MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế kỷ 21 với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, sự phát
triển năng động của các nền kinh tế, quá trình hội nhập và toàn cầu hoá đang
làm cho việc rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển giữa các nước trở
nên hiện thực hơn và nhanh hơn. Khoa học - công nghệ trở thành động lực cơ
bản của sự phát triển kinh tế - xã hội. Giáo dục là nền tảng của sự phát triển
khoa học - công nghệ, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của xã hội
hiện đại và đóng vai trò chủ yếu trong việc nâng cao ý thức dân tộc, tinh thần
trách nhiệm và năng lực của các thế hệ hiện nay và mai sau.
Đổi mới giáo dục đang diễn ra trên quy mô toàn cầu. Bối cảnh trên đã tạo
nên những thay đổi sâu sắc trong giáo dục, từ quan niệm về chất lượng giáo
dục, xây dựng nhân cách người học đến cách tổ chức quá trình và hệ thống
giáo dục. Nhà trường từ chỗ khép kín chuyển sang mở cửa rộng rãi, đối thoại
với xã hội và gắn bó chặt chẽ với nghiên cứu khoa học - công nghệ và ứng
dụng; nhà giáo thay vì chỉ truyền đạt tri thức, chuyển sang cung cấp cho
người học phương pháp thu nhận thông tin một cách hệ thống, có tư duy phân
tích và tổng hợp. Đầu tư cho giáo dục từ chỗ được xem là phúc lợi xã hội
chuyển sang đầu tư cho phát triển.
Bối cảnh quốc tế và trong nước vừa tạo thời cơ lớn vừa đặt ra những
thách thức không nhỏ cho giáo dục nước ta. Sự đổi mới và phát triển giáo dục
đang diễn ra ở quy mô toàn cầu tạo cơ hội tốt để giáo dục Việt Nam nhanh
chóng tiếp cận với các xu thế mới, tri thức mới, những cơ sở lý luận, phương
thức tổ chức, nội dung giảng dạy hiện đại và tận dụng các kinh nghiệm quốc
tế để đổi mới và phát triển.
Nghị quyết hội nghị lần thứ 9 BCH TƯ khoá X đã khẳng định: Tập trung
nâng cao chất lượng giáo dục- đào tạo toàn diện, phát triển nguồn nhân lực
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN. Tiến
hành cải cách giáo dục theo tinh thần Nghị quyết Đại hội X và Nghị quyết
1
trung ương 4 (khoá X). Tiếp tục đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp
giáo dục và công tác quản lý giáo dục; khắc phục tình trạng mất cân đối trong
cơ cấu giáo dục- đào tạo; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, coi trọng cả
nâng cao dân trí, phát triển nhân lực, đào tạo nhân tài, cả dạy chữ, dạy nghề,
dạy làm người, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, nhân cách, phẩm chất
đạo đức, lối sống.
Năm học 2002- 2003 Bộ GD&ĐT đã bắt đầu tiến hành thay SGK lần
lượt ở cả ba cấp học: Tiểu học, THCS, THPT. Qua 9 năm thực hiện đổi mới
chương trình, sách giáo khoa và phương pháp dạy học theo chủ trương của Bộ
GD&ĐT ở cấp THCS, nhiều giáo viên đã có phương pháp dạy học khá tốt
thầy là người tổ chức, điều khiển, hướng dẫn - trò tích cực, chủ động trong
học tập. Điều đó phần lớn đã khắc phục được phương pháp dạy học thụ động,
một chiều, không phát huy được tính tích cực học tập của học sinh. Tuy nhiên
vẫn còn nhiều giáo viên thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy học còn
chậm. Để nâng cao chất lượng giảng dạy cho giáo viên, các trường THCS đã
tổ chức kiểm tra đánh giá chất lượng giảng dạy giáo viên trong các năm học.
Công tác này phần nào đã bồi dưỡng và nâng cao được trình độ chuyện môn,
nâng cao được chất lượng giảng dạy cho giáo viên. Nhưng cũng còn không ít
giáo viên tiếp thu việc đổi mới phương pháp dạy học còn chậm, chất lượng
giảng dạy chưa cao, nguyên nhân chính là do công tác kiểm tra - đánh giá
chưa thường xuyên, liên tục, lực lượng tham gia đánh giá thiếu tính khách
quan và tính khoa học. Thực trạng đó chưa thực sự khuyến khích được những
giáo viên có chuyên môn tốt tiếp tục phát huy và những giáo viên còn yếu về
kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, yếu về phương pháp dạy học chưa vươn lên
được. Chất lượng giảng dạy của giáo viên có hướng giảm dần trong vài năm
gần đây, làm ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục toàn diện nói chung và chất
lượng giảng dạy nói riêng. Ở cấp THCS lực lượng có tầm ảnh hưởng lớn đến
công tác đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên, chính là đội ngũ ban
giám hiệu và các tổ trưởng chuyên môn. Việc đánh giá chính xác của đội ngũ
2
quản lý này sẽ giúp cho lãnh đạo cấp trên nắm bắt được hiện trạng của chất
lượng đội ngũ giáo viên hiện nay, để từ đó đưa ra cơ chế, chính sách phù hợp.
Với tầm quan trọng đó, tôi chọn vấn đề: “Biện pháp quản lý đánh giá chất
lượng giảng dạy của giáo viên trung học cơ sở huyện Bảo Yên, tỉnh Lào
Cai” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn công tác đánh giá chất lượng giảng dạy
của giáo viên THCS huyện Bảo yên, tỉnh Lào Cai, đề xuất một số biện pháp
quản lý của hiệu trưởng về đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên
THCS huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên THCS.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý của hiệu trưởng về đánh giá chất lượng giảng dạy của
giáo viên các trường THCS huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai.
4. Giả thuyết khoa học
Công tác đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên THCS huyện Bảo
Yên, tỉnh Lào Cai thời gian qua đã làm tương đối tốt, mang lại những ý nghĩa
thiết thực trong việc nâng cao chất lượng dạy học. Tuy nhiên, trong thực tế
tiến hành công tác này không tránh khỏi những tranh luận, ý kiến chưa thống
nhất. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới thực trạng này, song một nguyên nhân
rất quan trọng đó là biện pháp quản lý của hiệu trưởng về đánh giá chất lượng
giảng dạy của giáo viên THCS còn có những hạn chế nhất định. Nếu đề xuất
được các biện pháp quản lý của hiệu trưởng về đánh giá chất lượng giảng dạy
của giáo viên THCS một cách khoa học, khách quan, công bằng và dân chủ
thì sẽ tác động tích cực đến chất lượng giảng dạy của giáo viên và chất lượng
dạy học của nhà trường.
3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu một số vấn đề lý luận có liên quan đến đánh giá chất
lượng giảng dạy qua các giáo trình, các tài liệu trong và ngoài nước và các tạp
chí về QLGD,...
5.2. Nghiên cứu thực trạng về đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo
viên trường THCS của Hiệu trưởng các trường thuộc địa bàn huyện Bảo Yên,
tỉnh Lào Cai .
