Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

tiểu luận về hủy phán quyết trọng tài tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 45 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ LUẬT
KHOA LUẬT



MÔN HỌC: [LUẬT THƯƠNG MẠI 3] PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN
VÀ TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI
ĐỀ TÀI: HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI TẠI VIỆT NAM.
THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ.








GVHD : Th.S Nguyễn Ngọc Thứ
NHÓM THỰC HIỆN : NHÓM 8
LỚP : K12504_Luật Tài chính-Ngân hàng
Tp.HCM,ngày 02 tháng 11 năm 2014.

Trang 2 | 45



[Nhóm 8] Hủy phán quyết trọng tài tại Việt Nam. K12504_Luật Tài chính-Ngân hàng.
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 8

STT
HỌ VÀ TÊN


MSSV
1
Trương Thị Trang Anh
K125042018
2
Trịnh Thị Công
K125042023
3
Trần Thị Mỹ Duyên
K125042029
4
Hoàng Thị Thanh Hiền
K125042044
5
Nguyễn Thị Thanh Hiền
K125042045
6
Nguyễn Thị Kim Hoa
K125042048
7
Trần Thị Phương Hoa
K125042049
8
Nguyễn Thị Khánh Huyền
K125042055
9
Nguyễn Thị Thu Hương
K125042058
10
Nguyễn Phượng Liên

K125042064
11
Bùi Thị Thu Sương
K125042101
12
Lê Thị Bảo Trâm
K125042123

Nhóm trưởng: Nguyễn Thị Khánh Huyền
MSSV: K125042055
SĐT: 01633.842.215
Email:












Trang 3 | 45



[Nhóm 8] Hủy phán quyết trọng tài tại Việt Nam. K12504_Luật Tài chính-Ngân hàng.
MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU 6
1.1 Đặt vấn đề: 6
1.2 Mục tiêu nghiên cứu: 7
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 7
1.4 Phương pháp nghiên cứu: 7
1.5 Tổng quan tình hình nghiên cứu: 8
1.6 Ý nghĩa và thực tiễn nghiên cứu: 9
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG 10
2.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI: 10
2.1.1 Khái niệm phán quyết trọng tài: 10
2.1.2 Ban hành và yêu cầu đối với phán quyết trọng tài: 11
2.1.2.1 Ban hành phán quyết trọng tài: 11
2.1.2.2. Yêu cầu đối với phán quyết trọng tài: 12
2.1.3 Đăng ký phán quyết trọng tài: 14
2.1.4 Chỉnh sửa, giải thích, bổ sung phán quyết trọng tài: 16
2.1.5 Tính chung thẩm và hiệu lực thi hành của phán quyết trọng tài: 18
2.2 CĂN CỨ, THỦ TỤC VÀ HẬU QUẢ CỦA HỦY PHÁN QUYẾT
TRỌNG TÀI: 18
2.2.1 Căn cứ hủy phán quyết trọng tài: 18
2.2.1.1 Một số lưu ý về căn cứ hủy phán quyết trọng tài: 19
2.2.1.2 Các căn cứ hủy phán quyết trọng tài: 22
2.2.2 Thủ tục và hậu quả pháp lý của hủy phán quyết trọng tài: 25
2.2.2.1 Thủ tục hủy phán quyết trọng tài: 26
2.2.2.2 Hậu quả pháp lý của hủy phán quyết trọng tài: 29
2.3 THỰC TRẠNG HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI TẠI VIỆT NAM
VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP: 31
2.3.1 Thực trạng hủy phán quyết trọng tài tại Việt Nam: 31
Trang 4 | 45




[Nhóm 8] Hủy phán quyết trọng tài tại Việt Nam. K12504_Luật Tài chính-Ngân hàng.
2.3.2 Kiến nghị giải pháp nâng cao tính bắt buộc của phán quyết trọng tài
tại Việt Nam: 35
CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN 42
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
Trang 5 | 45



[Nhóm 8] Hủy phán quyết trọng tài tại Việt Nam. K12504_Luật Tài chính-Ngân hàng.
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BLTTDS Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa
đổi, bổ sung 2011
TTTM Trọng tài thương mại
LTTTM Luật trọng tài thương mại năm 2010
PLTTTM Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003
TTV Trọng tài viên
HĐTT Hội đồng trọng tài
PQTT Phán quyết trọng tài
VKSND ( VKSNDTC) Viện kiểm soát nhân dân (Viện kiểm sát
nhân dân tối cao)
Trang 6 | 45



[Nhóm 8] Hủy phán quyết trọng tài tại Việt Nam. K12504_Luật Tài chính-Ngân hàng.

CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU
1.1 Đặt vấn đề:
Có thể nói, nền kinh tế Việt Nam sau quá trình hội nhập Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) đang có chiều hướng tiến triển và phát triển vượt bậc.
Chính vì thế, ngày càng có nhiều doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh
ra đời dẫn đến việc phát sinh tranh chấp, cạnh tranh nhau là điều không thể
tránh khỏi. Một trong những công cụ giúp “gỡ bỏ nút thắt” hiệu quả nhất đó là
Tòa án. Bên cạnh đó, còn có phương thức giải quyết tranh chấp bằng TTTM –
một công cụ không kém phần tối ưu. Tuy nhiên, thực tế đã được chứng minh
qua hai cuộc thống kê sau:
Theo thống kê của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC), trong
khi Toà kinh tế Hà Nội trong năm 2007 phải xử gần 9.000 vụ án, trong đó có
khoảng 300 vụ án kinh tế và Toà kinh tế thành phố Hồ Chí Minh phải xử gần
42.000 vụ án các loại, trong đó có 1.000 vụ án kinh tế, thì VIAC cũng chỉ tiếp
nhận khoảng 30 vụ . Tính trung bình mỗi trọng tài viên của VIAC chỉ xử 0,25
vụ một năm, trong khi mỗi thẩm phán Toà kinh tế Hà Nội phải xử trên 30 vụ
một năm và mỗi thẩm phán ở Toà kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh xử trên 50
vụ một năm
1
.
Theo thống kê năm 2007 về giải quyết các vụ tranh chấp về dân sự, kinh
doanh, thương mại và lao động, thì Toà án các tỉnh đã thụ lý 108.060 vụ; đã xử
lý được 80.773 vụ. Ngoài ra, có 1.280 vụ được kháng cáo lên Toà án nhân dân
tối cao. Những con số này ngoài việc cho thấy sự phổ biến việc xử lý các tranh
chấp bằng Toà án còn cho thấy phần nào sự quá tải của hệ thống Toà án
1

Qua đó, các số liệu trên cho thấy việc giải quyết tranh chấp thông qua
TTTM không được đề cao mặc dù trong thực tế phương thức giải quyết tranh
chấp này có nhiều tính năng ưu việt, bên cạnh Tòa án thì hơn hẳn các phương



1
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và cơ chế hỗ trợ của Tòa án,

Trang 7 | 45



[Nhóm 8] Hủy phán quyết trọng tài tại Việt Nam. K12504_Luật Tài chính-Ngân hàng.
thức như thương lượng, trung gian, hòa giải… Hơn thế nữa, đa phần các vụ
tranh chấp thường tin cậy giải quyết ở Tòa án hơn là ở TTTM. Vậy nguyên
nhân là do đâu?
Bởi lẽ, như thực trạng ngày nay, việc hủy phán quyết trọng tài một phần
cũng do quá tùy tiện và dễ dàng nên các bên tranh chấp dần mất niềm tin vào
phương thức giải quyết này. Với đề tài “ Hủy phán quyết trọng tài tại Việt
Nam. Thực trạng và giải pháp” sẽ cho chúng ta một cái nhìn tích cực về việc
lựa chọn phương thức giải quyết bằng TTTM và hơn thế là nâng cao uy thế của
trọng tài trong những vụ giải quyết tranh chấp bởi những tính năng ưu việt của
nó.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu:
So với phương thức giải quyết bằng Tòa án nhận được nhiều sự ưu tiên
lựa chọn từ các bên tranh chấp thì phương thức giải quyết thông qua TTTM dần
mất ưu thế. Bài tiểu luận sẽ nghiên cứu một cách khoa học, phân tích, làm rõ để
tìm ra những nguyên nhân, bất cập của Hủy phán quyết trọng tài. Từ đó, đề xuất
kiến nghị nâng tầm ưu thế cho phương thức giải quyết tranh chấp bằng TTTM.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng: Bài tiểu luận tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật
về căn cứ, thủ tục, hậu quả của Hủy phán quyết trọng tài và thông qua thực tiễn
để nên lên tính ứng dụng hiện nay của phương thức giải quyết tranh chấp này.

