Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

vận dụng phương pháp thống kê nghiên cứu ảnh hưởng của mức sinh, mức chết đến phát triển ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.36 MB, 70 trang )

Lời mở đầu.
Cùng với sự phát triển của nhân loại, sự tiến bộ của xã hội loài ngời. ở mỗi
thời đại, vấn đề liên quan đến sự phát triển luôn đợc quan tâm hàng đầu ở mỗi
quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ. Sự phát triển về kinh tế xã hội là thớc đo phản ánh
sự tiến bộ của mỗi xã hội ở mỗi thời đại khác nhau. Đi liền với sự phát triển là
các thớc đo về kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội ... ở mỗi quốc gia, mỗi vùng
lãnh thổ có nền văn hóa khác nhau, thì có các mục tiêu và phơng hớng phát triển
khác nhau, nhng đều tính sự phát triển theo các quy định chung của Liên hợp
quốc nh: phát triển về trình độ văn hóa, giáo dục, về kinh tế - xã hội, cơ sở hạ
tầng, ứng dụng khoa học kỹ thuật, tốc độ tăng GDP, mức sống dân c, biến động
dân số...
Xét trong điều kiện hiện nay, Việt Nam đợc coi là nớc đang phát triển,
đang bớc vào thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa với rất nhiều mục tiêu cần h-
ớng tới cả về kinh tế văn hóa và chính trị. Để đa đất nớc tiến lên phát triển bền
vững, chúng ta cần phải quan tâm tu bổ cải tiến và nâng cấp các hệ thống chỉ
tiêu cả về kinh tế văn hóa. Có rất nhiều chỉ tiêu ảnh hởng phản ánh sự phát triển
của Việt Nam, song trong phạm vi hạn hẹp và bằng kiến thức đã tiếp thu đợc ở
trong gần 4 năm qua học đợc tại trờng ĐH KTQD, kết hợp thời gian thực tập
vừa qua, em xin lựa chọn đề tài nghiên cứu: Vận dụng phơng pháp thống kê
nghiên cứu ảnh hởng của mức sinh, mức chết đến phát triển ở Việt Nam
để làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Trong đề tài này, mục đích chính của em là nghiên cứu ảnh hởng của các
chỉ tiêu phản ánh mức sinh, mức chết đến phát triển ở Việt Nam, mà đại diện
cho phát triển ở đây là chỉ số phát triển con ngời HDI. Xét trong hệ thống chỉ
tiêu của phát triển có sự phản ánh về chỉ tiêu của lĩnh vực dân số, một trong
những biểu hiện của nó là mức sống dân c, trong đó có mức sinh, mức chết. Đề
tài nghiên cứu này nhằm đa ra mối quan hệ tơng quan chặt chẽ và mức độ ảnh
hởng của các chỉ tiêu phản ánh mức sinh mức chết đến HDI, từ đó ta có thể
1
nhận định tầm quan trọng của các chỉ tiêu này trong vấn đề phát triển ở Việt
Nam.


Để hoàn thiện đề tài này, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, góp ý tận
tình của thầy giáo TS. Phạm Đại Đồng, các thầy cô giáo trong khoa Thống Kê,
cán bộ phó trởng phòng Phạm Minh Sơn cùng các cán bộ của trung tâm Dấn số,
Gia đình và Trẻ em!
Do trình độ có hạn, kinh nghiệm cha nhiều nên đề tài còn nhiều thiếu sót
và có những hạn chế. Em mong muốn có đợc sự góp ý thêm của các thầy cô
giáo trong khoa cũng nh trong trờng và của các độc giả quan tâm.
Hà Nội - 5/2004.
2
Chơng I: Những lý luận chung về mức sinh, mức
chết và phát triển ở Việt Nam.
I/ Các khái niệm cơ bản:
1. Khái niệm về mức sinh:
Mức sinh là một chỉ tiêu cấu thành trong việc phản ánh sự biến động dân
số, chỉ tiêu này phản ánh mức sinh đẻ thực tế của một dân c trong thời gian
nghiên cứu. Nó không những phụ thuộc vào khả năng sinh sản của mỗi ngời phụ
nữ, mà còn phụ thuộc vào các yếu tố dân số - kinh tế - xã hội khác nh: tuổi kết
hôn, thời gian chung sống của các cặp vợ chồng và số con mong muốn của họ,
trình độ phát triển kinh tế - xã hội, địa vị của ngời phụ nữ, chính sách của nhà n-
ớc, việc sử dụng các biện pháp tránh thai....Theo cách tiếp cận dọc, mức sinh đ-
ợc nghiên cứu cho từng thế hệ. Nhng trong thực tế, nó thờng đợc nghiên cứu cho
một tập hợp dân c, một tập hợp phụ nữ hiện tại trong một thời kỳ nhất định (th-
ờng là một năm) theo cách tiếp cận ngang. Mức sinh đẻ thực tế ở mỗi vùng có
sự khác nhau rõ rệt, điều này là do tác động của những phong tục tập quán của
từng vùng và sự phát triển về kinh tế văn hóa xã hội ở mỗi vùng khác nhau. Điều
này còn ảnh hởng bởi những t tởng khác nhau của mỗi thế hệ con ngời. Tuỳ
thuộc vào trình độ học vấn nhận thức của mỗi thế hệ con ngời, nó còn dựa vào
sự tiến bộ của xã hội và sự phát triển mọi mặt về kinh tế chính trị và văn hoá.
2. Khái niệm về mức chết:
Trong lĩnh vực dân số, sinh và chết là hai yếu tố chủ yếu của quá trình tái

sản xuất dân số, luôn gắn liền với mọi cơ thể sống. Sự biến động về dân số chịu
tác động của rất nhiều yếu tố trong đó có sự ảnh hởng một phần không nhỏ của
hai yếu tố: mức sinh và mức chết. Mức chết có ảnh hởng đến sự thay đổi quy
mô và cơ cấu dân số. Nh ta đã biết, mọi sự vật hiện tợng có sự sinh ra thì sẽ có
sự mất đi. Vì thế việc phân tích mức chết không chỉ là căn cứ để đánh giá, xây
dựng các chơng trình y tế công cộng, mà còn là căn cứ để xây dựng các kế
hoạch phát triển, tính toán tiềm năng gia tăng dân số.... Khi đánh giá và phân
tích mức chết ngời ta thờng xuất phát từ số ngời chết trong một thời kỳ nhất
3
định (thờng là một năm). Trong mức chết có nhiều chỉ tiêu phản ánh mức chết
nh là: tỷ suất chết thô, tỷ suất chết trẻ em, tuổi thọ bình quân... Mức chết cũng là
một chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển xã hội của mỗi tập hợp dân c. Dựa vào
đây ta có thể biết đợc tình hình biến động dân số của mỗi vùng hay quốc gia
nghiên cứu. Qua đó chúng ta cũng có thể nhận định đợc trình độ phát triển của
mỗi vùng, quốc gia cần nghiên cứu. Đây cũng là chỉ tiêu phản ánh sự tiến bộ
của mỗi xã hội, mỗi khu vực, nó biểu hiện cho sự phát triển về kinh tế chính trị
văn hoá của mõi vùng khu vực hay quốc gia nghiên cứu.
3. Khái niệm về phát triển:
Theo triết học Mác - Lê Nin thì khái niệm phát triển không khái quát mọi
sự vận động nói chung. Nó chỉ khái quát những vận động đi lên, cái mới ra đời
thay thế cho cái cũ. Sự vận động đi lên có thể diễn ra theo các chiều hớng: từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện. Tùy
theo các lĩnh vực khác nhau của thế giới vật chất mà sự phát triển thể hiện khác
nhau.
Trong giới vô cơ, sự phát triển biểu diễn dới hình thức biến đổi của các yếu
tố và hệ thống vật chất, sự tác động lẫn nhau giữa chúng trong những điều kiện
nhất định làm xuất hiện các hợp chất phức tạp. Trong sinh vật, sự phát triển của
chúng thể hiện ở khả năng thích nghi trớc sự biến đổi phức tạp của môi trờng, ở
sự hoàn thiện không ngừng quá trình trao đổi chất, ở sự tái sinh ra chính mình
đã dẫn đến sự xuất hiện ngày càng phong phú của các giống loài mới ngày càng