5.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý của hiệu trưởng về đánh giá chất
lượng giảng dạy của giáo viên các trường THCS huyện Bảo Yên, tỉnh Lào
Cai.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Do thời gian có hạn, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu biện pháp quản lý
của hiệu trưởng về đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở 14 trường
THCS thuộc địa bàn huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai trong 3 năm học gần đây:
Năm học 2008- 2009, 2009 -2010 và năm học 2010 -2011.
Khách thể khảo sát gồm 48 người là hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, 60 tổ
trưởng chuyên môn của tất cả 24 trường THCS; 300 giáo viên được chọn
ngẫu nhiên 1 giáo viên/môn/trường của 24 trường thuộc địa bàn nghiên cứu; 9
người là lãnh đạo, chuyên viên phụ trách THCS của Phòng GD&ĐT.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận
- Bao gồm việc đọc và phân tích các tài liệu, giáo trình, tạp chí trong và
ngoài nước có liên quan đến đề tài.
- Phân loại, hệ thống, khái quát hoá các nội dung về lý luận dạy học
trong nhà trường phổ thông.
- Nghiên cứu các văn bản pháp quy, những quy định của ngành GD&
ĐT có liên quan đến công tác đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở
các trường THCS, nhằm xây dựng cơ sở nghiên cứu lý luận cho việc nghiên
cứu đề tài.
4
7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra
Xây dựng các phiếu điều tra, phỏng vấn trực tiếp các đối tượng: Ban
giám hiệu, tổ trưởng chuyên môn và giáo viên bộ môn.
7.2.2. Phương pháp quan sát
Quan sát thực tế về đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các
trường THCS trên địa bàn huyện Bảo Yên tỉnh Lào Cai.
7.2.3. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Thông qua các cuộc trao đổi, toạ đàm, tổ chức chuyên đề, hội thảo, thảo
luận với các cán bộ QLGD từ Phòng GD&ĐT đến các cán bộ quản lý là
BGH, tổ trưởng tổ chuyên môn và giáo viên ở các nhà trường, để tìm ra các
phương pháp đánh giá phù hợp với đội ngũ giáo viên trong địa bàn huyện và
trong tình hình hiện nay.
7.2.4. Phương pháp chuyên gia
Xin ý kiến đánh giá của các chuyên gia có kinh nghiệm về lĩnh vực này
gồm: Các thầy cô giáo khoa QLGD, trường Cao Đẳng sư phạm Lào Cai, các
phòng thanh tra chuyên môn từ sở GD&ĐT đến phòng GD& ĐT.
8. Nhóm phương pháp xử lý số liệu
Dùng phương pháp thống kê toán học để phân tích, tổng hợp các số liệu
mà đề tài đã nghiên cứu.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của công tác đánh giá chất lượng giảng dạy của
giáo viên THCS
Chương 2: Thực trạng công tác đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo
viên THCS huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai
Chương 3: Một số biện pháp quản lý công tác đánh giá chất lượng giảng
dạy của giáo viên THCS ở huyện Bảo Yên tỉnh Lào Cai
5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÁNH GIÁ
CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY CỦA GIÁO VIÊN TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đảng và nhà nước ta coi trọng giáo dục là “Quốc sách hàng đầu”, toàn
xã hội đều có ý thức chăm lo cho sự nghiệp giáo dục, vì giáo dục đã tạo nên
nguồn lực con người phục vụ cho việc phát triển kinh tế - xã hội.
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, có chức năng truyền thụ tri
thức, kinh nghiệm xã hội của thế hệ trước, cho thế hệ sau. Vì thế kho tàng tri
thức, kinh nghiệm xã hội ngày càng tăng rất nhanh. Quá trình dạy học trở
thành một khoa học, một nghệ thuật, có tính nhân văn rất cao giữa một bên là
nhà sư phạm (thầy giáo) và một bên là đối tượng được giáo dục (trò). Nghề
thầy giáo được xã hội tôn vinh là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý.
Không ai có thể phủ nhận được vai trò của người thầy trong việc đào tạo ra
thế hệ trẻ có lý tưởng, có hoài bão, có trình độ tri thức cao hơn thế hệ đi trước,
có nhân cách, có lối sống lành mạnh, phù hợp với truyền thống dân tộc.
Người thầy giỏi là người biết truyền thụ tri thức cho học trò bằng con đường
ngắn nhất, dễ hiểu nhất.
Thực tiễn dạy học đã chứng minh rằng, muốn hoàn thiện, nâng cao hiệu
quả của QTDH thì không thể bỏ qua khâu kiểm tra - đánh giá chất lượng các
giờ dạy học của giáo viên và kiểm tra kết quả học tập của học sinh. Thông
qua đó, các nhà quản lý nói chung, các nhà QLGD nói riêng và đội ngũ các
thầy, cô giáo (các nhà sư phạm) có được những thông tin ngược quan trọng để
kịp thời phát hiện, điều chỉnh quá trình dạy và học cho phù hợp với đối tượng
và thực tiễn giảng dạy.
Dạy học là hoạt động chủ yếu trong nhà trường, là trung tâm của hoạt
động QLGD. Vì vậy, việc kiểm tra - đánh giá chất lượng giảng dạy có vị trí
vô cùng quan trọng, có ý nghĩa hết sức lớn lao đối với mục tiêu nâng cao chất
lượng giáo dục. Vấn đề kiểm tra - đánh giá kết quả học tập của học sinh đã
6
được nhiều học giả trong và ngoài nước nghiên cứu sâu sắc và đưa ra những
thang đánh giá về tri thức, về kỹ năng và về thái độ phù hợp.
Trong những năm gần đây, đứng trước nhiệm vụ đổi mới giáo dục - đào
tạo nói chung và đổi mới nội dung, phương pháp dạy học nói riêng, nhiều
người nghiên cứu trong đó những nhà giáo dục học, tâm lý học đã đi sâu
nghiên cứu vấn đề đổi mới nội dung dạy học theo phương pháp nâng cao tính
hiện đại và gắn khoa học với thực tiến sản xuất và đời sống, vấn đề lấy học
sinh làm trung tâm trong hoạt động dạy học (Trần Hồng Quân, Phạm Minh
Hạc, Phan trọng luận, Đỗ Đình Hoan, Phạm Viết Vượng, Đặng Thành
Hưn,...).
Ở một số nước, người ta chỉ giao việc kiểm tra - đánh giá chất lượng
giảng dạy cho đội ngũ có năng lực. Thí dụ ở Hoa kỳ, đó là hiện tượng “đấu
thầu”, uỷ thác đánh giá hay làm dịch vụ kiểm tra Test về giáo dục.
