn hóa thế giới”, “Phương Đông hay Phương Tây có cái gì hay, cái gì tốt ta
phải học lấy”; song điều cốt yếu là “đừng biến ta thành kẻ bắt chước”, và “đừng chịu
vay mà không trả” – “cái gốc của văn hóa mới là dân tộc”. Học tập văn hóa hiện đại
của các nước phải phù hợp với điều kiện Việt Nam, kết hợp với văn hóa Việt Nam tạo
ra những giá trị mới đóng góp vào việc phát triển văn hóa nhân loại.
7
1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chức năng của văn hoá
Chức năng của văn hóa rất phong phú, đa dạng. Theo Hồ Chí Minh văn hóa có
ba chức năng chủ yếu sau:
Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp.
- Tư tưởng, tình cảm là hai vấn đề chủ yếu nhất của đời sống tinh thần của con
người. Tư tưởng có thể đúng đắn hoặc sai lầm, tình cảm có thể thấp hèn hoặc cao đẹp.
Chức năng cao quý nhất của văn hóa là phải bồi dưỡng, nêu cao tư tưởng đúng đắn và
tình cảm cao đẹp cho nhân dân, loại bỏ được những sai lầm và thấp hèn có thể có
trong tư tưởng, tình cảm của mỗi con người. Vì vậy, phải đặc biệt quan tâm đến

những tư tưởng và tình cảm lớn chi phối đời sống tinh thần của mỗi con người và cả
dân tộc.
- Lý tưởng là điểm hội tụ của những tư tưởng lớn của một Đảng, một dân tộc.
Đối với nhân dân Việt Nam, đó là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Hồ Chí Minh đã chỉ ra chức năng hàng đầu của văn hóa là phải làm thế nào cho
ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do; phải làm cho ai cũng “có tinh thần vì nước
quên mình, vì lợi ích chung và quên lợi ích riêng”.
- Tình cảm lớn là lòng yêu nước, thương dân, thương yêu con người, yêu tính
trung thực, chân thành, thủy chung, ghét thói hư, tật xấu… Tình cảm đó thể hiện trong
nhiều mối quan hệ: với gia đình, quê hương, bạn bè, anh em, đồng chí.
Thông qua đó, văn hóa góp phần xây đắp niềm tin cho con người, tin vào bản
thân, vào lý tưởng, vào nhân dân, vào tiền đồ của cách mạng.
Từ những năm tháng tuổi trẻ, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã nhận
thức rất rõ tính chất phản động, nham hiểm của chế độ thực dân và phong kiến khi
giam hãm dân tộc Việt Nam trong vòng ngu dốt, tiêm nhiễm tư tưởng nhược tiểu, ươn
hèn để chúng dễ bề thống trị. Chính vì thế, trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân
Pháp, Người đã cảnh tỉnh thanh niên Đông Dương không được ngủ quên và thiết tha
kêu gọi họ đứng lên chiến đấu tự giải phóng mình. Hành trình cứu nước của Người
cũng là hành trình thâu hái tinh hoa văn hóa của nhân loại, kết hợp với việc tiếp thu
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin để định hình nên tư tưởng đặc sắc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về văn hóa Việt Nam thời đại mới.
Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lập
tức đặt ra yêu cầu cần phải sớm xây dựng được nền văn hóa mới để bồi bổ tinh thần
dân tộc trong cuộc đấu tranh gay go sắp đến. Người nói: “Văn hóa soi đường cho
8
quốc dân đi”. Nền văn hóa mới có nhiệm vụ xóa bỏ những lạc hậu và xây dựng nội
dung mới của nền văn hóa cách mạng. Trong một số tác phẩm viết trong kháng chiến
chống Pháp như Đời sống mới, Người vạch rõ con đường để mỗi người phấn đấu
nhằm tiến bộ: “nếu người này cũng xấu, người kia cũng xấu, thì thành làng xấu, nước
hèn. Nếu mỗi người đều tốt thì thành làng tốt nước mạnh. Người là gốc của làng

