Tiểu luận môn: Định giá đất – GVHD: Bùi Nguyên Hạnh
PHẦN I : MỞ ĐẦU
Theo niên giám thống kê 2008. Tính riêng phần diện tích đất tự nhiên
thì Việt Nam có 33.115.000 ha. Đứng thứ 56 trên 220 quốc gia trên thế giới.
Đất đai là tài sản vô giá đối với mỗi quốc gia, là tài nguyên thiên nhiên hữu
hạn có thể phục hồi được, là tư liệu sản xuất đặc biệt và chủ yếu không gì
thay thế được.
Đất đai là tư liệu sản xuất là vì : đất đai vừa là đối tượng lao động( con
người sử dụng công cụ lao động tác động vào đất như cày, cuốc, bừa…nhằm
nâng cao năng suất cây trồng ) vừa là công cụ lao động ( khi con người
không tác động vào đất, đất đai vẫn có khả năng nuôi sống được cây trồng ).
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, chủ yếu là vì: Đặc biệt là vì đất đai
có vai trò rất quan trọng đối với con người và các hoạt động sống trên trái
đất. Nó là môi trường sống của con người, là địa bàn phân bố của các khu
dân cư, các khu công ngiệp, là nơi xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã
hội, an ninh và quốc phòng. Đối với sản xuất nông nghiệp thì đất đai là tư
liệu sản xuất không thể thay thế được, nếu không có đất đai thì sẽ không có
bất kì quá trình sản xuất nào diễn ra, ngoài ra nó còn có một số tính chất
như: có vị trí cố định trong không gian, có độ phì... Chủ yếu là vì đất đai
tham gia vào tất cả quá trình sản xuất của cây trồng.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước diễn ra ngày càng
mạnh, kèm theo sự gia tăng dân số tự nhiên… đã gây nên áp lực lớn đối với
đất đai. Trước hiện thực đó nhà nước ta đã và đang tăng cường công tác
quản lý nhà nước về đất đai, trong đó có việc quản lý thị trường bất động sản
- thị trường tiềm năng đang phát triển trong nước. Nhà nước ta đã đề ra
nhiều chính sách trong lĩnh vực này, một trong số đó là vấn đề định giá đất.
Sinh viên thực hiện: Nhóm 11
1
Tiểu luận môn: Định giá đất – GVHD: Bùi Nguyên Hạnh
Hiện nay định giá đất ở nước ta được tiến hành nhằm phục vụ công tác
tính thuế sử dụng đất, thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất, tính tiền
sử dụng đất và tiền thuê khi giao đất, cho thuê đất không qua đấu giá quyền
sử dụng đất hoặc đấu thầu dự án có sử dụng đất, tính giá trị quyền sử dụng
đất khi giao đất có thu tiền sử dụng đất, lệ phí trước bạ, bồi thường khi nhà
nước thu hồi đất… Ở Việt Nam giá đất được đưa ra vào ngày 1/1 hàng năm,
và do UBND cấp tỉnh xác định cho từng loại đất và cho từng địa phương
thuộc tỉnh đó.
Theo quyết định của bộ tài chính số 129/2008QĐ-BTC ngày
31/12/2008 về việc ban hành các tiêu chuẩn thẩm định giá, có nhiều phương
pháp được sử dụng trong định giá đất. Một trong các phương pháp đó là
phương pháp thặng dư được sử dụng thông dụng ở nước ta. Nó được quy
định trong tiêu chuẩn số 10 trong hệ thống tiêu chuẩn thẩm định giá đất ở
Việt nam.
Vì vậy để tìm hiểu rõ hơn về phương pháp này, nhóm đoàn kết xin viết
về đề tài: “Phương pháp thặng dư được áp dụng ở Việt Nam và khu vực
như thế nào.”
Sinh viên thực hiện: Nhóm 11
2
Tiểu luận môn: Định giá đất – GVHD: Bùi Nguyên Hạnh
PHẦN II: NỘI DUNG
I. Giới thiệu chung về phương pháp thặng dư.
1.1. Khái quát về phương pháp thặng dư.
1.1.1. Định nghĩa phương pháp thặng dư.
