MÔ TẢ GIẢI PHÁP
Tên sáng kiến: Sử dụng Bản đồ tư duy trong day học hóa học lớp 9
Mã số: ……………………………………
1- Trình trạng giải pháp đã biết:
Hoá học là một môn học khó đối với học sinh THCS vì nó là một môn khoa học tổng hợp kiến
thức của các môn khoa học tự nhiên và xã hội khác. Cho nên sau khi học xong chương trình lớp 7 các
em mới có đủ điều kiện để lĩnh hội kiến thức của môn học này, nội dung của môn học là tìm hiểu
những hiện tượng hóa học trong tự nhiên, giải thích, rút ra bài học, kiến thức cần nghiên cứu, từ đó
vận dụng vào trong đời sống thực tế, đây cũng là môn học khó nhớ, khó hiểu, khó vận dụng vì bài tập
rất đa dạng vừa định tính, vừa định lượng, đôi khi cả định tính và định lượng, do đó trong quá trình
nghiên cứu phải có sự liên kết giữa các kiến thức lại với nhau, phải nắm vững chính xác mới có thể
tính toán một cách tốt nhất. Bên cạnh đó một số em học sinh và phụ huynh còn cho rằng đây là một
môn học phụ nên các em chưa chú trọng, chưa có ý thức để học tập tốt bộ môn. Dẫn đến kết quả học
tập của học sinh về môn hoá học ở các trường THCS còn thấp, đa số các em đều thấy khó khi học môn
học này và chỉ học với hình thức đối phó.
Bản thân là một giáo viên đứng lớp giảng dạy bộ môn Hóa học 9 cảm thấy việc lĩnh hội kiến
thức hoá học của học sinh là hết sức khó khăn, khối lượng kiến thức HS cần lĩnh hội tương đối nhiều.
Phần lớn các bài gồm những khái niệm mới, tính chất mới (mỗi tính chất ứng với một phương trình
hóa học mới, ứng dụng mới, bài tập mới), rất trừu tượng, khó hiểu, khó nhớ. Theo chỉ đạo của ngành
Giáo dục trong những năm gần đây, rất chú trọng đến việc đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt là
đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động và sáng tạo của học sinh.
Theo đó, tôi cũng luôn tích cực tìm cách để chọn cho mình phương pháp truyền đạt tốt nhất giúp các
em lĩnh hội tốt kiến thức và vấn đề đặt ra là phương pháp này phải gây được hứng thú học tập môn
Hóa học cho các em, giúp các em chủ động lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng, không gượng ép là
quan trọng nhất. Khi học sinh có hứng thú, niềm say mê với môn Hóa học sẽ giúp các em phát huy
được năng lực tư duy, khả năng tự học và óc sáng tạo không còn thấy khó. Để từ đó nâng cao chất
lượng bộ môn nói riêng và góp phần nâng cao chất lượng giáo dục nói chung là vấn đề hết sức quan
trọng trong quá trình dạy học của giáo viên.
Việc đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá; dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ năng, và thực
hiện khung phân phối chương trình giảm tải thì giáo viên đã chọn cho mình những phương pháp dạy
học phù hợp. Với sự hỗ trợ đắc lực của các phương tiện kĩ thuật giành ngành giáo dục đã và đang phần
nào đạt được những mục tiêu đặt ra.
Với những đặc điểm và mục tiêu trên, có nhiều phương pháp dạy học được đề ra và thực hiên
như: Tổ chức hoạt động nhóm của học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên, dạy giáo án điện tử, ứng
dụng các phần mềm công nghệ thông tin vào giảng dạy, củng cố kiến thức sau mỗi phần, mỗi bài, mỗi
chương, tạo lập đề cương để học sinh tự học, tự tìm hiểu, … Những phương pháp này cũng đã góp
phần nâng cao chất lượng bộ môn. Tuy nhiên, không có phương pháp dạy học nào là tối ưu, mà phải
có những khuyết điểm riêng của nó, do đó cần có một sự kết hợp nhịp nhàng giữa các phương pháp thì
hiệu quả mới thực sự tốt nhất. Do Hóa học là môn học đòi hỏi nhiều tư duy suy luận từ cái chung để
tìm ra cái riêng và ngược lại, kiến thức môn học đa dạng phong phú, đặc biệt là tính chất hóa học của
các loại chất, các em phải thấy được những tính chất chung, tính chất riêng của từng chất, mối quan hệ
giữa tính chất của các chất với nhau, từ kiến thức cơ bản mà học sinh phải nắm như định nghĩa chất
đến kiến thức phức tạp như tính chất của chất, phương trình hóa học, các bài tập, … và đặc biệt là
mối quan hệ của các chất. Như vậy, Với những phương pháp dạy học như trên chúng ta sẽ thường gặp
một số ưu, khuyết điểm sau:
1
+ Tổ chức hoạt động nhóm: Phương pháp này thực sự phát huy được tính tích cực cho hoc sinh.
