Đề Bài :
Sưu tầm thực tế về thực trạng của nghành logistics tại VN hiện nay. Phân tích
tác động của TMĐT tới logistics KD. Mức độ sẵn sàng của các doanh nghiệp
Việt Nam cho logistics TMĐT.
Đề cương
I . Tổng quan về hậu cần TMĐT
1. Khái niệm và bản chất
2. Vị trí và vai trò
3. Phân loại các lĩnh vực hậu cần
II. Thực tế về thực trạng của nghành logistics tại VN hiện nay
1. Những việc mà nghành logistics trong nước đã làm được
2. Những hạn chế chưa làm được của nghành logictics ở nước ta
III. Phân tích tác động của TMĐT tới logictics KD
1. Tính thông tin
- Tiếp cận
- Chất lượng
- Linh hoạt
2. Tính tương tác
- Giao tiếp đa chiếu
- Khả năng hợp tác
3. Tính cá nhân hóa
- Nhu cầu khách hàng
- Chất lượng dịch vụ
IV. Mức độ sẵn sàng của các doanh nghiệp VN cho logictics TMĐT
1. Thực tế về mức độ sẵn sàng của các doanh nghiệp VN cho logictics trong
TMĐT
2. Đưa ra nhận xét và giải pháp nhằm nâng cao tính hiệu quả, mức độ sẵn
sàng của các doanh nghiệp VN cho logictics TMĐT
Bài làm:
I . Tổng quan về hậu cần TMĐT
1. Khái niệm và bản chất hậu cần thương mại điện tử
Quản trị hậu cần là một bộ phận của quản trị chuỗi cung ứng, bao gồm quá
trình hoạch định, thực thi và kiểm soát một cách quả dòng lưu chuyển và dự trữ
nguyên vật liệu, bán thành phầm, thành phẩm và dòng thông tin từ điểm xuất xứ
đến điểm tiêu dùng với mục tiêu thỏa mãn đúng yêu cầu và đòi hỏi của khách
hàng.
Thông qua định nghĩa về hậu cần thì rõ ràng bản chất của hậu cần là dịch vụ
khách hàng là quá trình cung cấp các giá trị gia tăng cho khách hàng trong hệ
thống kênh cung cấp nguyên vật liệu đầu vào và kênh phân phối hàng hóa với
hiệu quả chi phí cao nhât.
Trong bối cảnh của hoạt động Thương mại Điện tử e-logistics có thể được
định nghĩa là quá trình hoạch định chiến lược, thiết kế và thực thi tất cả các yếu
tố cần thiết của hệ thống, quy trình, cơ cấu tổ chức và tác nghiệp hậu cần để hiện
thực hóa và vật chất hóa cho hoạt động thương mại điện tử.
2. Vị trí và vai trò
Nghành hậu cần có vị trí ngày càng quan trọng trong các nền kinh tế hiện đại và
có ảnh hưởng to lớn tới sự phát triển kinh tế của các quốc gia và toàn cầu. Phần
giá trị gia tăng do ngành hậu cần tạo ra ngày càng lớn và tác động của nó thể
hiện rõ ở các khía cạnh mà nó tham gia như:
2.1Trong chuỗi cung ứng tổng thể
Các hoạt động hậu cần có nhiệm vụ kết nối một cách có hiệu quả các thành
viên trong chuỗi cung ứng từ đó mang lại giá trị cao nhất cho khách hàng và các
thành viên. Nhiệm vụ kết nối của hậu cần được thể hiện qua việc vận hành trôi
chảy và nhịp nhàng của 3 dòng sau:
- Dòng sản phẩm: con đường dịch chuyển của hàng hóa và dịch vụ từ nhà cung
cấp tới khách hàng đảm bảo đúng và đủ về số lượng và chất lượng.
- Dòng thông tin: dòng giao và nhận của các đơn đặt hàng, theo dõi quá trình
dịch chuyển và chứng từ giữa người gửi và người nhận.
- Dòng tiền tệ: thể hiện sự thanh toán của khách hàng đối với nhà cung cấp, thể
hiện hiệu quả kinh doanh.
2.2 Trong chuỗi giá trị của doanh nghiệp
Quản trị hậu cần được ghi nhận là yếu tố quan trọng trong việc tạo ra lợi
nhuận và lợi thế cạnh tranh trong doanh nghiệp. Trong chuỗi giá trị của doanh
nghiệp hậu cần đầu vào và hậu cần đầu ra cùng với quản trị tác nghiệp,
marketing và dịch vụ là những hoạt động chủ chốt tạo nên giá trị cho khách hàng
và doanh thu cho doanh nghiệp.