Phương pháp thặng dư còn được gọi là phương pháp phát triển giả
thiết, hay phương pháp tính ngược. Xét từ quan điểm phát triển, sở dĩ đất đai
có giá trị là do có thể phát triển, sử dụng, xây dựng nhà cửa và có thể tạo ra
thu nhập. Giá đất phải trả để có được đất đai là phần còn lại sau khi đã trừ đi
chi phí và thu nhập định kỳ bình quân xã hội trong tổng giá cả bất động sản
được dự tính. Nghĩa là giá đất bằng giá bán ra của đất đai và công trình trừ
đi giá cả của bản thân công trình. Phần còn lại là giá cả của đất đai thuộc đối
tượng định giá.
Theo Nghị định số: 123/2007/NĐ-CP ngày27/7/2007 của Chính phủ
sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 188/2004/NĐ-CP có nêu như
sau: “Phương pháp thặng dư: là phương pháp xác định giá đất của thửa đất
trống có tiềm năng phát triển theo quy hoạch hoặc được phép chuyển đổi
mục đích sử dụng để sử dụng tốt nhất bằng cách loại trừ phần chi phí ước
tính để tạo ra sự phát triển ra khỏi tổng giá trị phát triển giả định của bất
động sản."
Cơ sở lý luận cho phương pháp thặng dư là: Giá trị vốn hiện tại của
BĐS chính là giá trị còn lại sau khi lấy giá trị ước tính của sự phát triển giả
định trừ tất cả các chi phí phát sinh tạo ra sự phát triển đó.Giá trị của sự phát
triển được biểu hiện dưới hình thái giản đơn, hoàn toàn là giá trị ước tính,
trừ tất cả chi phí phát sinh.
Phần dư ra thể hiện mức thặng dư mà trên đó giá trị BĐS được trả.
Sinh viên thực hiện: Nhóm 11
3
Tiểu luận môn: Định giá đất – GVHD: Bùi Nguyên Hạnh
1.1.2. Nguyên lý của phương pháp thặng dư.
Nguyên
lý
của
phương
pháp
thặng
dư
dựa
trên
lý
luận:
nếu
có
một
người
muốn
mua
một thửa
đất
để
tiến
hành
phát
triển,
hy
vọng
có
được
một
mức
lợi
nhuận
không
ít
hơn
lợi
nhuận
bình thường
khi
đầu
tư
số
tiền
đó
vào
chỗ
khác,
lúc
đó
giá
cả
cao
nhất
mà
ông
ta
tình
nguyện
chi
cho
thửa
đất
đó
là
mức
còn
lại
sau
khi
lấy
giá
nhà
(giá
hỗn
hợp
nhà
đất
trong
tương
lai
được
dự
tính)
trừ
đi
chi
phí
xây
dựng,
chi
phí
nghiệp
vụ,
lợi
tức,
lợi
nhuận
và
thuế.
Ngoài
ra,
phương
pháp
thặng
dư
còn
có
thể
thông
qua
việc
tính
ra
thu
nhập
để
có
được
giá
cả
của
đất
đai
hoặc
nhà
ở.
Phương
pháp
thặng
dư
ngoài
việc
dùng
để
định
giá
đất
đai
ra,
còn
được
sử
dụng
nhiều
trong định
giá
các
hạng
mục
phát
triển
tài
sản
nhà
đất
và
quyết
sách
đầu
tư.
Cụ
thể
có
thể
ứng
dụng
ở
3 mặt
sau
đây:
1.
Xác
định
giá
cả
cao
nhất
mà
nhà
đầu
tư
có
đất
chờ
phát
triển
có
thể
chi
trả.
Ðối
với
mỗi hạng
mục
phát
triển,
nhà
đầu
tư
phải
phân
tích
và
dự
toán
giá
cả
bất
động
sản
sau
khi
đã
hoàn
thành phát
triển,
giá
thành
phát
triển
và
lợi
nhuận
bình
thường
mà
ông
ta
cần
thu
được,
từ
đó
để
xác
định
giá
cao
nhất
của
khu
đất
mà
ông
ta
chi
trả
được,
giá
mua
thực
tế
của
nhà
đầu
tư
phải
thấp
hơn
hoặc
bằng
với
giá
đó
để
bảo
đảm
được
thu
nhập
bình
thường.
2.
Xác
định
lợi
nhuận
định
kỳ
của
hạng
mục
phát
triển
cụ
thể.