Tuy nhiên, phương pháp này nếu lạm dụng nhiều, hoạt động với nội dung đơn giản sẽ mất rất nhiều
thời gian, trong khi một tiết học trên lớp chỉ có 45 phút, đối với những bài có nhiều hoạt động thì
không đủ thời gian để thực hiện.
+ Học sinh sẽ tập trung ghi bài mà không tham gia thảo luận nhóm, hoặc chỉ tập trung thảo luận
nhóm, trao đổi và trả lời những câu hỏi mà không ghi bài, đôi khi chỉ thảo luận ở một số em. Như
vậy, học sinh không thể nắm được ý chính của bài để định hướng học tập.
+ Trong quá trình dạy cho dù truyền thống hay giáo án điện tử giáo viên thường cũng cố bài
theo hình thức từng phần hoặc sau mỗi bài, điều này cũng giúp các em nắm được kiến thức của bài
học. Nhưng thực tế các em chỉ học thuộc lòng, học vẹt, thuộc một cách máy móc, học mà không tự
giác, không khắc sâu vào bộ não của mình, đôi khi thuộc nhưng không nhớ được kiến thức trọng tâm,
không nắm được “sự kiện nổi bật” trong bài học. Do đó, hạn chế của các em là chưa biết cách học,
cách ghi kiến thức vào bộ não hoặc không biết liên tưởng, liên kết các kiến thức có liên quan với nhau.
+ Để vận dụng kiến thức đã học vào giải các bài tập học sinh phải đảm bảo được kiến thức cơ
bản trọng tâm của chương trình học, những vẫn đề chính, phải biết tổng hợp so sánh và hệ thống hóa
kiến thức một cách logic. Trường hợp này các phương pháp dạy học trên không thực hiện được. Và
qua quan sát từ thực tế giảng dạy thì học sinh còn hạn chế trong việc tư duy suy luận, vận dụng kiến
thức, lien kết kiến thức vào giải các bài tập.
+ Khi dạy giáo viên cố gắng khắc sâu kiến thức cho các em bằng cách củng cố kiến thức sau
mỗi bài dạy với nhiều hình thức: Củng cố từng phần, củng cố sau bài, sau mỗi chương, trước thời gian
kiểm tra, thời gian thi, … Để học sinh có thể đạt kết quả cao. Tuy nhiên, giáo viên chỉ đưa ra việc
củng cố bằng những gạch đầu dòng, những câu hỏi yêu cầu học sinh trả lời, hoặc một hệ thống câu hỏi
sau chương, trước khi kiểm tra, thi hoặc đề cương học tập. Đối với học sinh chỉ học thuộc lòng những
nội dung các gạch đầu dòng, chỉ trả lời được những câu hỏi của giáo viên trên lớp, mà không khắc sâu
được kiến thức trong đầu, và về sau không gắn kết được với các kiến thức với nhau.
+ Trong thực tế hiện nay, việc yêu cầu học sinh học bài theo những nội dung mà giáo viên đề ra
thực sự là rất khó khăn đối với các em, và các em xem đây như là một việc “tra trấn” đối với mình, các
em sẽ không tự giác học tập, mà chỉ “thi hành” theo nhiệm vụ và khi hoàn thành nhiệm vụ thì xem
như bỏ qua. Từ đó, chúng ta không phát huy được vai trò tự học, tự tìm hiểu, tự sáng tạo ở các em,
điều mà giáo viên cần phải đạt đến.
2- Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến:
2.1-Mục đích của giải pháp: Giúp HS có thể hệ thống kiến thức, tư duy logic, khắc sâu và nhớ
lâu kiến thức mình đã học, từ đó ham thích học bộ môn này hơn, yêu thích tìm hiểu khoa học hơn.