nước. Nếu mọi người đều cố gắng làm đúng đời sống mới thì dân tộc nhất định sẽ phú
cường”. Kháng chiến kiến quốc là công cuộc lớn lao. Nó chỉ có thể thực hiện được
khi các tầng lớp nhân dân được nâng cao nhận thức chính trị, nâng cao dân trí, tự giác
thực hiện. Bởi vậy, không ngẫu nhiên Người liên tiếp viết hai tác phẩm Đời sống mới,
Sửa đổi lối làm việc để kêu gọi động viên, hướng dẫn nhân dân, huấn luyện cán bộ
học tập, thực hiện. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói: “Phải làm cho văn hóa đi sâu
vào tâm lý quốc dân” để xây dựng những tình cảm lớn như lòng yêu nước, tình yêu
thương con người, yêu cái chân - thiện - mỹ, yêu sự chân thật; ghét những thói hư tật
xấu và coi đấy là thứ giặc nội xâm rất nguy hiểm. Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh nói “văn
hóa soi đường cho quốc dân đi” chính là muốn nói văn hóa phải làm cho lý trí con
người thêm sáng suốt, tình cảm con người thêm cao đẹp.
Chính với quan niệm chức năng của nền văn hóa mới là phải bồi bổ tư tưởng tình
cảm tiến bộ cho quần chúng nhân dân nên Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm
đến vai trò của văn học nghệ thuật và đội ngũ văn nghệ sĩ. Người cho rằng, trong sự
nghiệp cách mạng của dân tộc do Đảng lãnh đạo, “văn nghệ là mặt trận, nghệ sĩ là
chiến sĩ”. Do vậy “cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất
định, tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, trước hết là
công, nông, binh…Nói tóm lại là phải đặt lợi ích của kháng chiến, của Tổ quốc, của
nhân dân lên trên hết, trước hết”. “Ngòi bút các bạn cũng là vũ khí sắc bén trong sự
nghiệp phò chính, trừ tà”
Hai là, , mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí.
Nói đến văn hóa là phải nói đến dân trí. Đó là trình độ hiểu biết, là vốn kiến thức
của người dân. Nâng cao dân trí phải bắt đầu từ chỗ biết đọc, biết viết để có thể hiểu
biết các lĩnh vực khác của đời sống xã hội như: kinh tế, chính trị, lịch sử, khoa học -
kỹ thuật, thực tiễn Việt Nam và thế giới. Vấn đề nâng cao dân trí chỉ có thể thực hiện
được sau khi chính trị đã được giải phóng, toàn bộ chính quyền về tay nhân dân.
Là một nhà cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc vai trò của
công tác huấn luyện, giáo dục. Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, một
9
trong ba nhiệm vụ cấp bách được Hồ Chủ tịch đề ra là diệt giặc dốt. Một dân tộc dốt

là một dân tộc yếu, Người khẳng định như vậy và đề ra nhiệm vụ: “Một trong những
công việc phải thực hiện cấp tốc lúc này là nâng cao dân trí”.
“ Muốn giữ nền độc lập,
Muốn làm cho dân mạnh nước giàu
Mọi người Việt Nam phải biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có
kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải
biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”.
Để nhanh chóng thực hiện được mục tiêu xóa nạn mù chữ, Người đã phát động
phong trào bình dân học vụ trong toàn quốc và được tổ chức một cách chặt chẽ. Và
chỉ sau một thời gian ngắn, công cuộc bình dân học vụ đã đem lại một thành quả kỳ
diệu, một lượng đông đảo người Việt Nam đã biết đọc, biết viết. Dân trí được nâng
lên đã khơi dậy sức mạnh to lớn của nhân dân Việt Nam, làm cho mỗi người có thể
phát huy được khả năng của mình, tham gia một cách tự giác hơn và có hiệu quả vào
công cuộc kháng chiến kiến quốc.
Mục tiêu nâng cao dân trí của văn hóa trong từng giai đoạn cách mạng có thể có
những điểm chung và riêng. Song, tất cả đều hướng vào mục tiêu chung là độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao dân trí là để nhân dân có thể tham gia sáng tạo
và hưởng thụ văn hóa, góp phần cùng Đảng “… biến một nước dốt nát, cực khổ thành
một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”. Đó cũng là mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” mà Đảng ta vạch ra trong
công cuộc đổi mới.
Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp, lành mạnh;
hướng con người tới cái chân, thiện, mỹ để hoàn thiện bản thân.
Phẩm chất và phong cách được hình thành từ đạo đức, lối sống, thói quen của cá
nhân và phong tục tập quán của cả cộng đồng. Phẩm chất và phong cách thường có
mối quan hệ gắn bó với nhau. Mỗi người thường có nhiều phẩm chất, có phẩm chất
chung và phẩm chất riêng, tùy theo nghề nghiệp, vị trí công tác.
Các phẩm chất thường được thể hiện qua phong cách, lối sinh hoạt, làm việc, lối
ứng xử trong đời sống. Căn cứ vào yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, Hồ Chí Minh đề
ra những phẩm chất và phong cách cần thiết để mỗi người tự tu dưỡng. Đối với cán

bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến phẩm chất đạo đức chính trị vì
10
không có những phẩm chất này thì họ không thể hoàn thành được nhiệm vụ cách
mạng, không thể biến lý tưởng thành hiện thực.
Những phẩm chất và phong cách tốt đẹp làm nên giá trị con người. Văn hóa giúp
con người hình thành những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp, lành mạnh,
thông qua phân biệt cái đẹp với cái xấu, hư hỏng, cái tiến bộ với cái lạc hậu, bảo thủ.
Giúp con người vươn tới cái chân, thiện, mỹ để hoàn thiện bản thân mình.
Với ý nghĩa đó, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: phải làm thế nào cho văn hóa thấm sâu
vào tâm lý quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được những tham nhũng, lười
biếng, phù hoa xa xỉ; văn hóa phải “soi đường cho quốc dân đi”.
1.4. Quan điểm của Hồ Chí Minh về tính chất của nền văn hoá mới
Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Hồ Chí Minh đã bắt tay
vào việc xây dựng một nền văn hóa mới. Nhiều vấn đề văn hóa đã được đặt ra và giải
quyết ngay từ những ngày đầu của cuộc cách mạng như giải quyết nạn dốt, giáo dục
tinh thần cần, kiệm, liêm, chính; cấm hút thuốc phiện, lương giáo đoàn kết và tự do
tín ngưỡng…
Như vậy, nền văn hóa mới ra đời gắn liền với nước Việt Nam mới. Nền văn hóa
Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp là nền văn hóa kháng chiến,
kiến quốc, nền văn hóa dân chủ mới. Khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, nền văn hóa được xây dựng là nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Mặc dù có
nhiều cách diễn đạt khác nhau, song nền văn hóa mới mà chúng ta đang xây dựng
theo tư tưởng Hồ Chí Minh, bao hàm ba tính chất: dân tộc, đại chúng, khoa học.
- Tính dân tộc: đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc, tinh tuý bên trong, đặc trưng
của văn hoá, nhằm nhấn mạnh đến chiều sâu bản chất rất đặc trưng của văn hóa dân
tộc, giúp phân biệt, không thể nhầm lẫn với văn hóa của các dân tộc khác. Tính dân
tộc của nền văn hóa không chỉ thể hiện ở chỗ biết giữ gìn, kế thừa, phát huy những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà còn phải phát triển những truyền thống tốt đẹp ấy
cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới của đất nước.
- Tính đại chúng: văn hóa phải phục vụ nhân dân, do nhân dân xây dựng nên.

Hồ Chí Minh nói: “văn hóa phục vụ ai? Cố nhiên chúng ta phải nói phục vụ công
nông binh, tức là phục vụ đại đa số nhân dân”; “Quần chúng là những người sáng tạo,
công nông là những người sáng tạo. Nhưng quần chúng không chỉ sáng tạo ra những
của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là người sáng tác nữa…”
11
- Tính khoa học: tính hiện đại, tiên tiến, thuận theo trào lưu tiến hoá của tư
tưởng hiện đại. Tính khoa học đòi hỏi văn hóa phải đấu tranh chống lại những gì trái
với khoa học, phản tiến bộ, phải truyền bá tư tưởng triết học mácxít, đấu tranh chống
lại chủ nghĩa duy tâm, mê tín, dị đoan, phải biết gạn đục khơi trong, kế thừa truyền
thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
CHƯƠNG 2
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HOÁ
12
VÀO XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG LỐI XÂY
DỰNG VĂN HOÁ CỦA ĐẢNG TA
Những quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò, chức năng của văn hoá và đặc
biệt là về tính chất của nền văn hoá mới mà chúng ta phải xây dựng trở thành những
cơ sở quan trọng làm định hướng cho Đảng ta những đường lối xây dựng và phát triển
nền văn hoá Việt Nam từ khi Đảng cầm quyền đến nay. Trong mỗi giai đoạn lịch sử
cụ thể, Đảng ta đều đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển văn hoá phù hợp với yêu
cầu và nhiệm vụ cách mạng.
Tính chất xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức của nền văn hoá
mới đã được khẳng định trong các văn kiện của Đảng ta, cũng như trong các bài phát
biểu của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt từ năm 1955 đến năm 1960.
Đại hội III của Đảng (9/1960), Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã điều chỉnh
lại những nhận thức về tính chất của nền văn hoá mới. Mênh đề “xã hội chủ nghĩa về
nội dung và dân tộc về hình thức” đã được thay bằng “có tính chất dân tộc và nội
dung xã hội chủ nghĩa” hoặc “có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc”.