đa dạng và phong phú hơn.
Trong đời sống xã hội, sự phát triển thể hiện ở sự thay thế nhau ngày càng
cao hơn của các phơng thức sản xuất, sự tiến bộ trong việc đa ra các công nghệ
tiên tiến, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất kinh
doanh với mục đích chính nhằm phục vụ đời sống con ngời, hớng tới muc tiêu
da con ngời ngày càng hoàn thiện và thích nghi hơn trong sự biến đổi tự nhiên
của giới vật chất.
Trong t duy, thể hiện ở chỗ những giới hạn nhận thức của các thế hệ trớc
luôn luôn bị các thế hệ sau vợt qua, cái mới ra đời phủ định và áp đảo cái cũ.
Con ngời luôn vơn tới các mục tiêu để hoàn thiện chính mình. ở mỗi xã hội mọi
4
sự vận động luôn luôn diễn ra một cách có chủ định nhằm một cách tối đa đa lại
lợi ích cho con ngời. Ngoài sự đổi mới đi lên và hớng tới hoàn thiện mình, trong
t duy của con ngời luôn có những mục tiêu hớng tới theo chiều hớng tích cực,
giảm thiểu tối đa những mặt tiêu cực trên con đờng phát triển. Xét về mặt kinh
tế thì phát triển luôn thể hiện trong sự tăng trởng kinh tế về chất và lợng của các
ngành nghề, sự tăng lên của các giá trị tổng sản phẩm quốc dân.... Còn xét theo
mặt văn hoá xã hội thì phát triển thể hiện ở sự ổn định chính trị xã hội, sự đáp
ứng nhu cầu của mức sống dân c, nâng cao chất lợng cuộc sống cho con ngời.
Phát triển là hiện tợng luôn diễn ra không ngừng trong giới tự nhiên, trong
xã hội và trong t duy, nguồn gốc của nó là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập
trong bản thân sự vật và hiện tợng. Song không nên hiểu sự phát triển bao giờ
cũng diễn ra một cách đơn giản mà trong nó có sự liên quan ràng buộc lẫn nhau
một cách phức tạp, không phải lúc nào nó cũng có chiều hớng đi lên, cũng có
lúc nó đi xuống. Khái quát tình hình trên thì phát triển là khuynh hớng chung
của sự vận động của sự vật và hiện tợng trong giới tự nhiên và trong chính đời
sống của con ngời.
II/ Hệ thống chỉ tiêu thống kê.
1.Một số chỉ tiêu chủ yếu phản ánh mức sinh:
Có nhiều chỉ tiêu phản ánh mức sinh trong hệ thống chỉ tiêu của mức sinh,

dới đây là một số chỉ tiêu chủ yếu mà ngời ta thờng dùng để đo lờng mức sinh
đẻ thực tế của một tổng thể dan c:
1.1 Tỷ số trẻ em phụ nữ (CWR: Child Woman Ratio):
Tỷ số trẻ em phụ nữ phản ánh quan hệ so sánh giữa số trẻ em đợc sinh ra
với số phụ nữ trong tuổi sinh đẻ trong cùng thời kỳ. Nó đợc tính theo nhiều công
thức khác nhau. Dạng đơn giản đợc dùng nhiều nhất là:
CWR =
1915
40


W
P
Trong đó:
40
P
- Số trẻ em từ 0 đến 4 tuổi.

1915
W
- Số phụ nữ trong tuổi sinh đẻ từ 15 đến 49 tuổi.
5
Chỉ tiêu này giúp ta đánh giá khái quát mức sinh của cả thời kỳ 5 năm liền
trớc thời điểm nghiên cứu. Trên giác độ thống kê, tử số và mẫu số của công thức
không đảm bảo tính chất so sánh đợc, nên mức chính xác không cao. Tuy nhiên,
trong điều kiện thiếu số liệu, nó lại đợc sử dụng làm cơ sở để ớc lợng gián tiếp
mức sinh cần nghiên cứu của một tổng thể dân c.
1.2 Tỷ suất sinh thô (CBR: Crude Birth Rate):
Đây là chỉ tiêu phản ánh tỷ số giữa số trẻ em sinh ra trong năm trên số dân
bình quân của một tổng thể dân c cần nghiên cứu và đợc xác định bằng công

thức sau:
CBR =
P
B
Trong đó: B - Số trẻ em đợc sinh ra trong năm.
P
- Số dân bình quân năm.
CBR thờng đợc tính bằng tỷ lệ %0 biểu thị mức sinh đẻ bình quân của 1000
ngời dân trong 1 năm. Đây là một chỉ tiêu cơ bản, đợc dùng nhiều trong các
nghiên cứu về dân số. Tuy nhiên, chỉ tiêu này còn chịu ảnh hởng của số trẻ em
đợc sinh ra trong năm bởi nó có sự liên quan trực tiếp đến cấu trúc dân c theo
tuổi và giới tính của từng khu vực khác nhau. Đây là một chỉ tiêu quan trọng
trong việc phản ánh mức sinh của mỗi quốc gia và luôn đợc tính đến trong các
cuộc nghiên cứu có quy mô về dân số ở mỗi quốc gia. Chỉ tiêu này đã đợc các tổ
chức dân số quốc tế đa vào hệ thống chỉ tiêu để tính chung cho các nớc các quốc
gia.
1.3 Tỷ suất sinh chung (GFR Genenal Fertility Rate):
Chỉ tiêu này đợc tính bằng tỷ số giữa số trẻ em sinh ra trong năm trên số
phụ nữ trong tuổi sinh đẻ bình quân trong năm và đợc tính theo công thức sau:
GFR =
4915

W
B
6
Trong đó:
4915

W
- Số nữ trong tuổi sinh đẻ bình quân năm.

Chỉ tiêu này thờng đợc tính bằng tỷ lệ %0 biểu thị mức sinh đẻ bình quân
trong năm của 1000 phụ nữ từ 15 đến 49 tuổi. Nó không chịu ảnh hởng của cơ
cấu dân c theo giới, nhng vẫn còn chịu ảnh hởng của cấu trúc tuổi của số nữ
trong độ tuổi sinh đẻ.
1.4 Tỷ suất sinh đặc trng theo tuổi (ASFR Age Specific Fertility Rate):
Đây là chỉ tiêu đợc tính bằng tỷ số giữa số trẻ em đợc sinh ra trong năm
trên trên số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ bình quân năm theo từng độ tuổi. Công
thức đợc tính nh sau:
ASFRx =
x
x
W
B
Trong đó: x là chỉ số tuổi của ngời mẹ (x =15,16,...,49)
ASFR phản ánh chính xác mức sinh ở từng độ tuổi của phụ nữ. Tuy nhiên,
nó lại quá chi tiết nên nhiều khi không có đủ số liệu để tính toán. Mặt khác, chỉ
tiêu này lại có thể bị ảnh hởng bởi việc khai báo tập trung vào các độ tuổi là bội
số của 5. Trong thực tế, ASFR thờng đợc tính cho các nhóm 5 tuổi (nhóm tuổi
n). Khi đó tử số của công thức trên biểu thị số trẻ em do các bà mẹ sống ở nhóm
tuổi n sinh ra, còn mẫu số là số phụ nữ trung bình trong độ tuổi sinh đẻ đang
sống ở nhóm tuổi đó. Cũng cần chú ý rằng ASFR có thể đợc tính cho từng thế
hệ thực tế theo cách tiếp cận dọc. Trong trờng hợp này, phải theo dõi số sinh của
thế hệ này trong nhiều năm, từ khi họ bớc vào tuổi sinh đẻ cho đến hết 49 tuổi.
Thực tế, ASFR thờng đợc tính cho một năm đối với tất cả các độ tuổi theo ph-
ơng pháp tiếp cận ngang nhằm đánh giá mức sinh của năm nghiên cứu. Chúng
ta có thể dựa vào công thức này để phân biệt tỷ lệ sinh ở các nhóm tuổi khác
nhau trong một hay nhiều năm, qua đó ta cũng so sánh và đánh giá đợc tỷ lệ
sinh của từng nhóm tuổi phụ nữ giữa thành thị và nông thôn trong cùng một thời
kỳ. Chỉ tiêu này cũng đợc dùng để tính cho tổng tỷ suất sinh hàng năm qua các
cuộc điều tra về dân số hay về xã hội hoc.