Phạm vi: Với tầm quan sát và đúc kết thực tiễn còn giới hạn ở vị trí sinh
viên, bài tiểu luận chỉ tham khảo và phân tích trong một số tài liệu có liên quan,
hơn thế là đối chiếu và so sánh với quy định trong luật của một số quốc gia
khác. Từ đó, đưa một số kết luận thông qua thực tiễn để hoàn thiện bài tiểu luận.
1.4 Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu đề tài này là sự kết hợp của hai phương pháp sau:
Trang 8 | 45



[Nhóm 8] Hủy phán quyết trọng tài tại Việt Nam. K12504_Luật Tài chính-Ngân hàng.
- Phương pháp diễn dịch và quy nạp.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp.
Trên cơ sở thu thập và tổng hợp thông tin từ các tài liệu chuyên môn,các
bài luận nghiên cứu, tạp chí uy tín để có được cái nhìn tổng quát về vấn đề. Sau
đó nhóm thực hiện sử dụng phương pháp diễn dịch và phân tích để hiểu rõ hơn
về các khái niệm, nội dung cơ bản trong điều ước quốc tế, trình bày lại theo
quan điểm cá nhân dựa trên sự tôn trọng các nghiên cứu đã có.
1.5 Tổng quan tình hình nghiên cứu:
Trong bài tiểu luận này, nhóm thực hiện cũng đã có cơ hội tham khảo
nhiều những nguồn tài liệu, bài viết có liên quan đến vấn đề này. Nhóm thực
hiện xin giới thiệu một số nguồn tâm đắc sau:
Thứ nhất, cuốn sách “Trọng tài và các phương thức giải quyết tranh
chấp lựa chọn: Giải quyết tranh chấp thương mại như thế nào?” của Trung
tâm thương mại trọng tài quốc tế Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia phát hành.
Đây là cuốn sách cung cấp cho người đọc một cái nhìn khách quan , toàn
diện về các vấn đề giải quyết tranh chấp thương mại bằng hình thức trọng tài.
Cuốn sách đã nhấn mạnh được vai trò của trọng tài thương mại và giới thiệu
được các hình thức trọng tại thương mại hiện nay tại Việt Nam. Về phần Hủy
phán quyết trọng tài, cuốn sách đã có sự đánh giá, so sánh việc hủy trọng tài tại

Việt Nam và một số nước trong khu vực. Tuy nhiên, cuốn sách này chưa có sự
cập nhật mới các văn bản hướng dẫn thực hiện LTTTM năm 2010.
Thứ hai, cuốn sách “Pháp luật Việt Nam về trọng tài thương mại” , sách
chuyên khảo của TS Đỗ Văn Đại- TS.Trần Hoàng Hải, NXB Thành phố Hồ Chí
Minh.
Cuốn sách này đã cung cấp những phân tích, so sánh cụ thể những điểm
mới giữa PLTTTM năm 2003 và LTTTM năm 2010. Qua đó, giúp người đọc
thấy rõ được sự cải cách và thay đổi mạnh mẽ những quy định về Trọng tài
thương mại. Đồng thời, các tác giả đã có sự dẫn dắt cụ thể từ thực tế thi hành
giúp người đọc liên hệ mật thiết với các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, kiến
thức được trình bày trong cuốn sách này quá rộng và mang tính chuyên sâu.
Trang 9 | 45



[Nhóm 8] Hủy phán quyết trọng tài tại Việt Nam. K12504_Luật Tài chính-Ngân hàng.
Người đọc phải nắm được các đặc điểm cơ bản của Trọng tài thương mại thì
mới có thể hiểu được cách viết của các tác giả.
Bên cạnh đó còn nhiều các công trình nghiên cứu, các bài viết mang tính
thời sự về vấn đề này được đăng tải trên các trang thông tin uy tín trong và
ngoài nước.
1.6 Ý nghĩa và thực tiễn nghiên cứu:
Ý nghĩa: Nhóm thực hiện đề tài này với mong muốn góp phần làm rõ
hơn về thực trạng hủy phán quyết trọng tài hiện nay tại Việt Nam. Rõ ràng
chúng ta đang tồn tại một nghịc lý: Nền kinh tế của Việt Nam đang ngày càng
hội nhập mạnh mẽ, những tranh chấp kinh doanh thương mại diễn ra trong quá
trình hội nhập này là không tránh khỏi. Nhưng tại sao, trong khi các chủ thể
kinh doanh trên thế giới ưa thích và thường xuyên xử dụng hình thức phán
quyết trọng tài thay vì phán quyến của tòa án, còn ở Việt Nam lại không? Đồng
thời, khi nghiên cứu đề tài này, nhóm thực hiện cũng có cơ hội tìm hiểu kỹ và

sâu sắc hơn về Trọng tài thương mại nói chung và Hủy phán quyết trọng tài
thương mại nói riêng. Từ đó trang bị được cho mình những kiến thức cần thiết
trong học tập và công việc sau này.
Thực tiễn nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, nhóm thực hiện đã
gặp nhiều những thuận lợi như: nguồn tài liệu phong phú; sự tích cực của các
bạn thành viên và sự hướng dẫn của Giảng viên. Tuy nhiên, vẫn còn gặp những
khó khăn về: Số liệu thực tế, xử lý kiến thức còn hạn chế. Do đó, những thiếu
sót còn tồn tại trong tiểu luận này là không thể tránh được.
Trang 10 | 45



[Nhóm 8] Hủy phán quyết trọng tài tại Việt Nam. K12504_Luật Tài chính-Ngân hàng.

CHƯƠNG 2: NỘI DUNG
2.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI:
2.1.1 Khái niệm phán quyết trọng tài:
So với PLTTTM, LTTTM đã sử dụng một thuật ngữ mới là “Phán quyết
trọng tài” bên cạnh thuật ngữ “Quyết định trọng tài”. Hai thuật ngữ này tương
ứng với hai loại quy phạm điều chỉnh khác nhau nhất là về giá trị pháp lý của
chúng.
Theo quy định tại Khoản 10 Điều 3 LTTTM, giải thích khái niệm “Phán
quyết trọng tài” là: “Phán quyết trọng tài là quyết định của HĐTT giải quyết
toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài”. Hiểu một cách
cụ thể thì “phán quyết trọng tài” chính là một bản án có giá trị chung thẩm.
Phán quyết phải là quyết định của HĐTT giải quyết vụ tranh chấp đó và được
đưa ra để giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp, điều đó cũng có nghĩa khi
Hội đổng trọng tài đưa ra phán quyết thì quá trình tố tụng trọng tài chấm dứt.
Nói cách khác, tranh chấp được giải quyết khi có phán quyết trọng tài.
Chúng ta cần có một cách hiểu chính xác để tránh nhầm lẫn với khái niệm