Đại hội IV của Đảng (12/1976) xác định: nền văn hoá mới là nền văn hoá có nội
dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc. Đó là một nền văn hoá có tính Đảng và
tính nhân dân”.
Trong thời kỳ đổi mới của đất nước, với tư duy đổi mới toàn diện về kinh tế,
chính trị, xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh, Đảng đã chủ trương đổi mới tư duy
trên lĩnh vực văn hóa. Tháng 11 năm 1987, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số
05 về văn hóa - văn nghệ trong cơ chế thị trường và những chỉ thị quan trọng về đổi
mới và nâng cao chất lượng phê bình văn học - nghệ thuật, công tác quản lý văn học -
nghệ thuật và một số nhiệm vụ văn hóa - văn nghệ.
Năm 1991, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội của Đảng thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, xác định nền văn
hoá được xây dựng trong xã hội XHCN là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc.
Hiến pháp 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Tính chất của
nền văn hoá lại được xác định là dân tộc, hiện đại, nhân văn.
13
Đến Hội nghị Trung ương 5 (Khóa VIII) tháng 7 năm 1998, Đảng ra Nghị quyết
chuyên đề về "Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", khẳng định
vai trò của văn hóa trong tiến trình lịch sử dân tộc và tương lai đất nước, “Văn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội" với mục đích “Làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và
hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa
bàn dân cư, vào mọi sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống
tinh thần cao đẹp ".
Hội nghị Trung ương 10 (Khóa IX) khẳng định: "Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm
vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không
ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ
của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện
và bền vững của đất nước".
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X cũng tiếp tục nhấn mạnh về việc phát triển

sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Như vậy có thể nói rằng, những tư tưởng nêu ra trong nghị quyết của hội nghị
lần thứ 5, BCHTW khóa VIII đã trở thành những luận điểm khoa học chỉ đạo sự
nghiệp xây dựng nền văn hóa nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Mới đây nhất, Tổng kết sau 15 năm thực hiện nghị quyết Trung ương 5, khoá
VIII. Hội nghị lần thứ 9, BCHTW khoá XI đã ra Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
đất nước.
Như vậy, có thể thấy rằng, quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng
ta trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước đã luôn luôn chú trong, đề cao vai
trò của văn hoá, xây dựng và phát triển văn hoá trở thành nền tảng tinh thần, trở thành
mục tiêu, động lực của sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội.
2.2. THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ VIỆT NĂM HIỆN NAY- THÀNH
TỰU VÀ HẠN CHẾ.
Xây dựng và phát triển nền văn hoá mới trong điều kiện nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá,
đã và đang tạo ra những thuận lợi và khó khăn mới, cần được nhận thức một cách tỉnh
táo để nắm lấy cơ hội, vượt qua thách thức.
14
Nghị quyết Trung ương 9 Khoá XI của Đảng đã tổng kết và đánh giá về tình
hình xây dựng và phát triển nền văn hoá nước ta trong những năm đổi mới vừa qua.
2.1.1. Thành tựu
Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, sự nghiệp xây dựng
và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã có chuyển biến tích cực, đạt kết quả
quan trọng. Tư duy lý luận về văn hóa có bước phát triển; nhận thức về văn hóa của
các cấp, các ngành và toàn dân được nâng lên. Đời sống văn hóa của nhân dân ngày
càng phong phú, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được phát huy, nhiều
chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành. Sản phẩm văn hóa, văn học nghệ
thuật ngày càng phong phú, đa dạng; công nghệ thông tin, nhất là thông tin đại chúng
có bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều phong trào, hoạt động văn hóa đạt được những kết

quả cụ thể, thiết thực; phát huy được truyền thống văn hóa gia đình, dòng họ, cộng
đồng Xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng được mở rộng, góp phần đáng kể vào
việc xây dựng các thiết chế văn hóa. Nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được
bảo tồn, tôn tạo; nhiều phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số được nghiên
cứu, sưu tầm và phục dựng; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa tâm
linh của nhân dân được quan tâm. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa được tăng
cường, thể chế văn hóa từng bước được hoàn thiện. Đội ngũ làm công tác văn hóa,
văn nghệ có bước trưởng thành; quyền tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ được tôn trọng.
Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa có nhiều khởi sắc.
2.1.2. Những hạn chế cần khắc phục
So với những thành tựu trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối
ngoại, thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ để tác động có
hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. Tình trạng suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia
tăng. Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách
hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp
nhân dân chậm được rút ngắn. Môi trường văn hóa còn tồn tại tình trạng thiếu lành
mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội, tội phạm có chiều hướng
gia tăng. Còn ít những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và
nghệ thuật, có một số tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp, thậm
chí có hại. Hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật chưa theo kịp thực tiễn
sáng tác. Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hiệu quả chưa cao, nguy cơ mai
15
một chưa được ngăn chặn. Hệ thống thông tin đại chúng phát triển thiếu quy hoạch
khoa học, gây lãng phí nguồn lực và quản lý không theo kịp sự phát triển. Một số cơ
quan truyền thông có biểu hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích. Cơ chế,
chính sách về kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế, về huy động, quản lý các
nguồn lực cho văn hóa chưa cụ thể, rõ ràng. Hệ thống thiết chế văn hóa và cơ sở vật
chất, kỹ thuật cho hoạt động văn hóa còn thiếu và yếu, có nơi xuống cấp, thiếu đồng
bộ, hiệu quả sử dụng thấp. Công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản

lý văn hóa các cấp, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao còn nhiều hạn chế, bất cập.
Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa
nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất
là lớp trẻ.
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trên đây chủ yếu là do nhiều cấp ủy,
chính quyền chưa quan tâm đầy đủ lĩnh vực này; lãnh đạo, chỉ đạo chưa thật quyết
liệt. Việc cụ thể hóa, thể chế hóa Nghị quyết của Đảng còn chậm, thiếu đồng bộ và
trong một số trường hợp thiếu khả thi. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa chậm
được đổi mới, có lúc, có nơi bị xem nhẹ, thậm chí buông lỏng; kỷ luật, kỷ cương
không nghiêm. Đầu tư cho lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng và còn dàn trải. Chưa
nắm bắt kịp thời những vấn đề mới về văn hóa để đầu tư đúng hướng và có hiệu quả.
Chưa quan tâm đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hoạt động
trong lĩnh vực văn hóa, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
2.3. QUÁN TRIỆT TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG SỰ NGHIỆP XÂY
DỰNG VĂN HOÁ HIỆN NAY LÀ MỘT YÊU CẦU CẤP THIẾT, MỘT VẤN ĐỀ
CÓ Ý NGHĨA LỚN CẢ VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.
Thực trạng văn hoá hôm nay phản ánh một tình hình xã hội đang chuyển biến, có
nhiều thuận lợi nhưng cũng có nhiều khó khăn lớn. Nhân dân ta phải đương đầu với nhiều
thử thách trong đó có những thử thách về văn hoá.
Hồ Chí Minh là biểu tượng cao đẹp nhất của văn hoá Việt Nam trong thời đại mới.
Tư tưởng văn hoá Hồ Chí Minh đã được thực tiễn xây dựng và phát triển văn hoá nước ta
cũng như thế giới hơn nửa thế kỷ qua kiểm nghiệm, xác nhận là tư tưởng mang tính khoa
học đúng đắn, tính cách mạng sáng tạo, tính thực tiễn sâu sắc, hơn nữa còn tiêu biểu cho cả
nền văn hoá của tương lai. Tư tưởng văn hoá Hồ Chí Minh có ý nghĩa chỉ đạo cực kỳ quan
trọng đối với việc xây dựng nền văn hoá của nước ta hiện nay.
16
- Xây dựng văn hoá phải bắt đầu từ mỗi con người với tư cách là chủ thể của văn
hoá.
Để xây dựng được con người đáp ứng những nhu cầu của nhiệm vụ cách mạng mới,
phải đánh giá cho đúng mặt mạnh và mặt yếu của con người Việt Nam nói chung, của

