Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tiểu luận những giá trị và hạn chế của phật giáo ảnh hưởng tới nếp sống, suy nghĩ của con người việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.17 KB, 20 trang )

CẤU TRÚC ĐỀ TÀI
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
B. NỘI DUNG
1. Những giá trị và hạn chế của Phật giáo
1.1. Khái quát về Phật giáo
1.2. Những giá trị của Phật giáo
1.3. Những hạn chế của Phật giáo
2. Ảnh hưởng của Phật giáo ở Việt Nam hiện nay
3. Giải pháp phát huy tính tích cực cũng như hạn chế ảnh hưởng tiêu cực
của Phật giáo trong giai đoạn hiện nay
C. KẾT LUẬN
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Việt Nam là một cộng đồng đa nguyên về tín ngưỡng và tôn giáo, tồn
tại trên tinh thần hoà bình và tôn trọng tín ngưỡng. Có nhiều tôn giáo cùng
du nhập vào Việt Nam. Mỗi tôn giáo có ưu, nhược và mức ảnh hưởng
riêng. Nếu như các tôn giáo như Thiên chúa giáo, lão giáo, nho giáo chỉ
lưu tâm đến một giai tầng, một giáo phái nhất định thì Phật giáo lại quan
tâm đến tất cả chúng sinh (cỏ cây, động vật, con người). Có lẽ đó cũng là lí
do mà hiện nay tôn giáo thu hút được nhiều tín đồ và có tầm ảnh hưởng
rộng khắp vẫn là Phật Giáo. Một câu hỏi lớn đặt ra: Ưu, nhược của tư
tưởng Phật giáo thể hiện như thế nào? Mức ảnh hưởng của nó ra sao? đang
là vấn đề cần được nhiều người quan tâm, tìm hiểu.
Do vậy tôi chọn đề tài: " Những giá trị và hạn chế của Phật giáo
ảnh hưởng tới nếp sống, suy nghĩ của con người Việt Nam hiện nay".
Làm tiểu luận cho mình.
Thực hiện tiểu luận trên, tôi nhận được sự giúp đỡ của bạn bè, đồng
nghiệp và đặc biệt là sự giảng dạy nhiệt tình của T.s Cao Thái Sơn đã giúp
tôi hoàn thành đề tài trên.
Tôi hy vọng, với tiểu luận này tôi sẽ góp một phần kiến thức nhỏ bé


trong cái nhìn tổng quan về Phật Giáo và cho những ai quan tâm đến vấn đề
này.
2
B. NỘI DUNG:
1. Những giá trị và hạn chế của Phật giáo:
1.1. Khái quát về Phật giáo:
Phật giáo ra đời vào thế kỉ VI trước Công nguyên, người sáng lập là
Siddharta (Tất Đạt Đa). Về sau, ông được người đời tôn vinh là
Sakyamumi (Thích Ca Mâu Ni) là Buddha (Phật).
Phật là tên ghi âm Hán Việt của Buddha, có nghĩa là giác ngộ. Phật
giáo là hình thức giáo đoàn được xây dung trên một niềm tin từ Đức Phật,
tức là từ biển lớn trí tuệ và từ bi của Siddharta. Kinh điển của Phật giáo bao
gồm Kinh Tạng, Luật Tạng và Luân Tạng. Phật giáo tin và luân hồi và
nghiệp, cũng tìm con đường “giải thoát” ra khỏi nghiệp được gọi là Niết
Bàn. Nhưng điểm khác nhau giữa Phật giáo và các tôn giáo khác là ở chỗ
chúng sinh thuộc bất kì đẳng cấp nào cũng đều được “giải thoát”.
Phật giáo đặc biệt quan tâm đến quan hệ nhân quả. Nó nhìn nhận thế
giới tự nhiên cũng như nhân sinh thông qua sự phân tích mối quan hệ này.
Và theo Phật giáo, nhân – quả là một chuỗi liên tục, không gián đoạn và
không hỗn loạn, có nghĩa là nhân nào quả nấy. Nhân duyên chính là một
cách gọi khác của mối quan hệ này với ý nghĩa là: một kết quả của một
nguyên nhân nào đó, sẽ là nguyên nhân của một kết quả khác.
Cụ thể, khi nhìn nhận thế giới tự nhiên, Phật giáo cho rằng không thể
tìm ra nguyên nhân đầu tiên cho vũ trụ. Điều đó có nghĩa là không có một
đấng Brahman nào sáng tạo ra vũ trụ cả. Bên cạnh đó, Phật giáo cũng phủ
định phạm trù Atman bằng cách trình bày về quan điểm “vô ngã”
(Anatman) và quan điểm “vô thường”.
Nói về quan điểm “vô ngã”, nó cho rằng vạn vật trong vũ trụ chỉ là sự
“giả hợp” do hội đủ nhân duyên nên thành ra “có”. Một ví dụ cụ thể đơn
giản, dễ thấy là sự tồn tại của thực thể con người là do sự hội tụ của “ngũ