Như vậy, vấn đề nâng cao chất lượng dạy học từ lâu đã được các nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm trong những năm cuối thế kỷ XX
khi mà xã hội sắp bước vào giai đoạn phát triển mới thì hơn bao giờ hết, vấn
đề này được quan tâm nhiều hơn nó đã trở thành mối quan tâm của toàn xã
hội, đặc biệt là các nhà nghiên cứu giáo dục, ý kiến của các nhà nghiên cứu có
thể khác nhau nhưng điểm chung mà ta thấy trong các công trình nghiên cứu
của họ là: Khẳng định vai trò quan trọng của công tác quản lý trong việc nâng
cao chất lượng dạy và học ở các cấp học, bậc học. Đây cũng chính là một
trong những tư tưởng mang tính chiến lược và phát triển giáo dục của đảng ta:
“Đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương pháp và quản lý giáo dục đào tạo”.
Huyện Bảo Yên trong nhiều năm gần đây đã quan tâm nhiều đến chất
lượng giảng dạy của giáo viên. Ngành GD&ĐT đã tổ chức bồi dưỡng thường
xuyên về chuyên môn nghiệp vụ nhằm nâng cao trình độ, năng lực sư phạm
cho giáo viên. Tuy nhiên để nâng cao chất lượng dạy học tốt cho giáo viên thì
công tác quản lý của hiệu trưởng có vai trò hết sức quan trọng.
7
Quản lý đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên là một trong những
hoạt động trung tâm của người hiệu trưởng, đồng thời cũng là quản lý cơ bản,
quan trọng nhất trong công tác quản lý trường học. Chính vì lẽ đó, vấn đề
quản lý đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên luôn được các nhà
nghiên cứu, các nhà quản lý giáo dục đề cập trong các công trình nghiên cứu
khoa học. Giáo trình giảng dạy của trường Đại học sư phạm Hà Nội, trường
Quản lý cán bộ - Bộ GD&ĐT đã có những công trình nghiên cứu và giảng
dạy về chuyên đề quản lý hoạt động dạy học của giáo viên ở người Hiệu
trưởng. Các luận văn thạc sỹ chuyên ngành quản lý giáo dục có một số tác giả
viết về đề tài: Biện pháp quản lý hoạt động dạy học của Hiệu trưởng các
trường THCS như đề tài: Biện pháp quản lý hoạt động dạy học của Hiệu
trưởng các trường THCS huyện Tam Dương tỉnh Vĩnh Phúc của tác giả
Nguyễn Thị Kim Dinh; đề tài: Biện pháp quản lý hoạt động dạy học của Hiệu
trưởng trường Tiểu học tại thành phố Thanh Hóa của tác giả Viên Thị Dung.
Quản lý đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên là một trong những nội
dung của quản lý hoạt động dạy học của người Hiệu trưởng, nhưng rất ít đề
tài nghiên cứu về nội dung này. Ở tỉnh Lào Cai nói chung và huyện Bảo Yên
nói riêng chưa có đề tài nào nghiên cứu về biện pháp quản lý đánh giá chất
lượng giảng dạy của giáo viên THCS. Vì vậy, vấn đề đặt ra ở luận văn này là
tìm hiểu thực trạng biện pháp quản lý đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo
viên THCS huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai, từ đó đề xuất một số biện pháp
quản lý đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên nhằm nâng cao chất
lượng giảng dạy trong các trường THCS.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1. 2.1. Đánh giá
1.2.1.1. Khái niệm
Trong lĩnh vực giáo dục, đánh giá là bộ phận hợp thành rất quan trọng,
một khâu không thể tách rời của quá trình giáo dục và đào tạo. Nếu coi giáo
dục và đào tạo là một hệ thống thì đánh giá đóng vai trò phản hồi của hệ
8
thống, đánh giá có vai trò tích cực trong điều chỉnh hệ thống, là cơ sở cho
việc đổi mới giáo dục và đào tạo. Chính vì vậy đánh giá là một trong những
vấn đề được quan tâm [21;7].
Có rất nhiều định nghĩa về đánh giá trong lĩnh vực giáo dục, tuy nhiên
tùy thuộc vào mục đích đánh giá, cấp độ đánh giá và đối tượng đánh giá mà
mỗi định nghĩa đều nhấn mạnh hơn vào khía cạnh nào đó của lĩnh vực cần
đánh giá [21;7].
Có những định nghĩa phán ánh việc đánh giá ở cấp độ chung nhất và
nhấn mạnh vào khía cạnh giá trị, coi đánh giá là sự thu thập và lý giải một
cách có hệ thống những bằng chứng dẫn tới sự phán xét về mặt giá trị, như
định nghĩa của C.E. Beeby (1997): “Đánh giá là sự thu thập và lý giải một
cách có hệ thống những bằng chứng dẫn tới sự phán xét về giá trị theo quan
điểm hành động” [21;8].
Một số định nghĩa lại nhấn mạnh đến khía cạnh cần phải đi đến quyết
định nào đó, có thể quyết định về người học, về người dạy, về chương trình,
v.v,..như định nghĩa của Marger: Đánh giá là việc miêu tả tình hình của học
sinh và giáo viên để quyết định công việc cần phải tiếp tục và giúp học sinh
tiến bộ.
Nhiều định nghĩa về đánh giá nhấn mạnh đến sự phù hợp giữa mục tiêu
và việc thực hiện, đây là định nghĩa được quan tâm nhiều nhất. Theo R. Tiler:
“Quá trình đánh giá chủ yếu là quá trình xác định mức độ thực hiện các mục
tiêu của chương trình giáo dục” [21;8].
Trong giáo dục, một quá trình đánh giá được thực thi là nhằm chủ yếu đo
xem những mục tiêu giáo dục đã đạt được đến đâu, là quá trình thu thập và lý
giải kịp thời, có hệ thống những thông tin. Đánh giá thể hiện ở sự xem xét
mức độ thích đáng giữa toàn bộ các thông tin với toàn bộ các tiêu chuẩn
tương ứng với mục tiêu xác định, nhằm đưa ra một quyết định.
Có thể đưa ra khái niệm chung về đánh giá trong giáo dục là quá trình
tiến hành có hệ thống để xác định mức độ mà đối tượng đạt được các mục tiêu
9
giáo dục nhất định [21;9]. Nó bao gồm sự mô tả về định tính hay định lượng
những kết quả đạt được và so sánh với mục tiêu giáo dục đã xác định. Sự
đánh giá cho phép xác định mục tiêu giáo dục đặt ra có phù hợp hay không
phù hợp, nó xác định mức độ đạt được mục tiêu giáo dục cũng như tiến trình
thực hiện mục tiêu như thế nào.
Hiệu quả quản lý mục tiêu giáo dục trong nhà trường phụ thuộc rất nhiều
vào công tác quản lý của người Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng và Tổ trưởng tổ
chuyên môn. Trong việc thực hiện nghiêm túc các chức năng quản lý, trong
đó chức năng đánh giá mà phương tiện chủ yếu là nắm bắt các nguồn thông
tin, đặc biệt là thông tin ngược một cách toàn diện, đầy đủ, kịp thời, khách
quan...để ra các quyết định quản lý đúng đắn, phù hợp là hết sức quan trọng.
Do đó người hiệu trưởng phải dựa vào sự hỗ trợ của các tổ chức Đảng, Đoàn,
Công đoàn, các phó hiệu trưởng, tổ chuyên môn và lực lượng nòng cốt trong
giáo viên và học sinh để quản lý.