2.2-Những điểm khác biệt, tính mới của giải pháp: Trước đây, phần lớn trong quá trình giảng
dạy được sử dụng nhiều phương pháp, nhưng phần cũng cố kiến thức giáo viên chỉ chốt lại những kiến
thức của bài học bằng những câu hỏi, hoặc sau một chương là nội dung phần lí thuyết đã học, đòi hỏi
học sinh phải học thuộc kiến thức, khi đó học sinh vẫn cố gắng học thuột mà không nhớ lâu, khắc sâu.
Sau đó lại quên và không được áp dụng kiến thức của các bài trước cho bài sau, chương trước cho
chương sau, điều này dẫn tới việc kiến thức cơ bản không được các em tích lũy và vận dụng khi học
các phần tiếp theo của môn học. Bản đồ tư duy (BĐTD) có thể làm cho các em phát huy tính tích cực,
tự học, sự sáng tạo, tự giác, hứng thú trong học tập, giúp các em nhớ lâu, hiểu sâu kiến thức và kết nối
được những kiến thức đã học lại với nhau bằng những hình ảnh, đường nét, màu sắc mà các em thích,
từ đó các em tự nghĩ và tạo ra những BĐTD theo kiểu hệ thống kiến thức cho riêng mình.
2.3-Nội dung chi tiết bản chất của giải pháp:
2.3.1- Phương pháp dạy học bằng sơ đồ tư duy:
2.3.1.1- Sơ đồ tư duy là gì?
2
Sơ đồ tư duy là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt những
ý chính của một nội dung, hệ thống hóa một chủ đề… bằng cách kết hợp việc sử dụng hình ảnh,
đường nét, màu sắc, chữ viết…Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, việc thiết kế sơ đồ là theo mạch tư duy
của mỗi người.
Việc ghi chép thông thường theo từng hàng chữ khiến chúng ta khó hình dung tổng thể vấn đề,
dẫn đến học sinh nhớ thiếu tính chất, không so sánh được những tính chất. Còn sơ đồ tư duy tập trung
rèn luyện cách xác định chủ đề rõ ràng, nhớ được số lượng tính chất, so sánh những tính chất với
nhau. Sơ đồ tư duy có ưu điểm:
+ Dễ nhìn, dễ viết.
+ Kích thích hứng thú học tập và khả năng sáng tạo của học sinh
+ Phát huy tối đa tiềm năng ghi nhớ của bộ não.
+ Rèn luyện cách xác định chủ đề và phát triển ý chính, ý phụ một cách logic.
Sơ đồ tư duy sẽ giúp:
1. Sáng tạo hơn
2. Tiết kiệm thời gian
3. Ghi nhớ tốt hơn
4. Nhìn thấy bức tranh tổng thể
5. Phát triển nhận thức, tư duy, …
2.3.1.2- Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học:
Cho học sinh làm quen với sơ đồ tư duy bằng cách giới thiệu cho học sinh một số “sơ đồ tư
duy” cùng với dẫn dắt của giáo viên để các em định hướng nhanh hơn.
Hướng cho học sinh có thói quen khi tư duy lôgic theo hình thức sơ đồ hoá trên sơ đồ tư duy.
Từ một vấn đề hay chủ đề chính đưa ra các ý lớn thứ nhất, ý lớn thứ hai, thứ ba mỗi ý lớn lại
có các ý nhỏ liên quan với nó, mỗi ý nhỏ lại có các ý nhỏ hơn các nhánh này như “bố mẹ” rồi “con,
cháu, chắt, chút, chít” các đường nhánh có thể là đường thẳng hay đường cong.