uẩn” bao gồm: Sắc (vật chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy
lí) và thức (ý thức).
Còn về quan điểm “vô thường”, nó có nghĩa là vạn vật biến đôỉ vô
cùng theo chu trình bất tận sau: Sinh- trụ- dị- diệt. Vì vậy mà lúc có, lúc
không, có có rồi lại không không luân hồi bất tận.
Về nhân sinh quan, Phật giáo tập trung vào tìm kiếm mục tiêu nhân
sinh ở sự ”giải thoát” (Moska) khỏi vòng luân hồi, và nghiệp báo để đạt tới
trạng thái tồn tại Niết Bàn (Nirvana). Triết học nhân sinh đề cập đến nội
dung của thuyết “tứ diệu đế” hay bốn chân lí tuyệt vời. Chúng bao gồm:
3
Khổ đế kể về tám nỗi khổ cùng quan niệm đời là bể khổ, Tập đế hay nhân
đế đưa ra thuyết “thập nhị nhân duyên”, Diệt đế – mọi nỗi khổ đều bị tiêu
diệt để đạt tới trạng thái Niết Bàn và cuối cùng là Đạo đế chỉ ra con đường
“tu đạo” tiêu diệt cái khổ.
Trải qua quá trình vận động của lịch sử, Phật giáo đã bị phân chia
thành nhiều hệ phái khác nhau. Nguyên nhân gây nên hiện tượng này là do
những mâu thuẫn nảy sinh bên trong nội bộ của Phật giáo. Cụ thể đó là mâu
thuẫn giữa quan điểm bảo thủ của các tăng sĩ đứng đầu là Ca Diếp với quan
điểm cách tân do Anan chủ trì. Hai là sự khác nhau về giới luật giữa một
bên bắt phải theo luật và một bên thả lỏng hơn. Đây chính là mâu thuẫn gây
ra sự tranh cãi mạnh mẽ nhất dẫn đến sự phân phái của Phật giáo. Ba là sự
khác nhau về triết họcvà giáo lí trong nội bộ Phật giáo, biểu hiện thành mâu
thuẫn giữa quan điểm hữu luận (coi thế giới vật chất tồn tại chân thực, hiện
hữu tương đối) và quan điểm không luận (thế giới hiện hữu là không có
thật, gốc bằng không). Nhưng nguyên nhân cơ bản và sâu xa nhất chính là
sự thay đổi của cuộc sống hiện thực xã hội, nên tư tưởng của Phật giáo
cũng phải thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh. Đây là một qui luật khách
quan. Quá trình phân phái của Phật giáo là một tất yếu phù hợp với lôgíc
phát triển nội tạo của nó. Đó cũng là một bước phát triển mới cao hơn về
qui mô và phạm vi của trường phái Phật giáo. Những hệ phái mới của Phật

giáo như: Về triết học có hai phái đáng chú ý là phái Nhất thiết hữu bộ và
phái Kinh lượng bộ; Phật giáo Đại thừa và Tiểu thừa.
Ở nhiều nơi trên thế giới, Phật giáo có khi hưng thịnh, trở thành quốc
giáo, nhưng cũng có khi suy giảm và sụp đổ. Nhưng cho đến nay, Phật giáo
vẫn đang và sẽ tồn tại ở nhiều đất nước, bởi ở đó họ tìm được những giá trị
tuyệt vời giúp con người vững bước trên đường đời.
1.2. Những giá trị của Phật giáo:
a) Giá trị nhân bản thể hiện trong thuyết “Duyên sinh vô ngã”và những
quan điểm về con người:
Giá trị nhân bản của Phật giáo là một giá trị lớn trong số những giá trị
của nó. Giá trị này được thể hiện rõ trong Nhân bản luận của Phật giáo với
thuyết “Duyên sinh vô ngã”. Đây không chỉ là giá trị tư tưởng mà còn là
giá trị văn hoá, tôn giáo tích cực trong xã hội.
“Duyên sinh vô ngã” là một cuộc cách mạng thực sự khi nó giúp con
người thoát khỏi thần quyền. Nhân bản luận Phật giáo phân ra hai loại tồn
tại người. Một là Tư Ngã với sự tồn tại là giả hợp. Hai là Vô Ngã với sự tồn
4
tại là đích thực. Tư ngã là đau khổ, ngược lại với Vô Ngã là giả thoát, là
Niết Bàn. Khi con người càng quyến luyến, ràng buộc với tự ngã, càng cố
thoả mãn nó thì càng sa vào đau khổ, đau khổ luân hồi bất tận. Tất cả các ý
thức, kinh nghiệm về tự ngã đều thuộc giới hạn “vô minh” và đau khổ. Để
chấm dứt sự đau khổ này, con người phải đạt tới sự giác ngộ về Vô ngã.
Đây là đỉnh cao trí tuệ của sự giác ngộ để đi đến giải thoát và Niết Bàn.
Phật giáo không viện đến thần linh mà đề cao sự nỗ lực của bản thân mỗi
người. Có thể nói rằng Phật giáo là tôn giáo đầu tiên đưa ra lập trường tôn
giáo vô thần: đảo hướng tư duy sang tìm kiếm niềm tin ở chính con người.
Giá trị này đã đóng góp lớn vào việc mở ra một cách tiếp cận độc đáo trong
việc đề cao con người.Đó là cách tiếp cận tôn giáo- nhân bản- phi thần
quyền.
Với Phật giáo, đời là “bể khổ”. Con người chỉ có được hạnh phúc khi