3. Phân loại các lĩnh vực hậu cần
- Theo phạm vi và mức độ ảnh hưởng gồm:
+ Hậu cần quân đội
+ Hậu cần kinh doanh
+ Hậu cần sự kiện
- Theo hướng vận động vật chất:
+ Hậu cần đầu vào
+ Hậu cần đầu ra
+ Hậu cần ngược
- Theo đối tượng hàng hóa:
+ Hậu cần hàng tiêu dùng ngắn ngày
+ Hậu cần hàng điện tử
+ Hậu cần nghành ô tô
+ Hậu cần nghành hóa chất, ngành dầu khí, ....
- Theo tầm quan trọng của quyết định hậu cần
+ Các hoạt động cơ bản: - Dịch vụ khách hàng
- Thiết kế mạng lưới cơ sở hạ tầng
- Quản trị dự trữ hàng hóa
- Quản trị vận chuyển hàng hóa
+ Các hoạt động bổ trợ: - Nghiệp vụ mua hàng
- Nghiệp vụ kho hàng
- Nghiệp vụ bao bì
- Quản lý thông tin
II. Thực tế về thực trạng của nghành logistics tại VN hiện nay
1. Những việc mà nghành Logistics trong nước đã làm được
Logistics là các hoạt động mang tính dây chuyền, hiệu qủa của chúng có tính
quyết định đến sự cạnh tranh của công nghiệp, thương mại của mỗi quốc gia. Nó
là ngành dịch vụ mang lại nguồn lợi khổng lồ. Sự phát triển của Logistics có vai
trò đảm bảo cho việc vận hành sản xuất, kinh doanh các dịch vụ khác về thời
gian cũng như chất lượng, tiết giảm chi phí. Logistics đã có những bước phát
triển mạnh mẽ trên thế giới trong thời gian dài song tại Việt Nam còn khá mới
mẻ.
Như đã đề cập ở trên, Logisctics đã theo chân các nhà đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam trong quá trình hội nhập. Thời gian gần đây, Logisctic Việt nam đã có
sự phát triển cả về số lượng và chất lượng đáng được ghi nhận. Theo Hiệp hội
giao nhận kho vận Việt Nam (VIFFAS) có khoảng hơn 800 doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực logistics và con số này vẫn đang tăng lên. Xét về mức độ
phát triển có thể chia Logistics Việt Nam thành các cấp độ sau :
Cấp 1 : Các đại lý giao nhận vận tải truyền thống – các đại lý giao nhận chỉ
thuần tuý cung cấp các dịch vụ do khách hàng yêu cầu . Các dịch vụ đó thông
thường là : vận chuyển hàng hoá bằng đường bộ
Cấp 2 : Các đại lý giao nhận đóng vai trò là người gom hàng và cấp vận đơn nhà
( Freight forwarding) . Nguyên tắc hoạt động của các doanh nghiệp ở cấp độ này
là phải có đại lý tại các cảng lớn để thực hiện việc đóng rút hàng xuất nhập
khẩu . Hiện nay có khoảng 10% các tổ hức giao nhận tại Việt Nam có khả năng
cung cấp dịch vụ gom hàng tại CFS của chính họ hoặc đi thuê của nhà thầu.
Những người này sử dụng HBL như vận đơn của hãng tàu song chỉ có một số ít
mua bảo hiểm trách nhiệm giao nhận vận tải .
Cấp 3 : Đại lý giao nhận đóng vai trò là nhà vận tải đa phương thức
( Multimodal Transport Orgnization). Với vai trò này, một số công ty đã phối
hợp với công ty nước ngoài tại các cảng dỡ hàng bằng hợp đồng phụ để tự động
thu xếp vận tải hàng hoá tới điểm cuôi cùng theo vận đơn. Tính đến nay có hơn
50% các đại lý giao nhận tại Việt Nam hoạt động như MTO với mạng lưới đại lý
mở rộng trên khắp thé giới.
Cấp 4 : Đại lý giao nhận là các nhà cung cấp dịch vụ Logistics. Đây là kết quả
tất yếu của quá trình hội nhập. Một số tập đoàn nôi tiếng trong lĩnh vực Logistics
trên thế giới đã đặt đại diện ở Viêtnam như APL Logistics, Maersk Logistics,
NYK Logistics, Kuehn & Nagel, Schenker, Expeditor , UTI, UPS…tại Việt Nam
cũng đã hình thành nên môt số liên doanh hoạt động trong lĩnh vực này như :
First Logisctics Co, Biển Đông Logistics... Ngày càng nhiều doanh nghiệp đổi
tên là Logistics song hoạt động lại chưa đáp ứng được yêu cầu của Logistics.