Cho học sinh thực hành vẽ sơ đồ tư duy trên giấy: Chọn từ khóa- tên chủ đề hoặc hình vẽ của
chủ đề chính cho vào vị trí trung tâm, chẳng hạn: Tính chất hóa học của oxit, tính chất hóa học của
axit, tính chất hóa học của bazơ, tính chất hóa học của muối, sau đó tổng hợp lại thành sơ đồ chung
tính chất hóa học của hợp chất vô cơ, để học sinh có thể tự mình ghi tiếp kiến thức vào tiếp các
nhánh “con”, “cháu”, “chắt” theo cách hiểu của các em. Ngoài ra, để BĐTD được đơn giản ngắn
gọn, giáo viên có thể qui ước những từ viết tắt thường xuyên lập lại. Chúng ta có thể yêu cầu học sinh
vẽ theo nhóm hoặc từng cá nhân
3
Đối với giáo viên, để thiết kế một sơ đồ tư duy đối với một bài học, chúng ta có thể thiết kế
bằng bảng vẽ trên giấy, hoặc hệ thống kiến thức bằng sơ đồ trên bảng, hoặc có thể dùng phần mềm
Mindmap. Đối với phần mềm này giáo viên có thể thực hiện thành một giáo án hay một bài giảng điện
tử với kiến thức được xây dựng thành một sơ đồ, qua đó còn có thể kết hợp để trình chiếu những nội
dung cần lưu ý hay những đoạn phim có ứng dụng, thí nghiệm được liên kết với sơ đồ. Qua đó có thể
giúp học sinh hệ thống được kiến thức vừa học, khắc sâu được kiến thức trọng tâm.
Đối với học sinh, trước hết giáo viên phải giới thiệu một số sơ đồ tư duy cho các em làm quen,
sau đó hướng các em từ từ xây dựng các sơ đồ riêng cho mình. Bước đầu, chỉ yêu cầu học sinh xác
định được vấn đề trọng tâm, sau đó hệ thống các kiến thức liên quan thành sơ đồ phân nhánh, rồi từ đó
học sinh sẽ thiết kế thành nhưng sơ đồ theo tư duy của mỗi cá nhân. Có thể áp dụng dùng sơ đồ trước
hay sau khi học một bài học, với bài học mới, có thể đặt ra nhiệm vụ cần nghiên cứu bằng một sơ đồ
rỗng, sau từng nội dung nghiên cứu kiến thức mới các em điền vào, cuối cùng chúng ta được một sơ
đồ hoàn chỉnh và thuyết trình lại theo suy nghĩ của từng em, Đối với bài học khó, bài học có nhiều đơn
vị kiến thức như các bài ôn tập, tổng kế chương, có thể cho học sinh xây dựng theo một nhóm, rồi dựa
vào sơ đồ học sinh sẽ thảo luận, sau đó nhóm sẽ trình bày kiến thức theo hình thức thuyết trình dựa
trên sơ đồ đã xây dựng, sau bài học thì có thể yêu cầu học sinh tự hệ thống lại kiến thức bằng sơ đồ
theo cách riêng của mình. Việc phối hợp linh động nhiều phương pháp trong quá trình giảng dạy, kết
hợp với việc thiết lập sơ đồ tư duy để hệ thống kiến thức đã giúp cho học sinh nắm được bài nhanh
hơn và nhớ lâu hơn.
2.3.1.3- Cách ghi chép trên sơ đồ tư duy:
- Cánh ghi:
+ Nghĩ trước khi viết.
+ Viết ngắn gọn.
+ Viết có tổ chức, hệ thống.
+ Viết lại theo ý của mình, nên chừa khoảng trống để có thể bổ sung ý (nếu sau này cần)
- Điều cần tránh khi ghi chép trên sơ đồ tư duy:
+ Ghi lại nguyên cả đoạn văn dài dòng.
+ Ghi chép quá nhiều ý vụn vặt không cần thiết.
+ Dành quá nhiều thời gian để ghi chép, vẽ hình.
2.3.1.4- Hướng dẫn học sinh lập sơ đồ tư duy:
Bước 1: Bắt đầu từ trung tâm với hình ảnh của chủ đề, hay có thể với một từ khóa được viết in
hoa, viết đậm. Một hình ảnh có thể diễn đạt được cả ngàn từ và giúp ta sử dụng trí tưởng tượng của
mình. Một hình ảnh ở trung tâm sẽ giúp ta tập trung được vào chủ đề và làm cho ta hưng phấn hơn.
4
Bước 2: Luôn sử dụng màu sắc. Bởi vì màu sắc cũng có tác dụng kích thích não như hình ảnh.
Bước 3: Nối các nhánh chính (cấp một) đến hình ảnh trung tâm, nối các nhánh cấp hai đến các
nhánh cấp một,…. bằng các đường kẻ, đường cong với màu sắc khác nhau.
Bước 4: Mỗi từ/ảnh/ý nên đứng độc lập và được nằm trên một đường kẻ hay đường cong.
