LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
VỚI SỰ NHẬN THỨC CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CNXH Ở VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội do Mác - Ăngghen phát hiện ra vào những
năm 40 của thế kỷ 19, được V.I.Lênin kế thừa và phát triển hay nói đúng hơn là vận
dụng lý luận này vào CM tháng 10 Nga.
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội do Mác - Ăngghen phát hiện ra nhằm mục
đích tìm hiểu quy luật chung nhất, sự vận động và phát triển của loài người. Những
nhà XHHDT cho rằng lịch sử loài người bắt đầu từ chúa trời… Các nhà triết học Mác
lại thấy rằng: lịch sử loài người không bắt nguồn từ bàn tay của chúa trời, mà nó
được bắt đầu từ kinh tế, từ SXVC. Khi SXVC phát triển tới một trình độ nhất định,
tất cả các quan hệ khác (văn hóa, tư tưởng, chính trị…) cũng phải thay đổi theo =>
XH nhất định sẽ tiến lên CNCS.
HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI - NỀN TẢNG LÝ
LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ.
CNDVLS là một hệ thống các quan điểm của triết học Mác-Lênin về xã
hội. Nội dung chủ yếu là nhận thức về xã hội trong tính chỉnh thể và phát hiện những
quy luật vận động, phát triển phổ biến của lịch sử. Là một trong những cống hiến to
lớn của Mác CNDVLS là bước phát triển có tính cách mạng trong lịch sử triết học.
Học thuyết HTKTXH là một nội dung cơ bản của chủ nghĩa DVLS và cũng là
một nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là học thuyết vạch rõ những
quy luật cơ bản của sự vận động xã hội và vạch ra phương pháp khoa học để giải
thích lịch sử.
I. Sản xuất vật chất - cơ sở của đời sống xã hội.( quyết định sự tồn tại và phát triển
của xã hội)
“Đời sống xã hội, về thực chất là có tính thực tiễn”. Để tồn tại và phát triển, xã
hội không ngừng hoạt động để tham gia vào: Sản xuất vật chất
Sản xuất tinh thần
Sản xuất ra bản thân con người
Ba quá trình đó tác động biện chứng lẫn nhau, trong đó sản xuất vật chất là cơ
sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội. Trong đó:
● Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào
tự nhiên, cải tiến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất
thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
1
● Vai trò của sản xuất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội .
- Sản xuất vật chất là cơ sở cho sự tồn tại xã hội.
Con người muốn tồn tại và phát triển phải có cơm ăn, áo mặc, nhà ở và
những các vật dụng cần thiết khác nhằm duy trì đời sống tự nhiên của con người.
Những thứ đó ko có sẵn trong tự nhiên mà phải qua quá trình sản xuất vật chất.
SXVC không chỉ tạo ra những tư liệu sinh hoạt đáp ứng nhu cầu sống của con người
mà còn tạo ra những tư liệu sản xuất phục vụ cho quá trình sản xuất mà những tư liệu
sản xuất còn là tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại khác nhau. C.Mác đã chỉ rõ: “các
thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ
chúng ản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”.
- Sản xuất vật chất sáng tạo ra con người và xã hội loài người
Trong quá trình lao động sản xuất vật chất, con người biến đổi cả về hình thể
lẫn trí tuệ. Đồng thời trong quá trình này, con người sáng tạo ra mọi mặt của đời sống
xã hội. Tất cả các hoạt động và các quan hệ xã hội về nhà nước, pháp quyền, đạo đức,
nghệ thuật, tôn giáo… đều hình thành và biến đổi trên cơ sở SXVC.
- Sản xuất vật chất là động lực thúc đảy sự phát triển xã hội.
Sản xuất vật chất là quá trình con người làm biến đổi tự nhiên, xã hội và bản
thân con người. Quá trình sản xuất cũng không ngừng phát triển. Điều này quyết định
sự phát triển của các mặt đời sống xã hội, quyết định sự phát triển xã hội từ thấp đến
cao.
=> Nền sản xuất xã hội bao gồm nhiều mặt, nhiều mối liên hệ, trong đó nổi lên
hai loại liên hệ cơ bản:
+ Thứ nhất, quan hệ kinh tế - kỹ thuật: biểu hiện ở cách thức năng lực, trình độ
của con người trong quá trình tác động vào tự nhiên để tạo ra sản phẩm cho xã hội.
Quan hệ này được phản ánh trong khái niệm LLSX.
+ Thứ hai, quan hệ kinh tế - xã hội: thể hiện ở cách giải quyết vấn đề lợi ích
kinh tế, là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất, trao đổi và
tiêu dùng. Quan hệ này được phản ánh trong khái niệm QHSX.
Về mặt nhận thức luận: LLSX và QHSX là hai loại quan hệ (không phải hai bộ
phận) trong một thực thể thống nhất cấu thành PTSX của xã hội. Nghĩa là, từ hai góc
tiếp cận để xem xét một thực thể PTSX.
Nếu phân tích PTSX theo quan hệ giữa con người với tự nhiên thì đó là LLSX.
Nếu phân tích PTSX theo quan hệ giữa con người với con người thì đó là
QHSX.
LLSX và QHSX nằm trong thể thống nhất của hai mặt đối lập trong PTSX xã
hội nhất định. Chúng quy định chế ước lẫn nhau, tác động qua lại và thúc đảy nhau
cùng phát triển theo quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ phát
triển của LLSX. Nghĩa là trong sự thống nhất bao hàm sự mâu thuẫn đó thì LLSX giữ
2
vai trò quyết định sự vận động phát triển của QHSX, còn QHSX phải phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của LLSX. Sự thống nhất và mâu thuẫn không ngừng
nảy sinh, tự giải quyết, là động lực vận động nội tại của PTSX, là cơ sở của lịch sử xã
hội loài người.
1.2. Con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của lịch sử.
Không có tự nhiên không có lịch sử xã hội thì không thể có con người. Con
người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh.
Lịch sử không phải do một nhân cách nào đó sử dụng con người làm phương
tiện để đạt đến mục đích của mình, mà lịch sử xã hội loài người là lịch sử hoạt động
của chính bản thân con người. Hoạt động của con người bao gồm sự thống nhất giữa
mặt khách quan và mặt chủ quan của quá trình lịch sử.
+ Sự thống nhất giữa mặt khách quan và chủ quan của quá trình lịch sử là một
vấn đề hết sức phức tạp. Do tính phức tạp đó mà các nhà triết học trước Mác nhận
thức và giải quyết vẫn còn nhiều hạn chế, sai lầm:
- Một là, nhấn mạnh vai trò của nhân tố chủ quan trong hoạt động của con
người đến mức cho rằng đạo đức, ý thức hoặc lý tính có thể quyết định lịch sử
(Platon, Béccơli, Hêghen).
- Hai là, thừa nhận tính bị quy định của hoạt động con người nhưng lại không
lý giải được tính khách quan nên đã sa vào quan niệm định mệnh về lịch sử.
+ Các nhà sáng lập ra CNDVLS đã làm sáng tỏ vấn đề mối quan hệ giữa mặt
khách quan và mặt chủ qun của tiến trình lịch sử thông qua những lát cắt nhận thức
luận khác nhau, những quan hệ gắn bó và bổ sung cho nhau. Đó là việc thông qua và
giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, giữa
điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, giữa quy luật lịch sử và hoạt động có ý
thức của con người, giữa tự do và tất yếu, giữa tự phát và tự giác trong sự phát triển
của lịch sử. Trong việc giải quyết vấn đề đó, Mác đã xác lập nguyên tắc có tính
phương pháp luận là tồn tại xã hội thì quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự
phản ánh của tồn tại xã hội và tác động đến sự phát triển của tồn tại xã hội. Mác nhấn
mạnh: “không phải ý thức con người quyết định sự tồn tại của họ, trái lại chính sự tồn
tại của họ quyết định ý thức của họ”.
- Trên có sở nguyên tắc phương pháp luận đó, triết học Mác cho rằng xã hội là
một bộ phận đặc thù của thế giới vật chất, vận động và phát triển tuân theo quy luật
khách quan. Quy luật xã hội là những mối liên hệ bản chất, tất yếu, lặp đi lặp lại của
các quá trình, các hiện tượng của đời sống xã hội, đặc trung cho khuynh hướng co
bản phát trienr xã hội từ thấp đến cao. Giống như quy luật tự nhiên, quy luật xã hội
có tính tất yếu khách quan, nhưng điều đó không có nghĩa là con người bó tay trước
quy luật. Khi chưa nhận thức được quy luật thì con người hành động một cách tự
phát, là nô lệ của tính tất yếu. Khi đã nhận thức được các quy luật và các điều kiện
3
của chúng thì con người có thể điều khiển hoạt động của mình phù hợp với yêu cầu
của quy luật một cách tự giác, khi đó con người có tự do trong hoạt động của mình.