1.2.1.2. Chức năng của kiểm tra đánh giá
Chức năng của kiểm tra, đánh giá là xác định mức độ đạt được mục
tiêu của quá trình dạy học và góp phần trực tiếp thúc đẩy và hoàn thiện quá
trình dạy học.
Kiểm tra đánh giá nhằm xác định kết quả thực hiện kế hoạch, phát hiện
những sai lệch, đề ra biện pháp uốn nắn điều chỉnh kịp thời. Kiểm tra đánh
giá không hẳn là giai đoạn cuối cùng của chu kỳ quản lý, bởi kiểm tra không
chỉ diễn ra khi công việc đã hoàn thành có kết quả mà nó diễn ra trong suốt
quá trình từ đầu đến cuối, từ lúc bắt đầu xây dựng kế hoạch.
Kiểm tra đánh giá có hiệu quả cao là kiểm tra đánh giá mang tính lường
trước, phát hiện những sai sót từ khâu lập kế hoạch hay trong quá trình đang
diễn ra. Kiểm tra đánh giá phải dựa vào kế hoạch, tiêu chuẩn cụ thể và trách
nhiệm cụ thể của mỗi người, mỗi bộ phận đã được xác định.
1.2.1.3. Các nguyên tắc đánh giá
10
Qua tham khảo kinh nghiệm ở trong và ngoài nước, Lê Đức Phúc đã nêu
các nguyên tắc chung nhất về đánh giá: Nguyên tắc tiếp cận hoạt động - nhân
cách; nguyên tắc đảm bảo tính xã hội - lịch sử; nguyên tắc bảo đảm mối quan
hệ giữa đánh giá và phát triển, giữa chẩn đoán và dự báo; nguyên tắc bảo đảm
sự phù hợp với mục tiêu đào tạo; nguyên tắc bảo đảm sự phù hợp với đặc
điểm tâm - sinh lý lứa tuổi; nguyên tắc bảo đảm tính khách quan, độ tin cậy
của phương pháp đánh giá; nguyên tắc bảo đảm sự thống nhất giữa đánh giá
và tự đánh giá.
1.2.1.4. Các mức độ đánh giá
Đánh giá toàn diện, từng mặt, từng quá trình, từng bước, từng khâu, từng
công đoạn; đánh giá thường xuyên và đánh giá định kỳ.
Đánh giá là quá trình hình thành những nhận định, phán đoán về kết
quả công việc, dựa vào sự phân tích những thông tin thu được, đối với những
mục tiêu, tiêu chuẩn đã đề ra, nhằm đề xuất những quyết định thích hợp để cải
thiện thực trạng, điều chỉnh, nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc.
Như vậy đánh giá không đơn thuần là sự ghi nhận thực trạng mà còn là
đề xuất, những quyết định làm thay đổi thực trạng. Vì thế, đánh giá được xem
như là một khâu rất quan trọng, đan xen với các khâu lập kế hoạch và triển
khai công việc, thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1 Mối quan hệ giữa đánh giá với lập kế hoạch và triển khai thực
hiện
11
Kế
hoạch
Triển
khai
Đánh
giá
Các định nghĩa chung về đánh giá đã nói trên cũng được áp dụng vào
trong QLGD, vào việc đánh giá ở nhiều cấp độ khác nhau, trên những đối
tượng khác nhau, với những mục đích khác nhau: Đánh giá hệ thống giáo dục
của một quốc gia; đánh giá một đơn vị giáo dục; đánh giá giáo viên và đánh
giá học sinh,...
Học sinh là đối tượng, là sản phẩm giáo dục đồng thời là chủ thể của quá
trình giáo dục, do đó việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên giữ
một vị trí đặc biệt quan trọng trong đánh giá giáo dục.
1.2.2. Đánh giá chất lượng giảng dạy và quản lý chất lượng giảng dạy
của giáo viên THCS
1.2.2.1. Khái niệm chất lượng, chất lượng giáo dục và chất lượng giảng
dạy
* Chất lượng
Hiện nay còn có nhiều cách hiểu khác nhau về chất lượng. Thuật ngữ
“chất lượng” phán ánh thuộc tính đặc trưng, giá trị, bản chất của sự vật và tạo
nên sự khác biệt (về chất) giữa sự vật này với sự vật khác. Theo quan điểm
triết học, chất lượng hay sự biến đổi về chất là kết quả của quá trình tích lũy
về lượng (quá trình tích lũy, biến đổi) tạo nên những bước nhảy vọt về chất
của sự vật và hiện tượng. Trong lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, chất lượng
sản phẩm được đặc trưng bởi các yếu tố về nguyên vật liệu chế tạo, quy trình
và công nghệ sản xuất, các đặc tính sử dụng kể cả về mẫu mã, thị yếu, mức độ
đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng vv... các đặc tính chất lượng có thể được thể
hiện tường minh qua các chỉ số kỹ thuật - Mỹ thuật, mức tiêu thụ của sản
phẩm trên thị trường và có thể so sánh dễ dàng với các sản phẩm khác cùng
loại có các giá trị, giá cả khác nhau [14;257].
Nâng cao chất lượng có quan hệ sống còn đối với doanh nghiệp và các tổ
chức kinh tế - chính trị - xã hội trên toàn cầu. Mặc dù vấn đề có tầm quan
trọng như vậy, nhưng mỗi người lại hiểu chất lượng theo cách riêng của mình
và vẫn chưa có cách xác định khái niệm chất lượng thống nhất.
12
- Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng: Chất lượng là tổng thể những tính
chất, thuộc tính cơ bản của sự vật (sự việc) này phân biệt với sự vật (sự việc)
khác [30;19].
- Chất lượng là tiềm năng của một sản phẩm hay dịch vụ nhằm thỏa mãn
nhu cầu người sử dụng (Tiêu chuẩn Pháp NF X 50-109)
- Chất lượng thường được quan niệm là “cái tạo nên phẩm chất, giá trị
của một con người, một sự vật, sự việc” [10;18].
Tóm lại: Chất lượng là tập hợp tính chất và đặc trưng của sản phẩm, tạo
cho nó khả năng thoả mãn nhu cầu đã được nêu rõ hoặc tiềm ẩn (ISO 8402-
1986).
* Chất lượng giáo dục
Trong lĩnh vực giáo dục, chất lượng với đặc trưng sản phẩm là “con
người lao động” có thể hiểu là kết quả (đầu ra) của quá trình giáo dục và được
thể hiện cụ thể ở các phẩm chất, giá trị nhân cách và giá trị sức lao động hay
năng lực hành nghề của người tốt nghiệp tương ứng với mục tiêu của từng
ngành đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân. Với nhu cầu đáp ứng nhu
cầu nhân lực của thị trường lao động, quan điểm về chất lượng đào tạo không
chỉ dừng ở kết quả của quá trình đào tạo trong nhà trường với những điều
kiện đảm bảo nhất định như cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên v.v..., mà còn
phải tính đến mức độ phù hợp và thích ứng của người tốt nghiệp với thị
trường lao động như tỉ lệ có việc làm sau tốt nghiệp, năng lực hành nghề tại
các vị trí làm việc cụ thể ở các doanh nghiệp, cơ quan, các tổ chức sản xuất -
dịch vụ, khả năng phát triển nghề nghiệp [14;258].