thoát khỏi nó bằng giácd ngộ về Vô ngã. Phật giáo chỉ ra con đường tự giác
tu dưỡng “Bát chính đạo” là sự kết hợp độc đáo của tám pháp tu trên cơ sở
phối hợp ba phương diện tu dưỡng: đạo đức (giới)- thực hành thiền (định)-
trí tuệ (tuệ).
Trong quá trình phát triển, Phật giáo đã bảo tồn những giá trị căn bản
của Phật giáo Nguyên thuỷ, đồng thời không ngừng bổ sung và hoàn thiện
qua các luận tạng. Thể hiện ở sự phát triển của Giáo Lí Tiểu thừa (tự tha)
đến khuynh hướng Đại thừa hiện đại hoá ngay trong nội bộ Phật giáo.
Điểm tiến bộ của Đại thừa là ở nhân bản luận của nó đã được nâng lên tầm
phổ quát: giác ngộ vượt ra ngoài hữu ngã và vô ngã: “Không nhất như”,
“không chân như”. Nhân bản luận Phật giáo trong quá trình du nhập, đối
thoại và phân phái đã không ngừng khắc phục hạn chế và ngày càng hiện
đại hoá. Nó đã được hầu hết các nước châu Á có sự hiện diện của Phật giáo
tiếp nhận và phát triển thành các giá trị tư tưởng tôn giáo- triết học- đạo
đức dân tộc. Các giá trị tư tưởng này được thể hiện rất đa dạng thành các
giá trị văn học nghệ thuật, lối sống, làm phong phú thêm cho văn hoá bản
địa. Đó là các giá trị đề cao tính nội tâm, hướng nội của con người khi
chúng được chắt lọc và nâng lên tầm nghệ thuật. Ví dụ như trà đạo, hoa
đạo, võ đạo, thư pháp, thơ thiền…
Giá trị nhân bản của Phật giáo là độc đáo so với phương Tây và các
hệ tư duy khác. Bởi cách tiếp cận nhân bản luận của Phật giáo là trung đạo,
hướng nội và vô thần. Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hoá trở thành xu
hướng chung khách quan; mở cửa; giao lưu; hội nhập quốc tế là con đường
5
tất yếu; tiếp thu và cải biến các giá trị nhân loại là cần thiết, nhiều học giả
phương Tây đã đánh giá cao giá trị nhân bản của Phật giáo, coi nhân bản
luận của Phật giáo như là một đặc trưng trội của tư duy phương Đông, là
cái có thể bù đắp những thiếu hụt tư duy phương Tây về con người.
Ngược lại về phía mình, nhân bản luận Phật giáo cũng luôn tận dụng
các thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại để bảo vệ, bổ sung và phát triển