Vơi ý nghĩa đó có thể thấy tự do chính là nhận thức và hành động theo cái tất yếu.
- Quan niệm duy vật về lịch sử khoogn phủ nhận tác động của mục đích con
người đối với tiến trình lịch sử, nhưng đòi hỏi phải nhận thức nó một cách khoa học.
Nghĩa là quan niệm DV về lịch sử xem xét nhu cầu khách quan của sự xuất hiên các
mục đích và những điều kiện để thực hiện mục đích đó. Điểm xuất phát để định ra
mục đích là những điều kiện khách quan. Chính đời sống con người làm này sinh ở
họ nhu cầu và lợi ích, đặt ra cho họ mục đích hoạt động. Ở đó sự quy định khách
quan đã chuyển hóa thành sự quy định chủ quan; mặt khác để đạt được mục đích lại
cần phải có những điều kiện khách quan thích hợp. Hoạt động của con người là quá
trình chuyển tính chủ quan thành tính khách quan.
Như vậy, quá trình lịch sử là quá trình hoạt động của con người tuân theo
những quy luật khách quan. Quá trình lịch sử luôn là sự thống nhất giữa những quy
luật vận động khách quan của xã hội và hoạt động có ý thwucs của con người. XÃ
hội ngày càng tiến bộ, càng phát triển thì vai trò của nhân tố chủ quan ngày càng tăng
lên, đó là xu hướng có tính quy luật của lịch sử.
2. Cấu trúc xã hội - Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội.
2.1. Cấu trúc xã hội.
Thế giới vật chất là một thể thống nhất bao gồm nhiều cấp độ tổ chhuwcs khác
nhau. Ở mỗi cấp độ nhất định đều có những yếu tố ổn định và những mối liên hệ, sự
tác dộng lẫn nhau giữa chúng tạo thành cấu trúc của nó, mang lại cho nó tính chỉnh
thể.
Xã hội là một hệ thống cực kỳ phức tạp, vì vậy khi phân tích xã hội phải xem
xét, tính toán sự tác động của nhiều nhân tố, phải vạch ra được những bộ phận chủ
yếu và mối liên hệ giữa chúng. Điều đó là rất quan trọng về mặt phương pháp luận vì
nó cho ta cái nhìn tổng quát về mặt xã hội. Chính các nhà triết học và các nhà xã hội
học trước Mác đã không nhìn thấy điều đó, nên khi nghiên cứu về xã hội họ chỉ tiếp
cận bộ phận, chỉ nhấn mạnh một yếu tố nào đó và gắn cho nó tính quy định. Cho nên
các nhà triết học và xã hội học trước Mác không thể đưa ra một mô hình phản ánh xa
xhooi trong tính chỉnh thể, trọn vẹn của nó.
Khắc phục nhước điểm đó, CNDVLS xem xã hội như là một hệ thống bao gồm
trong nó các lĩnh vực cơ bản:
+ Lĩnh vực kinh tế của đời sống xã hội, trong đó các quan hệ sản xuất, quan hệ
kinh tế giữ vai trò là những quan hệ ban đầu, cơ bản và quyết định tất cả các quan hệ
xã hội khác.
4
+ Lĩnh vực xã hội: Quan hệ gia đình, tầng lớp xã hội, giai cấp, dân tộc, trong
đó quan hệ giai cấp đóng vai trò chi phối.
+ Lĩnh vực chính trị: Các tổ chức, các thiết chế quyền lực, hệ thống pháp luật
và tư tưởng chính trị.
+ Lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội: bao gồm tất cả cac hiện tượng tinh
thần của xã hội từ tâm lý, truyền thống, đến hệ tư tưởng và các hình thái ý thức xã
hội.
2.2. Những vấn đề cơ bản trong học thuyết HTKTXH.
Đóng góp to lớn của chủ nghĩa DVLS là đã xác định đúng đắn vị trí, vai trò
của các yếu tố, chỉ ra các chiều tác động qua lại giữa chúng, những liên hệ bản chất
tất yếu giữa chúng, những liên hệ bản chất tất yếu giữa chúng làm cho cả hệ thống xã
hội vận động và phát triển. Điều này được C.Mác trình bày cô đọng như sau: “Trong
sư sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người ta có những quan hệ nhất định, tất
yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan
hệ này phù hợp với trình độ phát triển của các LLSX của họ. toàn bộ những quan hệ
sản xuất ấy hợp thành một cơ cấu kinh tế của một xã hội, tức là cơ sở hiện thực, trên
đó xây dựng nên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị, và tương ứng với cơ
sở thực tại đó thì có những hình thái ý thức xã hội nhất định. PTSX đời sống vật chất
quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung”. Quan
điểm tổng quát đó được triển khai, phân tích bằng một hệ thống các phạm trù, quy
luật như:
a. Lĩnh vực kinh tế.
Lĩnh vực kinh tế của đời sống xã hội được khái quát trong các phạm trù:
PTSX, LLSX, QHSX và quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ
của LLSX. Trong đó:
● Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật
chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. PTSX là sự thống
nhất giữa LLSX ở một trình độ nhất định với một QHSX tương ứng.
Note: Mỗi phương thức sản xuất có hai mặt là lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất, biều hiện mối quan hệ song trùng giữa con người với tự nhiên và giữa con
người với nhau trong quá trình sản xuất vật chất.
5
Phương thức sản
xuất
Quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất
- Phương thức sản xuất có vai trò quyết định đối với tất cả các mặt của đời
sống xã hội. Sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất trong lịch sử xã
hội quyết định sự phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao
I. Quy luật quan hệ sản xuất(QHSX) phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất (LLSX)
● LLSX biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản
xuất. Nó là thước đo năng lực thực tiễn của của con người trong quá trình sản xuất
ra của cải vật chất. LLSX gồm người lao động với sức khoẻ, trình độ, kỹ năng lao
động của họ và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động.
+ Trong lực lượng sản xuất, yếu tố cơ bản nhất là con người - người lao động với
thể lực, học vấn, kinh nghiệm kỹ năng, trình độ lao động Người lao động là chủ thể
đóng vai trò quyết định trong quá trình sản xuất, họ tạo ra của cải vật chất cho xã hội
(bao gồm: chất lượng lao động và số lượng lao động). V.I.Lênin đã nhấn mạnh:
“LLSX hàng đầu của toàn thể nhân loại là người công nhân, là người lao động”.
+ Tư liệu sản xuất là những vật phẩm, yếu tố, điều kiện để con người tác động vào
đối tượng nhằm tạo ra sản phẩm. Trong tư liệu sản xuất, công cụ lao động giữ vai
trò quyết định công cụ lao động là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất. Cùng
với quá trình tích luỹ kinh nghiệm, những phát minh và sáng chế kỹ thuật, công cụ
lao động không ngừng được cải tiến, hoàn thiện và sự phát triển của công cụ đã làm
biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất, quá trình sản xuất. Đây là nguyên nhân sâu xa của
mọi biến đổi xã hội. Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ
chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế.
6
Lực lượng sản xuất
Người lao động (có trí
tuệ, kinh nghiệm sản
xuất, kỹ năng lao
động….)
Tư liệu sản xuất
Tư liệu
lao động
Đối tượng
lao động
Trí
lực
Thể
lực
Công cụ
lao động
Các tư
liệu lđ
khác
Có
sẵn
tự
nhiên
Đã
qua
chế
biến
trong sự phát triển của LLSX, những tri thức khoa học đóng vai trò to lớn. Sự phát
triển của tri thức khoa học gắn liền với sản xuất và là một động lực mạnh mẽ thức
đảy LLSX phát triển.
Hỏi: Trong thời đại ngày nay, khoa học công nghệ có vai trò gì đối với LLSX? Cần
hiểu luận điểm “ngày nay tri thức khoa học phổ biến ngày càng trở thành LLSX trực
tiếp của xã hội” ntn?
Đáp: Ngày nay tri thức khoa học phổ biến ngày càng trở thành LLSX trực tiếp của xã
hội. Thể hiện ở chỗ, tri thức khoa học đã thẩm thấu vào tất cả các quá trình sản xuất
vật chất (sản xuất và tái sản xuất) thể hiện ở quan hệ về mặt sở hữu đối với tư liệu sản
xuất, quan hệ tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ về mặt phân phối sản phẩm làm ra.
● QHSX là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã
hội.