“quyết định trọng tài”. Theo Khoản 9, Điều 3, LTTTM: “Quyết định trọng tài
là quyết định của HĐTT trong quá trình giải quyết tranh chấp”.
Chúng ta có thể thấy phán quyết trọng tài hay quyết định trọng tài đều là
quyết định của HĐTT nhưng phán quyết trọng tài là cơ sở cho sự chấm dứt quá
trình tố tụng trọng tài thông qua việc nội dung vụ tranh chấp được giải quyết
hoàn toàn khi có phán quyết trọng tài. Trong khi đó, quyết định trọng tài là cơ
sở phát sinh thêm một số quyền và nghĩa vụ cho các đương sự trong quá trình
giải quyết vụ tranh chấp, chẳng hạn như HĐTT ra quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời đối với một bên đương sự khi có yêu cầu của bên đương sự
còn lại, trong tình huống này thì quyết định trọng tài như một biện pháp để đảm
bảo quá trình giải quyết tranh chấp diễn ra thuận lợi hơn và cho cả việc thi hành
phán quyết sau này. Khi có quyết định trọng tài thì vụ tranh chấp vẫn tiếp tục
được giải quyết, chưa chấm dứt. Đồng thời, đối với phán quyết trọng tài, tòa án
có thể hủy nếu một bên đưa ra được bằng chứng chứng minh thuộc một trong
các trường hợp được hủy. Tuy nhiên, nếu đó chỉ là một quyết định trọng tài thì
những quy định về hủy này lại không được áp dụng.Như vậy có thể thấy, giá trị
pháp lý của hai quyết định này là khác nhau.
Trang 11 | 45



[Nhóm 8] Hủy phán quyết trọng tài tại Việt Nam. K12504_Luật Tài chính-Ngân hàng.
Tại Khoản 12 điều 3 LTTTM cũng có quy định về một loại phán quyết
khác đó là Phán quyết của trọng tài nước ngoài: là “Phán quyết của trọng tài
nước ngoài là phán quyết do Trọng tài nước ngoài tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt
Nam hoặc ở trong lãnh thổ Việt Nam để giải quyết tranh chấp do các bên thỏa
thuận lựa chọn.” Trên thực tế có sự khác biệt giữa việc thi hành phán quyết của
trọng tài trong nước và phán quyết của trọng tài trọng tài nước ngoài. Với phán
quyết của trọng tài trong nước không cần thủ tục nào để công nhận, phán quyết
là ràng buộc và có giá trị thi hành mà không cần sự công nhận chính thức về

phía tòa án nếu như hiệu lực của phán quyết không bị một bên yêu cầu xem xét
lại theo thủ tục hủy phán quyết trọng tài. Ở đây, phán quyết của trọng tài trong
nước không cần qua thủ tục công nhận cho thi hành án mà được chuyển thẳng
cho cơ quan thi hành án như là một bản án của tòa án Việt Nam. Đối với phán
quyết của trọng tài nước ngoài , để được thi hành án tại Việt Nam cần thông qua
thủ tục công nhận và thi hành phù hợp với Công ước NewYork và BLTTDS.
Bên cạnh đó chúng ta cũng phải lưu ý tới phán quyết trọng tài trong trường
hợp công nhận hòa giải thành. Pháp luật Việt Nam có thủ tục hòa giải trong tố
tụng trọng tài. Nếu các bên muốn hòa giải thì TTV vẫn có thể cho tiến hành hòa
giải theo luật và nếu hòa giải thành công thì HĐTT sẽ ra phán quyết công nhận
hòa giải thành công. Nghĩa là chỉ đơn thuần ghi nhận hai bên đã đạt được hòa
giải bằng phán quyết trọng tài và phán quyết này cũng được thi hành như các
phán quyết khác.
2.1.2 Ban hành và yêu cầu đối với phán quyết trọng tài:
2.1.2.1 Ban hành phán quyết trọng tài:
Phán quyết trọng tài theo quy định của LTTTM, được quyết định đưa ra
bằng cách biểu quyết theo nguyên tắc đa số của HĐTT. Điều này được giữ
nguyên từ PLTTTM trước đây.Về cơ cấu HĐTT có thể bao gồm một hoặc nhiều
Trọng tài viên tùy vào sự thỏa thuận của các bên theo quy định tại Khoản 1,
Điều 39 LTTTM. Trong trường hợp chỉ có một TTV (TTV duy nhất) trong
HĐTT, thì việc ra phán quyết trọng tài chỉ phụ thuộc vào mỗi TTV đó.
Trường hợp, HĐTT gồm nhiều thành viên và việc đưa ra biểu quyết cho
việc ban hành phán quyết trọng tài không đạt đa số như đúng quy định. Khi đó,
ý kiến của Chủ tịch HĐTT chính là căn cứ cho việc ra phán quyết trọng tài. Đây
là một quy định hợp lý vì cuối cùng cũng phải đưa ra phán quyết và Chủ tịch
HĐTT là người do các TTV đã bầu ra. Chi tiết về việc ra quyết định trọng tài
được quy định tại Điều 60, LTTTM. Cụ thể:
Trang 12 | 45




[Nhóm 8] Hủy phán quyết trọng tài tại Việt Nam. K12504_Luật Tài chính-Ngân hàng.
“Điều 60. Nguyên tắc ra phán quyết
1. HĐTT ra phán quyết trọng tài bằng cách biểu quyết theo nguyên tắc đa số.
2. Trường hợp biểu quyết không đạt được đa số thì phán quyết trọng tài được
lập theo ý kiến của Chủ tịch Hội đồng trọng tài.”
Về thời hạn ban hành phán quyết trọng tài, sau khi HĐTT đã thống nhất
ra phán quyết trọng tài thì phán quyết trọng tài phải được ban hành ngay tại
phiên họp giải quyết tranh chấp hay nói cách khác thì HĐTT ban hành phán
quyết trọng tài ngay sau khi ra phán quyết trọng tài. Hoặc, được ban hành chậm
nhất là 30 ngày, kể từ ngày kết thúc phiên họp cuối cùng; quy định này đã được
thay đổi so với PLTTTM là 60 ngày . Cụ thể việc ban hành phán quyết trọng
tài, được quy định tại Khoản 3, Điều 61 LTTTM. “3. Phán quyết trọng tài được
ban hành ngay tại phiên họp hoặc chậm nhất là 30 ngày, kể từ ngày kết thúc
phiên họp cuối cùng.”
Việc quy định hai trường hợp về thời hạn ban hành phán quyết trọng tài
là phù hợp với thực tiễn. Khi HĐTT đã có sự chuẩn bị và thống nhất trước
phiên họp giải quyết tranh chấp thì việc ban hành ngay phán quyết trọng tài sẽ
rút ngắn thời gian giải quyết cho các bên. Ngược lại, thì thời gian 30 ngày là
phù hợp để HĐTT xem xét tranh chấp trước khi đưa ra phán quyết cuối cùng so
với 60 ngày quy định trong PLTTTM.
Phán quyết trọng tài được ban hành thì ngay sau đó phải được gửi cho các
bên. Đồng thời, các bên có quyền yêu cầu Trung tâm trọng tài hoặc HĐTT vụ
việc cấp bản sao phán quyết trọng tài. Phán quyết trọng tài có hiệu lực kể từ
ngày ban hành và có giá trị pháp lý là chung thẩm theo Khoản 5, Điều 61
LTTTM.
2.1.2.2. Yêu cầu đối với phán quyết trọng tài:
Theo quy định tại Điều 61, LTTTM, cụ thể tại Khoản 1 và 2 Điều 61 quy
định về hình thức và nội dung cùa phán quyết trọng tài
“Điều 61. Nội dung, hình thức và hiệu lực của phán quyết trọng tài