Sau
khi
có
được
đất
đai,
chi phí
để
có
được
đất
lúc
đó
là
chi
phí
đã
biết,
lấy
tổng
giá
trị
phát
triển
đất
đai,
trừ
đi
chi
phí
mua
đất, chi
phí
phát
triển
thì
phần
còn
lại
là
lợi
nhuận
thu
được
từ
hạng
mục
phát
triển
đó.
Nếu
khoản
lợi nhuận
đó
cao
hơn
hoặc
bằng
với
lợi
nhuận
mong
muốn
của
nhà
đầu
tư
thì
hạng
mục
đó
là
khả
thi, nếu
không
thì
hạng
mục
đó
phải
tiến
hành
chậm
lại
hoặc
Sinh viên thực hiện: Nhóm 11
4
Tiểu luận môn: Định giá đất – GVHD: Bùi Nguyên Hạnh
tạm
thời
huỷ
bỏ.
3.
Xác
định
chi
phí
giá
thành
cao
nhất
có
thể
phát
sinh
trong
các
hạng
mục
phát
triển.
Khi
đã xác
định
được
chi
phí
mua
đất
và
lợi
nhuận
mong
muốn,
thì
có
thể
dùng
phương
pháp
thặng
dư
để tính
toán
số
khống
chế
cao
nhất
của
các
chi
phí
giá
thành
trong
quá
trình
phát
triển
để
đảm
bảo
chi phí
giá
thành
của
các
hạng
mục
trong
quá
trình
phát
triển
được
khống
chế
một
cách
có
hiệu
quả.
1.1.3 Công thức cơ bản của phương pháp thặng dư:
Căn
cứ
vào
nguyên
lý
của
phương
pháp
thặng
dư,
công
thức
cơ
bản
dùng
phương
pháp
thặng
dư
để
xác
định
giá
đất
như
sau:
V
=
A
-
(
B
+
C
)
Trong
đó: V
là
giá
cả
của
đất
được
mua
để
phát
triển.
A
là
tổng
giá
trị
phát
triển
hoặc
giá
trị
vốn
của
bất
động
sản
sau
khi đã hoàn thành
phát
triển.
B
là
giá
thành
phát
triển
của
tất
cả
hạng
mục
phát
triển;
C
là
lợi
nhuận
hợp
lý
của
người
phát
triển.
Hoặc:
Giá nhà = Giá nhà- Chi phí xây dựng (l + i + r + p + ir + ip )
l + r + p
Trong đó : i là cơ số của chi phí xây dựng dùng để tính tỷ lệ phần trăm chi
phí cho nhân viên chuyên môn.
r: suất lợi tức bình thường.
p: là suất lợi nhuận bình thường.
Lưu ý : Hai công thức trên chưa tính đến trường hợp phát sinh giá đất và
chi phí của các hạng mục vào thời gian khác nhau, nghĩa là chưa tính đến
Sinh viên thực hiện: Nhóm 11
5
Tiểu luận môn: Định giá đất – GVHD: Bùi Nguyên Hạnh
sự khác nhau về giá trị theo thời gian của các chi phí phát triển.
1.1.4. Đặc điểm và phạm vi ứng dụng của phương pháp thặng dư
Đặc điểm của phương pháp thặng dư:
Căn
cứ
vào
nguyên
lý
và
công
thức
tính
toán
của
phương
pháp
thặng
dư,
định
giá
theo phương
pháp
thặng
dư
là
phân
tích
trên
góc
độ
của
thương
gia
phát
triển,
để
tính
toán
chi
phí
cao nhất
có
thể
chi
ra
để
mua
đất.
Độ
tin
cậy
của
phương
pháp
thặng
dư
quyết
định
bởi
mấy
điểm
sau đây:
(1)
Xác
định
chính
xác
phương
thức
sử
dụng
đất
tốt
nhất
(bao
gồm
mục
đích
sử
dụng,
cường
độ
sử
dụng,
kiểu
dáng
của
công
trình,
cảnh
quan
bên
ngoài,
thiết
bị
nội
thất
và
bố
cục...)