1.5 Tổng tỷ suất sinh (TFR: Total Fertility Rate)
7
Tổng tỷ suất sinh đợc xác định bằng tổng của các tỷ suất sinh đặc trng theo
tuổi với công thức tính nh sau:
TFR =

=
49
15x
x
ASFR
= 5*

=
7
1n
n
ASFR
Trong đó: x là số tuổi của phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ.
n là số nhóm tuổi của phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ.
Về thực chất, TFR phản ánh số con trung bình mà một bà mẹ có thể sinh đ-
ợc, nếu sống đến hết tuổi sinh đẻ và ngời phụ nữ này có mức sinh theo tuổi
giống y hệt nh các ASFR đã đợc chỉ ra. Nh vậy, TFR có thể phản ánh số con
trung bình của một thế hệ phụ nữ thực, nếu ASFR đợc tính theo cách tiếp cận
dọc. Tuy nhiên, do cách tiếp cận ngang của các ASFR, nên TFR thờng đợc dùng
để đánh giá mức sinh của một năm (hoặc một số năm) cho một tổng thể dân số
nào đó. Nó cho biết nếu theo mức sinh của năm nghiên cứu, thì trung bình một
ngời phụ nữ khi sống đến hết tuổi sinh đẻ sẽ sinh đợc mấy con. TFR không chịu
ảnh hởng của cấu trúc dân số theo tuổi và giới, nên thờng đợc dùng để đo lờng,
so sánh mức sinh giữa các địa phơng với nhau.

2. Một số chỉ tiêu chủ yếu phản ánh mức chết:
Để đo lờng mức chết trong một tổng thể dân c, quỹ dân số liên hiệp quốc
đã đa vào hệ thống chỉ tiêu một số chỉ tiêu cơ bản đợc tính nh sau:
2.1 Tỷ suất chết thô ( CDR: Crude Death Rate):
Chỉ tiêu này đợc tính bằng tỷ số giữa số ngời chết trên dân số trung bình
trong cùng một thời kỳ nhất định. Công thức tính nh sau:
CDR =
P
D
8
Trong đó: D - là số ngời chết trong năm.

- là dân số trung bình trong năm.
CDR thờng đợc tính bằng tỷ lệ %0 biểu thị mức chết bình quân của 1000
ngời dân trong 1 năm. Đây là một chỉ tiêu cơ bản, đợc dùng nhiều trong các
nghiên cứu về dân số. Tuy nhiên, nó còn chịu ảnh hởng của cấu trúc dân c. Khi
muốn so sánh mức chết giữa các dân số với nhau, cần phải loại bỏ ảnh hởng của
cơ cấu dân c bằng việc dùng thủ thuật chuẩn hoá. Ngoài cấu trúc dân c chỉ tiêu
này cũng chịu ảnh hởng của mức sống dân c hay trình độ phát triển. Đây là chỉ
tiêu qua trọng trong hệ thống chỉ tiêu về mức chết, nó luôn đợc đề cập đến trong
các cuộc điều tra về dân số của mỗi quốc gia.
2.2 Tỷ suất chết đặc trng theo tuổi (ASDR: Age Specific Death Rate):
Đây là chỉ tiêu đợc tính bằng tỷ số giữa số ngời chết trên dân số trung bình
trong thời kỳ nghiên cứu. Công thức tính nh sau:
ASDRx =
x
x
P
D
(trong đó x là chỉ số tuổi)

Trong đó:
x
D
- là số ngời chết trong độ tuổi x.

x

- là dân số trung bình trong độ tuổi x.
ASDRx không chịu ảnh hởng bởi cấu trúc dân c, phản ánh đúng mức chết ở
từng độ tuổi. Trong các nghiên cứu về dân số, nó đợc dùng làm cơ sở để xây
dựng bảng sống. Để tính toán đợc các ASDRx, cần có hệ thống số liệu chi tiết về
số ngời chết và số sống trung bình ở từng độ tuổi. Khi không có đủ số liệu cần
thiết, nó có thể đợc tính cho các nhóm tuổi khác.
2.3 Tỷ suất chết trẻ em (IMR : Infant Mortality Rate):
Trong các nghiên cứu về dân số, ngời ta đặc biệt chú ý đến mức chết của
trẻ em. Vì đây là nhóm thờng có mức chết lớn. Mặt khác, mức chết của trẻ em
gắn liền với việc cải thiện điều kiện sống, sự phát triển của y tế nói riêng, của
khoa học kỹ thuật nói chung, nên tỷ suất chết trẻ em là một trong những chỉ tiêu
phản ánh đúng đắn mức sống dân c. Có nhiều thớc đo đánh giá mức chết trẻ em.
Trong đó, tỷ suất chết trẻ em dới một tuổi (IMR) đợc sử dụng nhiều nhất (còn đ-
ợc gọi là tỷ suất chết của trẻ sơ sinh). Nó thờng đợc tính theo tỷ lệ %0, phản ánh
9
mức chết trung bình của 1000 trẻ em mới đợc sinh ra trong một năm. Công thức
đơn giản nhất là:
IMR =
o
B
D
0
Trong đó:

0
D
là số trẻ em chết dới 1 tuổi trong năm.
0

là số trẻ em đợc sinh ra trong năm.
Ngoài ra IMR còn đợc tính theo công thức điều chỉnh.
Ta có lợc đồ Lexis biểu diễn số trẻ em dới 1 tuổi nh sau:
+
0
D


0
D
1
0
+
D
B
-1
B
0
B
1
Trong đó: B
0
- là số sinh trong năm nghiên cứu.
B
-1

- là số sinh của năm trớc.
+
0
D
- là số sinh năm trớc, chết trong năm nghiên cứu khi cha đầy 1 tuổi.


0
D
- là số sinh năm nghiên cứu, chết trong năm khi cha đầy 1 tuổi.

1
0
+
D
- là số sinh của năm nghiên cứu, chết sau năm nghiên cứu khi cha đầy
một tuổi.
Từ sơ đồ trên ta có các công thức điều chỉnh sau:
- Điều chỉnh cả tử số và mẫu số:
1
0
0
0

=
+=
B
D
B
D

IMR
- Điều chỉnh tử số:
0
1
00
B
DD
IMR
+
+
=
- Điều chỉnh mẫu số:
10
00
).1(.

