Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

QUẢN LÝ GIAO THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.24 KB, 23 trang )

HỌC VIỆN H NH CH NH QUÀ Í ỐC GIA
LỚP BỒI DƯỠNG KIẾN THỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
NGẠCH CHUYÊN VIÊN CH NH TÍ ẠI TRƯỜNG TRUNG CẤP
CÔNG ĐOÀN NGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢI
TIỂU LUẬN
Đề t i:à
QUẢN LÝ GIAO THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ
Họ và tên
:
Đỗ Quang Bình
Chức vụ
:
Phó phòng Tổ chức
Đơn vị
:
Công ty XDCT 547
Hà Nội, tháng 04 năm 2008
2
PHẦN THỨ NHẤT
ĐẶT VẤN ĐỀ
Gần đây trên các phương tiện thông tin đại chúng, có nhiều bài viết
phản ảnh về vấn đề nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB), từ nguồn
vốn ngân sách Nhà nước (NSNN). Đó cũng là chủ đề được dư luận xã hội hết
sức quan tâm, trong bối cảnh Đảng và Nhà nước ta đang chỉ đạo thực hiện
dân chủ hóa, công khai hóa, minh bạch trong quản lý tài chính công nói riêng
và quản lý Nhà nước nói chung. Chính vì vậy khi nhiều địa phương để sẩy ra
tình trạng nợ đọng vốn XDCB là vấn đề gây bức xúc trong dư luận quần
chúng nhân dân, tác động không tốt tới khả năng tới cân đối vĩ mô về nguồn
lực tài chính, đồng thời đặt ra yêu cầu Chính phủ phải có các giải pháp đủ
mạnh để ngăn chặn, giải quyết tình trạng trên trong năm 2005 và những năm
tiếp theo.


Theo thống kê chưa đầy đủ của các Bộ, ngành và các địa phương thì số
nợ đọng vốn đầu tư XDCB từ năm 2003 trở về trước khoảng 11.500 tỷ đồng,
bằng khoảng 25% tổng số vốn đầu tư nguồn ngân sách Nhà nước năm 2003.
Trong đó các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương có số nợ khoảng
7.500 tỷ đồng.
Nợ đọng vốn đầy tư XDCB có tác động xấu về mặt tài chính – tiền tệ,
xã hội …. Phần nào kìm hãm sự phát triển bền vững của nền kinh tế và đặc
biệt đối với nền kinh tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Có nhiều
nguyên nhân dẫn đến nợ đọng vốn đầu tư XDCB, song trên cơ sở liên quan
tới tiểu luận cuối khóa chỉ xin nêu 2 nhóm nguyên nhân chủ yếu.
Trước hết là nhóm nguyên nhân khách quan. Khả năng cân đối với đầu
tư XDCB từ NSNN hàng năm cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế –
3
xã hội còn rất hạn hẹp, chỉ đáp ứng được từ 40 – 50% nhu cầu. Trong khi đó
số lượng các dự án đầu tư cho các đơn vị trình duyệt ngày càng tăng (năm
2003 cả nước có khoảng 10.600 công trình được đầu tư, tăng 2.500 công
trình so với n ăm 2002), trên thực tế số lượng dự án được duyệt đã không
phù hợp với khả năng cân đối ngân sách hàng năm của Nhà nước, từ đó các
chủ đầu tư đã vay mượn vốn và chiếm dụng vốn của nhà thầu để thi công,
dẫn đến khối lượng nợ đầu tư XDCB ngày càng tăng.
Về nhóm nguyên nhân chủ quan, công tác quy hoạch chưa triển khai đầy
đủ từ quy hoạch tổng thể đến quy hoạch chi tiết. Ở một số địa phương có xu
hướng buông lỏng quản lý đầu tư xây dựng, không đảm bảo kỷ cương trong
XDCB đã được chỉ rõ trong nhiều văn bản chỉ đạo của Chính phủ, nghị định của
Chính phủ đã ban hành. Nhiều dự án đầu tư chưa có phương án nguồn vốn để
thực hiện dự án vẫn tiến hành thực hiện với giải pháp “Vừa thi công vừa tìm
nguồn vốn”.
Do những tác động tiêu cực trong nền tài chính – tiền tệ, phát triển kinh tế
– xã hội của tình trạng nợ đọng XDCB từ nguồn vốn NSNN, Chính phủ đã ban
hành một số văn bản pháp luật để chấn chỉnh lại trong tình hình phân nguồn vốn