dựa
trên nguyên
tắc
sử
dụng
hiệu
quả
nhất
và
nguyên
tắc
hợp
pháp
của
định
giá
đất
đai;
(2)
Phán
đoán
chính
xác
giá
tiêu
thụ
cả
đất
đai
và
công
trình
sau
khi
hoàn
thành
xây
dựng trên
cơ
sở
nắm
chắc
tình
hình
thị
trường
bất
động
sản
và
quan
hệ
cung
cầu;
(3)
Xác
định
chính
xác
chi
phí
phát
triển
đất
đai
và
lợi
nhuận
bình
thường
của
công
trình…
Phương
pháp
thặng
dư
có
những
giả
thiết
và
điều
kiện
sau
đây:
(1)
Mặc
dù
tổng
giá
bất
động
sản
hoặc
tiền
thuê
cho
đến
việc
chi
trả
cho
giá
thành
của
các khoản
đều
là
phát
sinh
trong
tương
lai,
nhưng
tất
cả
các
số
liệu
về
tổng
giá
bất
động
sản,
tiền
thuê
và
giá
thành
sử
dụng
trong
định
giá
theo
phương
pháp
thặng
dư
đều
căn
cứ
vào
số
liệu
trước
mắt
để tính
ra.
Ðó
là
vì
rất
khó
dự
tính
được
một
cách
chuẩn
xác
giá
thành,
tiền
thuê
và
những
biến
động nhỏ
của
giá
cả
trong
tương
lai,
đồng
thời
trong
thời
gian
phát
triển,
không
những
tiền
thuê
hoặc
giá tiêu
thụ
sẽ
tăng
lên
(hạ
xuống),
mà
các
loại
giá
thành
phát
triển
cũng
sẽ
tăng
lên
(hạ
Sinh viên thực hiện: Nhóm 11
6
Tiểu luận môn: Định giá đất – GVHD: Bùi Nguyên Hạnh
xuống).
Cho nên
trong
định
giá
bằng
phương
pháp
thặng
dư
ẩn
chứa
một
giả
thiết
là:
những
biến
động
liên
quan trong
việc
định
giá
theo
phương
pháp
thặng
dư
đó,
trong
thời
gian
phát
triển
sẽ
không
phát
sinh những
biến
động
lớn.
Ðương
nhiên,
nếu
dùng
phương
pháp
định
giá
để
tiến
hành
tính
khả
thi
của các
hạng
mục
hoặc
phân
tích
quyết
sách
đầu
tư,
cũng
có
thể
thông
qua
phân
tích
và
điều
tra
tỉ
mỉ
thị trường
để
dự
tính
số
liệu
về
tiền
thuê
định
kỳ,
giá
tiêu
thụ
và
giá
thành,
hoặc
tiến
hành
cân
nhắc
sự
thay
đổi
thu
chi
một
cách
chính
xác
hơn.
(2)
Giả
thiết
tiền
thuê
và
giá
cả
giao
dịch
bất
động
sản
sẽ
không
hạ
thấp
trong
thời
gian
phát
triển,
đồng
thời
không
xét
đến
những
ảnh
hưởng
của
vật
giá
tăng
lên.
(3)
Giả
thiết
việc
đầu
tư
vào
giá
thành
các
khoản
trong
thời
gian
phát
triển
là
đồng
đều
hoặc đồng
đều
trong
từng
giai
đoạn.
Những điều cần xem xét và hạn chế của phương pháp
- Khó khăn trong việc xác định sử dụng cao nhất và tốt nhất.
- Mọi ước tính về chi phí và giá bán có thể bị thay đổi tùy theo các
điều kiện của thị trường.
- Giá trị còn lại cuối cùng nhạy cảm đối với việc ứơc tính các chi phí và
giá bán.
- Cần phải có kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm tốt để ước tính tất cả
các khoản mục khác nhau.
- Phương pháp này chưa tính đến giá trị thời gian của dòng tiền, giả định
tất cả các dòng tiền xảy ra cùng một thời điểm, là không hiện thực
Phạm
vi
áp
dụng
của
phương
pháp
thặng
dư.
Từ
công
thức
tính
toán
và
đặc
điểm
của
phương
pháp
thặng
dư,
có
thể
thấy
phương
pháp
thặng
dư
chủ
yếu
là
dùng
để
xác
định
giá
đất
cho
Sinh viên thực hiện: Nhóm 11
7
Tiểu luận môn: Định giá đất – GVHD: Bùi Nguyên Hạnh
mấy
loại
hình
sau
đây:
(1)
Ðịnh
giá
cho
đất
đai
chờ
phát
triển;
(2)
Ðịnh
giá
nhà
đất
tái
phát
triển
phải
di
chuyển
cải
tạo,
lúc
đó
chi
phí
xây
dựng
trong
công
thức
còn
bao
gồm
cả
chi
phí
di
chuyển.