1. Phán quyết trọng tài phải được lập bằng văn bản và có các nội dung chủ yếu
sau đây:
a) Ngày, tháng, năm và địa điểm ra phán quyết;
b) Tên, địa chỉ của nguyên đơn và bị đơn;
c) Họ, tên, địa chỉ của Trọng tài viên;
Trang 13 | 45



[Nhóm 8] Hủy phán quyết trọng tài tại Việt Nam. K12504_Luật Tài chính-Ngân hàng.
d) Tóm tắt đơn khởi kiện và các vấn đề tranh chấp;
đ) Căn cứ để ra phán quyết, trừ khi các bên có thoả thuận không cần nêu căn
cứ trong phán quyết;
e) Kết quả giải quyết tranh chấp;
g) Thời hạn thi hành phán quyết;
h) Phân bổ chi phí trọng tài và các chi phí khác có liên quan;
i) Chữ ký của Trọng tài viên.
2. Khi có Trọng tài viên không ký tên vào phán quyết trọng tài, Chủ tịch HĐTT
phải ghi việc này trong phán quyết trọng tài và nêu rõ lý do. Trong trường hợp
này, phán quyết trọng tài vẫn có hiệu lực.”
Như vậy, có thể thấy phán quyết trọng tài có những yêu cầu sau:
 Về hình thức: Phán quyết trọng tài phải được lập thành văn bản và không
có hình thức nào khác ngoài văn bản.
 Về nội dung: Phán quyết trọng tài phải bao gồm các nội dung chủ yếu
theo đúng quy định tại Khoản 1, Điều 61 LTTTM.
Trong phần nội dung của phán quyết, cần chú ý đến phần quy định về chữ
ký của Trọng tài. Phán quyết trọng tài không nhất thiết phải có đầy đủ các chữ
ký của tất cả Trọng tài viên trong Hội đồng trọng tài. Chúng ta biết việc ra phán
quyết trọng tài dựa trên biểu quyết theo nguyên tắc đa số, do đó sẽ có những ý
kiến trái chiều nhau và dẫn đến việc không đồng ý với phán quyết và không ký

vào phán quyết của Trọng tài viên. Đó có thể là một trong những lý do mà quy
định pháp luật không yêu cầu phán quyết có đầy đủ chữ ký.
Nếu trong phán quyết trọng tài có Trọng tài viên không ký tên vào thì
Chủ tịch HĐTT phải ghi việc này trong phán quyết trọng tài và nêu rõ lý do.
Trong trường hợp này, phán quyết trọng tài vẫn có hiệu lực.
Một vấn đề khác đối với yêu cầu về hình thức phán quyết của trọng tài
được quy định trong điều 61. Điều 61 LTTTM quy định phán quyết trọng tài
“phải” có những hình thức, nội dung như đã nêu, vậy nếu các yêu cầu trên
không được thực hiện đúng thì hậu quả pháp lý là gì? Điều 61 đưa ra những yêu
cầu trên nhưng chưa cho thấy được hậu quả pháp lý nếu không thực hiện đúng
các quy định này. Tuy nhiên, theo điều 68 LTTTM thì một trong những trường
hợp phán quyết trọng tài bị hủy là “thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với
thoả thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật này” . Với quy định
Trang 14 | 45



[Nhóm 8] Hủy phán quyết trọng tài tại Việt Nam. K12504_Luật Tài chính-Ngân hàng.
này thì những sai sót về PQTT về hình thức mà HĐTT không khắc phục được
thì PQTT sẽ bị hủy.
2.1.3 Đăng ký phán quyết trọng tài:
Trong LTTTM thì vấn đề đăng ký phán quyết trọng tài chỉ đặt ra đối với
Trọng tài vụ việc mà không bắt buộc đối với Trọng tài quy chế. Điều này là phù
hợp với pháp luật quốc tế về trọng tài. Tính bắt buộc của việc đăng ký phán
quyết trọng tài vụ việc được giải thích là vì hai lý do sau:
Thứ nhất: Vì là Trọng tài vụ việc nên HĐTT ra phán quyết mà không có
con dấu, việc đăng ký phán quyết trọng tài sẽ giúp phán quyết tăng thêm uy tín
thông qua con dấu của tòa án. Điều này cũng phù hợp với khoản 2 Điều 66
LTTTM “Đối với phán quyết của Trọng tài vụ việc, bên được thi hành có quyền
làm đơn yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán

quyết trọng tài sau khi phán quyết được đăng ký theo quy định”. Như vậy, vì
trọng tài vụ việc không phải là một tổ chức, không có tư cách pháp nhân , cho
nên phải có đăng ký phán quyết trọng tài thì khi chuyển sang cơ quan thi hành
án dân sự mới có thể thi hành án.
Thứ hai, việc đăng ký giúp người thi hành án, người được thi hành án biết
về phán quyết trọng tài vì đối với trọng tài vụ việc thì phán quyết xong sẽ tự
động giải tán.
Tuy nhiên cũng cần nhấn mạnh , mặc dù đăng ký phán quyết trọng tài của
trọng tài vụ việc là bắt buộc nhưng việc phán quyết trọng tài này có được đăng
ký hay không đăng ký thì không ảnh hưởng đến giá trị của phán quyết.
Về cơ sở pháp lý thì việc đăng ký phán quyết trọng tài được quy định tại
điều 62 LTTTM, điều 13 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành
một số quy định LTTTM của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao. Cụ
thể:
 Phán quyết của Trọng tài vụ việc được đăng ký tại Tòa án nơi HĐTT đã
ra phán quyết trước khi yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm
quyền tổ chức thi hành phán quyết trọng tài đó theo yêu cầu của một hoặc
các bên tranh chấp. Việc đăng ký hoặc không đăng ký phán quyết trọng
tài không ảnh hưởng đến nội dung và giá trị pháp lý của phán quyết trọng
tài.
Trang 15 | 45



[Nhóm 8] Hủy phán quyết trọng tài tại Việt Nam. K12504_Luật Tài chính-Ngân hàng.
 Trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày ban hành phán quyết trọng tài, bên
yêu cầu đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc phải gửi đơn xin đăng ký
phán quyết trọng tài tới Tòa án có thẩm quyền (theo quy định tại khoản 1
Điều 62 LTTTM) kèm theo bản chính hoặc bản sao có chứng thực hợp lệ
các tài liệu sau đây:

a) Phán quyết trọng tài do HĐTT vụ việc ban hành;
b) Biên bản phiên họp giải quyết tranh chấp của HĐTT vụ việc, nếu có;
c) Bản chính hoặc bản sao thoả thuận trọng tài đã được chứng thực hợp
lệ.
Bên yêu cầu đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc phải làm đơn yêu cầu
bằng văn bản và gửi cùng các tài liệu trên (quy định tại khoản 2 điều 62
LTTTM) đến Tòa án có thẩm quyền. Bên yêu cầu phải chịu trách nhiệm về tính
xác thực của các tài liệu gửi cho Tòa án.
Hết thời hạn 01 năm, kể từ ngày ban hành phán quyết trọng tài, mà một
hoặc các bên mới có đơn yêu cầu Tòa án đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc,
thì Tòa án không có thẩm quyền xem xét, giải quyết đơn yêu cầu đó.
Trường hợp có căn cứ cho thấy phán quyết trọng tài vụ việc đang được
xem xét, giải quyết theo thủ tục yêu cầu hủy phán quyết trọng tài tại Tòa án có
thẩm quyền thì khi nhận được đơn yêu cầu đăng ký phán quyết trọng tài, Tòa án
chưa thụ lý yêu cầu này để đợi kết quả giải quyết yêu cầu hủy phán quyết trọng
tài.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn xin đăng ký
phán quyết, Chánh án Tòa án phải phân công một Thẩm phán xem xét đơn đăng
ký phán quyết. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán
phải kiểm tra tính xác thực của các tài liệu gửi kèm theo đơn và thực hiện việc
đăng ký. Trường hợp xác định phán quyết trọng tài không có thật thì Thẩm phán
từ chối đăng ký, trả lại đơn yêu cầu và các tài liệu kèm theo và phải thông báo
ngay cho bên có yêu cầu biết, đồng thời nêu rõ lý do. Trong thời hạn 03
ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án, người yêu cầu đăng
ký phán quyết trọng tài có quyền khiếu nại với Chánh án Tòa án về việc từ chối
đăng ký phán quyết trọng tài. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận
được khiếu nại, Chánh án Tòa án phải xem xét và ra quyết định giải quyết khiếu
nại. Quyết định giải quyết khiếu nại của Chánh án Tòa án là quyết định cuối
cùng.
Trang 16 | 45