+
+
+
=
BdBd
DD
IMR
10
Trong đó: d - là tỷ trọng số trẻ em chết dới 1 tuổi có cùng năm sinh trong
tổng số trẻ chết dới 1 tuổi của năm nghiên cứu.
Công thức của d là:
0
0
D

D
d

=
Thực tế cho thấy (d) phụ thuộc nhiều vào mức chết của trẻ em dới 1 tuổi.
Nếu IMR lớn thì (d) nhỏ và ngợc lại. ở các nớc phát triển, IMR hiện còn khá
cao (khoảng trên 60 phần nghìn), (d) thờng bằng 2/3. Còn ở các nớc công
nghiệp phát triển, IMR đã đạt mức thấp (khoảng 10 phần nghìn), (d) thờng ở
mức 3/4.
Ngoài ra, khi nghiên cứu mức chết, ta còn có các thớc đo khác nh: tỷ suất
chết của trẻ em dới 5 tuổi, tỷ suất chết của trẻ em từ 1 đến 4 tuổi, tỷ suất chết
sản phụ hay tỷ suất chết bà mẹ....
2.4 Triển vọng sống trung bình (eo).
Triển vọng sống trung bình hay độ dài trung bình cuộc sống tơng lai (có
nơi gọi là kỳ vọng sống) có liên quan chặt chẽ và phụ thuộc vào mức chết dân c.
Nếu mức chết, đặc biệt mức chết của trẻ em càng cao, thì triển vọng sống trung
bình càng thấp và ngợc lại. Vì vậy triển vọng sống trung bình là chỉ tiêu rất
quan trọng của tái sản xuất dân số, là một trong những chỉ tiêu cơ bản đánh giá
mức độ chết của dân c, phản ánh trình độ phát triển kinh tế xã hội và trình độ y
học đã đạt đợc, thể hiện sự quan tâm của Nhà nớc đối với ngời dân và cũng là
một trong những chỉ tiêu phản ánh mức sống của ngời dân.
Triển vọng sống trung bình (eo) là số năm trung bình còn sống đợc khi đã
đạt đến độ tuổi nào đó, có công thức nh sau:
(e
x
) =
x
x
l
T

=
x
xi
i
l
L


=
Trong đó:
e
x
- triển vọng sống trung bình của những ngời đã đạt tuổi x.
l
x
- số ngời sống đến độ tuổi x từ tập hợp sinh ban đầu nào đó.
L
i
- số năm ngời sống đợc trong một độ tuổi hoặc nhóm tuổi (từ tuổi i đến
tuổi i+n).
11

- tuổi mà con ngời có thể sống đợc.
T
x
- tổng số năm ngời sống đợc từ tuổi x đến khi không còn ngời nào trong
tập hợp đó sống đợc nữa.
Trong triển vọng sống trung bình, ngời ta đặc biệt quan tâm đến triển vọng
sống trung bình khi mới sinh.
e

0
=
o
o
l
T
=
o
oi
x
l
L


=
Trong đó:
e
0
: triển vọng sống trung bình khi mới sinh.
l
o
: tập hợp sinh ban đầu.
T
o
: tổng số năm ngời sống đợc của tập hợp sinh ban đầu từ khi mới sinh
đến khi không còn ai trong tập hợp sinh đó sống đợc nữa.
Triển vọng sống trung bình khi mới sinh đợc coi là tuổi thọ trung bình của
tập hợp sinh này. Cần phân biệt đợc tuổi thọ trung bình với tuổi sống trung bình
của dân c tại thời điểm nào đó (tuổi trung bình của những ngời đang sống) hoặc
với tuổi chết trung bình (tuổi thọ trung bình của những ngời chết trong năm).

3. Một số chỉ tiêu chủ yếu phản ánh trình độ phát triển.
Để làm rõ sự tiến bộ của xã hội, ngời ta xét sự tiến bộ xã hội trên các khía
cạch về phát triển kinh tế và phát triển xã hội. Một xã hội phát triển là một xã
hội ổn định về chính trị, phát triển mạnh kinh tế, giữ vững bản sắc văn hoá, nâng
cao đời sống của dân c. Nh vậy theo quy định trong hệ thống chỉ tiêu của phát
triển đợc tổ chức thế giới đa ra đợc xét trên các góc độ của chỉ số phát triển xã
hội và chỉ số phát triển kinh tế dùng để làm thớc đo sự phát triển cho các quốc
gia, đợc đa ra bằng một số chỉ tiêu nh sau:
3.1 Một số chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển về mặt xã hội.
3.1.1 Tuổi thọ bình quân trong dân số.
Sự tăng lên của tuổi thọ bình quân trong dân số ở một thời kỳ nhất định,
phản ánh một cách tổng hợp về tình hình sức khoẻ của một dân c trong một nớc.
12
Trong đó nó bao hàm sự văn minh trong đời sống của mức sinh hoạt vật chất và
tinh thần đợc nâng cao của con ngời, pản ánh sự tiến bộ của xã hội. Hầu hết các
nớc có mức sống thấp do kinh tế kém phát triển đều có tuổi thọ bình quân dới
50 tuổi. ở các nớc có trình độ phát triển cao thì chỉ số này đều trên dới 70 tuổi.
3.1.2 Mức tăng dân số hàng năm.
Mức tăng dân số tự nhiên hàng năm là một chỉ số đi liền với chỉ số tăng thu
nhập bình quân đầu ngời. Trên thực tế cho thấy hiện tợng mức dân số cao, luôn
luôn đi với sự lạc hậu và nghèo đói. Các nớc phát triển đều có mức tăng dân số
tự nhiên dới 2%, còn các nớc kém phát triển đều ở mức trên 2% hàng năm. Mức
tăng dân số hàng năm của mỗi quốc gia có sự khác nhau rõ rệt, điều này là do
trình độ phát triển ở mỗi quốc gia có sự khác nhau, nó còn chịu ảnh hởng của
khả năng nhận thức và t tởng của mỗi tộc ngời, của mỗi nền văn hoá khác nhau.
3.1.3 Số calo bình quân đầu ngời (Calo/ngời /ngày).
Chỉ số này phản ánh mức cung ứng các loại nhu cầu thiết yếu nhất đối với
mọi ngời dân, về lơng thực và thực phẩm hàng ngày đợc quy đổi thành calo.
Dựa vào chỉ số này chúng ta cũng có thể biết đợc tình trạng đói nghèo của các
khu vực, quốc gia cần nghiên cứu, đồng thời nó cũng phản ánh lên việc nâng

cao đời sống của dân c. Nó cho thấy một nền kinh tế giải quyết đợc nhu cầu cơ
bản nh thế nào cho chất lợng cuộc sống của con ngời. Với nền kinh tế đã phát
triển thì chỉ tiêu này ít có ý nghĩa, bởi trong xã hội phát triển thì vấn đề con ngời
luôn đợc quan tâm u đãi hơn, đời sống dân c đợc cải thiện, đáp ứng nhu cầu cho
cuộc sông của con ngời. Hơn nữa chỉ số này luôn có những hạn chế trong cách
tính toán.
3.1.4 Tỷ lệ ngời biết chữ trong dân số.
Cùng với chỉ số này, còn dùng chỉ số tỷ lệ trẻ em đến trờng trong độ tuổi đi
học, hay trình độ phổ cập văn hoá của ngời lao động trong dân số. Các chỉ này
phản ánh trình độ phát triển và sự biến đổi về chất của xã hội. Xã hội hiện đại đã
coi việc đầu t cho giáo dục và đào tạo là lĩnh vực đầu t cho phát triển kinh tế -
xã hội trong thời kỳ dài hạn. Tỷ lệ ngời biết chữ và trẻ em đi học cao, đồng
13
nghĩa với sự văn minh hiểu biết trong xã hội, đây là chỉ tiêu dùng để đánh giá
trình độ văn hoá, sự tiếp thu và vận dụng các thành tu khoa học tiên tiến, nó th-
ờng đi đôi với nền kinh tế có mức tăng trởng cao. Do vậy nó là một chỉ số quan
trọng để đánh giá trình độ phát triển kinh tế xã hội của một nớc.
3.1.5 Các chỉ số khác về phát triển kinh tế xã hội
Ngoài các chỉ số cơ bản nêu trên, ngời ta còn dùng các chỉ số đánh giá sự
phát triển của xã hội ở mặt bảo hiểm, chăm sóc sức khoẻ nh: số giừơng bệnh, số
bệnh viện, viện an dỡng, số bác sĩ, y sĩ tính bình quân cho một triệu dân. Về
giáo dục và văn hoá có tổng các nhà bác học, giáo s, tiến sỹ, số lớp, trờng học
và viện nghiên cứu, nhà văn hoá, bảo tàng, th viện...tính bình quân cho nghìn
hoặc triệu ngời dân.
Sự công bằng xã hội trong phân phối sản phẩm cũng là một tiêu chuẩn
đánh giá sự tiến bộ của xã hội hiện đại. Ngời ta dùng đồ thị Lorenz và hệ số
Gini để biểu thị.
Cùng với sự công bằng, các tiêu thức về sự độc lập hay phụ thuộc về kinh
tế, chính trị của quốc gia, sự tự do dân chủ công dân, sự tiến bộ trong thể chế
chính trị, xã hội ... cũng đợc coi nh một nội dung quan trọng của sự phát triển