XDCB tập trung từ ngân sách Trung ương đến địa phương. Mục tiêu giải quyết
vấn đề ở đây là việc thực hiện nghiêm văn bản pháp luật, biện pháp, chỉ thị của
Nhà nước, của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương để dần từng
bước giải quyết tình trạng nợ đọng XDCB từ NSNN góp phần cải thiện nền tài
chính – tiền tệ, tạo động lực tăng tốc độ phát triển kinh tế – xã hội, tập trung
nguồn vốn cho các công trình trọng điểm, cấp thiết, có hiệu quả cao.
4
PHẦN THỨ HAI
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I – Mô tả tình huống
Ngày 17 – 11 – 2003, Thủ tướng Chính phủ giao dự tóan ngân sách Nhà
nước năm 2004 tại Quyết định số 242/2003/QĐ - TTg cho các Bộ, Ngành, các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Trong đó, ngân sách tỉnh A được phân bổ
với tổng chi ngân sách địa phương là 837.674 triệu đồng. Trong đó chi đầu tư
phát triển (XDCB tập trung) là: 160.000 triệu đồng.
Trên cơ sở đó Bộ Tài chính giao dự toán thu, chi ngân sách Nhà nước năm
2004 tại Quyết định số 191/2003/QĐ - BTC ngày 17 – 11 – 2003 với số thu, chi
như Quyết định số 242/2003/QĐ - TTg cho tỉnh A, trong đó số vốn XĐCB tập
trung là 160.000 triệu đồng.
Căn cứ vào quyết định của Thủ tướng Chính Phủ và Bộ tài chính. UBNN
tỉnh A giao sở tài chính, phối hợp sở Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn, cùng các
Sở, ban, ngành, các cấp ngân sách lập dự toán ngân sách năm 2004. Căn cứ số
ngân sách được giao, căn cứ Nghị định số 73/2003/NĐ- CP ngày 23-6-2003 (NĐ
73) ban ngành quy chế xem xét quyết định dự toán ngân sách địa phương, Luật
ngân sách, Nghị định số 60/2003/NĐ- CP (NĐ60) ngày 6-6-2003 quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành Luật ngân sách Nhà nước; Căn cứ Thông tư số
59/2003/TT/BTC ngày 23-6-203- 2003 (TT59) hướng dẫn thực hiện nghị định số
60/2003/NĐ - CP ngày 06- 06 – 2003 (NĐ60), Sở tài chính tỉnh A, cơ quan tham
mưu cho UBND tỉnh lập dự tóan ngân sách năm 2004 tại báo cáo số 107/BC –
UB ngày 20 – 11- 2003 về tình hình thực hiện nhiệm vụ thu chi ngân sách năm