2. Những hạn chế chưa làm được của nghành logictics ở nước ta
Qua nghiên cứu nhận thấy phần lớn các doanh ngiệp kinh doanh dịch vụ
Logistics tại Việt Nam còn manh mún , tản mạn , nhỏ lẻ, hoạt động chia cắt chỉ
đáp ứng được một số công đoạn trong logistics (chủ yếu ở câp độ 2). Một vài
công ty nhà nước tương đối lớn như Viconship, Vintrans, Vietrans.. . song vẫn
chưa đủ năng lực để tham gia vào hoạt động Logistics toàn cầu (các công ty này
chủ yếu làm agent cho các công ty vận tẩi và Logistics nước ngoài). Theo Viện
Nghiên Cứu Logistics Nhật Bản, Các doanh nghiệp Logistic Việt nam chỉ đáp
ứng được 25% nhu cầu thị trường của Logistics trong nước. Giá cả dịch vụ
Logistics tại Việt Nam so với một số nước trong khu vực là tương đối rẻ song
chất lượng dịch vụ chưa cao và chưa bền vững. Theo đánh giá của VIFFAS trình
độ công nghệ của Logistics tại Việt Nam còn yếu kếm so vơi thế giới và các
nước trong khu vực. Cụ thể là trong công nghệ vận tải đa phương thức vẫn chưa
kết hợp được một cách hiệu quả các phương tiện vận chuyển, chưa tổ chức tốt
các điểm chuyển tải, trình độ cơ giới hoá trong bốc xếp còn kém, trình độ lao
động thấp, cư sở hạ tầng thiếu và yếu, công nghệ thông tin lạc hậu xa so với yêu
cầu của logistics. Các doanh nghiệp Việt Nam còn nhỏ yếu song tính liên kết để
tạo ra sức mạnh cạnh tranh lại còn rất kém. Nhận thức của các doanh nhân hoạt
động trong lĩnh vực này thường dừng ở mức kinh nghiệm bản thân , hiểu biết về
luật pháp quốc tế, tài chính , chuyên nghành còn thấp dẫn đến tỷ lệ bị phạt hợp
đồng còn cao , lãng phí trong tài chính và hoạt động khai thác. Hơn nữa các công
ty Logistics Việt nam chủ yếu là làm thuê cho các tập đoàn Logistics trên thế
giới, nên nguồn thu chủ yếu chạy vào túi của các tập đoàn này. Nguyên nhân sâu
xa của thực trạng này có thể kể đến một số vấn đề sau:
Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam sinh sau đẻ muộn so với rất nhiều
doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam.Tầm phủ của các doanh
nghiệp Việt nam còn rất hẹp (nội địa hoặc một vài nước lân cận). Doanh nghiệp
Việt nam mới chỉ đáp ứng khai thác được một vài mảng nhỏ trong toàng bộ
chuỗi cung ứng chủ yếu là giao nhận trong khi đó các doanh nghiệp nước ngoài
lại cung cấp một chuỗi các dịch vụ trọn gói với giá trị gia tăng ca.Trong quan hệ
thương mại quốc tế, phần lớn các nhà xuất khẩu của Việt nam chủ yều là xuât
theo điều kiện FOB, theo hình thức gia công là chủ yếu. Còn nhập khẩu, chúng
ta luôn có tên trong những nước nhập siêu lớn nhât thế giới song miếng bánh
logistics vẫn đang nằm trong tay cácdoanh nghiệp logistics nước ngoài. Hạ tầng
cơ sở vật chất logistics còn nghèo nàn, quy mô nhỏ, bố trí bất hợp lý. Hệ thống
cơ sở hạ tầng giao thông của Việt nam bao gồm trên 17.000 km đường nhựa,
3.200 km đường sắt, 42.00 km đường thuỷ, 20 cảng biển và 20 sân bay. Tuy
nhiên chất lượng của hệ thống này không đồng đều, phân bố không hợp lý, nhiều
chỗ chưa đảm bảo được kỹ thuật. Các cảng biển còn nông chỉ tiếp nhận được tàu
có trọng tải nhỏ, đang trong qua trình container hóa, chưa có quy hoạch dài hạn.