thêm giá trị nhân bản truyền thống của mình. Theo đó, trong bối cảnh toàn
cầu hóa hiện nay, việc xây dung một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc và làm cho một hệ tư tưởng văn hoá có thể bảo tồn, phát huy và
hoàn thiện các giá trị truyền thống của nó, không thể không tiếp thu tinh
hoa và góp phần làm phong phú thêm nền văn hoá của nhân loại, đồng thời
đấu tranh chống sự xâm nhập của văn hoá độc hại, của các giá trị ngoại lai
phản tiến bộ. Và chỉ có trên cơ sở đó, các giá trị nhân bản tiến bộ của Phật
giáo mới có thể được giữ gìn và phát huy với tư cách là những nét độc đáo
so với các giá trị văn hoá khác.
Đạo Phật là một triết lí về con người hướng nội. Đạo Phật quan niệm
đời người là bể khổ, song đó lại là cái khổ trong nội tâm của từng cá nhân
riêng lẻ. Điểm mạnh nhất của triết lí này là con người nội tâm, vô thần,
bình đẳng về đaọ đức. Đạo Phật đưa ra các quan điểm về vũ trụ luận,
nghiệp và luân hồi, giải thoát luận.
Vũ trụ luận của đạo Phật không tách dời vũ trụ người về không gian
và thời gian, với mục đích tồn tại là lí giải vũ trụ người. Theo đạo Phật, vũ
trụ gồm nhiều thế giới khác nhau cùng sự tác động giữa chúng. Con người
trong vòng luân hồi sinh tử cũng phải trải qua nhiều thế giới gồm dục giới,
sắc giới, và vô sắc giới.
Về nghiệp và luân hồi, chúng có giá trị đạo đức tôn giáo độc đáo, như
một vị quan toà phán xử vô tư. Nghiệp nào lãnh quả ấy, nghiệp và luân hồi
có tác dụng cảnh tỉnh và hướng con người tự giác làm điều thiện. Tuy
nhiên, lập trường tôn giáo lại thể hiện rõ trong Phật giáo. Ở chỗ, con người
đạo đức Phật giáo là con người phi giai cấp, phi lịch sử. Khi con người trở
về với chính mình trên con đường tới Niết Bàn thì mọi mâu thuẫn về quyền
lợi, chính trị hay giai cấp…đều được cân bằng. Và như vậy, đạo Phật đã tự
mình thu hút được nhiều người hơn.
Về giải thoát luận, đạo Phật khẳng định tất cả mọi người đều bình
đẳng trên con đường giải thoát. Niết bàn là cảnh giới lí tưởng của giải thoát
luận đạo Phật. Đó là sự thoát ly khái niệm, thoát ly mọi hình tướng, nằm

6
ngoài phạm vi khảo sát và miêu tả. Nó được phân chia thành Niết bàn vô
dư và Niết bàn hữu dư. Sự phân đôi có ý nghĩa quan trọng trong việc vẽ ra
khả năng đạt tới Niết bàn, khích lệ niềm tin và sự tu dưỡng. Khi con người
đạt đến trạng thái giải thoát họ có được một phẩm chất lý tưởng gọi là
“Phật tính”. Tuy nhiên nó mới chỉ dừng lại ở phạm vi tinh thần, đạo đức,
tâm lý của con người cá nhân chứ chưa giải phóng hiện thực, xoá bỏ tận
gốc bất công, đau khổ trong đời sống kinh tế xã hội có giai cấp.
Con người lí tưởng của đạo Phật là Chu Phật, La Hán, Bồ Tát. Họ là
những con người “xuất thế”, bỏ đi các nhu cầu tự nhiên tới mức “diệt dục”,
“phi bạo lực”, thích nghi với mọi điều kiện và không phản kháng. Mô hình
lý tưởng của đạo Phật là con người bình đẳng về đạo đức, tất cả đều thiện
và không còn phân biệt đẳng cấp, không còn khác nhau về nhu cầu vật chất
và tinh thần.
b) Giá trị tư tưởng:
Như đã nói, Phật giáo cho rằng đời là bể khổ và con người muốn giải
thoát khỏi cái khổ để đạt tới sự giải thoát hay Niết bàn thì phải tu theo “Bát
chính đạo” và Giới- Định- Tuệ. Vì vậy, moõi con người khi là một thành
viên của trường phái này hay chỉ đơn thuần là tìm hiểu và nghiên cứu nó
đều tìm được cho mình những giá trị tư tưởng lớn giúp họ tồn tại và vững
bước trên con đường tương lai. Trong cuộc sống có rất nhiều vấn đề đáng
quan tâm và cần ta giải quyết. Mọi người phải tự tìm lấy cho mình một
nguyên tắc sống riêng để làm sao có thể dung hoà được tất cả các mối quan
hệ đang tồn tại xung quanh ta. Đạo Phật sẽ giúp chúng ta tìm thấy sự thanh
thản trong tâm linh, thoát khỏi những cám dỗ, bụi bẩn nơi trần tục. Để từ
đó mỗi người tự hoàn thiện chính bản thân mình và trở thành những công
dân tốt, có ích cho xã hội.
Mỗi người dân biết đến Hồ Chí Minh không chỉ là một vị lãnh tụ vô
cùng vĩ đại mà còn là một vị phật sống. Người đã dành rất nhiều thời gian
để đi sâu nghiên cứu Phật giáo và Người đã tìm được ở đây những giá trị