những nhân liệu do lịch sử để lại. Đó phải là những con người được bồi dưỡng, giáo dục
về nhiều mặt, được rèn luyện, trưởng thành trong hoạt động thực tiễn, trong sinh hoạt với
những cộng đồng nhất định.
Con người trước hết phải gắn với gia đình, tập thể mà mình hoạt động, sinh hoạt. Do
vậy, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá, tâp thể văn hoá có ý nghĩa quan trọng.
Phải xây dựng nhân cách, phẩm chất của mỗi con người bắt đầu từ gia đình trong suốt
cuộc đời.
- Giữ vững và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong quá trình giao lưu, hội nhập
quốc tế.
Trong bối cảnh xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá, không một quốc gia nào có thể
phát triển trong sự tách biệt với thế giới. Hội nhập về kinh tế, giao lưu về văn hoá giữa các
quốc gia đang diễn ra sôi động. Quá trình đó mang lại cho mỗi quốc gia trong đó có Việt
Nam những thời cơ, thuận lợi cho sự phát triển đất nước, song cũng tiềm ẩn những nguy
cơ, những thách thức khó lường. Nếu không có bản lĩnh vững vàng, không có một chiến
lược phát triển đúng đắn, không có một cơ chế tiếp thu khoa học thì rất dễ dẫn đến nguy cơ
sùng ngoại, đánh mất bản sắc dân tộc. Cho nên, để mở rộng giao lưu hội nhập mà không
làm đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc, chúng ta cần trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh:
Bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại là hai mặt của
một quá trình, có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ. Tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại phải
giữ vững nguyên tắc lấy bản sắc văn hoá dân tộc làm gốc, làm nền tảng, có như vậy mới
tiếp thu được những gì là tinh hoa, là tiến bộ, hiện đại và loại bỏ, chặn đứng trước những
cái phản văn hoá.
Bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc phải đi đôi với nâng cao nhận thức, tư tưởng , nâng
cao những hiểu biết về văn hoá, khoa học hiện đại để phân biệt với những gì gọi là chân,
thiên, mỹ với những thứ phản văn hoá, phản khoa học; nhận cái hay, bỏ cái dở.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh: cái gì cũ mà tốt thì phải phải phát triển thêm, cái gì
cũ mà xấu thì phải bỏ, cũ mà phiền phức thì phải sửa; mới mà hay thì làm, mới mà dở,
không phù hợp với người Việt Nam thì không tiếp nhận. Cần cân nhắc mối quan hệ giữa
17
văn hoá và phát triển, không để cho những lợi ích kinh tế trước mắt làm ảnh hưởng tới

việc duy trì và phát triển bản sắc văn hoá dân tộc.
- Cảnh giác trước âm mưu lợi dụng giao lưu văn hoá để thực hiện “diễn biến hoà
bình” của các thế lực thù địch.
Trong thời đại bùng nổ của công nghệ thông tin, sự phát triển của ngoại ngữ, quá
trình giao lưu văn hoá diễn ra vô cùng sôi động và đa dạng. Điều này khiến cho chủ nghĩa
đế quốc, các quốc gia tư bản lớn tự cho mình cái quyền áp đặt các giá trị văn hoá của mình
lên các quốc gia khác. Con đường đấy thực hiện thông qua việc phát tán sách báo, phim
ảnh, các ấn phẩm đồi truỵ, khôn lành mạnh nhằm “đầu độc” về mặt văn hoá, trong đó, giới
trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước là đối tượng dễ bị ảnh hưởng nhiều nhất. Đó
thực sự là một nguy cơ đe doạ an ninh văn hoá, làm lu mờ bản sắc văn hoá dân tộc mà
chúng ta hết sức phải đề cao cảnh giác.
- Xây dựng và bồi dưỡng những điển hình tiên tiến về văn hoá, nhân rộng nó trở
thành một phong trào quần chúng, để văn hoá thực sự thấm sâu vào nhân dân, vào mỗi
người, mỗi nhà, từng tập thể, cộng đồng, từng địa bàn dân cư để tạo nên trên đất nước ta
đời sống tinh thần cao đẹp
2.4. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
VĂN HOÁ, CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
2.4.1. Mục tiêu
+ Mục tiêu chung:
Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến
chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn
hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh
quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
+ Mục tiêu cụ thể:
- Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi
trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể
chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật; đề
cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản
thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước.

- Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Xây dựng văn hóa
18
trong hệ thống chính trị, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị,
doanh nghiệp và mỗi gia đình. Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội trong
việc xây dựng môi trường văn hóa, làm cho văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con
người Việt Nam hoàn thiện nhân cách.
- Hoàn thiện thể chế, chế định pháp lý và thiết chế văn hóa bảo đảm xây dựng và
phát triển văn hóa, con người trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế.
- Xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh, đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn
hóa, tăng cường quảng bá văn hóa Việt Nam.
- Từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông
thôn, giữa các vùng miền và các giai tầng xã hội. Ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp
về đạo đức xã hội.
2.4.2. Quan điểm
Về quan điểm xây dựng và phát triển văn hoá, trên cơ sở tinh thần của nghị
quyết trung ương 5, Khoá VIII, có bổ sung và phát triển cho phù hợp với tình hình
mới
1-Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền
vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.
2- Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất
trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân
văn, dân chủ và khoa học.
3- Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con
người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng
con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái,
nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
4 - Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia
đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu

tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế.
5- Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan
trọng.
2.4.3. Giải pháp
-Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa
19
Các cấp ủy, tổ chức đảng cần xác định xây dựng và phát triển vǎn hóa, con người
Việt Nam là một nhiệm vụ quan trọng trong suốt thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong Đảng, hệ
thống chính trị và toàn xã hội về vị trí, vai trò của sự nghiệp xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam. Mỗi cán bộ, đảng viên nêu cao vai trò gương mẫu,
động viên, tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi Nghị quyết.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng vừa bảo đảm để vǎn hóa,
vǎn học - nghệ thuật, báo chí phát triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng,
vừa bảo đảm quyền tự do, dân chủ cá nhân trong sáng tạo trên cơ sở phát huy tính tự
giác cao với mục đích đúng đắn; khắc phục tình trạng buông lỏng sự lãnh đạo hoặc
mất dân chủ, hạn chế tự do sáng tạo.
Phải coi trọng xây dựng vǎn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước, mà nội
dung quan trọng là học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Vǎn hóa, đạo đức và lối sống lành mạnh phải được thể hiện trước hết trong mọi tổ
chức Đảng, Nhà nước, đoàn thể, trong cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, trong
từng đảng viên, hội viên. Sự gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên là yêu cầu quan
trọng trong công tác lãnh đạo của Đảng.
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa
Tập trung đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa
trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và sự bùng nổ của công
nghệ thông tin và truyền thông. Đẩy nhanh việc thể chế hóa, cụ thể hóa các quan
điểm, đường lối của Đảng về văn hóa. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật, cơ chế, chính sách về văn hóa, về quyền tác giả và các quyền liên quan, phù hợp

với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam.
Điều chỉnh và hoàn thiện cơ chế, chính sách phù hợp với tính đặc thù của văn
hóa, nghệ thuật. Bổ sung chính sách kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế, xử
lý hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa; có chính sách văn
hóa đặc thù đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
Đẩy mạnh quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý, tổ chức và hoạt động của các
đơn vị sự nghiệp văn hóa, các hội nghề nghiệp trong lĩnh vực văn hóa theo hướng tự
chủ, tự chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Thúc đẩy cổ phần hóa các
doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực văn hóa.
20
Tăng cường công tác thanh tra văn hóa, gắn với trách nhiệm cá nhân và tổ chức
khi để xảy ra sai phạm. Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của các tổ chức xã
hội, cộng đồng dân cư và công dân đối với việc tổ chức và quản lý hoạt động văn hóa.
Chủ động đấu tranh phòng, chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức,
"tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trên lĩnh vực văn hóa. Ngăn chặn có hiệu quả tình
trạng một bộ phận báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ hoạt động không đúng tôn
chỉ, mục đích, sản phẩm lệch lạc, thị hiếu tầm thường.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa
Xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ văn hóa. Coi trọng quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa, cán bộ làm công tác khoa
học, chuyên gia đầu ngành, cán bộ ở cơ sở.
Quan tâm xây dựng các trường văn hóa, nghệ thuật, tạo chuyển biến cơ bản về
chất lượng và quy mô đào tạo. Hình thành một số cơ sở đào tạo đại học, trên đại học
trọng điểm, đạt chuẩn khu vực và quốc tế.
Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ văn hóa theo hướng hiện đại và hội nhập
quốc tế. Tiếp tục gửi sinh viên, cán bộ đi đào tạo chuyên ngành văn hóa, nghệ thuật,
thể thao ở các nước phát triển. Xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ trong các dân
tộc thiểu số, có chính sách khuyến khích họ trở về công tác tại địa phương. Chú trọng
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên giảng dạy các chuyên ngành văn hóa.
Có chính sách phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh cán bộ trong lĩnh