* Vai trò, vị trí của từng mặt trong QHSX?
Ba mặt trong QSXH luôn gắn bó với nhau trong đó quan hệ sở hữu có ý nghĩa
quyết định đối với các quan hệ khác.
- Quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản đặc trưng
cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội và nó giữ vai trò quyết định với tổ chức quản
lý và quan hệ phân phối sản phẩm.
- Quan hệ tổ chức, quản lý và quan hệ phân phối có tác động trở lại đối với quan hệ
sở hữu tư liệu sản xuất, có thể thúc đảy hoặc kìm hãm quá trình sản xuất. Trong đó:
1. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất có vai trò quyết định về mặt tổ chức,
quy mô, tốc độ, hiệu quả và xu hướng của mỗi nền sản xuất cụ thể, do đó nó có khả
năng đẩy nhanh hoặc kìm hãm các quá trình khách quan của sản xuất => biến dạng
quan hệ sở hữu.
2. Quan hệ phân phối có khả năng kích thích trực tiếp vào lợi ích của con
người nên nó tác động đến tháI đọ của người lao động trong quá trình sản xuất. Do đó
nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất, cản trở sự phát triển của xã hội.
=> Tóm lại: Quan hệ tổ chức, quản lý và quan hệ phân phối có thể làm biến dạng
quan hệ sở hữu, cản trở sự phát triển của xã hội.
7
QHSX
Quan hệ sở
hữu đối với
TLSX
Quan hệ trong
tổ chức và
quản lý sản
xuất
Quan hệ trong
phân phối sản
phẩm lao động
- QHSX là hình thức xã hội của PTSX có tính chất ổn định tương đối so với sự phát
triển không ngừng của LLSX.
- Trong lịch sử có hai hình thức sở hữu: sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở
hữu tư nhân thì quan hệ giữa người với người là quan hệ bóc lột và bị bóc lột, còn sở
hữu công cộng thì quan hệ là bình đẳng vì TLSX thuộc về thành viên trong cộng
đồng.
● Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Thứ nhất, về trình độ của LLSX.
- Trình độ của LLSX biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động; trình độ kinh
nghiệm và kỹ năng lao động của con người; trình độ tổ chức và phân công lao động
xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất… ứng với trình độ của lực lượng
sản xuất là tính chất của nó.
- Tính chất của LLSX là tính chất của tư liệu sản xuất và của lao động.
8
Phương thức sản xuất
Lực lượng sản xuất Quan hệ sản xuất
Người lao động có
trí tuệ, kinh nghiệm
sản xuất, kỹ năng
lao động
Tư liệu sản xuất
Các
quan
hệ sở
hữu
đối
với tư
liệu
sản
xuất
Các
quan
hệ
trong
tổ
chức
và
quản
lý sản
xuất
Các
quan hệ
trong
phân
phối sản
phẩm
lao
động
Tư liệu
lao
động
Đối
tượng
lao
động
Công cụ lao
động
Các tư liệu lao động
khác
Quyết định
Tác động trở lại
Thúc đẩy (Khi QHSX phù hợp
với trình độ phát triển của LLSX)
Kìm hãm (Khi QHSX không phù
hợp mâu thuẫn với trình độ phát
triển của LLSX)
Cách mạng xã hội
“Xiềng xích”
Phương thức sản xuất mới
Lực lượng sản
xuất mới
Quan hệ sản xuất
mới
Ví dụ: Khi trình độ của lực lượng sản xuất là thủ công thì tính chất của nó là
tính cá nhân được biểu hiện khi người lao động sản xuất = những công cụ thủ công
và trong quá trình lao động riêng lẻ để tạo ra sản phẩm của cá nhân.
Khi trình độ của lực lượng sản xuất là cơ khí, hiện đại thì tính chất của nó là tính xã
hội hóa biểu hiện khi người lao động sản xuất = máy móc đòi hỏi nhiều người cùng
tham gia trong quá trình lao động để tạo ra 1 sản phẩm
Ví dụ: công cụ l.động hiện đại → trình độ l.động của con người thấp → con
người ko sử dụng được công cụ l.động
Thứ hai, về v ai trò quyết định của LLSX đối với QHSX .
Trong PTSX, LLSX là nội dung, QHSX là hình thức của nền sản xuất xã hội.
♦ LLSX có vai trò quyết định đối với QHSX (quyết định sự phân công lao động xã
hội, do đó quyết định quan hệ sở hữu giữa các tập đoàn người khác nhau, từ đó quyết
định quan hệ tổ chức lao động và phân phối sản phẩm). Biểu hiện:
- LLSX ở trình độ nào phải có một QHSX ở trình độ tương ứng.
- Sự vận động và phát triển của LLSX quyết định sự thay đổi của QHSX cho
phù hợp với nó.
♦ LLSX quyết định cả những quan hệ xã hội khác (quan hệ giai cấp, dân tộc; các
quan hệ chính trị, pháp quyền, tư tưởng, đạo đức, tôn giáo, gia đình…)
♦ LLSX và QHSX là hai mặt đối lập, trong đó LLSX là yếu tố cách mạng, luôn luôn
biến động (công cụ lao động luôn được cải tiến, trình độ của người lao động không
ngừng được nâng cao); QHSX lại là yếu tố tương đối ổn dịnh. Điều này sẽ dẫn tới
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đòi hỏi phải thay đổi quan hệ
sản xuất cho phù hợp với lực lượng sản xuất. Sự thay đổi này có thể diễn ra theo hai
cách:
Thứ ba, về sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX .
Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của phương thức sản xuất nên nó có tính
độc lập tương đối, có thể tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất theo hai chiều
hướng:
♦ QHSX phù hợp, thích ứng với trình độ phát triển của LLSX là động lực thúc đẩy
LLSX phát triển. Thể hiện tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều tạo địa bàn đầy đủ
cho LLSx phát triển, tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao
động với tư liệu sản xuất => LLSX có thể phát triển hết khả năng của nó.
Ví dụ: + nhà tư bản trả lương cao cho người l.động => người lao động tích
cực, chủ động, sáng tạo hơn trong quá trình lao động
+ nhà tư bản đưa ra hình thức phân công l.động tốt và ứng dụng các
thành tựu KHKT => năng suất l.động cao
9
♦ QHSX không phù hợp, không thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất sẽ trở thành xiềng xích trói buộc, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự không phù hợp này có thể diễn ra theo hai chiều hướng:
1. QHSX lỗi thời, lạc hậu hơn so với LLSX (thường vào cuối giai đoạn của
một phương thức sản xuất)
2. QHSX “tiên tiến” hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của LLSX
(như ở VN trước đây).
Note: • Nhưng sự kìm hãm chỉ là tạm thời trong một giới hạn nhất định theo
qui luật chung khi QHSX kìm hãm LLSX thì tất yếu nó sẽ phải thay thế bằng một
QHSX mới phù hợp nhằm thúc đẩy sự phát triển của LLSX. Tuy nhiên, việc giải
quyết mâu thuẫn đó không giản đơn mà phải thông qua nhận thức và hoạt động thực
tiễn cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, để giải quyết
mâu thuẫn đó phải thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
• Một trong những tiêu chí quan trọng của sự phù hợp (không phù hợp) là
NSLĐ bởi suy cho cùng nó là cái quyết định trật tự XH.
Quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là quy luật phổ biến,
tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế và phát triển các chế
độ xã hội là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật trên là
quy luật có bản nhất.
II. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng(CSHT) và kiến trúc thượng
tầng(KTTT) Lưu ý: ( Thực chất là việc giải quyết Mối quan hệ giữa lĩnh vực kinh
tế và lĩnh vực chính trị.)
Được khái quát từ phạm trù cơ sở hạ tầng (CSHT), kiến trúc thượng tầng (KTTT) và
quy luật CSHT quyết định KTTT.
1. KN
Thứ nhất, về cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu
kinh tế của một xã hội nhất định.
- Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm:
+ QHSX thống trị.
+ QHSX tàn dư.
+ QHSX mầm mống.
Trong đó QHSX thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các
quan hệ sản xuất khác, nó qui định xu hướng chung của đời sống kinh tế - xã hội, nói
lên đặc trưng của CSHT đó. Tuy nhiên ở giai đoạn mới hình thành or giai đoạn cuối
của mỗi hình thái kinh tế - xã hội, QHSX tàn dư và QHSX mầm mống lại giữ một vai
trò đáng kể
10
Thứ hai, về kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp
quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật… cùng với những thiết chế xã hội
tương ứng như Nhà nước, Đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội… được hình
thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
- Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm, qui luật phát triển riêng,
nhưng chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau và đều được xây dựng trên một cơ sở hạ
tầng tương ứng. Chúng có thể tác động trực tiếp (chính trị, pháp luật) hoặc gián tiếp
(nghệ thuật, khoa học) đến cơ sở hạ tầng.
- Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp. Trong
các yếu kiến trúc thượng tầng thì Nhà nước - công cụ của giai cấp thống trị, bộ
phận có quyền lực nhất, có vai trò đặc biệt quan trọng và sức mạnh lớn nhất.
2. MỐi quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT.
Một là: CSHT quyết định KTTT.( Kinh tế quyết định chính trị)
- Mỗi CSHT sẽ hình thành nên một KTTT tương ứng với nó. Tính chất của
KTTT là do tính chất của CSHT quyết định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào
thống trị về mặt kinh tế thì cũng thống trị về mặt chính trị và tinh thần của xã hội.
Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế quyết định mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị, tư
tưởng.
Ví dụ: Trong XHPK, CSHT là của giai cấp phong kiến. Vì vậy nhà nước, pháp
luật, đạo đức là của giai cấp này. Những cuộc đấu tranh giai cấp bắt nguồn từ nguyên
nhân sâu xa là mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế.
- Khi CSHT thay đổi thì sớm hay muộn KTTT cũng thay đổi theo. Điều này có
thể diễn ra trong một HTKT-XH và đặc biệt rõ rệt trong việc chuyển từ HTKT-XH
này sang HTKT-XH khác
Ví dụ 1: Khi V.Nam chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp thì một
số vấn đề về đường lối, chính sách, pháp luật, quan điểm về đạo đức, văn học nghệ
thuật cũng phải thay đổi
- Sự thay đổi CSHT dẫn đến làm thay đổi KTTT diễn ra rất phức tạp; có yếu tố
thay đổi nhanh chóng như chính trị, pháp luật, có yếu tố thay đổi chậm chạp như đạo
đức, tôn giáo, nghệ thuật. Cũng có những yếu tố tích cực được kế thừa để xây dựng
xã hội mới (ex: Một số quan niệm tích cực trong đạo đức Nho gia).
Note: Sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng có nguyên nhân gián tiếp từ sự
thay đổi của LLSX.
Hai là: Tác động trở lại của KTTT đối với CSHT .
- KTTT có chức năng xã hội cơ bản là xây dựng, bảo vệ và phát triển CSHT đã
sinh ra nó, đấu tranh chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại chế độ kinh tế
đó. Sự tác động này diễn ra theo hai chiều hướng:
11
+ Nếu KTTT tác động phù hợp với qui luật kinh tế khách quan thì nó là động
lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển.
+ Nếu KTTT tác động không phù hợp với qui luật kinh tế khách quan thì nó sẽ
kìm hãm sự phát triển của kinh tế, phát triển xã hội.
Ví dụ: Khi XHPK đang trong giai đoạn hưng thịnh thì tác động của nhà nước,
luật pháp PK tới CSHT góp phần quan trọng trong việc củng cố kinh tế xã hội.
Nhưng khi XHPK suy tàn thì việc níu kéo, bảo vệ chế độ phát canh thu tô của nhà
nước PK lại cản trở phát triển kinh tế xã hội
- Các yếu tố cấu thành KTTT tác động đến CSHT với cách thức và vai trò khác
nhau. Trong xã hội có giai cấp, Nhà nước là yếu tố có tác động mạnh nhất đối với
CSHT vì nhà nước nắm trong tay quyền lực về kinh tế, là bộ máy bạo lực tập trung
của giai cấp thống trị về kinh tế. Các yếu tố khác của KTTT muốn tác động đến
CSHT đều phải chịu sự chi phối của nhà nước.
Note: Sự độc lập của KTTT chỉ mang tính tương đối, xét đến cùng nó vẫn chịu
sự chi phối của nhân tố kinh tế.
* Liên hệ với việc xây dựng CSHT và KTTT ở VN trong thời kỳ quá độ:
- Về CSHT: VN hiện nay cò tồn tại nhiều thành phần kinh tế => CSHT không
thuần nhất. Năm thành phần kinh tế đan xen các hình thức sở hữu khác nhau tạo
thành sự phức tạp, sự vận động trái chiều trong quá trình thực hiện định hướng
XHCN song nó lại làm cho nền KT sống động và phong phú. Do đó cần có sự quản
lý của nhà nước đối với cơ sở hạ tầng.
- Về KTTT:+ Hệ tư tưởng: Lấy CN Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tưởng của toàn dân.
+ Thiết chế: Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ.
IV. HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ TỰ NHIÊN CỦA
SỰ PHÁT TRIỂN CÁC HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Khái niệm, kết cấu hình thái kinh tế - xã hội
a. Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội
- Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để
chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng
cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một
KTTT tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
b. Kết cấu hình thái kinh tế - xã hội
Mỗi hình thái kinh tế - xã hội bao gồm ba yếu tố cơ bản là LLSX(giữ vai trò quan
trọng nhất), QHSX, KTTT.
+ LLSX là nền tảng vật chất, kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội, là
nguyên nhân sâu xa dẫn tới sự thay thế lẫn nhau giữa các hình thái kinh tế xã
hội.
12
+ QHSX là quan hệ cơ bản quyết định mọi quan hacx hội khác, là tiêu chuẩn khách
quan để phân biệt các chế độ xã hội.
+ KTTT là công cụ để bảo vệ và duy trì, phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.
Ngoài ra mỗi hình thái kinh tế - xã hội còn có các quan hệ gia đình, dân tộc và các
quan hệ xã hội khác. Các quan hệ xã hội khác gắn bó chặt chẽ với quan hệ sản xuất,
biến đổi cùng sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
2. Quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội.
a. Sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên .(Tại
sao nói sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự
nhiên)
- Quá trình phát triển của xã hội là một quá trình khách quan tuân theo các quy luật
xã hội. Đó là qui luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, qui luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và qui luật
xã hội khác. Chính sự tác động của các qui luật khách quan đó mà các hình thái kinh
tế - xã hội vận động phát triển từ thấp đến cao.
- Nguồn gốc sâu xa của sự vận động và phát triển của xã hội là sự phát triển
của lực lượng sản xuất. LLSX phát triển mâu thuẫn với quan hệ sản xuất tương đối
ổn định sẽ buộc quan hệ sản xuất phải thay đổi, từ đó làm thay đổi KTTT => hình
thái kinh tế xã hội cũ được thay thế bằng hình thái kinh tế mới tiến bộ hơn. Quá trình
đó diễn ra một cách khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Hoạt động có
ý thức của con người (nhân tố chủ quan) chỉ có thể đảy nhanh hoặc kìm hãm tiến
trình phát triển của lịch sử trong một chừng mực nhất định chứ không thể đảo ngược
tiến trình khách quan đó.
* LUU ý: Việc bỏ qua một hoặc hai HTKTXH để tiến lên một HTKTXH mới
cao hơn có phải là một qúa trình mang tính lịch sử tự nhiên không? Vì sao?
- Tính đa dạng phong phú trong lịch sử phát triển của nhân loại: Con đường phát
triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi những quy luật chung mà còn bị chi
phối bởi những điều kiện tự nhiên, chính trị truyền thống văn hoá. Vì vậy, có những
dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao, nhưng cũng có
những dân tộc bỏ qua một vài hình thái kinh tế - xã hội nào đó để tiến lên hình thái
kinh tế - xã hội cao hơn trong thời đại đó. Tuy nhiên việc bỏ qua như vậy cũng
diễn ra theo qui luật, theo quá trình lịch sử - tự nhiên chứ không phải tuỳ tiện
theo ý muốn chủ quan.
Ví dụ: + Pháp, Italya lần lượt trải qua cac HTKT-XH
+ Mỹ bỏ qua PK, Nga và Balan bỏ qua CHNL
+ Australia bỏ qua CHNL và PK
Điều kiện để bỏ qua: - Trên thế giới xuất hiện HTKT-XH cao hơn.