đất nớc. Tuy nhiên cho đến nay, cha có chỉ số nào để đo lờng đợc các nội dung
đó, hơn nữa lại có những quan niệm hết sức khác nhau giữa các nớc về nội dung
của các tiêu thức đó, nên nó chỉ dùng để tham khảo.
3.2 Một số chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển về mặt kinh tế.
Sự phát triển kinh tế - xã hội còn biểu hiện trong biến đổi về cơ cấu của các
nghành, các lĩnh vực sản xuất và các khu vực kinh tế đợc đo lờng theo các chỉ số
cơ bản sau đây:
3.2.1 Chỉ số cơ cấu ngành trong tổng sản phẩm quốc nội.
Chỉ số này phản ánh tỷ lệ của ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ
trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Nền kinh tế càng phát triển thì tỷ lệ sản l-
ợng của công nghiệp và dịch vụ ngày càng chiếm phần lớn trong GDP, còn tỷ lệ
của nông nghiệp thì chỉ chiếm một phần nhỏ. Một nền kinh tế phát triển sẽ đẩy
14
mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ, nâng cao hiện đại hoá phơng thức sản
xuất trong nông nghiệp, cải thiện nền kinh tế nông ngiệp lạc hậu và thay vào đó
là phơng thức sản xuất mới.
3.2.2 Chỉ số về cơ cấu hoạt động ngoại thơng (X - M).
Tỷ lệ của giá trị sản lợng xuất khẩu và nhập khẩu thể hiện sự mở cửa của
nền kinh tế với thế giới. Một nền kinh tế phát triển thờng có mức xuất khẩu ròng
trong GDP tăng lên. Giá trị xuất nhập khẩu tăng lên khi một nền kinh tế đạt tới
một sự phát triển nhất định. Sự mở cửa của một nền kinh tế thị trờng giúp cho
hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra nhày càng nhộn nhịp hơn, hàng hoá đợc vận
chuyển giao thơng với lu lợng lớn làm tăng giá trị tổng sản phẩm quốc dân trong
nớc.
3.2.3 Chỉ số về mức tiết kiệm đầu t (I).
Tỷ lệ tiết kiệm đầu t trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thể hiện rõ hơn
về khả năng tăng trởng kinh tế trong tơng lai. Đây là một nhân tố cơ bản của sự
tăng trởng, phản ánh sự tích luỹ trong dân c. Những nớc có tỷ lệ đầu t cao (từ 20
- 30% GNP) thờng là các nớc có mức tăng trởng cao. Tuy nhiên tỷ lệ này còn
phụ thuộc vào quy mô của tổng sản phẩm quốc dân GNP và tỷ lệ giành cho tiêu

dùng (C ) theo cơ cấu và giá trị xuất nhập khẩu, đợc tính theo công thức sau:
I = GNP - C + (X - M)
3.2.4 Chỉ số cơ cấu nông thôn và thành thị.
Sự biến đổi rõ nét ở bộ mặt xã hội của quá trình phát triển là mức độ thành
thị hoá các khu vực trong nớc. Khi một xã hội phát triển cao sẽ thu hút nguồn
nhân lực cao hơn, ngời lao động đợc nâng cao tay nghề trong sản xuất cũ và bắt
kịp sự tiến bộ mới trong sản xuất công nghiệp. Ngời ta biểu hiện nội dung này ở
tỷ lệ lao động và dân c. Sự tăng của dân c hoặc lao động sống và làm việc ở
thành thị là một tiến bộ do công nghiệp hoá đa lại, nó nói lên sự văn minh trong
đời sống của nhân dân của mỗi nớc. Các nớc phát triển đều có chỉ số về cơ cấu
thành thị so với nông thôn rất cao, điều này phản ánh trình độ phát triển của mỗi
nớc.
15
3.2.5 Chỉ số về sự liên kết kinh tế.
Chỉ số này biểu hiện ở mối quan hệ trong sản xuất và giao lu kinh tế giữa
các ngành và các khu vực trong nớc, sự chặt chẽ của mối liên kết giữa các ngành
và các khu vực trong nớc. Sự chặt chẽ của mối liên kết đợc đánh giá thông qua
trao đổi các yếu tố đầu vào và đầu ra trong các ma trận liên ngành, liên vùng.
Điều đó thể hiện sự tiến bộ của nền sản xuất trong nớc bằng việc đáp ứng đợc
ngày càng nhiều các yếu tố sản xuất do trong nớc khai thác.
Dựa trên các tiêu thức đã nêu. Liên hiệp quốc (UN) và Ngân hàng thế giới
(WB) thờng sắp xếp các nớc có mức độ tiến bộ, phát triển khác nhau dựa trên
các tiêu thức chính nh: tuổi thọ bình quân trong dân số, tỷ lệ ngời biết chữ (đi
học) trong dân số, mức tiêu thụ calo bình quân đầu ngời một ngày. Nhng quan
trọng nhất vẫn là mức thu nhập tổng sản phẩm quốc dân bình quân đầu ngời
trong năm. Căn cứ vào đây ngời ta sắp xếp các nấc thang phát triển khác nhau
giữa các nớc.
3.3 Các chỉ tiêu tổng hợp.
Chỉ số phát triển con ngời (HDI).
Đây là chỉ số tổng hợp phản ánh trình độ phát triển nguồn nhân lực và cũng

là mức độ thụ hởng các thành quả kinh tế của các tầng lớp dân c. Mặc dù mức
thu nhập có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc đánh giá chất lợng cuộc sống
những đó không phải là tất cả. Trên thực tế, một số quốc gia co thu nhập bình
quân trên đầu ngời khá cao nhng các mặt khác của đời sống kinh tế - xã hội nh
y tế, văn hoá, giáo dục... lại không đợc chú ý đúng mức. Trong khi đó có những
quốc gia thu nhập bình quân trên đầu ngời thấp nhng những vấn đề xã hội lại đ-
ợc giải quyết tốt hơn rất nhiều. Do đó nếu chỉ sử dụng chỉ tiêu thu nhập bình
quân trên đầu ngời sẽ không thể hiện đợc đầy đủ trình độ phát triển của đất nớc
này. Bởi vậy, ngời ta đã phải sử dụng thêm chỉ tiêu HDI. Chỉ tiêu này đợc đa ra
làm chỉ tiêu chung cho sự phát triển. Bởi trong nó còn có nhiều chỉ tiêu khác nh:
mức độ phổ cập giáo dục, thu nhập bình quân trên đầu ngời hay tuổi thọ trung
bình.
16
Hiện nay chơng trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) mới bổ sung
vào chỉ số HDI một chỉ số mới, đó là thớc đo mức đói nghèo (CPM), thớc đo
này đợc xem xét việc thiếu ba năng lực cơ bản của 101 nớc đang phát triển trên
thế giới đó là: thiếu cuộc sống khoẻ mạnh và đủ dinh dỡng, thiếu khả năng sinh
sản khoẻ mạnh và an toàn, thiếu kiến thức và hiểu biết.
III/ Mối quan hệ giữa mức sinh, mức chết và phát triển.
1. Mối quan hệ giữa mức sinh và phát triển.
a, Các nhân tố ảnh hởng đến mức sinh.
Phân tích thống kê các nhân tố ảnh hởng đến mức sinh có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc tìm hiểu bản chất các quá trình phát triển dân số của mỗi nớc,
mỗi vùng. Đặc biệt, trong hoàn cảnh mức sinh còn giúp cho việc tìm kiếm các
giải pháp để làm giảm mức sinh, hoàn thiện chính sánh dân số...
Từ giữa thế kỷ XIX đến nay, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu phân
tích các nhân tố ảnh hởng đến mức sinh, nh lý thuyết mao dẫn xã hội ở Pháp, lý
luận tiêu dùng vi mô và mức sinh của G.Becker, phơng pháp của King Davis và
Judith Blake của Ronald Frêdman, mô hình sinh tổng hợp của John Bongaarts ...
Nhìn chung, các phân tích này đều đã khẳng định ảnh hởng của các nhân tố sinh