[Nhóm 8] Hủy phán quyết trọng tài tại Việt Nam. K12504_Luật Tài chính-Ngân hàng.
 Quyết định đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc được thực hiện theo Mẫu
số 04 ban hành kèm theo Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP.
 Mẫu thông báo từ chối đăng ký phán quyết Trọng tài vụ việc được thực
hiện theo Mẫu số 05 ban hành kèm theo Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP.
Khi xem xét đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc, Thẩm phán không phải
mở phiên họp xét đơn yêu cầu. Trường hợp cần thiết, Thẩm phán có thể triệu
tập một hoặc các bên tranh chấp, HĐTT để nghe ý kiến của họ về yêu cầu đăng
ký phán quyết trọng tài vụ việc. Thẩm phán căn cứ vào quy định LTTTM, các
tài liệu kèm theo, kiểm tra tính xác thực của các tài liệu gửi kèm theo đơn để
xem xét, quyết định việc đăng ký.
2.1.4 Chỉnh sửa, giải thích, bổ sung phán quyết trọng tài:
Phán quyết trọng tài có thể được chỉnh sửa trong một số trường hợp nhất
định. Việc chỉnh sửa pháp quyết trọng tài có thể xuất phát từ những lỗi kỹ thuật
hoặc lỗi do sai sót trong tố tụng dựa trên quy định của LTTTM. Cụ thể:
 Chỉnh sửa phán quyết trọng tài do lỗi kỹ thuật : Được quy định tại Khoản
1 điều 63 “1. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được phán quyết,
trừ khi các bên có thỏa thuận khác về thời hạn, một bên có thể yêu cầu
HĐTT sửa chữa những lỗi rõ ràng về chính tả, về số liệu do nhầm lẫn
hoặc tính toán sai trong phán quyết nhưng phải thông báo ngay cho bên
kia biết. Trường hợp HĐTT thấy yêu cầu này là chính đáng thì phải sửa
chữa trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.” Nhưng
trong trường hợp cần thiết thì HĐTT vẫn có thể gia hạn việc sửa chữa
(Khoản 5 điều 63) Việc chỉnh sửa phán quyết trọng tài có thể được HĐTT
tiến hành mà không cần có ai yêu cầu. Nhưng với quy định này chỉ cho
HĐTT chỉnh sữa những phán quyết có những lỗi là ”rõ ràng về chính tả,
về số liệu do nhầm lẫn hoặc tính toán sai trong phán quyết” .

 Chỉnh sửa phán quyết trọng tài do lỗi sai sót tố tụng: Ngay cả trong
trường hợp phán quyết của HĐTT có những lỗi có thể dẫn tới việc bị tòa
án xem xét hủy phán quyết , theo yêu cầu của một bên, thì tòa án cũng có
thể tạo điều kiện cho HĐTT cơ hội để chỉnh sữa các lỗi đó. Điều này
được quy định tại Khoản 7 điều 71 : ”Theo yêu cầu của một bên và xét
thấy phù hợp, Hội đồng xét đơn yêu cầu có thể tạm đình chỉ việc xem xét
giải quyết đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài trong thời hạn không quá
60 ngày để tạo điều kiện cho Hội đồng trọng tài khắc phục sai sót tố tụng
trọng tài theo quan điểm của Hội đồng trọng tài nhằm loại bỏ căn cứ hủy
Trang 17 | 45



[Nhóm 8] Hủy phán quyết trọng tài tại Việt Nam. K12504_Luật Tài chính-Ngân hàng.
bỏ phán quyết trọng tài. Hội đồng trọng tài phải thông báo cho Tòa án
biết về việc khắc phục sai sót tố tụng. Trường hợp Hội đồng trọng tài
không tiến hành khắc phục sai sót tố tụng thì Hội đồng tiếp tục xét đơn
yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.” Như vậy, trong những trường hợp mà
những sai sót của HĐTT là không thể khắc phục thì tòa án có thể cho
rằng yêu cầu khắc phục là không ”phù hợp” và không cần cho HĐTT
thêm thời gian để khắc phục. Có thể thấy, tinh thần nhất quán của
LTTTM trong quy định này.
Điều 63 cũng quy định về việc giải thích phán quyết trọng tài. Cụ thể: ”
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được phán quyết, trừ trường hợp các
bên có thỏa thuận khác về thời hạn, một bên có thể yêu cầu HĐTTgiải thích về
điểm cụ thể hoặc phần nội dung của phán quyết nhưng phải thông báo ngay cho
bên kia. Nếu HĐTT thấy rằng yêu cầu này là chính đáng thì phải giải thích
trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Nội dung giải thích này
là một phần của phán quyết.” Quy định này đã thừa nhận nhu cầu giải thích
phán quyết của các bên. Cần chú ý rằng , HĐTT không tự làm viêc này mà họ

chỉ tiến hành giải thích khi có một bên yêu cầu. Tuy nhiên, luật cũng ghi nhận
sự tự chủ của HĐTT khi quy định rằng nếu HĐTT thấy yêu cầu này là chính
đáng thì giải thích trong thời hạn là 30 ngày. Nếu thấy cần thiết thì HĐTT cũng
có thể gia hạn thời gian này theo Khoản 5 điều 63. Về giá trị của việc giải thích
này thì LTTTM quy đình rằng đây cũng là một phần của phán quyết. Điều này
đảm bảo được sự thống nhất trong phán quyết của HĐTT.
Khác so với PLTTTM thì trong LTTTM đã có thêm quy định về việc bổ
sung phán quyết trọng tài. Việc bổ sung điều này trong LTTTM là cần thiết vì
trong thực tế không thể tránh được việc HĐTT có thể quên không giải quyết
một trong những yêu cầu nào đó của các bên. Việc bổ sung phán quyết trọng tài
được quy định tại khoản 4 điều 63 LTTTM ”Trường hợp các bên không có
thoả thuận khác, trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được phán quyết, một
bên có thể yêu cầu HĐTT ra phán quyết bổ sung đối với những yêu cầu được
trình bày trong quá trình tố tụng nhưng không được ghi trong phán quyết và
phải thông báo ngay cho bên kia biết. Nếu HĐTT cho rằng yêu cầu này là chính
đáng thì ra phán quyết bổ sung trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày nhận được
yêu cầu.” Có thể thấy, việc bổ sung này chỉ tiến hành khi có một bên yêu cầu,
tuy nhiên, không phải cứ có yêu cầu thì HĐTT sẽ bổ sung phán quyết trọng tài
mà phải dựa vào việc HĐTT thấy có chính đáng hay không. Cần phải lưu ý,
trong quy định này có 2 mốc thời hạn là thời hạn yêu cầu ra phán quyết bổ sung
của các bên ( trong 30 ngày kể từ ngày nhận được phán quyết) và thời hạn đưa
Trang 18 | 45