- Có sự giúp đỡ, quan hệ hợp tác với các nước
13
- Tiến trình lịch sử cụ thể của một dân tộc, một quốc gia cụ thể thường xuyên
bị những yếu tố bên trong và những yêu tố bến ngoài chi phối như hoàn cảnh địa lý,
truyền thống văn hóa, tâm lý dân tộc, tình trạng chiến tranh hay hòa bình, quan hệ
giao lưu với các dân tộc khác. Tất cả những yếu tố đó đều có thể kìm hãm hay thúc
đảy sự phát triển của một quốc gia, dân tộc nhất định. Do sự tác động tổng hợp của
nhiều nhân tố làm cho quá trình cho quá trình lịch sử của nhân loại diễn ra không
đồng đều, thường xuất hiện những trung tâm phát triển cao hơn về SXVC, kỹ thuật,
văn hóa. Chính từ những trung tâm ấy có sự phát triển lan rộng nhờ giao lưu, trao đổi,
đua tranh giữa các nước có trình độ phát triển khác nhau. Đó là cơ sở thúc đảy sự tiến
bộ xã hội, làm xuất hiện một số nước có thể bỏ qua một chế độ nào đó, khả năng lợi
dụng tính không đồng đều của lịch sử một cách có ý thức để rút ngắn quá trình phát
triển của mình mà không cần phải lặp lại tuần tự các quá trình lịch sử.
* Do tính cách mạng và khoa học của cách tiếp cận HTKT-XH mà từ khi học
thuyết ra đời nó luôn luôn chịu sự tấn công của các trào lưu tư tưởng đối lập và cơ
hội.
+ Những năm 60 của thế kỷ XX chủ nghĩa “Duy kỹ thuật” đã tuyệt đối hóa
nhân tố kỹ thuật là nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội.
+ Những năm 80 của thế kỷ XX thuyết “Hậu công nghiệp” tiếp tực phát triển
thuyết “Duy kỹ thuật” vào xã hội hiện đại đồng thời tìm mọi cách lảng tránh vấn đề
chế độ chính trị, hệ tư tưởng.
+ Gần đây thuyết “các nền văn minh” do nhà tương lai học người Mỹ
AlVinToppler đã đưa ra cách tiếp cận từ văn hóa mà cốt lõi là từ sự phát triển của
khoa học công nghệ. Thuyết này cho rằng từ sự phát triển của khoa học là nguyên
nhân có sở duy nhất và trực tiếp dẫn đến sự phát triển của mọi mặt đời sống xã hội,
phủ nhân đấu tranh giai cấp, chế độ sở hữu và cách mạng xã hội.
Với những học thuyết đó, các nhà tư tưởng tư sản công bố học thuyết HTKT-
XH là giới hạn, xơ cứng, không tưởng lạc hậu với thời đại. Thực ra với cách xem xét
xã hội trong tính chỉnh thể, tính vận động thông qua việc vạch ra cấu trúc, quy luật
vận động nội tại, cách tiếp cận HTKT-XH vẫn giữ nguyên giá trị trong thời đại hiện
nay. Những cách tiếp cận tư sản nói trên, mặc dù có những đóng góp trong việc nhấn
mạnh, làm rõ vai trò của nhân tố kỹ thuật trong xã hội hiện đại, những vẫn chưa vượt
ra khỏi phương pháp tiếp cận HTKT - XH.
Như vậy, quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra
bằng con đường phát triển tuần tự, mà bao hàm cả sự bỏ qua, trong những điều kiện
nhất định, một hoặc một vài hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
14
3. Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế – xã hội.
- Học thuyết đó chỉ ra, sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức
sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội. Cho nên, không thể xuất phát từ ý
thức, tư tưởng, từ ý chí chủ quan của con người để giải thích các hiện tượng trong đời
sống xã hội mà phải xuất phát từ phương thức sản xuất.
- Học thuyết HTKT-XH giúp chúng ta phân tích nguyên nhân sâu xa của các biến cố
lịch sử từ sự phát triển của LLSX
- Học thuyết chỉ ra tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội. Xã hội là
một cơ thể sống sinh động, các mặt thống nhất chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn
nhau. Trong đó quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, quyết định các quan hệ xã hội
khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội. Cho nên, muốn nhận
thức đúng đắn về đời sống xã hội thì phải phân tích bắt đầu từ hiệu quả sản xuất
- Học thuyết chỉ ra, sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch
sử - tự nhiên, tức tuân theo qui luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ
quan. Cho nên, muốn nhận thức đúng về đời sống xã hội phải đi sâu nghiên cứu các
qui luật vận động phát triển của đời sống xã hội.
V. Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội vào sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
+ Việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở Việt Nam là hợp quy luật:
* Cơ sở lý luận:
- Vận dụng học thuyết HTKT-XH vào phân tích XHTB C.Mác đã vạch ra quy luật
vận động và phát triển của xã hội và đi đến dự báo về sự ra đời của HTKT-XH CSCN
cao hơn TBCN.
- V.Lênin khẳng định: Mỗi dân tộc có thể bỏ qua một hoặc một số HTKT-XH để
tiến tới HTKT-XH cao hơn khi có các điều kiện sau:
1. HTKT-XH bị bỏ qua đã lỗi thời
2. HTKT-XH tiến bộ hơn đã xuất hiện trên thế giới
3. Dân tộc đó có một Đảng tiên phong lãnh đạo
* Cơ sở thực tiễn:
- Trong lịch sử đã có những dân tộc bỏ qua một vài hình thái kinh tế - xã hội nào đó
để tiến lên hình thái kinh tế - xã hội cao hơn.
- Chủ nghĩa xã hội đã hình thành và phát triển từ sau cách mạng tháng mười Nga.
- CNTB đã điều chỉnh để thích nghi. Tuy nhiên những mâu thuẫn trong lòng xã hội
đó ko mất đi mà chỉ đi vào chiều sâu. Điều này quyết định sự thay thế XH đó = một
XH tiến bộ hơn – CSCN. Vì vậy việc lựa chọn con đường XHCN là phù hợp với xu
thế của thời đại và của nước ta
15
- CNXH mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ, con
người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, làm theo năng kực hưởng theo lao động,
có c.sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân
tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ, có quan hệ hợp tác
hữu nghị với các dân tộc khác. Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”
- Xây dựng CNXH bỏ qua TBCN là một sự nghiệp khó khăn và phức tạp nên phải
trải qua thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường nhiều hình thức ttổ chức kinh
tế có tính chất quá độ
+ Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
- Kinh tế thị trường là thành tựu chung của nền văn minh nhân loại, là kết quả của
sự phát triển LLSX đồng thời thúc đảy LLSX phát triển. Sự khác nhau giữa kinh tế
thị trường TBCN với kinh tế thị trường XHCN (mục đích)
- Ở V.Nam kinh tế thị trường là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần KT trong đó KT nhà nước nắm vai trò chủ
đạo. Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa không tách rời vai trò quản lý của nhà nước
xã hội chủ nghĩa.
+ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá với sự nghiệp xây đựng XHCN ở nước ta
- Tiến lên CNXH cái thiếu nhất ở nước ta là một LLSX hiện đại
- Công nghiệp hoá ở V.Nam là phải gắn với hiện đại hoá
- Nền tảng của CNH, HĐH là giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ.
+ Kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội
- Kinh tế giữ vai trò quyết định chính trị: Kinh tế là nội dung vật chất của chính
trị , còn chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Nói cách khác, tính chất xã hội,
giai cấp của chính trị bao giờ cũng phản ánh tính chất xã hội và giai cấp của cơ sở hạ
tầng => sự biến đổi căn bản của kinh tế => sự biến đổi căn bản của chính trị
- Sự tác động trở lại của chính trị đối với kinh tế được biểu hiện tập trung ở quyền
lực nhà nước và sức mạnh vật chất tương ứng. Nhà nước có tác dụng quyết định năng
lực hiện thực hoá những tất yếu kinh tế.
- Gắn với phát triển kinh tế là đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo
của Đảng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân
- Phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nhằm ko ngừng nâng cao
đời sống tinh thần cho ND
- Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí đào tạo nhân tài. Giải quyết
tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội.
2.3. Kết luận:
16
Phạm trù HTKT-XH đạt có sở phương pháp luận nghiên cứu khoa học để
nghiên cứu tất cả cá mặt của xã hội. Phạm trù đó chẳng những chỉ ra bản chất của
một xã hội cụ thể, phận biệt chế độ xã hội này với chế độ xã hội khác, mà còn thấy
tính lặp lại, tính liên tục của mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất và sinh hoạt xã hội ở những xã hội khác nhau. Như thế, phạm trù hình thái KT-
XH cho phép nghiên cứu xã hội cả về mặt loại hình và mặt lịch sử.
- Về mặt loại hình: Nó xem xét đời sống xã hội ở một giai đoạn phát triển lịch
sử nhất định, coi xã hội như một cấu trúc thống nhất tương đối ổn định, đang vận
động trong chính hình thái ấy.
- Về mặt lịch sử: Nó xem xét sự hình thành của một HTKT-XH nhất định,
nghiên cứu hình thái ấy trong sự vận động, bước quá độ, sự chuyển tiếp, sự thay thế
bởi một HTKT-XH cao hơn.