Vấn đề chất lượng giáo dục được các cơ quan, các tổ chức chính trị xã
hội và dư luận xã hội hết sức quan tâm. Làm thế nào để đưa nền giáo dục
nước ta hội nhập một cách hiệu quả và thiết thực, trong việc tạo ra nguồn
nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu xã hội và xu thế thời đại. Quá trình
đảm bảo chất lượng giáo dục được thể hiện ở sơ đồ sau:
13
Sơ đồ 1.2. Quá trình đảm bảo chất lượng giáo dục
Vì còn có nhiều ý kiến khác nhau trong diễn giải, bàn luận khái niệm
chất lượng giáo dục nên cần trao đổi để đi đến thống nhất:
- Chất lượng giáo dục theo nghĩa rộng là khả năng thực thi tối đa mục
tiêu giáo dục của cả hệ thống giáo dục, của một kiểu loại nhà trường nhất
định.
- Chất lượng giáo dục là phẩm chất năng lực của thế hệ trẻ (người học)
do giáo dục tạo ra, đáp ứng nhu cầu của xã hội và xu thế thời đại.
Chất lượng giáo dục biểu hiện tập trung nhất ở nhân cách học sinh, là
người được đào tạo và giáo dục.
Trong thực tế có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục: gia
đình - nhà trường và xã hội (yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan).
Phụ thuộc vào năng lực ngành giáo dục, có khả năng đáp ứng được
không; Năng lực quản lý, vấn đề giáo viên và bồi dưỡng giáo viên, cơ sở vật
chất thiết bị trường học, nội dung, phương pháp, phương tiện, thời gian, địa
điểm,...
14
Giảng
dạy
Học tập
của HS
Nâng cao
chất lượng
Tự đánh
giá
Đánh giá
bên ngoài
Thông tin đại
chúng
Cơ sở GD-ĐT
Phụ thuộc vào nhu cầu xã hội: nhu cầu người đi học, nhu cầu được học,
nhu cầu sử dụng người được đào tạo ra, nhu cầu về phẩm chất và năng lực (số
lượng và chất lượng).
Phụ thuộc vào năng lực xã hội và sự tiến bộ xã hội: Khoa học kỹ thuật,
khoa học công nghệ, đời sống kinh tế, văn hoá, chính trị, óc thẩm mỹ,...
* Chất lượng giảng dạy
Khái niệm giảng dạy được xác định thông qua mối quan hệ giữa thầy
giáo với tri thức. Với giới hạn như vậy, người quan sát có thể xác định được
các yếu tố đặc trưng cho mối quan hệ này. Có thể phát hiện ra các yếu tố đó
hoặc là bằng những quan sát trực tiếp, hoặc là thông qua các tư liệu, công cụ,
dấu vết còn lại...
Tuy nhiên nếu quan tâm đến học sinh, thầy giáo và tri thức một cách
tách biệt nhau sẽ dẫn đến coi nhẹ các mối quan hệ ba trục tác nhân đó; và
chính nhờ có các mối quan hệ qua lại này mà có thể xem xét chúng một cách
khách quan nhất và tác động đến hứng thú của học sinh. Để làm rõ các mối
quan hệ trên, chúng tôi sử dụng một sơ đồ quen thuộc, đó là tam giác dạy học.
Với sơ đồ này chúng ta có thể nắm bắt được những khía cạnh đa dạng khi
quan sát một lớp học.
Sơ đồ 1.3. Mối quan hệ giữa thày giáo với tri thức
Dưới góc độ của giáo dục học, “Hoạt động dạy học là hoạt động đặc
trưng cho bất cứ loại hình nhà trường nào và dạy học chính là con đường giáo
dục tiêu biểu nhất, hiệu quả nhất. Với nội dung và tính chất của nó, dạy học
luôn được xem là con đường hợp lý, thuận lợi nhất, giúp cho học sinh với tư
cách là chủ thể nhận thức có thể lĩnh hội được một hệ thống tri thức và kỹ
năng hành động, chuyển thành phẩm chất, năng lực trí tuệ của bản thân”
[36;112]; “Cá nhân người học vừa là chủ thể vừa là mục đích cuối cùng của
quá trình đó” [36;113].
15
TRI THỨC
SƯ PHẠM
THÀY GIÁO
QUAN SÁT
HỌC TẬP
HỌC SINH
GIẢNG DẠY
Dựa vào từ điển tiếng việt, có thể xác định “dạy học là hoạt động nâng
cao trình độ văn hoá và phẩm chất đạo đức theo những chương trình và mục
tiêu đào tạo xác định” [29;236].
“Giảng dạy” theo nghĩa rộng là sự tác động có ý thức của giáo viên đối
với những người khác nhằm mục đích tạo ra ở họ một sự thay đổi về nhận
thức và hành vi; theo nghĩa hẹp là xác định nội dung giảng dạy, vận dụng các
phương pháp hoặc chiến lược giảng dạy phù hợp và có hiệu quả, đặc biệt
thông qua giờ học ở nhà trường [20;26].
Tóm lại: Giảng dạy là một quá trình, trong đó dưới tác động chủ đạo (tổ
chức, điều khiển, lãnh đạo) của thầy, học sinh tự giác, tích cực, tự điều khiển
hoạt động nhận thức, nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ giảng dạy.
Để đạt được các mục tiêu giảng dạy, ngưòi dạy và người học đều phải
phát huy đầy đủ các yếu tố chủ quan của cá nhân (phẩm chất và năng lực) để
xác định nội dung và lựa chọn phương pháp cho phù hợp với thực tiễn cấp
học mình giảng dạy, tuân theo sự quản lý, điều hành của cơ quan cấp trên,
theo kế hoạch thống nhất, có sự tổ chức và được kiểm tra - đánh giá. Nói cách
khác, trong quá trình giảng dạy xuất hiện sự lao động chung của nhóm: Người
quản lý, người dạy và người học. Mối quan hệ giữa các hoạt động dạy học là
mối quan hệ biện chứng, không thể tách rời nhau, được tạo nên một chỉnh thể
thống nhất trong quá trình giảng dạy.
Mối quan tâm đến chất lượng giảng dạy của giáo viên phổ thông, không
phải chỉ mới xuất hiện trong thời đại ngày nay. Vấn đề này đã được nhiều cấp
lãnh đạo, nhiều học giả đề cập đã từ lâu. Tuy nhiên, để xác định thế nào là
chất lượng giảng dạy của giáo viên, thì còn có nhiều ý kiến tranh luận. Vấn đề
đặt ra đòi hỏi các nhà quản lý giáo dục hàng ngày phải đương đầu là sự lựa
chọn giữa chất lượng và số lượng, giữa yêu cầu chất lượng và sự hạn hẹp về
nguồn lực, tính hợp lý giữa chất lượng và hiệu quả... vấn đề là nếu không định
nghĩa được chất lượng giảng dạy là gì thì không có thể xác định được chất
lượng giảng dạy và nếu không xác định được chất lượng giảng dạy, thì làm
16
sao có thể đổi mới và nâng cao chất giảng dạy được. Sau đây là một số ý kiến
nói về chất lượng giảng dạy:
Chất lượng giảng dạy là sự lôi cuốn mọi người vào học tập.