(3)
Định
giá
đất
trong
công
trình
nhà
đất
hiện
có,
nghĩa
là
lấy
giá
nhà
đất
trừ
đi
giá
nhà,
phần còn
lại
là
giá
đất.
1.2.Trình tự định giá bằng phương pháp thặng dư
Căn
cứ
vào
nguyên
lý
và
đặc
điểm
của
phương
pháp
thặng
dư,
trình
tự
của
phương
pháp
thặng
dư
như
sau:
-
Ðiều
tra
tình
hình
cơ
bản
của
thửa
đất
chờ
định
giá;
-
Xác
định
phương
thức
sử
dụng
phát
triển
đất
đai
tốt
nhất;
- Xác
định
tổng
giá
bất
động
sản
sau
khi
phát
triển;
-
Tính
toán
chi
phí
xây
dựng,
chi
phí
nghiệp
vụ,
lợi
tức,
thuế,
chi
phí
cho
thuê
và
lợi
nhuận mà
người
phát
triển
cần
có...
1.2.1. Điều tra tình hình cơ bản của thửa đất chờ định giá:
(1) Điều tra vị trí đất đai, nắm chắc tính chất của thành phố có thửa
đất với hiện trạng sử dụng và điều kiện đất đai xung quanh, để cung cấp
căn cứ cho việc lựa chọn phương thức sử dụng đất tốt nhất.
(2) Điều tra rõ về diện tích, hình dáng đất đai, tình hình địa chất, thiết
bị cơ sở, để cung cấp căn cứ cho việc tính toán chi phí xây dựng
(3) Điều tra yêu cầu sử dụng đất đai, nắm chắc quy định của chính
phủ đối với việc lựa chọn phương thức sử dụng thửa đất đó, suất dung tích,
tỷ lệ che phủ, hạn chế về chiều cao xây dựng… để phục vụ cho việc xác
định quy mô, hình dáng công trình
(4) Điều tra tình hình về quyền lợi của thửa đất đó, bao gồm việc làm
rõ tính chất của quyền lợi, niên hạn sử dụng, có được tiếp tục hay không và
Sinh viên thực hiện: Nhóm 11
8
Tiểu luận môn: Định giá đất – GVHD: Bùi Nguyên Hạnh
những quy định có liên quan về quyền chuyển nhượng, cho thuê, thế
chấp… nắm được tình hình của các quyền này chủ yếu là để phục vụ cho
việc xác định giá trị của bất động sản, giá tiêu thụ và tiền cho thuê… sau
khi hoàn thành phát triển.
1.2.2. Xác định phương thức sử dụng phát triển tốt nhất
Trong phạm vi cho phép theo những hạn chế về quy hoạch và quản lý
của chính phủ, căn cứ vào điều kiện đất đai, điều kiện thị trường đất đai đã
được điều tra, xác định phương thức sử dụng đất tốt nhất đối với mỗi thửa
đất (bao gồm: mục đích sử dụng đất, tỷ lệ dung tích xây dựng, tỷ lệ che phủ
đất đai, chiều cao xây dựng…). Trong việc lựa chọn phương thức tốt nhất
để phát triển thì điều kiện quan trọng nhất để phát triển là phải chọn được
mục đích sử dụng đất tốt nhất, đồng thời phải tính đến nhu cầu của xã hội
và xu thế phát triển trong tương lai của loại sử dụng đó.
Ví dụ: Một thửa đất được chính phủ quy định là để xây dựng khách
sạn, chung cư hoặc tòa nhà văn phòng, nhưng khi định giá đất thực tế thì
nên chọn loại sử dụng nào? Trước hết phải điều tra so sánh quan hệ cung
cầu và xu hướng đối với khách sạn, chung cư, tòa nhà làm việc của thành
phố và khu vực có thửa đất đó. Nếu nhu cầu của xã hội đối với khách sạn,
nhà văn phòng bắt đầu có xu thế bão hòa, biểu hiện ở xu thế giảm tỷ lệ
khách thuê phòng, tỷ lệ cho thuê phòng làm việc… nhưng số người muốn
thuê hoặc mua nhà chung cư tăng dần và gần đây lượng nhà chung cư có
thể cung cấp lại tương đối ít, thì có thể chọn xây dựng nhà chung cư là mục
đích sử dụng đất tốt nhất của thửa đất đó.
Sinh viên thực hiện: Nhóm 11
9