Đối với các cảng hàng không vẫn chưa có ga hàng hoá, khu vực gom hàng và
làm các dịch vụ logistics khác...
Có thể nói một cách chính xác là hiện nay nguồn nhân lực chuyên nghiệp
cho ngành Logistics đang thiếu trầm trọng cả về chất lẫn về lượng. Hiện nay hầu
hết nhân sự trong ngành logistics được chuyển từ các công ty vận tải biển và
giao nhận sang , được sử dụng theo kiểu biết đâu làm đó . Sự đào tạo chính quy
từ các trường đại học cũng như các khoá đào tạo nghiệp vụ chưa đầy đủ và phổ
biến. Kiến thức đào tạo đi sau thế giới khá xa. Nhân viên trong ngành logistics
hiện nay còn yếu về trình độ ngoại ngữ, tin học cùng các kỹ năng nghề nghiệp.
Hạ tầng về cơ sở thông tin . Mặc dù các doanh nghiệp Việt nam trong
những năm gần đây đã có những cố gắng đưa công nghệ thông tin vào hoạt động
song so với các các công ty lớn trong ngành thì công nghệ thông tin còn có
khoảng cách quá xa về các tiện ích mà khách hàng mong muốn. Để cải thiện
được điều này đòi hỏi có giải pháp đầu tư tổng thể, chi tiết, dài hạn.
Tính liên kết : Các doanh nghiệp Việt Nam thiếu hẳn sự liên kết cần thiết.
Trong xu hướng thuê ngoài, outshorting như hiện nay mỗi doanh ngiệp cần phát
huy thế mạnh của mình và sẽ thuê ngoài cá dịch vụ mà mình còn yếu để tạo
thành One- stop shop cho khách hàng.
Vai trò của nhà nước : Vai trò định hướng và hỗ trợ của nhà nước là cực
kỳ quan trọng . Hiện nay vai trò của Nhà nước trong ngành logistics còn chưa rõ
nét, rời rạc. Bản thân các doanh nghiệp logistics tại Việt Nam chưa có một hiệp
hội đúng nghĩa với sự tham gia của nhà nước
Thương hiệu Logistics : do thực trạng ngành logistics Việt Nam còn non
trẻ chưa có các thưong hiệu lớn về logistics nên chúng ta không có ưu thế hay cơ
hội khi tham gia vào các dự an Logistics của các tập đoàn lớn
Nhận thức của các chủ hàng về logistics. Ngành Logistics tại Việt nam
còn gặp khó khăn do các chủ hàng vẫn chưa nhận thức đựoc vai trò của dịch vụ
Logistics đối với hoạt động của mình. Việc sử dụng dich vụ Logistics thuê ngoài
đòi hỏi chỉ có hiệu qủa cao khi có sự chia sẻ thông tin đúng lúc, chính xác từ
phía chủ hàng. Văn hóa và nhận thức kinh doanh tại Việt nam có những điểm
khác biệt trên thế giới nên việc vận dụng logistics cần có sự uyển chuyển. Chưa
có chủ hàng nào tại Việt Nam sẵn sàng chia sẻ thông tin cho các đối tác vì điều
này với họ đồng nghĩa với việc mất kiểm soát.thông tin và vì chưa hoàn toàn
hiểu rõ về logistics.
III. Phân tích tác động của TMĐT tới logictics KD
1. Tính thông tin
- Tiếp cận: Thông tin trong môi trường tmdt được cập nhập tự động, thường
xuyên, liên tục chính xác do đó hoạt động logistics găn liền với tmdt cũng
phải đảm bảo tính thường xuyên, liên tục, chính xác, số xóa, dễ dàng truy
cập sử lý để đảm bảo chúng có thể ăn khớp với nhau.
- Chất lượng: Chất lượng thông tin giúp nhà quản trị kiểm soát hàng hóa,
dịch vụ của mình trong quá trình vận chuyển, giao nhận và có kế hoạch
cho sản xuất, cung ứng, đặt hàng. Hoạt động tmdt có tính biến động
thông tin liên tục và cần độ chính xác,đầy đủ, đúng lúc do đó chất lượng
thông tin trong logistics tmdt cũng cần đáp ứng các yêu cầu này để hoạt
động tmdt được diễn ra thông suốt và đảm bảo sự vận hành ổn định
- Linh hoạt: Thông tin cần được cập nhập và truy xuất, sử lý mọi lúc mọi
nơi và có sự liên kết , tương tác với các bộ phận liên quan đến quá trình
của hoạt động logistics để chúng co thể vận hành bởi đó là một tổng thể
trong quá trình hoạt động của hoạt động logistics như thông tin hành trình
của xe hàng cần được cập nhập chính xác để có kế hoạch kho bãi và bốc
dỡ hay đảm bảo sự an toàn của hàng hóa.