Chất lượng giảng dạy là sự tiến bộ của học sinh về kiến thức, kỹ năng,
thái độ...
Chất lượng giảng dạy là sự vận dụng sáng tạo kiến thức lý thuyết vào
thực tiễn cuộc sống của thế hệ trẻ.
Một số quan điểm khác cho rằng có thể dựa trên chất lượng giảng dạy
(các chỉ số đánh giá giảng dạy) để đánh giá chất lượng giáo dục của nhà
trường. Trong thực tế, kết quả giảng dạy của giáo viên phụ thuộc rất nhiều
vào các yếu tố: Sự tích cực, chủ động của học sinh; cơ sở vật chất, thiết bị dạy
học; truyền thống, tình cảm của gia đình, bạn bè, người thân; môi trường xã
hội; bẩm sinh di truyền,...
Bởi cùng một thầy dạy, cùng bộ sách giáo khoa và sách tham khảo như
nhau, nhưng kết quả học tập ở từng học sinh là rất khác nhau. Hay cũng là
một học sinh học tập, nhưng ở mỗi thầy dạy khác nhau thì kết quả học tập của
học sinh cũng khác nhau.
1.2.2.2. Đánh giá chất lượng giảng dạy
* Đánh giá chất lượng giáo dục
Có rất nhiều định nghĩa về đánh giá trong lĩnh vực giáo dục, tuy nhiên
tùy thuộc vào mục đích đánh giá, cấp độ đánh giá và đối tượng đánh giá mà
mỗi định nghĩa đều nhấn mạnh hơn vào khía cạnh nào đó của lĩnh vực cần
đánh giá. Một số định nghĩa nhấn mạnh đến khía cạnh cần phải đi đến quyết
định nào đó chẳng hạn: “Đánh giá là quá trình hình thành những nhận định,
những phán đoán về thực trạng dựa vào sự phân tích những thông tin thu
được đối chiếu với những tiêu chuẩn đã đề ra, nhằm đi đến quyết định thích
hợp” [22;20].
Nhiều định nghĩa về đánh giá nhấn mạnh đến sự phù hợp giữa mục tiêu
và việc thực hiện, đây là định nghĩa được quan tâm nhiều nhất. Theo R. Tiler:
17
“Quá trình đánh giá chủ yếu là quá trình xác định mức độ thực hiện các mục
tiêu của chương trình giáo dục”. Có thể đưa ra khái niệm chung về đánh giá
trong giáo dục là quá trình tiến hành có hệ thống để xác định mức độ mà đối
tượng đạt được các mục tiêu giáo dục nhất định.
Đánh giá chất lượng giáo dục là việc rất khó khăn, phức tạp, nhà giáo
dục khó có thể nhận biết ngay được. Đánh giá chất lượng giáo dục là cả một
quá trình lâu dài, người có thể đánh giá được đó chính là người sử dụng lao
động (nguồn nhân lực do giáo dục đào tạo ra). Đánh giá cần tập trung vào yếu
tố nào là chủ yếu: đầu vào (vật lực, nhân lực và tài chính), đầu ra (người tốt
nghiệp) hay chính quá trình giảng dạy? Không có câu trả lời đơn giản cho vấn
đề này. Đánh giá được xác định thông qua mục đích đánh giá và người đánh
giá. Nếu mục đích đánh giá nhằm nâng cao chất lượng thì phải phải đánh giá
cả ba yếu tố: đánh giá chương trình, đánh giá cơ sở đào tạo, đánh giá chất
lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên.
Đánh giá chất lượng giáo dục là đánh giá sản phẩm giáo dục theo mục
tiêu đã đặt ra với những tiêu chí, tiêu chuẩn, để biết được thực trạng sản phẩm
đó, có thể có các hình thức đánh giá sau:
- Đánh giá theo chuẩn: Là sự đánh giá các cá nhân, bằng cách so sánh
người này với người khác dựa vào số điểm mà các thành viên trong một nhóm
mẫu đạt được. Theo cách đánh giá học đường hiện nay, tiêu chuẩn đánh giá
thường được xây dựng trên cơ sở học lực trung bình của một nhóm lớp.
- Đánh giá theo tiêu chí: Là sự đánh giá một hành vi bằng cách đem so
sánh nó với một mục tiêu (tiêu chí tương ứng với mục tiêu cần đạt được).
- Đánh giá tổng kết: Là sự đánh giá mà qua đó người ta xây dựng một
bảng thống kê hay tổng kết về những năng lực đạt được sau một giai đoạn đào
tạo dài hay ngắn hạn. Đánh giá tổng kết chú trọng đến các kỹ năng (các sản
phẩm được thực hiện) được đánh giá theo những tiêu chí thành công. cách
làm này thiên về kiểm tra hơn là đánh giá, tuy không loại trừ khía cạnh đánh
giá.
18
Nhìn chung đánh giá được hiểu là xem xét, phân tích, phán xét các hoạt
động nhất định trong một tổ chức, đơn vị đào tạo nào đó. Đánh giá là cơ sở để
tiến hành bất cứ hoạt động kiểm nhận nào khác. Đánh giá mang nặng tính đo
đếm theo đơn vị nhất định hơn là so sánh giữa hai đối tượng. Đánh giá trong
quản lý chất lượng có thể mang nhiều hình thức và phối hợp giữa các chỉ số
thực hiện, tự đánh giá và đánh giá đồng nghiệp. Đánh giá cũng có thể được
chính cơ sở giáo dục tiến hành, cũng có thể do các cơ quan bên ngoài tiến
hành. Kết quả đánh giá có thể được công khai. Có nhiều cuộc đánh giá chỉ
dừng lại so sánh kết quả đạt được với sứ mệnh, mục tiêu và các chuẩn mực
được cơ sở giáo dục đặt ra.
Tóm lại: Đánh giá chất lượng giá dục là quá trình thu thập và xử lý
thông tin nhằm mục đích tạo cơ sở cho những quyết định về mục tiêu, chương
trình, phương pháp dạy học, về những hoạt động khác có liên quan của nhà
trường và ngành giáo dục.
Đánh giá giáo dục có những chức năng sau:
- Xác nhận để cấp bằng hoặc chứng chỉ.
- Là cơ sở để tiên đoán, dự đoán kết quả mới trong tương lai (là cơ sở
căn cứ để nâng cao chất lượng).
- Nó là biện pháp thúc đẩy thầy, trò ý thức tự giác sáng tạo trong dạy và
học để đảm bảo kết quả công tác của mình.
- Đánh giá dựa vào kiểm tra, kiểm soát, thanh tra (quan trọng nhất là
kiểm tra và thi).