học và kinh tế xã hội đến mức sinh. Trong các nghiên cứu gần đây, các nhân tố
này thờng đợc phân chia thành các nhóm khác nhau. Có nhiều cách phân loại,
tuỳ theo nguồn số liệu và phơng pháp phân tích. Thông thờng, chúng đợc phân
chia thành các biến tác động trực tiếp, các biến tác động gián tiếp (các biến
trung gian). Những biến số trung gian lại đợc giải thích bởi một loạt các biến số
khác.
17
Căn cứ vào mức độ tác động trực tiếp hay gián tiếp lên quá trình tái sinh
sản, Ronald Freedman đã phân chia các nhân tố này thành 3 nhóm: nhóm nhân
tố gốc, nhóm nhân tố tâm lý - xã hội trung gian và nhóm nhân tố tác động trực
tiếp lên mức sinh. Các nhân tố trực tiếp tác động lên mức sinh bao gồm sự chấp
nhận hay không việc kiểm soát sinh, hiệu quả của việc áp dụng các biện pháp
tránh thai, hôn nhân và khả năng sinh đẻ ...Các nhân tố tâm lý xã hội trung gian
nh: chuẩn mực xã hội về hôn nhân, về việc sinh con, về qui mô gia đình, tác
động của việc tuyên truyền những t tởng mới của các phơng tiện thông tin đại
chúng, sự chuyển biến nhận thức của nhân dân về các phơng tiện tránh thai.
Cuối cùng là các nhân tố gốc bao gồm các nhân tố vĩ mô nh văn hoá, luật pháp,
sự can thiệp của nhà nớc với biểu hiện tập trung nhất là chơng trình
KHHGĐ...và các nhân tố vi mô nh các điều kiện kinh tế, trình độ nhận thức...
của ngời dân. Các nhân tố dân số nh mức độ tử vong cũng đợc xếp vào nhóm
thứ ba này. Theo R. Freedman các nhân tố trên tác động đến mức sinh theo sơ
đồ:
Các nhân tố gốc - các nhân tố tâm lý xã hội trung gian - các nhân tố tác
động trực tiếp - mức sinh.
b, Mối quan hệ giữa mức sinh và phát triển.
Nh ta đã biết mức sinh chịu nhiều ảnh hởng của nhiều yếu tố khác nhau
trong xã hội nh trình độ nhận thức, trình độ phát triển, nhu cầu đáp ứng mức
sống dân c, sự phát triển của y tế giáo dục và tình hình biến động dân số .... Một
xã hội phát triển, phản ánh đợc sự tiến bộ mọi mặt về kinh tế văn hoá chính trị,
trong đó chứa đựng nhiều yếu tố quan trọng của nền kinh tế và bản sắc văn hoá

dân tộc.
ở một quốc gia phát triển kéo theo sự tiến bộ của xã hội, điều đó tơng ứng
với sự đáp ứng gần nh đầy đủ đời sống dân c. Khi một quốc gia đang trong thời
kỳ ổn định chính trị, phát triển về kinh tế thì việc đáp ứng nhu cầu đời sống dân
c đợc quan tâm chú trọng hơn, điều này sẽ ảnh hởng tới sự biến động về dân số.
Để xoá bỏ tình trạng đói nghèo, lạc hậu về kinh tế thì một quốc gia muốn phát
triển phải có một dân số ổn định, sự gia tăng dân số phải phù hợp với trình độ
phát triển, điều này chịu ảnh hởng một phần của mức sinh trong một tổng thể
18
dân c. Một quốc gia có trình độ kém phát triển, đời sống dân c còn thấp thì tỷ lệ
mức sinh còn rất cao, trong khi đó mức sinh ở các nớc đang phát triển thì đang
có xu hớng giảm dần. Điều này chứng tỏ giữa mức sinh và trình độ phát triển có
mối quan hệ tơng đồng lẫn nhau, chúng có sự tác động qua lại ảnh hởng với
nhau.
2. Mối quan hệ giữa mức chết và phát triển.
a, Các nhân tố ảnh hởng đến mức chết.
Có rất nhiều nhân tố ảnh hởng đến mức chết. Các nhân tố này rất đa dạng
và luôn tác động qua lại lẫn nhau. Những nhân tố cơ bản và có tác động trực
tiếp đến mức chết bao gồm:
Mức sống của dân c có ảnh hởng lớn đến mức chết. Mức sống càng cao,
mức chết càng thấp. Nếu mức sống dân c đợc hiểu là trình độ thoả mãn những
nhu cầu về vật chất và tinh thần của mọi ngời dân trong xã hội, thì đây là yếu tố
tổng hợp nhất có ảnh hởng đến mức chết. Nhân tố này bao gồm:
Trình độ phát triển kinh tế xã hội.
Thu nhập bình quân đầu ngời.
Trình độ phát triển của y học và màng lới vệ sinh phòng bệnh...
Trình độ văn hóa.
Nghề nghiệp và dân tộc.
Cấu trúc tuổi và giới tính của dân c.
Yếu tố vùng...

b, Mối quan hệ giữa mức chết và phát triển.
Giữa mức chết và phát triển có sự tác động qua lại lẫn nhau, điều này đợc
phản ánh ở sự phát triển ở mỗi quốc gia. Khi một quốc gia có sự tiến bộ về xã
19
hội thì cơ sở vật chất hạ tầng sẽ đợc cải tiến nâng cấp lên ở mức cao hơn, các
vấn đề về giáo dục, y tế, thu nhập... cũng đợc chú trọng quan tâm nhiều hơn.
Một khi đời sống con ngời đợc cải thiện, đợc đáp ứng đầy đủ cho mức sống tối
thiểu của dân c thì con ngời sẽ ngày càng đợc hoàn thiện hơn để phù hợp với
trình độ của phát triển. Điều đó đợc phản ánh bởi các chỉ tiêu nh thu nhập bình
quân đầu ngời hay tuổi thọ của con ngời ngày càng cao. Sự phát triển kéo theo
sự phát triển cho các mục tiêu về chăm sóc cho con ngời nh trình độ tiên tiến
của y học sẽ giúp cho việc chữa các loại bệnh nan y, các đại dịch... mà lâu nay
chúng ta cha thể chữa đợc, điều này sẽ làm giảm tỷ lệ tử vong của trẻ em cũng
nh ở các lứa tuổi khác. ở một quốc gia phát triển sẽ có mức chết thấp hơn các n-
ớc có trình độ phát triển thấp kém.
3. Mối quan hệ giữa mức sinh, mức chết và phát triển.
3.1. Các nhân tố ảnh hởng đến sự phát triển.
Đã có rất nhiều khái niệm về tăng trởng và phát triển, các chỉ số và thớc đo
để nhận biết đợc hiện tợng phát triển. Tuy nhiên, các lý thuyết về phát triển từ
trớc tới nay đều quan tâm tới vấn đề cơ bản là nguồn gốc của sự phát triển mà
cho đến nay vẫn còn nhiều bí ẩn. ở mỗi thời kỳ sự phát triển đi cùng với sự tiến
bộ của xã hội và luôn có các công trình nghiên cứu về vấn đề này. Bằng sự đo l-
ờng các kết quả thực tế đạt đợc ngời ta phân các lực và các luồng đầu vào có ảnh
hởng tới sự phát triển ra làm hai loại các nhân tố kinh tế và các nhân tố phi kinh
tế nh sau:
a, Các nhân tố kinh tế.
Đây là luồng đầu vào mà sự biến đổi của nó trực tiếp làm biến đổi sản lợng
đầu ra. Có thể biểu diễn mối quan hệ đó bằng hàm số:
Y= F(Xi)
Trong đó: Y - là giá trị sản lợng