[Nhóm 8] Hủy phán quyết trọng tài tại Việt Nam. K12504_Luật Tài chính-Ngân hàng.
ra phán quyết bổ sung của HĐTT (trong 45 ngày kể từ ngày nhận được yêu
cầu). Như vậy, theo khoản 5 điều 63 thì trong trường hợp cần thiết HĐTT chỉ có
thể gia hạn thời hạn đưa ra phán quyết bổ sung mà thôi.
2.1.5 Tính chung thẩm và hiệu lực thi hành của phán quyết trọng

tài:
Kế thừa những quy định trong PLTTTM thì LTTTM cũng quy định theo
hướng phán quyết của trọng tài thương mại là chung thẩm. Cụ thể theo khoản 5
điều 4 LTTTM ” Phán quyết trọng tài là chung thẩm.” quy định này cũng
được nhắc lại trong Khoản 5 điều 61 LTTTM ” Phán quyết trọng tài là chung
thẩm và có hiệu lực kể từ ngày ban hành.”
Về hiệu lực thi hành của phán quyết trọng tài thì cũng theo khoản 5 điều 61
LTTTM nêu trên thì phán quyết trọng tài có hiệu lực ngay kể từ khi ban hành.
Điều này có nghĩa là , đối với các bên, phán quyết trọng tài có hiệu lực thi hành
kể từ ngày được công bố.
Như vậy, cần lưu ý thời điểm mà phán quyết trọng tài được công bố. Đối
với cơ quan nhà nước , phán quyết trọng tài cũng có hiệu lực thi hành ngay. Do
đó, bên được thi hành có thể yêu cầu cơ quan thi hành án thi hành ngay phán
quyết trọng tài ngay mà không cần qua các thủ tục công nhận , cho thi hành như
phán quyết trọng tài nước ngoài. Đây là một biện pháp đảm bảo tính thi hành
của phán quyết trọng tài trong thực tế theo quy định tại Khoản 1 điều 61
LTTTM.
Đối với phán quyết trọng tài của trọng tài vụ việc thì bên được thi hành có
quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền thi hành phán quyết
trọng tài sau khi phán quyết trọng tài được đăng ký (Khoản 2 điều 66 LTTTM).
Phán quyết trọng tài của Việt Nam được thi hành như các bản án và quyết
định của tòa án Việt Nam. Phán quyết trọng tài được thi hành theo quy định của
pháp luật về thi hành án dân sự theo quy định tại điều 67 LTTTM. Tuy nhiên,
khi thực hiện thi hánh án phán quyết trọng tài chúng ta cần có sự kết hợp chặt
chẽ các quy định giữa BLTTDS và LTTTM.
2.2 CĂN CỨ, THỦ TỤC VÀ HẬU QUẢ CỦA HỦY PHÁN QUYẾT
TRỌNG TÀI:
2.2.1 Căn cứ hủy phán quyết trọng tài:
Căn cứ hủy phán quyết trọng tài là một trong những quy định được thay
đổi, cải cách mạnh mẽ trong LTTTM so với PLTTTM. LTTTM đã cố gắng

Trang 19 | 45



[Nhóm 8] Hủy phán quyết trọng tài tại Việt Nam. K12504_Luật Tài chính-Ngân hàng.
”quy định chặt chẽ về vấn đề này” và nhấn mạnh ”các quy định này là trọng
yếu” từ đó làm tăng tính ràng buộc về mặt pháp lý cho các phán quyết trọng tài.
Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu những quy định này:
2.2.1.1 Một số lưu ý về căn cứ hủy phán quyết trọng tài:
(i) Danh mục căn cứ hủy phán quyết:
Như đã biết phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm và có hiệu lực
kể tử ngày ban hành tuy nhiên pháp luật còn có quy định thêm về hủy phán
quyết của trọng tài dựa trên các căn cứ của Điều 68 – LTTTM khi phán quyết
của trọng tài thuộc một trong các trường hợp tại điều 68. Điều 68 có thể cho
chúng ta hiểu được đây được xem như một danh mục căn cứ hủy phán quyết
của trọng tài, câu hỏi đặt ra ở đây danh mục này là danh mục đóng hay mở. Về
mặt lý luận về pháp luật cũng như thực tiễn yêu cầu hủy quyết định trọng tài
quá nhiều, để hạn chế rủi ro cho tố tụng trọng tài, chúng ta nên coi đây là một
danh mục đóng. Trên thực tế khá nhiều trường hợp ở đó bên thua kiện yêu cầu
hủy quyết định của trọng tài với lý do không nằm trong Điều 68 và tòa án đã
không xem xét trả lời cụ thể tại khoản 2 Điều 68 đã quy định “Phán quyết của
trọng tài bị hủy nếu thuộc một trong các trường hợp sau… ” nghĩa là chỉ khi
phán quyết của trọng tài thuộc Điều 68 mới được xem xét để hủy những trường
hợp khác thì không được chấp nhận. Như vậy, ta nên xem danh mục căn cứ hủy
phán quyết là một danh mục đóng để nhằm hạn chế rủi ro cho tố tụng trọng tài.
(ii) Nội dung danh mục các căn cứ hủy phán quyết:
So với PLTTTM thì LTTTM đã hạn chế về nội dung danh mục căn cứ
hủy phán quyết, đã thu hẹp lại phạm vi áp dụng cho căn cứ hủy phán quyết. Ví
dụ: tại điều 54 của Pháp lệnh về căn cứ hủy phán quyết dù về hình thức chỉ quy
định sáu trường hợp hủy quyết định trọng tài, nhưng theo mỗi điều khoản lại

dẫn sang các điều luật khác nhằm mở rộng phạm vi áp dụng được xem như là
căn cứ để hủy phán quyết – khoản 2 điều 54, tòa án ra quyết định hủy quyết
định của trọng tài nếu bên yêu cầu chứng minh được rằng HĐTTđã ra quyết
định thuộc một trong các trường hợp “thỏa thuận trọng tài vô hiệu theo quy
định tại điều 10 của Pháp lệnh này.”, như vậy khoản này lại dẫn đến điều 10 là
trường hợp vô hiệu của phán quyết, mở rộng lý do để yêu cầu hủy phán quyết
hoặc theo khoản 5 điều 54 lại dẫn đến điều 13 của Pháp lệnh về vi phạm nghĩa
vụ của trọng tài viên để dẫn đến hủy phán quyết. Như vậy, ngoài việc kéo dài
thêm điều 54 về căn cứ mà còn tạo ra cho bên yêu cầu đa dạng các lý do dẫn
đến hủy phán quyết, dẫn đến tình trạng hàng loạt phán quyết bị hủy.
Trang 20 | 45



[Nhóm 8] Hủy phán quyết trọng tài tại Việt Nam. K12504_Luật Tài chính-Ngân hàng.
Để khắc phục những hạn chế của Pháp lệnh , Luật đã quy định các căn cứ
rõ ràng, cụ thể, phù hợp với Luật Mẫu UNCITRAL, xóa bỏ một số căn cứ hủy
phán quyết trọng tài không rõ ràng được quy định trong Điều 54 khoản 5
PLTTTM đó là căn cứ: “Bên yêu cầu chứng minh được trong quá trình giải
quyết vụ tranh chấp có Trọng tài viên vi phạm nghĩa vụ của Trọng tài viên quy
định tại khoản 2 Điều 13 của Pháp lệnh này”. Trên thực tế những tiêu chí “vô
tư”, “khách quan” không được quy định rõ ràng nên rất dễ bị lạm dụng để yêu
cầu hủy phán quyết trọng tài. Tuy nhiên, khi nghiên cứu các căn cứ hủy phán
quyết trọng tài được quy định tại điều 68 LTTTM thì chúng ta vẫn có thể thấy
LTTTM vẫn còn cách viện dẫn sang những điều luật khác. Cụ thể như sau:
Theo điểm a, khoản 2 điều 68 thì phán quyết trọng tài thuộc trường hợp hủy khi
”thỏa thuận trọng tài vô hiệu” . Mà điều 68 LTTTM không cho biết khi nào thỏa
thuận trọng tài vô hiệu, nên chúng ta lại phải nghiên cứu các quy định khác để
biết được khi nào thì thỏa thuận trọng tài vô hiệu.
(iii) Việc trọng tài khắc phục sai sót trong tố tụng:

Tại khoản 7 điều 71 “Theo yêu cầu của một bên và xét thấy phù hợp, Hội
đồng xét đơn yêu cầu có thể tạm đình chỉ việc xem xét giải quyết đơn yêu cầu
hủy phán quyết trọng tài trong thời hạn không quá 60 ngày để tạo điều kiện cho
HĐTT khắc phục sai sót tố tụng trọng tài theo quan điểm của HĐTT nhằm loại
bỏ căn cứ hủy bỏ phán quyết trọng tài. HĐTT phải thông báo cho Tòa án biết
về việc khắc phục sai sót tố tụng. Trường hợp HĐTT không tiến hành khắc phục
sai sót tố tụng thì Hội đồng tiếp tục xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.”
Quy định mới này nhằm giúp cho tổ chức trọng tài có điều kiện phục hồi việc
giải quyết vụ việc hoặc thực hiện các hành vi, mà theo sự nhìn nhận của trọng
tài, những hành vi đó cho phép khắc phục những cơ sở để hủy phán quyết trọng
tài.
Một điểm ở đây là tòa chỉ “tạm dừng xét đơn yêu cầu hủy phán quyết” để
tố chức trọng tài khắc phục sai sót trong tồ tụng và chỉ áp dụng khi “một bên
yêu cầu và xét thấy phù hợp”.
(iv) Mất quyền phản đối:
“Trong trường hợp một bên phát hiện có vi phạm quy định của Luật này
hoặc của thỏa thuận trọng tài mà vẫn tiếp tục thực hiện tố tụng trọng tài và
không phản đối những vi phạm trong thời hạn do Luật này quy định thì mất
quyền phản đối tại Trọng tài hoặc Tòa án” – Điều 13 LTTTM. Theo điều 13
việc áp dụng điều luật này hiển nhiên là trong quá trình xét xử tuy nhiên có thể
Trang 21 | 45



[Nhóm 8] Hủy phán quyết trọng tài tại Việt Nam. K12504_Luật Tài chính-Ngân hàng.
áp dụng điều 13 vào hủy phán quyết trọng tài khi đây chỉ là việc xem xét yêu
cầu hủy phán quyết không phải là tại trọng tài hay tòa án. Thêm vào đó, việc
hủy phán quyết trọng tài là dựa trên cơ sở của Điều 68 LTTTM. Việc áp dụng
điều 13 vào chế định hủy phán quyết trọng tài để chống lại bên yêu cầu hủy
phán quyết?

(v) Nghĩa vụ chứng minh:
Đây là điểm mới về trách nhiệm chứng minh sự tồn tại của căn cứ hủy
phán quyết trọng tài, với quy định nêu trên đã theo hướng đi hợp lý khi yêu cầu
người yêu cầu hủy bỏ phán quyết tại các điểm a, b, c, d khoản 2 - điều 68 phải
cung cấp chứng cứ chứng minh mà không cần Tòa có trách nhiệm thu thập
chứng cứ để chứng minh căn cứ hủy phán quyết trọng tài. Riêng điểm đ tòa án
có trách nhiệm chủ động xác minh thu thập chứng cứ khi quyết định của trọng
tài trái với lợi ích công cộng của Cộng hòa xã hội chủ nghãi Việt Nam, tòa án
được quyền can thiệp ngay cả khi một bên không chứng minh điều này.
(vi) Căn cứ đã được xem xét trong quá trình tố tụng:
Ở đây đề cập về việc các thủ tục trong quá trình tố tụng trọng tài có đúng
pháp luật không và có làm căn cứ cho việc hủy phán quyết trọng tài hay không?
Khi có tranh chấp cần đưa ra giải quyết các vấn đề cân xem xét ở đây là
thẩm quyền của trọng tài, hiệu lực thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài vô
hiệu hay thỏa thuận trọng tải không thể thực hiện được, yêu cầu thay đổi trọng
tài viên, thành phần hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng… có thể được xem xét
lần nữa và lần này trước tòa án trong quá trình tố tụng.
(vii) Trường hợp không xem xét lại trong tố tụng hủy:
Nếu HĐTT đã giải quyết khiếu nại về các vấn đề nêu ở mục trên rồi thì
bên không đồng ý có được viện dẫn lý do trên để yêu cầu hủy phán quyết
không?
Có hai trường hợp:
 Trường hợp 1: Tòa xác định là trọng tài có thẩm quyền trên cơ sở điều 44
thì quyết định của Tòa là cuối cùng. Vì quyết định của tòa là cuối cùng
nên không xem xét lại lần nữa trong quá trình xem xét đơn yêu cầu hủy
phán quyết, nếu bên yêu cầu vẫn viện dẫn thì tòa nên bác yêu cầu trên cơ
sở này
Trang 22 | 45




[Nhóm 8] Hủy phán quyết trọng tài tại Việt Nam. K12504_Luật Tài chính-Ngân hàng.
 Trường hợp 2: Sau khi xem xét, một bên không khiếu nại trước tòa án
theo điều 44 và sau khi có phán quyết mới yêu cầu hủy theo căn cứ điều
68 thì trường hợp này nên áp dụng điều 13 về “mất quyền phản đối” .
Tuy luật không quy định rõ, nhưng ta nên cho phép yêu cầu tòa xem xét
yêu cầu vì vẫn chưa có quyết định cuối cùng của tòa án. Hơn nữa nếu sử
dụng điều 13 để loại trừ khả năng yêu cầu hủy phán quyết trọng tài thì
các quy định tại điều 68 không còn ý nghĩa vận dụng nữa.
2.2.1.2 Các căn cứ hủy phán quyết trọng tài:
Khi có căn cứ cho rằng phán quyết trọng tài thuộc một trong các trường
hợp bị huỷ bỏ, thì theo yêu cầu của một bên, toà án xem xét việc huỷ bỏ phán
quyết của trọng tài.
Căn cứ pháp lý huỷ phán quyết trọng tài được quy định tài Điều 68
LTTTM và Điều 14 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao. Theo đó, các căn cứ để huỷ phán quyết trọng tài
bao gồm các trường hợp sau:
(i) “Không có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu”
(Điểm a khoản 2 điều 68 LTTTM)
Là thỏa thuận trọng tài thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 6
và Điều 18 Luật TTTM và hướng dẫn tại các điều 2, 3 và 4 Nghị quyết
01/2014/NQ/HDTP. Cụ thể:
 Điều 6. Quy định về việc toà án từ chối thụ lý trong trường hợp có thoả
thuận trọng tài “Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận
trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý,
trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài
không thể thực hiện được.”
 Điều 18. Quy định về việc thoả thuận trọng tài vô hiệu bao gồm các
trường hợp:
“1. Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của

Trọng tài quy định tại Điều 2 của Luật này.
2. Người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật.
3. Người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự
theo quy định của Bộ luật dân sự.
Trang 23 | 45