VI. QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI – CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN TẤT
YẾU CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM.
1. Nhận thức lại về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ.
a. Tại sao phải nhận thức lại?
+ Dựa trên sự phân tích trực tiếp những mâu thuẫn cơ bản của CNTB trong
giai đoạn đầu, đặc biệt là mâu thuẫn giữa LLSX và QHSXTBCN, dựa vào triển vọng
của phong trào công nhân Mác và Ăngghen đã đưa ra dự đoán về sự phát triển của xã
hội loài người trong tương lai là tất yếu tiến tới HTKT-XH CSCN mà giai đoạn đầu
là CNXH. Trong dự đoán khoa học của mình, Mác và Ăngghen đã đua ra phác họa về
những đường nét chủ yếu của xã hội tương lai ấy: LLSX mang tính xã hội hóa cao,
xã hội điều tiết và trao đổi sản phẩm một cách có kế hoạch, mọi sự phân chia giai cấp
và áp bức giai cấp bị xoa bỏ, sản xuất được tiến hành trên chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất, con người được phát triển do những năng lực cá nhân của mình. Những
phác họa ấy là rất quý báu nhưng cũng chỉ là sự phác họa chủ yếu, chưa đầy đủ, cần
pahir tiếp tục bổ sung hoàn thiện. V.I.Lênin đã từng chỉ rõ “Chúng ta không hề coi lý
luận của Mác như những gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta
tin răng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người XHCN phải
phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn lạc hậu với cuộc sống”.
+ Mác và Ăngghen đã từng lưu ý về xây dựng CNCS: “CNCS không phải là
một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải
khuôn theo. Chúng ta gọi CNCS là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ mọi trạng
thái hiện nay. Những điều kiện của phong tròa ấy là kết quả của những tiền đề hiện
đang tồn tại”.
17
+ Thực tiến xây dựng CNXH trong những năm trước đây:
- Trong nhiều năm trước đây, lý luận về CNXH không những không được bổ
sung, phát triển cho phù hợp với sự biến đổi của thực tiễn mà lại được giải thích một
cách máy móc, giáo điều và được áp dụng một cách dập khuôn, làm cho CNXH hiện
thực ở nhiều nước bị biến dạng, dẫn đến khủng hoảng, tan rã. Hậu quả đó do nhiều
nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan: Chúng ta chưa có sự phân
biệt rõ các giai đoạn xây dựng CNXH, chưa phân biệt rõ CNXH với thời kỳ quá độ
lên CNXH, chua có sự nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật về sự phù hợp của
QHSX với LLSX và hệt hống các quy luật khách quan. Tóm lại đó là những sai lầm
thuộc về chủ quan, duy ý chí.
- Thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại CNXH, tiến hành đổi mới một
cách toàn diện, sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn của CNXH.
b. Về thời kỳ quá độ lên CNXH.
2. Những quan điểm và phương pháp luận xuất phát để xây dựng CNXH ở nước
ta.
VI. PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM.
1. Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
1.1. Sự tồn tại khách quan và ý nghĩa của việc phát triển kinh tế hàng hóa, kinh tế
thị trường.
a. Khái niệm
Kinh tế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế phát triển cao của kinh tế
hàng hoá trong đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều được
thực hiện qua thị trường.
+ Phân biệt kinh tế thị trường với kinh tế hàng hóa:
KTTT KTTT hỗn hợp
KTTT có sự điều tiết o
f
N.nước
KTTT tự do cạnh tranh.
Các quan hệ KT đều được
thực hiện trên thị trường
thông qua trao đổi mua bán
KTHH xuất hiện vào thời kỳ tan dã của chế độ công xã nguyên thủy do:
- Phân công lao động xã hội.
- Sự xuất hiện của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
Khi kinh tế hàng hóa ra đời thì thị trường cũng ra đời và phát triển theo. Khi
thị trường phát triển hoàn chỉnh, đồng bộ thống nhất trong cả nước và gắn liền với
thị trường nước ngoài thì kinh tế thị trường xuất hiện. KTHH và KTTT giống nhau
về bản chất (thông qua trao đổi và mua bán) chỉ khác nhau về trình độ phát triển.
b. Những điều kiện để phát triển kinh tế thị trường ở nước ta
- Phân công lao động xã hội ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều
sâu đã phá vỡ tính chất tự cung tự cấp của nền kinh tế tự nhiên và thúc đảy nền
kinh tế hàng hóa phát triển, làm cho trao đổi hàng hóa trên thị trường phát triển
mạnh mẽ hơn.
18
- Sự tồn tại và phát triển của nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế và sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng về tư liệu sản xuất đã tạo
nên sự tách biệt kinh tế giữa các chủ thể kinh tế cũng là điều kiện tất yếu cho sự
tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường ở nước ta.
- Đa số các nước hiện nay trên thế giới đều phát triển theo mô hình kinh tế
thị trường vì vậy nước ta muốn hoà nhập vào nền kinh tế quốc tế cũng phải phát
triển theo mô hình kinh tế thị trường.
Kết luận: sự tồn tại và phát triển của KTTT ở Việt Nam là một tất yếu khách
quan. Tại Đại hội của Đảng lần IX đã khẳng định mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
c. Lợi ích của việc phát triển nền KT hàng hóa, KTTT ở nước ta:
- Thực hiện xã hội hóa, chuyên môn hóa lao động, từ đó thúc đảy phát triển
lực lượng sản xuất.
- Làm cho nền kinh tế nước ta phát triển năng động (kích thích tính năng
động sáng tạo của các chủ thể kinh tế).
- Sản phẩm xã hội ngày càng phong phú (kích thích việc nâng cao chất
lượng cải tiến mẫu mã cũng như tăng số lượng hàng hoá dịch vụ…) đáp ứng được
nhu cầu đa dạng của nhân dân.
- Đào tạo được những người sản xuất, kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ
cán bộ quản lý có trình độ cao, lao động lành nghề đáp ứng được nhu cầu phát
triển của đất nước.
1.2. Đặc điểm kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
a. Nền kinh tế thị trường còn ở trình độ kém phát triển
- Nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế hàng hoá kém
phát triển mang nặng tính tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá phát triển từ
thấp đến cao.
- Biểu hiện của nền kinh tế hàng hoá kém phát triển:
+ Kết cấu hạ tầng vật chất và xã hội ở nước ta còn ở trình độ thấp. Trình độ
công nghệ lạc hậu (2/7 của thế giới); máy móc cũ kỹ (2-3 thế hệ, có lĩnh vực 4-5
thế hệ); quy mô sản xuất nhỏ bé; năng suất lao động chỉ = 30% mức trung bình của
thế giới; giao thông, thông tin liên lạc lạc hậu.
+ Cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả. Cơ cấu kinh tế nước ta
còn mang nặng đặc trưng của một cơ cấu kinh tế nông nghiệp (Nông nghiệp sử
dụng gần 70% lực lượng LĐ nhưng chỉ tạo ra khoảng 26% GDP); các ngành kinh
tế công nghệ cao chưa phát triển, chiếm tỷ trọng thấp
+ Chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó (có cấu thị trường chưa đầy đủ;
thị trường tiền tệ, vốn chưa phát triển; chưa có thị trường sức lao động theo đúng
nghĩa).
+ Thu nhập quốc dân và thu nhập bình quân đầu người còn thấp, do đó sức
mua hàng hoá còn thấp, tỷ suất hàng hoá chưa cao.
+ Còn chịu ảnh hưởng lớn của mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp.
b. Nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà
nước giữ vai trò chủ đạo.
- Mỗi thành phần kinh tế có bản chất kinh tế khác nhau, chịu sự tác động của
các quy luật kinh tế khác nhau, do đó bên cạnh tính thống nhất của các thành phần
19
kinh tế chúng còn khác nhau và mâu thuẫn khiến cho nền kinh tế thị trường ở nước
ta có khả năng phát triển theo những phương hướng khác nhau.
- Vì vậy một mặt khuyến khích làm giàu chính đáng của các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế, Nhà nước phải sử dụng nhiều biện pháp để ngăn
chặn và hạn chế những tiêu cực,những khuynh hướng tự phát, hướng sự phát triển
của các thành phần kinh tế này theo định hướng XHCN.
c. Nền kinh tế thị trường phát triển theo cơ cấu kinh tế “mở”.
Đây là xu hướng phát triển tất yếu của các quốc gia trên thế giới. Vì vậy,
cần chủ động hội nhập, chuẩn bị tốt để chủ động tham gia vào khu vực hóa và toàn
cầu.
d. Nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa với sự quản
lý vĩ mô của nhà nước.