Xi (i =1,2,...,n) -là các biến số đầu vào thể hiện các nhân tố kinh tế trực
tiếp tạo ra giá trị sản lợng.
20
Trong điều kiện kinh tế thị trờng, các biến số đó đều chịu sự điều tiết của
mối quan hệ cung cầu. Một số luồng đầu vào thì ảnh hởng tới mức cung, một số
thì ảnh hởng tới mức cầu. Sự cân bằng của cung cầu do giá cả thị trờng điều tiết,
sẽ tác động ngợc trở lại các luồng vào và dẫn tới kết quả của sản xuất, đó là sản
lợng của nền kinh tế.
Các nhà kinh tế đặt nền móng cho các học thuyết kinh tế cổ điển nói riêng
và kinh tế học nói chung nh Adam Smith, Jean Baptiste Say, Davis Ricardo cho
đến Alfred Marshall và ngay cả Karl Marx cũng đều xây dựng các lý thuyết dựa
trên quan điểm nghiêng về cung chứ không phải là cầu. Trong một giai đoạn
nhất định sự khan hiếm tài nguyên hay sự thiếu cung, luôn luôn là giới hạn của
sự tăng trởng, nhất là khi sức sản suất còn ở mức thấp giống ở các nớc cha phát
triển. Jean Baptiste Say đã nêu:Qui luật của các thị trờng tiêu thụ với quan
điểm cung sẽ tạo cầu của chính nó. Sự tăng thu nhập của các hộ gia đình do
bán các t liệu sản xuất và sức lao động là sự tăng cung trong thời kỳ trớc. Karl
Marx cũng nói rằng chỉ có sản xuất sản phẩm mới thì mới tạo ra nhu cầu mới,
nh vậy mức sản lợng đợc cân bằng do chính cung tạo ra.
Theo trờng phái kinh tế học hiện đại, mà xuất phát từ Jonh Maynard (trong
lý thuyết chung về hữu nghiệp, lợi ích và tiền -1936) thì mức sản lợng và việc
làm là do cầu quyết định. Ngày nay kinh tế học vĩ mô cho rằng trong thời kỳ
nhất định tơng ứng với mức giá cả và tiền lơng nhất định, sản lợng của nền kinh
tế luôn ở dới mức tiềm năng. Tức là nền kinh tế còn các nguồn lực tiềm tàng nh:
công nhân thất nghiệp tự nhiên, vốn tích tũy lớn, công suất máy móc cha tận
dụng hết. Trong trờng hợp đó cung không phải là vấn đề giới hạn. Các hãng vui
lòng cung ứng sản lợng thực chất chỉ phụ thuộc vào tổng cầu. Mặc dù các giả
định đa ra đều phù hợp với thực tế ở các nớc đã phát triển và sự phân tích đợc
chứng minh chặt chẽ, đợc hầu hết các nhà kinh tế học hiện đại đồng tình. Song
có lẽ điều đó khó có thể thực sự chứng minh đợc ở những nền kinh tế còn cha có

thể đáp ứng đợc nhu cầu cơ bản của đất nớc.
Có lẽ mỗi quan điểm trên có giá trị trong mỗi hoàn cảnh và điều kiện riêng.
Sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế học vĩ mô và kinh tế học phát triển là những
khả năng về cung của các nền kinh tế đã phát triển và đang phát triển, đặc biệt
21
là khả năng cung về t liệu sản xuất (S.S.Park). Từ sự phát triển kinh tế của Hàn
Quốc một nớc đang phát triển kinh tế đã đi lên hòa nhập vào khối các nớc công
nghiệp mới (NIC), cũng nêu rõ quan điểm kinh tế học phát triển nên tập trung
vào công việc tạo ra và mở rộng cung, chứ không phải tạo cầu.
Xuất phát từ thực tế ở các nớc đang phát triển cung cha đáp ứng đợc cầu,
việc gia tăng sản lợng phải bắt nguồn từ sự gia tăng trong đầu vào của các yếu tố
sản xuất theo quan hệ hàm số giữa sản lợng với vốn, lao động, đất đai và nguyên
liệu, kỹ thuật và công nghệ.
Hàm sản xuất trên nói lên sản lợng tối đa có thể sản xuất đợc tùy thuộc vào
lợng các đầu vào trong điều kiện trình độ kỹ thuật và công nghệ nhất định. Mỗi
một yếu tố có vai trò nhất định trong việc tạo ra sự gia tăng sản lợng, do trình độ
phát triển kinh tế mỗi nơi, mỗi lúc quyết định.
Vốn sản xuất là một bộ phận tài sản quốc gia đợc trực tiếp sử dụng vào quá
trình sản xuất hiện tại cùng với các yếu tố sản xuất khác, để tạo ra sản phẩm
hàng hóa. Nó bao gồm các máy móc, thiết bị, phơng tiện vận tải, nhà kho và cơ
sở hạ tầng kỹ thuật.
Trong điều kiện năng suất lao động không đổi, thì tăng tổng số vốn sẽ làm
tăng thêm sản lợng, hoặc trong khi số lao động không đổi, tăng vốn bình quân
đầu ngời lao động cũng sẽ làm tăng sản lợng. Tất nhiên trên thực tế sự biến
thiên của các yếu tố vốn không đơn giản nh vậy, vì nó có liên quan các yếu tố
khác nh lao động kỹ thuật.
Lao động là yếu tố sản xuất. Nguồn sức lao động đợc tính trên tổng số ngời
ở tuổi lao động và khó có khả năng lao động trong dân số. Nguồn lao động với
t cách là yếu tố đầu vào trong sản xuất, cũng giống nh các yếu tố khác đợc tính
bằng tiền, trên cơ sở giá cả lao động đợc hình thành do thị trờng và mức tiền l-

ơng qui định. Là yếu tố sản xuất đặc biệt, do vậy lợng lao động không đơn thuần
chỉ là số lợng mà còn bao gồm chất lợng của lao động, ngời ta gọi là vốn nhân
lực. Đó là con ngời bao gồm trình độ tri thức học vấn và những kỹ năng, kinh
nghiệm lao động sản xuất nhất định. Do vậy những chi phí nhằm nâng cao trình
độ ngời lao động - vốn nhân lực, cũng đợc coi là đầu t dài hạn cho đầu vào, dĩ
22
nhiên ở một phơng diện nào khác nh đầu t cho giáo dục - đào tạo lại thờng đợc
coi là đầu t cho sự nghiệp xã hội.
Đất đai là yếu tố sản xuất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Mặc dù
với nền kinh tế công nghiệp hiện đại, đất đai dờng nh không quan trọng. Song
thực tế cũng không phải hoàn toàn nh vậy. Kể cả sản xuất công nghiệp hiện đại,
không thể không có đất đai. Do diện tích đất đai là cố định, ngời ta phải nâng
cao hiệu quả sử dụng đất đai bằng đầu t thêm lao động và vốn trên một đơn vị
diện tích nhằm tăng thêm sản phẩm. Chính điều này đã làm vai trò của vốn nổi
lên thêm và đất đai trở thành kém quan trọng. Nhng nh vậy không có nghĩa là
lao động và vốn có thể thay thế hoàn toàn cho đất đai.
Các tài nguyên khác cũng là đầu vào trong sản xuất: các sản phẩm từ trong
lòng đất, từ rừng và biển, nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dạo, phong phú đợc
khai thác sẽ làm tăng sản lợng một cách nhanh chóng, nhất là các nớc đang phát
triển.
Tùy thuộc vào tính chất các tài nguyên đợc đa vào chu trình sản xuất, ngời
ta chia các tài nguyên ra làm tài nguyên vô hạn và tài nguyên không thể thay
thế, tài nguyên có thể tái tạo và tài nguyên không thể tái tạo. Từ tính chất đó,
các tài nguyên đợc đánh giá về mặt kinh tế và đợc tính giá trị nh các đầu vào
khác trong quá trình sử dụng. Những tài nguyên qúy hiếm là những đầu vào cần
thiết cho sản xuất, song lại có hạn, không thay thế đợc và không tái tạo đợc. Nói
chung, tài nguyên là khan hiếm tơng đối so với nhu cầu. Vì phần lớn những tài
nguyên cần thiết cho sản xuất và đời sống đều có hạn, không tái tạo hoặc nếu tái
tạo thì phải có thời gian và phải có chi phí tơng đơng nh sản phẩm mới. Do vậy
có nguồn tài nguyên phong phú hay tiết kiệm nguồn tài nguyên trong sử dụng,