2003 và dự kiến phân bổ nhiệm vụ thu, chi ngân sách năm 2004. Trong đó xác
định nhiệm vụ chi ngân sách trên địa bàn là 837.647 triệu đồng được phân ra
5
theo các lĩnh vực chi, trong đó lĩnh vực chi XDCB tập trung là 130.000 triệu
đồng, từ nguồn vốn XDCB tập trung của trung ương phân bổ 160.000 triệu đồng
sau khi đã từ các nguồn để lại ở cấp huyện (thu cấp đất theo giá quy định) là
30.000 triệu đồng. Báo cáo sẽ được trình Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh khóa
VIII kỳ họp thứ 13 ngày 04 – 12 – 2003.
Căn cứ vào các văn bản hướng dẫn trên nhất là quyết định số
242/2003/QĐ - TTg ngày 17 – 11 – 2003. UBND tỉnh A giao Sở kế hoạch và
đầu tư tỉnh, lập báo cáo số 108/BC/UB ngày 20 – 11- 2003 về “ước tính tình
hình thực hiện kế hoạch XDCB năm 2003 và dự kiến kế hoạch XDCB năm
2004” trình HĐND tỉnh khóa VIII, tại kỳ họp thứ 13 ngày 14 – 12 – 2003. Trong
đó phần phân bổ dự kiến cụ thể cho ngồn vốn XDCB tập trung cho tỉnh quản lý
là 160.000 triệu đồng cho 155 công trình cụ thể có danh sách từng công trình,
phần vốn cụ thể trong công trình. Số vốn này Sở kế hoạch chưa trừ số vốn do
huyện cấp, thị trong tỉnh được phân là 30.000 triệu đồng.
Ngày 25 – 11 – 2003 theo Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 21 – 6 –
1994 (sửa đổi), Nghị định số 60/2003/NĐ - CP ngày 06 – 06 – 2003; Nghị định
số 73/2003/NĐ - CP ngày 23 – 6 – 2003. Ban kinh tế – Ngân sách HĐND tỉnh A
tiến hành thẩm tra Báo cáo số 107/BC – UB ngày 20/11/2003. Và báo cáo số
108/BC – UB ngày 20/11/2003. Thời gian thẩm tra các báo cáo trên là 2 ngày từ
ngày 25 đến ngày 26 – 11 – 2003. Do điều kiện khách quan, các báo cáo của
UBND gửi đến để Ban Kinh tế – Ngân sách HĐND tỉnh thẩm tra là rất gấp rút
về thời gian. Thời gian tiến hành kỳ họp đã được thường trực HĐND ấn định vào
ngày 4 – 12- 2003.
Trong quá trình thẩm tra Báo cáo số 107 và 108 Ban Kinh tế – Ngân sách
HĐND tỉnh thấy rằng có sự không thống nhất về vốn phân bổ cho các công trình
6
XDCB với nguồn vốn đáp ứng (được phân bổ) cho các công trình do thẩm quyền

cấp tỉnh phân cụ thể là lệch nhau 30.000 triệu đồng, số vốn này cho các công
trình XDCB năm 2004 là không có nguồn (mặc dù tòan bộ các công trình mà Sở
Kế hoạch và Đầu tư tỉnh A đều đáp ứng đầy đủ về hồ sơ kinh tế đã được phẩm
quyền phê duyệt).
Nếu với cương vị là thành viên Ban Kinh tế – Ngân sách, HĐND tỉnh
được giao trách nhiệm lập báo cáo kết luận thẩm tra các báo cáo số 107 và 108
trình trước HĐND tỉnh khóa XIII, tại kỳ họp thứ 13 ngày 04 – 12 – 2003 tôi phải
sử lý tình huống này như thế nào?
II – Phân tích tình huống
1. Theo Điều 34 Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 21 – 06- 1994 (sửa
đổi) và quy chế nội quy các kỳ họp của nhiệm kỳ 1999 – 2004 ngày 10 – 02 –
2000, tài liệu phục vụ cho kỳ họp phải được gửi tới đại biểu HĐND trước 5
ngày.
Theo tiết a khoản 2 Điều 25 Luật Ngân sách Nhà nước đã được Quốc hội
thông qua ngày 16 – 12- 2002. Hội đồng nhân dân quyết định phân bổ dự toán
ngân sách cấp tỉnh mình (cấp tỉnh).
a) Tổng só và mức chi từng lĩnh vực. Theo đó Ban Kinh tế – Ngân sách
thẩm tra báo cáo số 107 và Báo cáo số 108 do UBND trình mà cơ quan tham
mưu trực tiếp cho UBND tình là Sở Tài chính và Sở kế hoạch và đầu tư. Cụ thể
đi sâu về vấn đề vốn đầu tư XDCB và nguồn vốn để đầu tư XDCB công trình
năm 2004.
2. Về Báo cáo số 107/BC – UB ngày 20 – 11- 2003. Theo Nghị định số
73/2003/NĐ - CP ngày 23-06-2003 (NĐ73). UBND tỉnh A mà ở đây trực tiếp là
Sở Tài chính cơ quan tham mưu đã căn cứ vào các văn bản pháp luật hướng dẫn
7
và số ngân sách được giao để lập dự tóan năm 2004, tại Điều 4, khoản 4 tiết c
chương II Nghị định số 73 quy định UBND tỉnh giải trình cụ thể về tình hình
thực hiện ngân sách, dự tóan, phân bổ ngân sách cấp mình, trong đó nêu rõ nội
dung.
c) “Danh mục, tổng mức đầu tư, tiến độ thực hiện và kế hoạch vốn đầu tư