Đây là đặc điểm cơ bản nhất của KTTT ở nước ta, là sự khác biệt so với nền
sản xuất hàng hóa giản đơn cũng như so với nền kinh tế thì trường ở các nước tư
bản chư nghĩa. Đặc điểm này cũng chính là mô hình kinh tế khái quát trong thời
kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
1.3. Đặc trưng chủ yếu của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta một mặt vừa có những tính chất
chung của nề KTTT, mặt khác lại được dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối
bởi nguyên tắc và bản chất của CNXH. Do đó, nó có những đặc trưng cơ bản sau:
* Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
- Phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất
- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
- Nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân lao động và mọi thành
viên trong xã hội.
- Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn với xây dựng QHSX mới phù
hợp trên cả ba mặt:
+ Về sở hữu: phát triển theo hướng còn tồn tại các hình thức sở hữu khác
nhau, nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo.
+ Về quản lý (cơ chế vận hành): cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của
Nhà nước.
+ Về phân phối: thực hiện nhiều hình thức phân phối, trong đó phân phối
chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối
theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông
qua phúc lợi xã hội.
* Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nước ta còn
thể hiện ở chỗ tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hoá, giáo dục, xây
dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
1.4. Những giải pháp để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam.
- Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần.
- Mở rộng phân công lao động, phát triển kinh tế vùng, lãnh thổ, tạo lập
đồng bộ các yếu tố thị trường.
20
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp, đổi mới các
chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả.
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô, đào tạo đội ngũ
cán bộ quản lý kinh tế và các nhà kinh doanh giỏi.
- Thực hiện chính sách đối ngoại có lợi cho phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Vai trò của Nhà nước và các công cụ quản lý vĩ mô đối với kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam.
Mô hình KTTT tự do cạnh tranh (trương phái kinh tế chính trị tư sản cổ điển)
xem nhẹ vai trò của nhà nước, nhà nước chỉ là người đúng bên ngoài quá trình kinh
tế, điều tiết quá trình kinh tế thông qua luật pháp… mô hình này thất bại trước những
căn bệnh nan giải của KTTBCN: khủng hoảng, thất nghiệp…
Mô hình kinh tế có sự quản lý của nhà nước (Keynes, mô hình kinh tế chỉ huy
của các nước XHCN sau khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933) đề cao vai trò của nhà
nươc, xem nhẹ vai trò điều tiết của thị trường. Keynes: nhà nước phải can thiệp sâu
vào kinh tế thông qua các chính sách tác động và tổng cầu, chính sách tài chính, tín
dụng, tạo việc làm…
Mô hình kinh tế chỉ huy: nhà nươc quản lý bằng mệnh lệnh hành chính, can
thiệp sâu vào hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp, quản lý bằng chế độ cấp pháp
và giao nộp sản phẩm… Mô hình kinh tế này có nhiều khuyết tật nên không giải
quyết được khủng hoảng, thất nghiệp ở các nước tư bản chủ nghĩa. Còn ở các nước
XHCN thì kinh tế trì trệ, không phát triển.
Mô hình kinh tế hỗn hợp: Samuelsonphát: nền kinh tế phải dựa vào cả “hai bàn
tay” là cơ chế thị trường và nhà nước, “điều hành nền kinh tế mà không có chính phủ
và thị trường thì cũng như vỗ tay bằng một bàn tay”.
Cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó, cá nhân người tiêu
dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn nhau thông qua thị trường để xác định ba
vấn đề cơ bản: sản xuất cái gì? Như thế nào? Cho ai? CCTT là cơ chế tự điều tiết thị
trường do tác động của những quy luật kinh tế vốn có của nó; giá trị, cung cầu, cạnh
tranh… mặt tích cực – mặt tiêu cực → sự quản lý, điều tiết của nhà nước. Ngược lại,
nhà nước cũng có những sai lầm chủ quan → Cần phải kết hợp cả hai → Mô hình
KTTT hỗn hợp.
Ở Việt Nam mô hình kinh tế chỉ huy có ưu điểm là tập trung được các nguồn
lực thực hiện những mục tiêu chủ yếu (chống Mỹ) nhưng lại có hạn chế thủ tiêu cạnh
tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học kỹ thuật, triệt tiêu các động lực kinh tế… Đảng ta
21
chủ trương đổi mới kinh tế, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.
2.1. Vai trò của Nhà nước đối với kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam.
Sự điều tiết vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế TT là nhằm phát huy ưu
thế của CCTT và hạn chế những khuyết tật của nó, thực hiện định hướng XHCN và
kết hợp phát triển kinh tế với tiến bộ xã hội. Vai trò điều tiết đó được thể hiện
- Thông qua qua trình tác động đối với nền kinh tế, Nhà nước một mặt kiểm
soát và hỗ trợ sự phát triển của nền kinh tế; mặt khác điều chỉnh cơ cấu và thúc
đảy tiến bộ xã hội.
- Cơ chế tác động của Nhà nước vào nền kinh tế với 3 tư cách chủ yếu sau:
+ Người lập kế hoạch: Nhà nước tác động một cách trực tiếp vào phương
hướng đầu tư và phát triển kinh tế, lấy thị trường làm đối tượng của kế hoạch hóa
(khác trước: KHH dựa trên chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, bằng hiện vật).
Với tư cách là người lập kế hoạch, Nhà nước đề ra mục tiêu phát triển, những
hướng ưu tiên cho các ngành kinh tế; phát hiện ra những tồn tại cần khắc phục;
định hướng hoạt động cho các doanh nghiệp, các thành viên trong xã hội; tạo
những ràng buộc chặt chẽ giữa các cơ quan chính phủ trong thực hiện những
phương hướng, kế hoạch đề ra.
+ Người điều chỉnh: Về kinh tế nhà nước tạo điều kiện, môi trường hoạt
động cho các doanh nghiệp, hỗ trợ để phát triển các lĩnh vực cần ưu tiên (phát
triển nông nghiệp: chính sách trợ giá hàng nông sản)
Về xã hội: Nhà nước điều chỉnh phân phối lần đầu và
phân phối lại của cải xã hội.
+ Người kinh doanh: Nhà nước trực tiếp tham gia vào hoạt động kinh doanh
trong một số ngành, lĩnh vực sản xuất hàng hóa, dịch vụ công cộng, phát triển kết
cấu hạ tầng, khai thác những ngành mới, từ đó tạo hiệu quả lan truyền đến khu vực
kinh tế tư nhân.
2.2. Vai trò của các công cụ quản lý vĩ mô đối với kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam.
a. Kế hoạch và thị trường: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đòi hỏi kết
hợp hai công cụ quản lý chủ yếu là kế hoạch với thị trường, trong đó:
- Thị trường là căn cứ, là đối tượng và là công cụ kế hoạch hóa.
- Còn kế hoạch định hướng là chủ yếu, sử dụng các đòn bảy kinh tế và lực
lượng vật chất trong tay Nhà nước để đảm bảo các tỷ lệ cân đối trong nền kinh tế
quốc dân.
b. Xây dựng kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể hoạt động có hiệu quả:
- Kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể có vai trò quyết định nhất đối với việc
quản lý nền kinh tế thị trường nhiều thành phần phát triển theo định hướng XHCN.
- Các thành phần kinh tế này có vai trò mở đường và hỗ trợ các thành phần
khác phát triển theo định hướng XHCN.
- Nhờ các thành phần kinh tế này mà Nhà nước có sức mạnh vật chất để Nhà
nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế
22
c. Hệ thống pháp luật: Bao gồm các bộ luật:
* xác định chủ thể pháp lý: quy định các quyền và hoạt động mang tính
thống nhất.
* quy định các quyền về kimh tế: quyền sở hữu, quyền sử dụng
* về hợp đồng kinh tế: các nguyên tắc cơ bản của luật hợp đồng kinh tế.
* về sự đảm bảo của Nhà nước đối với các điều kiện chung của nền kinh tế:
có các luật bảo hộ lao động, luật môi trường, bảo hiểm xã hội
* luật kinh tế đối ngoại: phù hợp với thông lệ quóc tế.
d. Các công cụ của chính sách tài chính:
- Chính sách tài chính là việc chính phủ sử dụng chi tiêu và thuế để điều tiết
mức chi tiêu chung của nền kinh tế hướng nền kinh tế vào mức sản lượng và việc
làm mong muốn.
- Các công cụ cúa chính sách tài khóa:
+ thuế;
+ chi tiêu Chính phủ.
e. Các công cụ của chính sách tiền tệ:
- Chính sách tiền tệ là việc Chính phủ sử dụng mức cung tiền và lãi suất tác
động vào đầu tư tư nhân hướng nền kinh tế vào mức sản lượng và việc làm mong
muốn.