Bước 5: Tạo ra một kiểu bản đồ riêng cho mình (Kiểu đường kẻ, màu sắc, hình ảnh…)
Bước 6: Bố trí thông tin đều quanh hình ảnh trung tâm.
2.3.1.5- Vận dụng:
Giáo viên, học sinh có thể sử dụng sơ đồ tư duy để hệ thống hoá một vấn đề, một chủ đề, ôn tập
kiến thức…
Học sinh hoạt động nhóm thông qua sơ đồ tư duy trên lớp học, hoặc hoạt động cá thể, ôn luyện
tập ở nhà…
2.3.2- Chuẩn bị thiết kế sơ đồ tư duy trong bài học:
Phương tiện để thiết kế sơ đồ khá đơn giản, chỉ cần giấy, bìa, bảng phụ, phấn màu, bút chì
màu, tẩy,…hoặc dùng phần mềm Mindmap vẽ trên vi tính sau đó xuất ra dưới dạng file word cho học
sinh tham khảo, có thể vận dụng bằng cách điền vào, hoặc powerpoint để kết hợp trong giáo án điện
tử, vì vậy có thể vận dụng với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay. Điều
quan trọng là giáo viên hướng cho học sinh có thói quen lập sơ đồ tư duy trước hoặc sau khi học một
bài hay một chủ đề, một chương, để giúp các em có cách sắp xếp kiến thức một cách khoa học, lôgic.
Đối với mỗi bài học, để xây dựng được sơ đồ tư duy đảm bảo nội dung kiến thức, có thể hệ
thống kiến thức một cách đầy đủ và logic, thì giáo viên cần phải xác định được mục tiêu của bài, nêu
được nội dung chính của bài đảm bảo theo chuẩn kiến thức kĩ năng, qua đó hướng học sinh chú ý
trọng tâm, định hướng được nội dung bài học cần nắm để có thể tự hệ thống lại bằng sơ đồ.
2.3.3- Thiết kế một số sơ đồ tư duy:
Đối với chương I trong chương trình hóa học lớp 9, chúng ta có thể tiến hành như sau: Đầu tiên
là bài ôn tập, giáo viên lập và yêu cầu học sinh thực hiện tương tự để phân biệt được các loại hợp chất
vô cơ (ta qui ước một số từ viết tắc trong sơ đồ đầu tiên, để các sơ đồ sau này thực hiện được ngắn gọn
hơn).
Đối với các bài tìm hiểu tính chất hóa học
chung của các loại chất vô cơ: Oxit, axit, bazơ, muối
chúng ta có thể cũng cố bằng sơ đồ tư duy như sau:
5
Cuối chương chúng ta sẽ yêu cầu học sinh tư duy tìm cách ráp các sơ đồ tư duy đã thực hiện để
được một sơ đồ tu duy cho bài tổng kết chương:
6
Đối với các bài tìm hiểu tính chất hóa học của các chất cụ thể chúng ta có thể đặt vấn đề bằng
một sơ đồ rỗng, trong quá trình tìm hiểu bài, với những thí nghiệm chứng minh, cuối cùng học sinh có
thể trình bày sơ đồ tư duy hoàn chỉnh, sau đó có thể yêu cầu học sinh tư duy mở rộng bằng cách thay
đổi chất tác dụng, học sinh có thể dự đoán được sản phẩm, rồi viết phương trình hóa học mở rộng:
+ Một số oxit quan trọng: Mỗi một nhánh HS sẽ bổ sung phương trình hóa học vào đó
7
H
2
O
+ H
2
O
Ca(OH)
2
+ H
2
SO
4
CaSO
4
+ CO
2
CaCO
3
CaSO
4
+ Một số axit quan trọng: Mỗi một nhánh
HS sẽ bổ sung phương trình hóa học vào đó
8
H
2
O
+ Zn
+ NaOH
NaCl
H
2
O
+ CaO
+ CaSO
3
CaCl
2
ZnCl
2
H
2
CaCl
2
H
2
SO
3
H
2
O
+ Zn
+ NaOH Na
2
SO
4
+ CaO
Ca SO
4
ZnSO
4
H
2
2
4
2
2
+ H
2
O
+ NaOH
Na
2
SO
3
H
2
O
+ CaO
CaSO
3
H
2
SO
3
+ Một số baz ơ quan trọng: Mỗi một nhánh HS sẽ bổ sung phương trình hóa học vào đó
9
H
2
O
+ CaSO
3
CaSO
4
H
2