các dự án, các công trình quan trọng thuộc nguồn vốn ngân sách địa phương đã
được HĐND cấp mình quyết định theo thẩm quyền; trong đó, nêu chi tiết các dự
án, các công trình XDCB theo quy định của HĐND cấp tỉnh”. Căn cứ vào Nghị
quyết số 14/2003/NQ – HĐ (NQ14) ngày 04 – 8 – 2003 của HĐND tỉnh A khóa
XIII , kỳ họp thứ 11 về phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách các
cấp: tỉnh, huyện và xã ổn định trong 3 năm (2004 - 2006).
Theo đó Sở Tài chính đã căn cứ vào số được giao về nguồn vốn XDCB
tập trung có phân cấp nhiệm vụ chi, cụ thể tổng số vốn XDCB tập trung là
160.000 triệu đồng, trong đó cấp tỉnh được phân cấp chi (Cho XDCB từng công
trình) là 130.000 triệu đồng là có căn cứ và đúng luật, đúng chỉ đạo, đúng thẩm
quyền, đảm bảo đúng nguồn vốn đã được cấp và phê duyệt cho ngân sách năm
2004.
3. Về báo cáo số 108, qua thẩm tra, Ban Kinh tế – Ngân sách HĐND tỉnh
thấy rằng đại đa số các công trình trong tổng số 155 công trình thuộc cấp tỉnh
phân bổ vốn (kể cả công trình khởi công mới và công trình chuyển tiếp) đáp ứng
đầy đủ thủ tục về quản lý đầu tư XDCB theo Nghị định 52/1999/NĐ - CP ngày
08 – 7- 1999 như lập dự tóan kinh tế kỹ thuật, đã được cấp thẩm quyền phê duyệt
và nằm trong quy hoạch tổng thể. Tuy nhiên, có một số công trình chuyển tiếp (8
công trình) chưa đủ thủ tục về đầu tư XDCB theo quy định hiện hành về quản lý
đầu tư và xây dựng (NĐ 52), có 4 công trình khởi công mới (Các công trình cần
8
thiết) chưa phù hợp với quy hoạch được duyệt, quyết định đầu tư sau thời điểm
31 – 11 – 2003.
Tổng số vốn cho 12 công trình này xấp xỉ 30.000 triệu đồng.
Theo Luật Ngân sách, Nghị định 73, Thông tư 59, Quyết định 242 và
Quyết định 191 thì Sở Kế hoạch bố trí vốn là 160.000triệu đông tho 155 công
trình. Trong khi đó theo Sở Tài chính nguồn vốn thuộc thẩm quyền cấp tỉnh phân
bổ chỉ có 130.000 triệu đồng cho nguồn vốn XDCB trong năm ngân sách 2004.
Như vậy Sở kế hoạch và Đầu tư bố trí vượt nguồn vốn XDCB là 30.000 triệu
đồng. Như vậy, Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh A cơ quan tham mưu trực tiếp cho

UBND tỉnh A đã xây dựng dự tóan về XDCB năm 2004 là trái với luật ngân
sách, Nghị quyết số 14 của HĐND tỉnh về phân cấp nhiệm vụ chi giữa các cấp
ngân sách.
4. Việc xảy ra trong quá trình Ban Kinh tế – Ngân sách thẩm tra các báo
cáo của UBND tỉnh A là không có sự thống nhất về nguồn vốn và vốn cho các
công trình XDCB năm 2004 (lệch nhau khoảng 30.000 triệu đồng) qua báo cáo
thấy rằng do những nguyên nhân chủ yếu sau:
- Nguyên nhân khách quan:
+ Khoản ngân sách cho XDCB tập trung của Trung ương cho tỉnh A còn
quá hạn hẹp so với nhu cầu cấp thiết về đầu tư XDCB tại tỉnh A.
+ Do đặc điểm riêng biệt của XDCB là công việc phải hoàn thành theo
từng giai đoạn kỹ thuật, theo tiến độ và mùa vụ (hòan thành trước mùa mưa,
bão), nhưng vốn bố trí cho một số công trình chưa kịp ở những năm trước (nợ
vốn công trình) nên trong năm 2004 phải ghi số vốn vào để trả nợ.
- Nguyên nhân chủ quan:
9

×