vực văn hóa, nghệ thuật; trọng dụng người có tài, có đức. Điều chỉnh chế độ tiền
lương, trợ cấp đối với những người hoạt động trong các bộ môn nghệ thuật đặc thù.
- Tăng cường nguồn lực cho lĩnh vực văn hóa
Mức đầu tư của Nhà nước cho văn hóa phải tương ứng với mức tăng trưởng kinh
tế. Sử dụng hiệu quả, công khai, minh bạch nguồn đầu tư của Nhà nước, có trọng tâm,
trọng điểm, ưu tiên các vùng miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số và một số loại hình nghệ thuật truyền thống cần bảo tồn, phát huy.
Đẩy mạnh xã hội hóa nhằm huy động các nguồn đầu tư, tài trợ, hiến tặng cho
phát triển văn hóa, xây dựng con người.
Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi về đất, tín dụng, thuế và phí đối với các cơ
sở đào tạo và thiết chế văn hóa do khu vực tư nhân đầu tư, đặc biệt là ở vùng còn khó
khăn. Khuyến khích hình thành các quỹ đào tạo, khuyến học, phát triển nhân tài,
quảng bá văn học nghệ thuật, phát triển điện ảnh, hỗ trợ xuất bản
21
Xây dựng một số công trình văn hóa trọng điểm. Các địa phương, các cơ quan,
công sở, trường học, khu công nghiệp, doanh nghiệp, khu dân cư có thiết chế văn
hóa phù hợp (thư viện, nhà văn hóa, công trình thể thao ).
Tăng cường đầu tư để đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để nâng
cao khả năng dự báo và định hướng phát triển văn hóa, xây dựng con người.
KẾT LUẬN
22
Công cuộc đổi mới, xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay thực sự là cuộc hành
trình đến những giá trị văn hóa đích thực nhất. Bởi lẽ, CNXH chính là biểu trưng giá
trị cao đẹp nhất, sáng tạo nhất mà dân tộc Việt Nam có thể xem là một chủ thể xứng
đáng. Tuy nhiên, hành trình đến CNXH không là con đường bằng phẳng trơn tru.
Thực tiễn đang có nhiều vấn đề mới nảy sinh, trong đó xu hướng toàn cầu hóa với
việc mở cửa, hội nhập đang đòi hỏi mỗi dân tộc cần thiết phải khẳng định bản lĩnh của
mình. Trong tất cả những sức mạnh cần khẳng định, sức mạnh văn hóa cần thiết phải
đặt vào vị trí hàng đầu, vì "văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là tầm cao, chiều
sâu về trình độ phát triển của dân tộc, kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ

giữa người với người, người với xã hội, với thiên nhiên. Văn hóa là động lực, mục
tiêu của sự nghiệp cách mạng".
Nói như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, "Văn hóa là đổi mới, đổi mới là văn
hóa". Vì vậy trong sự nghiệp đổi mới đầy khó khăn, văn hóa phải đóng vai trò là
nguồn động lực quan trọng. Nguồn động lực ấy sẽ trở nên dồi dào nếu nền văn hóa
được xây dựng, giữ gìn và phát huy đúng hướng. Muốn thế, phương châm của mọi
hoạt động văn hóa phải xuất phát từ cuộc sống, đi sâu phản ánh những cơ tầng đa
diện, sâu sắc của cuộc sống và hướng đến phục vụ cuộc sống.
Suốt cuộc đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn tột bậc là làm
cho đất nước ta độc lập, nhân dân ta được tự do, hạnh phúc, xây dựng tình hữu ái chan
hòa giữa các dân tộc trên thế giới. Người đã để lại cho Đảng và nhân dân ta một di
sản tư tưởng vĩ đại. Trong đó, tư tưởng của Người về nền văn hóa Việt Nam mới vẫn
là nền tảng tư tưởng cho việc hoạch định và phát triển văn hóa và xây dựng con người
hiện nay. Đất nước ta đang tiến hành công cuộc CNH-HĐH, đó là một sự nghiệp to
lớn mà trong đó con người là nhân tố quyết định thắng lợi. Xây dựng con người Việt
Nam mới có đủ năng lực về trí tuệ, tình cảm, đạo đức trong sáng, thể chất khỏe mạnh
là điều kiện tiên quyết để thực hiện được mục tiêu hiện đại hóa đất nước. Để có được
con người như vậy, phải dựa trên việc hoạch định và thực hiện tốt đường lối xây dựng
nền văn hóa dân tộc. Chúng ta cần tiếp tục học tập quán triệt sâu sắc tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về văn hóa và vận dụng đúng đắn, sáng tạo để văn hóa thực sự soi
đường cho quốc dân đi như Người đã căn dặn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
23
1. Trần Thị Kim Cúc, Văn hoá Việt Nam – một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
NXB CTQG, Hà Nội.
2. GS, TS. Đinh Xuân Dũng(2013), Văn hoá trong chiến lược phát triển của Việt
Nam, NXB CTQG- ST, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành
Trung ương khóa VIII, NXB. CTQG, HN –
4. Đảng Cộng sản Việt Nam,(2013) Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành

Trung ương khóa XI, NXB. CTQG, HN -
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb CTQG, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb CTQG, Hà Nội.
7. Đề cương văn hóa Việt Nam, NXB CTQG, H.2004
8. GS. Đặng Xuân Kỳ (chủ biên) (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá và
phát triển con người Việt Nam, NXB CTQG, Hà Nội.
9. Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa
học Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh (2007), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh,
Nxb CTQG, Hà Nội.
10. Hồ Chí Minh, Toàn tập (2011), Tập 3, Nxb CTQG - ST, Hà Nội.
11. Hồ Chí Minh, Toàn tập (2011), Tập 12, Nxb CTQG - ST, Hà Nội.
24

×