cũng có một ý nghĩa tơng đơng nh việc tạo ra một lợng giá trị gia tăng so với chi
phí các đầu vào khác để tạo ra nó.
Những thành tựu kỹ thuật và công nghệ mới là đầu vào đóng vai trò cực kỳ
quan trọng bằng sự tiến bộ của các nớc NICS trong mấy chục năm gần đây, do
những thành tựu tiến bộ khoa học kỹ thuật đa lại. Những kỹ thuật và công nghệ
mới ra đời là do sự tích lũy kinh nghiệm trong lịch sử và đặc biệt là đợc tạo ra từ
những tri thức mới sự phát minh, đem áp dụng vào các qui trình sản xuất hiện
23
tại. Sự chuyển nhợng và ứng dụng những phát minh tiến bộ kỹ thuật và công
nghệ mới trong sản xuất, rõ ràng là một lợi thế lịch sử của các dân tộc, các nớc
kém phát triển. Vì những chi phí cho việc mua kỹ thuật và công nghệ mới ở các
nớc đã phát triển, rõ ràng là đỡ tốn kém thời gian và của cải hơn rất nhiều so với
việc phải đầu t để có những phát minh mới, phải đi từ đầu t giáo dục, đào tạo,
nghiên cứu khoa học, tổng kết các tri thức, kinh nghiệm và tự mày mò chế tạo
rồi mới có thể ứng dụng vào sản xuất.
Ngoài các yếu tố sản xuất, ngày nay ngời ta còn đa ra một loạt các nhân tố
kinh tế khác tác động tới tổng mức cung, nh lợi thế do qui mô sản xuất, chất l-
ợng lao động và khả năng tổ chức quản lý. Những nhân tố tạo cung này rõ ràng
đã làm tăng sản lợng.
Quy mô sản xuất thể hiện ở khối lợng sử dụng các đầu vào. Trong khi tỷ lệ
giữa các yếu tố sản xuất không đổi, các điều kiện khác nh nhau, thí dụ tăng quy
mô đầu vào lên gấp hai lần thì cũng làm sản lợng tăng lên gấp hai lần. Sự gia
tăng tơng đơng với tăng thêm đầu vào đó lớn hơn hay nhỏ hơn so với quy mô
tăng thêm đầu vào, gọi là lợi tức tăng theo quy mô.
Ngời ta cũng nhận thấy rằng cùng sự đầu t trang bị kỹ thuật và công nghệ
nh nhau, nhng ở các nớc công nghiệp tiên tiến và có trình độ văn hóa trong nhân
dân cao hơn sẽ đa lại năng suất lao động cao hơn. Điều đó đã cho thấy chất lợng
lao động hay nhân tố con ngời đã tạo ra sự gia tăng sản lợng (Karl Marx) cho
rằng đó là yếu tố đồng nhất và cách mạng nhất trong sản xuất.
Chất lợng lao động bao gồm những hiểu biết chung (trình độ văn hóa phổ

thông), những kỹ năng kỹ thuật đợc đào tạo, kinh nghiệm và sự khéo léo tích
lũy trong lao động, ý thức tổ chức kỷ luật và ý thức mong muốn đạt tới hiệu quả
trong công việc. Để có đợc đội ngũ những ngời lao động và kinh doanh giỏi, mà
nhiều nhà kinh tế cho rằng đó là động lực để đạt đợc sự tăng trởng cao, thì phải
có đầu t cao trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo và phải có thời gian.
Mỗi ngành, mỗi khu vực sản suất vật chất có năng suất khác nhau. Sự đổi
mới cơ cấu kinh tế vĩ mô làm cho các khu vực, các ngành có năng suất cao
chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, tất yếu sẽ làm cho sản lợng tăng lên. Sự
đổi mới trong cơ cấu thể hiện ở sự bố trí lại nguồn lực cho cơ cấu mới, bố trí lại
24
cơ cấu tích lũy và tiêu dùng, và các biện pháp tạo cung, tạo cầu....Điều đó làm
cho các nhân tố tích cực đợc nhân lên, giảm bớt một cách tơng đối những chi
phí, cũng đa lại hiệu quả nh một sự đầu t. Nh vậy tổ chức và quản lý kinh tế đợc
coi nh một nhân tố làm tăng thêm sản lợng.
Các nhân tố tác động đến tổng cung này mặc dù tạo ra sự tăng trởng nhất
định, song trên thực tế rất khó đo lờng, đối chiếu cụ thể trong hạch toán nh
những yếu tố sản xuất, bởi vì sự phức tạp của nó đối với các luồng đầu vào khác.
Do vậy chỉ có thể coi đó là các dữ kiện hơn là các yếu tố sản xuất.
Nh đã phân tích ở trên, sự tăng trởng có quan hệ hàm số với các yếu tố sản
xuất nh vốn (K), lao động(L), tài nguyên (R)và tiến bộ kỹ thuật và công nghệ
(T):
Y = f(K,L,R,T...)
Tuy nhiên do tính chất kinh tế kỹ thuật của sản xuất, các yếu tố trong đó
không phải là các tham số rời rạc. Đó là một hệ thống các quan hệ phụ thuộc lẫn
nhau theo những tỷ lệ hết sức chặt chẽ. Do vậy ý định phân tích từng yếu tố tách
rời, bằng cách lần lợt cho từng yếu tố biến thiên để tìm ra sự đóng góp của mỗi
yếu tố vào quá trình tăng trởng, nh lâu nay đã làm là điều không hợp lý.
Vấn đề này không phải chỉ là trên lý thuyết, mà thực tế đã có thời gian dài
ngời ta nghĩ rằng, chỉ cần tăng thêm một yếu tố sản xuất thì đã cho phép tăng
thêm sản lợng. Nhợc điểm này còn thấy ở các mô hình lý thuyết đơn giản trong

lúc nhấn mạnh đến các yếu tố này, ngời ta đã bỏ qua các yếu tố khác, hoặc đơn
giản hóa các mối quan hệ phụ thuộc giữa các yếu tố.
Sự phụ thuộc giữa các yếu tố sản xuất trong mỗi quan hệ:
Y=f(K,L,R,T...) có thể diễn đạt bằng lợi tức trên một đồng vốn (Y/N). Bởi vì
hiệu quả thu đợc từ một đồng vốn không phải chỉ do một yếu tố tạo ra mà do sự
tác động trờng bên ngoài. Trong đó K=f(Y/N, K,T) lao động cũng phụ thuộc
vào lợi tức trên vốn, vốn và công nghệ; L = f(Y/N, K,L) lao động cũng phụ
thuộc vào lợi tức trên vốn, vốn và công nghệ; T = f(Y/N, K,L) công nghệ lần lợt
phụ thuộc vào lợi tức trên vốn, vốn và thơng mại....Đó là một hệ thống, trong đó
các quá trình ảnh hởng thúc đẩy nhau đa đến sự tăng trởng.
25

×