Các hình thức đánh giá chất lượng đào tạo ở trường THCS:
- Đánh giá đầu ra (xét lên lớp, xét tốt nghiệp)
- Đánh giá quá trình đào tạo của nhà trường, của giáo viên (tự đánh giá).
- Đánh giá cơ sở đào tạo (trường học) hiện tại là đánh giá của tổ chức
thanh tra giáo dục cấp trên.
- Đánh giá của xã hội, chủ yếu dựa vào dư luận xã hội, dư luận dựa trên
những đánh giá bên trong ngành giáo dục và ý kiến của học sinh.
19
- Đánh giá là công việc phức tạp, trải qua nhiều bước, liên quan đến
nhiều người và bộ phận, đòi hỏi cơ quan quản lý tinh thần trách nhiệm, cách
làm khoa học, biết hạn chế sức ép và tiêu cực.
Nguyên tắc đánh giá:
- Mục đích đánh giá phải rõ ràng, công bằng, dân chủ, khách quan.
- Có trách nhiệm đầy đủ của cấp quản lý cao nhất đến cấp thấp nhất.
- Công khai diễn biến và kết quả đến mọi thành viên trong hội đồng sư
phạm nhà trường.
Xác định nhiệm vụ đánh giá, căn cứ vào kết quả kiểm tra: Đánh giá chất
lượng các hoạt động sư phạm của giáo viên bằng cách đối chiếu với các văn
bản pháp quy, có tính đến đối tượng giáo viên, đối tượng học sinh và bối cảnh
cụ thể.
Đánh giá và xếp loại về trình độ nghề nghiệp, việc thực hiện các công tác
giáo dục khác và hiệu quả giảng dạy của giáo viên:
- Xác định nhiệm vụ đánh giá là việc xác định mức độ thực hiện các
nhiệm vụ của nhà trường và việc quản lý của hiệu trưởng theo các quy định
của cấp trên, trong bối cảnh địa phương và điều kiện thực tế của nhà trường.
* Đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên:
Đánh giá giảng dạy là một công việc khá mới mẻ đối với giáo dục đại
học nói chung và giáo dục phổ thông ở nước ta nói riêng cả về lí luận lẫn thực
tiễn. Hiện nay đã có nhiều trường đại học trong nước triển khai công tác này,
đặc biệt là sau khi có công văn số 1276/BGDĐT, ngày 20/02/2008 của Bộ
GD&ĐT về việc Hướng dẫn tổ chức lấy ý kiến phản hồi từ người học về hoạt
động giảng dạy của giảng viên. Mặc dù có những khó khăn ban đầu nhưng
việc đánh giá giảng dạy là một xu thế tất yếu và là một việc làm bắt buộc, vì
vậy cần phải chuẩn bị đầy đủ cả về lí luận lẫn thực tiễn nhằm thực hiện thành
công công tác quan trọng này, góp phần đảm bảo và không ngừng nâng cao
chất lượng đào tạo. Việc đánh giá giảng dạy của giáo viên (teaching
evaluation) là một yêu cầu không thể thiếu được đối với một cơ sở đào tạo
nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng giáo dục. Tuy nhiên hiện nay, khái
niệm này đang được hiểu và thực hiện theo nhiều cách khác nhau.
20
Tại sao phải đánh giá giảng dạy?
Có nhiều lí do để thu thập thông tin đánh giá về công tác giảng dạy của
giáo viên. Giáo viên muốn được biết việc giảng dạy của mình có hiệu quả hay
không. Cán bộ quản lí muốn biết các môn học có thu hút được nhiều học sinh
không. Hiệu trưởng muốn có những minh chứng cụ thể trong việc đánh giá
cán bộ của mình. Các dữ liệu từ đánh giá giáo dục sẽ giúp cho giáo viên điều
chỉnh và cải tiến nội dung và phương pháp giảng dạy hay nói cách khác là “tự
điều chỉnh hoạt động giảng dạy”, tạo nên một môi trường học tập tốt hơn cho
học sinh. Các dữ liệu này cũng là cơ sở cho các cấp quản lí tham khảo trong
việc đề bạt, tăng lương.
Về nội dung đánh giá, cần tập trung vào các vấn đề cơ bản như: Nội
dung kiến thức và phương pháp giảng dạy của giáo viên; giáo án, sổ bồi
dưỡng chuyên môn, tài liệu, trang thiết bị phục vụ giảng dạy và thời gian lên
lớp của giáo viên; trách nhiệm và sự nhiệt tình giảng dạy của giáo viên đối
với học sinh; khuyến khích sáng tạo, tôn trọng tư duy độc lập của học sinh
trong học tập; chất lượng ra đề kiểm tra đánh giá học sinh và sự công bằng
trong kiểm tra, đánh giá của giáo viên; tư vấn, hướng dẫn việc tự học cho học
sinh; chất lượng học tập cuối học kỳ, cuối năm học của học sinh.
1.2.3. Quản lý đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên THCS
1.2.3.1. Khái niệm quản lý
Trong quá trình lao động, cải tạo thiên nhiên con người đã biết kết hợp
lại với nhau thành từng nhóm người để sinh tồn và phát triển. Vì thế phải có
người đứng đầu (thủ lĩnh) đứng ra phối hợp hoạt động của các cá nhân, điều
hành, phân công lao động cho từng thành viên. Quản lý là một dạng lao động
xã hội, gắn liền và phát triển cùng với sự phát triển của con người. Quản lý là
lao động đặc biệt, điều khiển các hoạt động lao động, nó có tính khoa học và
nghệ thuật cao nhưng đồng thời cũng là sản phẩm mang tính lịch sử, tính đặc
thù. Khi đề cập cơ sở khoa học của quản lý C.Mác viết: “Bất cứ lao động nào
có tính xã hội, cộng đồng được thực hiện ở quy mô nhất định đều cần ở một
21
chừng mực nhất định. Sự quản lý giống như người chơi vĩ cầm một mình thì
tự điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì phải có nhạc trưởng” [7;157].
Quản lý là một khái niệm rộng bao gồm nhiều lĩnh vực, vì vậy các nhà khoa
học trên thế giới và Việt Nam đã đưa ra các khái niệm về quản lý khác nhau,
tùy thuộc theo quan điểm tiếp cận khác nhau, có thể nêu lên một số khái niệm
về quản lý như sau:
- Theo Aphanaxép: “Quản lý con người có nghĩa là tác động đến anh ta
sao cho hành vi, công việc và hoạt động của anh ta đáp ứng những yêu cầu
của xã hội, tập thể để những cái đó có lợi cho tập thể, cá nhân, thúc đẩy sự
tiến bộ của xã hội lẫn cá nhân” [1;78]
- Các nhà lý luận quản lý quốc tế: Fredevinh Wiliam Duylor (1986-
1915) cuả mỹ; Henri Fayol (11841-1925) của Pháp; Max Weber (1864-1920)
của Đức đều đã khẳng định: Quản lý là một khoa học và đồng thời là nghệ
thuật thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Ở Việt Nam, theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do nhà
xuất bản Giáo dục xuất bản năm 1994: “Quản lý là trông coi, giữ gìn theo
những yêu cầu nhất định. Là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những
yêu cầu nhất định” [28;45]
“Quản lý” là là một từ Hán -Việt được ghép giữa từ “quản” và từ “lý”.