[Nhóm 8] Hủy phán quyết trọng tài tại Việt Nam. K12504_Luật Tài chính-Ngân hàng.
4. Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều
16 của Luật này.
5. Một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác lập
thoả thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô hiệu.
6. Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.”
 Và các quy định hướng dẫn cụ thể hơn trong các Điều 2;3;4 Nghị quyết
01/2014/NQ-HĐTP
(ii) “Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không
phù hợp với thỏa thuận của các bên hoặc trái với các quy định
Luật TTTM” (Điểm b khoản 2 điều 68 LTTTM)
Là trường hợp các bên có thỏa thuận về thành phần Hội đồng trọng tài,
quy tắc tố tụng trọng tài nhưng HĐTT thực hiện không đúng thỏa thuận của các
bên hoặc HĐTT thực hiện không đúng quy định Luật TTTM về nội dung này
mà Tòa án xét thấy đó là những vi phạm nghiêm trọng và cần phải hủy nếu
HĐTT không thể khắc phục được hoặc không khắc phục theo yêu cầu của Tòa
án quy định tại khoản 7 Điều 71 Luật TTTM.
Ví dụ 1: Trường hợp một bên không được thông báo về đơn khởi kiện
quy định tại Điều 32 Luật TTTM kịp thời và hợp pháp theo quy tắc tố tụng
trọng tài, Luật TTTM dẫn tới việc không đảm bảo được quyền được thành lập
HĐTT là trường hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trọng tài quy định tại

điểm b khoản 2 Điều 68 Luật TTTM.
Ví dụ 2: Các bên thỏa thuận tranh chấp được giải quyết bởi HĐTTgồm ba
trọng tài viên và áp dụng luật nội dung của Việt Nam để giải quyết vụ tranh
chấp nhưng thực tế việc giải quyết tranh chấp được tiến hành bởi HĐTTgồm
một Trọng tài viên duy nhất, pháp luật áp dụng là pháp luật nội dung của
Singapore mặc dù một bên có phản đối nhưng không được HĐTTchấp nhận thì
đây là trường hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trọng tài quy định tại
điểm b khoản 2 Điều 68 Luật TTTM.
Đây là một quy định mới của LTTTM so với PLTTTM, tuy nhiên, quy
định này còn quá chung chung và có thể bị một bên lợi dụng để yêu cầu tòa án
hủy phán quyết trọng tài.
(iii) “Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài”
( Điểm c khoản 2 điều 68 LTTTM)
Là trường hợp HĐTT giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực không thuộc
thẩm quyền của Trọng tài quy định tại Điều 2 Luật TTTM; hoặc HĐTTgiải
Trang 24 | 45



[Nhóm 8] Hủy phán quyết trọng tài tại Việt Nam. K12504_Luật Tài chính-Ngân hàng.
quyết tranh chấp mà không được các bên thỏa thuận yêu cầu Trọng tài giải
quyết hoặc giải quyết vượt quá phạm vi của thỏa thuận đưa ra Trọng tài giải
quyết.
Về nguyên tắc, Tòa án chỉ hủy phần quyết định có nội dung không thuộc
thẩm quyền của HĐTT mà không hủy phán quyết trọng tài. Trường hợp có thể
tách được phần quyết định của HĐTT về vấn đề đã được yêu cầu và phần quyết
định về vấn đề không được yêu cầu giải quyết tại Trọng tài, thì phần quyết định
về vấn đề được yêu cầu giải quyết không bị huỷ.
Trường hợp không thể tách được phần quyết định của HĐTTvề vấn đề đã
được yêu cầu và phần quyết định về vấn đề không được yêu cầu giải quyết tại

Trọng tài, thì Tòa án hủy phán quyết trọng tài đó.
Đây là một quy định đã từng tồn tại trong PLTTTM trước đây (Khoản 4
điều 54 PLTTTM) và được quy định lại trong LTTTM.
(iv) “Chứng cứ do các bên cung cấp mà HĐTT căn cứ vào đó để ra
phán quyết là giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi
ích vật chất khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính
khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài” ( Điểm d khoản
2 điều 68 LTTTM)
Tòa án chỉ xem xét việc xác định chứng cứ giả mạo nếu có chứng cứ
chứng minh cho yêu cầu đó và chứng cứ đó phải có liên quan đến việc ra phán
quyết, có ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết. Tòa án
phải căn cứ vào quy định Luật TTTM, quy tắc tố tụng trọng tài, thỏa thuận của
các bên và quy tắc xem xét, đánh giá chứng cứ mà HĐTTáp dụng khi giải quyết
vụ việc để xác định chứng cứ giả mạo.
Về quy định tại điểm d khoản 2 điều 68 này thì chúng ta có thể chia làm
hai trường hợp hủy phán quyết trọng tài nhỏ hơn là:
 Hủy phán quyết trọng tài vì chứng cứ giả mạo.
 Hủy phán quyết trọng tài vì trọng tài viên trục lợi, ảnh hưởng đến tính
khách quan công bằng. Trong trường hợp này thì để được xem là căn cứ
hủy phán quyết trọng tài thì phải hội đủ hai điêu kiện. Thứ nhất, TTV
phải nhận tiền,tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh chấp;
Thứ hai, việc nhận lợi ích trên phải làm ảnh hưởng đến tính khách quan,
công bằng của phán quyết trọng tài.
Trang 25 | 45



[Nhóm 8] Hủy phán quyết trọng tài tại Việt Nam. K12504_Luật Tài chính-Ngân hàng.
(v) “Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật Việt Nam” (Điểm đ khoản 2 điều 68 LTTTM)

Là phán quyết vi phạm các nguyên tắc xử sự cơ bản có hiệu lực bao trùm
đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật Việt Nam.
Khi xem xét yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, Tòa án phải xác định được
phán quyết trọng tài có vi phạm một hoặc nhiều nguyên tắc cơ bản của pháp
luật và nguyên tắc đó có liên quan đến việc giải quyết tranh chấp của Trọng tài.
Tòa án chỉ hủy phán quyết trọng tài sau khi đã chỉ ra được rằng phán
quyết trọng tài có nội dung trái với một hoặc nhiều nguyên tắc cơ bản của pháp
luật Việt Nam mà HĐTTđã không thực hiện nguyên tắc này khi ban hành phán
quyết trọng tài và phán quyết trọng tài xâm phạm nghiêm trọng lợi ích của nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của một hoặc các bên, người thứ ba.
Ví dụ 1: Các bên đã tự nguyện thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp và
thỏa thuận này không trái pháp luật, đạo đức xã hội nhưng HĐTTkhông ghi
nhận sự thỏa thuận đó của các bên trong phán quyết trọng tài. Trong trường hợp
này phán quyết trọng tài đã vi phạm nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết trong
lĩnh vực thương mại quy định tại Điều 11 Luật Thương mại và Điều 4 của Bộ
luật dân sự… Tòa án xem xét, quyết định việc hủy phán quyết trọng tài này vì
trái nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam đã được Luật Thương mại và Bộ
luật dân sự… quy định.
Ví dụ 2: Một bên tranh chấp cung cấp chứng cứ chứng minh phán quyết
trọng tài được lập có sự cưỡng ép, lừa dối, đe dọa hoặc hối lộ. Trong trường hợp
này phán quyết trọng tài đã vi phạm nguyên tắc “trọng tài viên phải độc lập,
khách quan, vô tư” quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật TTTM
Khi Tòa án xem xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, nghĩa vụ
chứng minh được xác định theo quy định tại khoản 3 Điều 68 Luật TTTM như
sau:
a) Bên yêu cầu hủy phán quyết trọng tài quy định tại các điểm a, b, c và d
khoản 2 Điều 68 có nghĩa vụ chứng minh HĐTTđã ra phán quyết thuộc một
trong các trường hợp đó;
b) Đối với yêu cầu hủy phán quyết trọng tài quy định tại điểm đ khoản 2
Điều 68, Tòa án có trách nhiệm chủ động xác minh thu thập chứng cứ để quyết

định hủy hay không hủy phán quyết trọng tài.
2.2.2 Thủ tục và hậu quả pháp lý của hủy phán quyết trọng tài:

×