SO
3
H
2
O
Na
2
SO
4
H
2
O
+ H
2
SO
4
Cu(OH)
2
+ SO
3
Na
2
SO
4
Na
2
SO
4
+ CuSO
4
H
2
O
CaSO
4
H
2
O
+ H
2
SO
4
Cu(OH)
2
+ SO
3
CaSO
4
CaSO
4
+ CuSO
4
Tương tự chương 1, chúng ta cũng thực hiện ở chương 2 kim loại, chương 3 phi kim, chương 4
hiđrôcacbon, chương 5 dẫn suất hiđrôcacbon:
10
+O
2
+PK
+Cl
2
Al
2
O
3
AlCl
3
+HCl
AlCl
3
AlCl
3
H
2
+CuCl
2
Cu
+NaOH
H
2
+O
2
+PK
+Cl
2
Fe
3
O
4
FeCl
3
+HCl
FeCl
2
FeCl
2
H
2
+CuCl
2
Cu
Đặc biệt với các sơ đồ tu duy trên được áp dụng vào trong việc soạn giảng bằng giáo án điện tử
sẽ làm tăng thêm sự thu hút và chú ý tập trung của học sinh hơn khi chúng ta chiếu từng nhánh một và
đặc câu hỏi cũng cố, sau đó liên kết slide để chiếu nội dung, hình ảnh, phương trình hóa học, ứng
dụng, hoặc một clip thí nghiệm. Từ đó học sinh sẽ khắc sâu kiến thức hơn.
2.3.4- Một số sơ đồ tư duy của học sinh:
11
12
3- Khả năng áp dụng của giải pháp:
Với tính khả thi đã đạt được của đề tài qua quá trình áp dụng, trong những năm sắp tới, tôi sẽ
tiếp tục thực hiện phổ biến trong toàn bộ chương trình Hóa học THCS, tổ Khoa học Tự nhiên và các
môn khác của trường.
4- Hiệu quả, lợi ích thu được:
Qua nghiên cứu thực hiện từ đầu năm học đến nay, chất lượng bộ môn Hóa học khối 9 của
trường có chuyển biến tích cực, kết quả sau mỗi lần kiểm tra từng bước được nâng lên. Đặc biệt là thái
độ học tập của các em cũng được tiến bộ, các em không còn thấy sợ, thấy khó hiểu, khó nhớ ở môn
học, các em tự giác tìm hiểu, suy nghĩ, tư duy cho mình một cách học riêng bằng bản đồ tư duy.
4.1-Trước khi áp dụng phương pháp: Kết quả khảo sát chất lượng giữa học kì I
Lớp
Tổng số
học sinh
Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém
13
SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%)
9 68 11 16.2 12 17.6 19 27.9 24 35.3 2 3
4.2-Sau khi áp dụng phương pháp: Kết quả khảo sát chất lượng học kì I
Lớp
Tổng số
học sinh
Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém
SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%)
9 68 22 32.4 6 7.4 19 27.9 21 30.9 1 1.4
Kết quả khảo sát chất lượng giữa học kì II
Lớp
Tổng số
học sinh
Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém
SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%)
9 68 31 45.6 16 23.5 14 20.6 7 10.3
Nhận xét: Sau thời gian áp dụng phương pháp mới, kết quả đạt được (giữa học kì II) như sau:
- Tỉ lệ học sinh giỏi từ 16.2% lên 45.6%, tăng 29.4%
- Tỉ lệ học sinh khá từ 17.6% lên 23.5%, tăng 5.9%
- Tỉ lệ học sinh trung bình từ 27.9% xuống 20.6%, giảm 7.3%
- Tỉ lệ học sinh yếu từ 35.3% xuống 10.3%, giảm 25%
- Tỉ lệ học sinh kém từ 3% xuống 0%
Đạt được một học sinh giỏi vòng huyện.
5- Những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu:
- Giáo viên phụ trách giảng dạy môn Hóa học 9
- Học sinh khối 9 của trường
6- Tài liệu kèm theo:
- Sơ đồ tư duy của các em học sinh: 6 bản.
Tôi xin cam đoan những điều khai trong đơn là đúng sự thật./.
Giồng trôm, ngày 13 tháng 3 năm 2012
Người nộp đơn
Nguyễn Minh Luân
14