- Các công cụ của chính sách tiền tệ:
+ mức cung ứng tiền;
+ lãi suất.
g. Các công cụ điều tiết kinh tế đối ngoại:
- Mục tiêu của chính sách kinh tế đối ngoại là: khuyến khích xuất nhập
khẩu, bảo hộ một cách hợp lý nền sản xuất nội địa, nâng cao sức cạnh tranh, thu
hút vốn đầu tư nước ngoài
- Các công cụ của chính sách kinh tế đối ngoại:
+ thuế suất;
+ hạn ngạch (quota);
+ tỷ giá hối đoái;
+ tín dụng và trợ cấp xuất khẩu.
VII. TÍNH TẤT YẾU VÀ TÁC DỤNG CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI
HÓA.( Lưu ý: Cơ sở lý luận của công nghiệp hóa hiện đại hóa là phát triển lực
lượng sản xuất
1. Khái niệm CNH - HĐH và tính tất yếu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
a. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Khái quát các mô hình CNH diễn ra trong lịch sử để rút ra khái niệm CNH
CNH TBCN và CNH XHCN
+ Giống nhau: về LLSX, khoa học và công nghệ
+ Khác nhau: về mục đích, phương thức tiến hành và sự chi phối của quan hệ
sản xuất thống trị
Theo nghĩa chung nhất, CNH là quá trình biến một nước có nền kinh tế lạc hậu
thành một nước công nghiệp.
Quan niệm của Đảng ta: CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện
các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức
23
lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công
nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sụ phát triển của công
nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Quan niệm về CNH, HĐH mà Đảng ta đưa ra trên đây có những điểm mới so
với các quan niệm trước đó:
+ Phạm vi CNH, HĐH rộng lớn, bao trùm các ngành, các lĩnh vực từ sản xuất
kinh doanh, dịch vụ đên quản lý kinh tế - xã hội, không bó hẹp trong lĩnh vực sản
xuất kinh doanh như trước.
+ Chỉ ra cốt lõi của CNH, HĐH là chuyển từ lao động thủ công sang sử dụng
các phương tiện, phương pháp tiến hiện đại cùng với kỹ thuật và công nghệ cao chứ
không phải thành lao động cơ khí như quan như quan niệm trước đây.
b. Tính tất yếu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Do yêu cầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH.
Mỗi phương thức sản xuất chỉ có thể được xác lập một cách vững chắc trên cơ
sở vật chất kỹ thuật tương ứng.
+ Cơ sơ vật chất - kỹ thuật của một xã hội là toàn bộ hệ thống các yếu tố vật
chất của lực lượng sản xuất phù hợp với trình độ kỹ thuật tương ứng mà LLLĐ xã hội
sử dụng để sản xuất ra của cải vật để thỏa mãn nhu cầu của xã hội.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật của các phương thức trước CNTB nền sản xuất nông
nghiệp dựa trên công cụ thủ công lạc hậu, NSLĐ thấp.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNTB là nền nông nghiệp cơ khí hóa tạo được
năng suất lao động cao hơn so với các phương thức SX trước đó nên nó đã chiến
thắng được các PTSX đó. Với quá trình thực hiện CNH, chủ nghĩa tư bant đã tạo ra
NSLĐ cao, làm biến đổi cản bản bộ mặt nền kinh tế thế giới. Trong khoảng 100 năm
(1760 - 1870) CNTB đã tạo ra lượng của cải mà cả loài người trong toàn bộ lịch sử
trước đó không tạo ra được. Trong vòng 200 năm (thế kỷ 18-19) sản lượng công
nghiệp tăng 182 lần. Thương mại quốc tế tăng 100 lần.
Như vậy, CNXH muốn thắng CNTB thì phải tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật có
năng suất lao động cao hơn nhiều. Cơ sở vật chất của CNXH là gì? Lênin: là nền đại
công nghiệp cơ khí.
Nay do tác động của CM khoa học công nghệ nên nó không phải là nền đại
công nghiệp cơ khí nữa.
+ Cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH là nền công nghiệp lớn, hiện đại, có cơ
cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xa hội hóa cao dựa trên trình độ khoa học công nghệ
hiện đại hình thành một cách có kế hoạch và thống trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc
dân.
Để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật có trình độ như vậy tất yếu phải thực
hiện CHN, HĐH nền kinh tế quốc dân là nhiệm vụ có tính chất quy luật của thời kỳ
quá độ lên CNXH.
Đối với những nước quá độ từ CNXH lên CNXH mới có những tiền đề vật
chất chứ chưa có cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH. Do đó, cần phải tiếp tục thực
hiện cách mạng XHCN về QHSX, tiếp thu,vận dụng và phát triển cao hơn những
thành tựu khoa học công nghệ, hình thành cơ cấu kinh tế mới
Nước ta quá độ lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, LLSX chưa phát
triển, QHSX xã hội chủ nghĩa mới được thiết lập chưa hoàn thiện thì càng cần thiết
phải thực hiện CNH, HĐH để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH.
24
2. Tác dụng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ có những
tác dụng to lớn về nhiều mặt trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước:
- Tạo điều kiện thay đổi về vật chất của nền sản xuất xã hội, tăng NSLĐ, tăng
trưởng và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân, ổn định kinh tế, chính
trị, xã hội, góp phần quyết định cho sự thắng lợi của CNXH.
- Tạo điều kiện cho việc củng cố, tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước,
nâng cao khả năng tích lũy từ đó phát triền sản xuất, tạo việc làm, nâng cao thu nhập
cho người dân
- Tạo điều kiện thuận lợi cho khoa học, công nghệ phát triển nhanh đạt trình độ
tiên tiến hiện đại; tăng cường lực lượng vật chất - kỹ thuật cho quốc phòng, an ninh;
xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đủ sức thực hiện sự phân công và hợp tác quốc
tế.
VIII. ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁCH MẠNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HIỆN ĐẠI
VÀ VẤN ĐỀ CNH - HĐH Ở VIỆT NAM.
1. Đặc điểm cơ bản của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và sự
hình thành nền kinh tế tri thức.
a. Đặc điểm của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại.
Đến nay, thế giới đã trải qua 2 cuộc cách mạng kỹ thuật:
Cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất diễn ra đầu tiên ở Anh ( cuối thế kỷ XVIII -
giữa thế kỷ XX) với nội dung chủ yếu là cơ khí hóa, thay thế lao động thủ công bằng
lao động sử dụng máy móc.
Cách mạng kỹ thuật lần II hay cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại (giữa
thế kỷ XX - nay) có 5 nội dung chủ yếu sau (Phân tích):
+ Tự động hóa: sử dụng ngày càng nhiều máy tự động quá trình, máy công cụ
điều khiển bằng số, rô bốt.
+ Năng lượng: ngoài những dạng năng lượng truyền thống, đã và đang chuyển
sang các dạng năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời, sức gió
Carlo Rubbia - được giải thưởng Nobel vật lý đã đưa ra giải pháp “khuếch đại
năng lượng”. Theo giải pháp này, phản ứng nhiệt hạch luôn luôn xảy ra dưới nhiệt độ
tới hạn nên rất an toàn không bao giờ xảy ra các vụ nổ như Chernobưn (Liên Xô cũ),
nguyên liệu được tận dụng không có phế thải.
+ Vật liệu mới: có nhiều chủng loại phong phú với những tính chất đặc biệt mà
tự nhiên không có được như: vật liệu tổ hợp (Composit), gốm Zincôn, cácbuasilích
chịu nhiệt cao
Công nghệ nanô (nanotechnology) có thể thao tác vật liệu ở kích thước nhỏ
hơn 100 nanomet (1 nano = 1/1 triệu mm) cho phép chế tạo ra những vật liệu mới có
thành phần có đặc tính riêng biệt theo yêu cầu trên cơ sở tách các vật liệu thành các
nguyên tử rồi sau đó lắp ráp chúng lại thành các sản phẩm như các thiết bị lắp ráp
phân tử của công nghệ nanô. Ví dụ: từ vật liệu là carbon người ta chế tạo ra những
ống” carbon” với đường kính khoảng 0,1 -0,2 micrromet thành của nó dày khoảng
vài chục nanômet. Từ những đó tạo ra những vật liệu mới mà so với thép nhẹ hơn
7lần, cường độ chịu lực hơn 400 lần. Loại vật liệu này được sử dụng trong chế tạo
máy bay, rôbốt tí hon, máy tính siêu nhỏ,
25