“Quản là” sự trông coi, chăm sóc, giữ gìn, duy trì ở trạng thái ổn định. “lý” là
tự sửa sang, sắp xếp, làm cho nó phát triển. Như vậy “quản lý” là trông coi,
chăm sóc, sửa sang, làm cho nó ổn định và phát triển.
- Theo Trần Kiểm: “Quản lý nhằm phối hợp nỗ lực của nhiều người, sao cho
mục tiêu của từng cá nhân biến thành những thành tựu của xã hội” [16;45].
- Các tác giả Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ cho rằng: “Quản lý là một
quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý một hệ thống nhằm đạt
được những mục tiêu nhất định” [15;37].
Quản lý được xem xét dưới nhiều góc độ khoa học khác nhau, nhưng có
thể nhận thấy một điểm thống nhất của các tác giả trong và ngoài nước là:
Quản lý là một quá trình tác động có định hướng của chủ thể quản lý đến đối
22
tượng quản lý nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả các tiềm năng và các cơ
hội của đối tượng quản lý để đạt được mục tiêu quản lý trong một môi trường
biến động.
1.2.3.2. Chức năng quản lý
Quản lý là một dạng lao động đặc biệt điều khiển các hoạt động lao
động. Lao động quản lý có các chức năng cơ bản được quy định một cách
khách quan bởi chức năng hoạt động của các khách thể quản lý.
Quản lý có bốn chức năng cơ bản, bốn chức năng này có mối quan hệ
mật thiết với nhau tạo thành một chu trình quản lý như sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.4. Mối quan hệ giữa các chức năng quản lý
- Chức năng kế hoạch: Là chức năng hạt nhân quan trọng nhất của quá
trình quản lý. Kế hoạch được hiểu là tập hợp những mục tiêu cơ bản được sắp
xếp theo một trình tự nhất định, lô gíc với một chương trình hành động cụ thể
để đạt được những mục tiêu đã được hoạch định.
- Chức năng tổ chức: Là sắp xếp, bố trí một cách khoa học và phù hợp
với những nguồn lực của hệ thống toàn vẹn nhằm đảm bảo cho chúng tương
ứng với nhau để đạt được mục tiêu của hệ thống một cách tối ưu nhất, hiệu
quả nhất.
- Chức năng chỉ đạo: Chức năng này có tính chất tác nghiệp, điều
chỉnh, điều hành hoạt động của hệ thống nhằm thực hiện đúng kế hoạch đã
định để mục tiêu trong dự kiến thành hiện thực.
Kế hoạch hoá
Quản lý
Kiểm tra
Tổ chức Chỉ đạo
23
- Chức năng kiểm tra đánh giá: Thu thập những thông tin ngược từ đối
tượng quản lý trong quá trình vận hành của hệ thống để đánh giá xem trạng
thái của hệ thống đã đến đâu, xem mục tiêu dự kiến ban đầu đạt đến mức độ
nào. Trong quá trình kiểm tra, kịp thời phát hiện những sai sót để kịp thời sửa
chữa.
1.2.3.3. Khái niệm quản lý giáo dục
Trên nền tảng của KHQL đại cương nói chung, ngày nay đã xuất hiện
nhiều chuyên ngành khoa học quản lý khác nhau trong đó có khoa học về
quản lý giáo dục. Các ngành khoa học này có quan hệ mật thiết với nhau, đảm
bảo thực hiện mục tiêu chung đó là phát triển nền kinh tế-xã hội. Do đó có
những cách nhìn nhận về quản lý giáo dục ở những góc độ khác nhau. Từ các
góc độ khác nhau đó đã hình thành nhiều khái niệm có nội hàm khác nhau. Ở
đây chỉ đề cập đến khái niệm QLGD như là một hệ thống mà hạt nhân của hệ
thống đó là các cơ sở GD&ĐT (chủ yếu là hệ thống các trường học).
* Các khái niệm của các tác giả nước ngoài
- Theo P.V. Khuđôminxky: “Quản lý GD là tác động có hệ thống, có kế
hoạch, có ý thức, có mục đích của các chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau
đến tất cả các khâu của hệ thống (từ Bộ GD&ĐT đến trường học) nhằm đảm
bảo việc giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, đảm bảo sự phát triển
toàn diện và hài hoà của họ trên cơ sở nhận thức và sử dụng các quy luật
chung của xã hội cũng như các quy luật khách quan của QTDH và giáo dục,
của sự phát triển thể chất và tâm lý trẻ của em ” [25;50].
- Theo M.M Mechiti Zade: Quản lý giáo dục là tập hợp những biện pháp
(tổ chức, phương pháp, cán bộ giáo dục, kế hoạch hoá, tài chính, cung tiêu...)
nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo
dục, bảo đảm sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng
cũng như chất lượng.
* Các nhà khoa học Việt Nam đã định nghĩa về quản lý giáo dục như
sau:
24
- Theo tác giả Phạm Minh Hạc: Quản lý giáo dục là quản lý trường học,
thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình,
tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục, để tiến tới mục tiêu
giáo dục, mục tiêu đào tạo của ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học
sinh [11; 45].
- Theo Nguyễn Ngọc Quang: Quản lý giáo dục là hệ thống tác động có
mục đích, có kế hoạch hợp với quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ
thống giáo dục vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực
hiện được các tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ
là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ thống giáo dục đạt mục tiêu
dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất [26; 16].
- Theo Đặng Quốc Bảo: “QLGD theo nghĩa tổng quát là hoạt động điều
hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy mạnh mẽ công tác đào tạo
thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội” [2; 63].
Từ các ý kiến của các nhà khoa học trên đây có thể quan niệm quản lý
giáo dục là quá trình tác động có định hướng của chủ thể quản lý đến đối
tượng quản lý nhằm đưa hoạt động giáo dục ở từng cơ sở và của toàn bộ hệ
thống giáo dục đạt tới mục tiêu giáo dục đã định.
* Đặc điểm của quản lý giáo dục:
Thứ nhất: Quản lý bao giờ cũng chia thành chủ thể quản lý và đối tượng
bị quản lý.
Thứ hai: Quản lý bao giờ cũng liên quan đến việc trao đổi thông tin và
đều có mối liên hệ ngược.
Thứ ba: Quản lý bao giờ cũng có khả năng thích nghi (luôn biến đổi).
Thứ tư: Quản lý vừa là khoa học vừa là một nghệ thuật.
Thứ năm: Quản lý gắn liền với quyền lực, lợi ích và danh tiếng. Người
lãnh đạo có ưu thế quan trọng trong việc tổ chức, họ có khả năng điều khiển
người khác và chi phối các nguồn lực và tài sản của tổ chức. Người lãnh đạo
còn là người có điều kiện thuận lợi nhất để thực hiện các mong muốn của
25