2. Tính tương tác
2.1 Giao tiếp đa chiếu: Một hệ thống logistics hiện đại trong môi trường tmdt
là cần thiết và là đòi hỏi tất yếu của thời đại hiện nay. Hệ thống logistic hiện đại
bao gồm khả năng giao tiếp đa chiều và liên kết với các tác nhân bên trong và
bên ngoài doanh nghiệp thực hiện các chức của mình. Hoạt động logistic gắn
liền với hoạt động kho vận, sản xuất, phân phối, tiếp nhận hàng hóa, bốc dỡ do
đó các bộ phận liên quan đến các trình trên đều có sự tương tác với nhau sao cho
quá trình được diễn ra liên tục và thông suốt. Xét ở tầm vi mô, trước đây các
công ty thường coi logistics như một bộ phận hợp thành các chức năng
marketing và sản xuất. Marketing coi logistics là việc phân phối vật lý hàng hóa.
Cơ sở cho quan niệm này là hoạt động dự trữ thành phẩm hoặc cung cấp các yếu
tố đầu vào do logistics đảm nhiệm cũng là nhiệm vụ của biến số phân phối
(Place) trong marketing - mix và được gọi là phân phối vận động vật lý còn với
sản xuất coi logistics là việc lựa chọn địa điểm xây dựng nhà máy, chọn nguồn
cung ứng tốt và phân phối hàng hóa thuận tiện…Bởi lẽ các hoạt động này ảnh
hưởng và liên quan chặt chẽ đến thời gian điều hành sản xuất, kế họach sản xuất,
khả năng cung cấp nguyên vật liệu, tính thời vụ của sản xuất, chi phí sản xuất,
thậm chí ngay cả vấn đề bao bì đóng gói sản phẩm trong sản xuất công nghiệp
hiện đại
2.2 Khả năng hợp tác
Logistics là công cụ liên kết các hoạt động kinh tế trong một quốc gia và toàn
cầu qua việc cung cấp nguyên liệu, sản xuất, lưu thông phân phối, mở rộng thị
trường và các dịch vụ gia tăng khác. Hệ thống logistics hiện đại đã giúp các hãng
làm chủ được toàn bộ năng lực cung ứng của mình qua việc liên kết hợp tác giữa
các hoạt động cung cấp, sản xuất, lưu thông, phân phối kịp thời chính xác. Nhờ
đó mà đáp ứng được những cơ hội kinh doanh trong phạm vi toàn cầu. Do đó
hợp tác giữa nhà sản xuất, cung ứng, doanh nghiệp thương mại và công ty
logistics là yêu tố quyết định dẫn đến thành công của doanh nghiệp.
2.3 Tính cá nhân hóa
- Nhu cầu khách hàng: cần có một sự phân biệt rõ ràng giữa khách hàng và
những người tiêu dùng các dịch vụ và sản phẩm của công ty. Người tiêu
dùng (consummer) là người tham gia cuối cùng trong chuỗi hoạt động của
ngành logistics, họ sử dụng hàng hóa và dịch vụ cho mục đích tiêu dùng
lần cuối sản phẩm. Khách hàng (customer) là người trực tiếp mua sản
phẩm từ các công ty, do đó có thể không phải là người tiêu dùng cuối
cùng trong chuỗi hoạt động của ngành. Doanh nghiệp logistics có thể
không cần biết ai là người tiêu dùng cuối cùng, nhưng cần phải luôn giữ
mối quan hệ tốt với khách hàng mua sản phẩm của mình bởi họ chính là
người trực tiếp sử dụng dịch vụ logistics mà doanh nghiệp cung cấp. Như
vậy, đối với một nhà sản xuất thì khách hàng có thể là nhà sản xuất khác;
là một đại lý bán buôn, một nhà phân phối, một đại lý bán lẻ hoặc một
công ty bán hàng qua mạng, thậm chí là người tiêu dùng cuối cùng. Một
nhà bán buôn hoặc một nhà phân phối có khách hàng là nhà sản xuất,
người tập hợp hàng hóa từ nhà bán buôn, nhà phân phối khác, đại lý bán
lẻ, hoặc công ty đặt hàng qua mạng. Đối với đại lý bán lẻ hoặc công ty