nhân văn và đạo đức cao cả. Và sau đó, Người đã vận dụng những giá trị đó
vào hướng dẫn chỉ đạo đường lối tư tưởng cho nhân dân ta trong suốt thời
bình và thời chiến. Thành công lớn nhất mà Hồ Chí Minh đạt được là đem
lại độc lập- tự do- dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Còn nhân dân luôn ủng
hộ Người trong quá trình giữ gìn hoà bình, thống nhất đất nước và xây
dựng, phát triển quê hương ngày càng giàu mạnh. Mặt khác, nhân dân ta
7
luôn thắt chặt tình đoàn kết, bình đẳng, tự do, bác ái, muốn thiết lập tình
hữu nghị với tất cả các nước trên thế giới.
Ở Việt Nam còn có vua Trần Thái Tông- vị hoàng đế mở đầu cho
triều đại nhà Trần cũng là một tín đồ Phật giáo rất nhiệt thành. Tuy nhiên
ông không quên trách nhiệm của mình đối với nhân dân và xã hội. Ở con
người này thấm nhuần những tư tưởng thiền học một cách sâu sắc. Đó là
một hệ thống triết học Phật giáo tương đối hoàn chỉnh, có mối liên hệ và sự
tương đồng khá sâu sắcvới các tư tưởng và triết lí thiền của Huệ năng trong
“Pháp bảo đàn kinh”. Với những kết quả mà mình đã tiếp thu có chọn lọc
và sáng tạo ông đềuphổ bién cho nhân dân ta. Bản thân ông là một tấm
gương lớn. Còn nhân dân cũng sẽ là lĩnh hội được cái hay của Thiền để có
thể áp dụng nó thạt thường xuyên trong cuộc sống. Như vậy, Trần Thái
Tông đã góp phần giáo dục tư tưởng cho nhân dân qua những triết lí
“Thiền” Phật giáo làm cho xã hội Việt Nam thời kì bấy giờ văn minh và tốt
đẹp hơn.
c) Giá trị triết học- tôn giáo của Thiền Phật giáo:
Ngày nay, Thiền Phật giáo vẫn đang thể hiện giá trị độc đáo của triết
học- tôn giáo Phật giáo trong văn hoá và lối sống. Nó được khai thác và
phát triển từ các góc độ tâm lí học, đạo đức học và văn hoá học.
Trong các kinh điển Phật giáo, Thiền luôn coi trọng tinh thần “Buông
bỏ” và lôgíc phát triển của nó phải là sự giải thoát bình đẳng, không phân
biệt đẳng cấp, giới tính trần tục hay thần thánh…Đây là điểm tiến bộ nhất
và rất cách mạng phật giáo về phương diện triết học – tôn giáo so với Bà la

môn giáo và triết lí Yoga.
Ngoài ra, nguồn gốc Ấn Độ của Thiền Phật giáo có gốc rễ từ kinh
điển Vêda cổ và trực tiếp hơn từ hệ thống kỹ thuật và giáo lý Yôga. Tuy
vậy, Thiền Phật giáo không phải chỉ là sản phẩm thuần nhất của Ấn Độ như
Yôga mà là kết quả của sự tiếp biến giữa hai nền văn hoá lớn Trung Quốc
và Ấn Độ, cụ thể hơn là sự dung hợp những tinh tuý về nghệ thuật nội quán
của ba giáo lý Yôga, Phật giáo và Lão giáo. Mặt khác, theo đánh giá của
triết gia Nitsơ thì Phật giáo là tôn giáo của “những chủng tộc thân thiết,
hiềng hoà, đã đạt đến mức độ cao của tư tưởng”. Ông viết tiếp: “Sự rõ ràng
của tư tưởng, sự an bài, sự vô ham là mục đích cao cả- đó là điều mà Phật
8
giáo muốn và đã đạt được”. Không những thế ông còn thấy được tính hiện
thực tôn giáo ở Phật giáo. Nó là một công cụ giáo dục con người. Bởi Phật
giáo chỉ ra nghệ thuật dạy dỗ những con người hạ đẳng bằng con đường
danh dự vươn lên cao hơn trong trật tự hão huyền của các vật thể và chính
nhờ đó, trật tự thực tế đi vào khuôn khổ có hiệu quả. Đối với con người,
trật tự này là rất hà khắc nhưng là sự hà khắc cần thiết. Giá trị của triết học-
tôn giáo của Thiền Phật giáo nói riêng và Phật giáo nói chung đã và đang
được ứng dụng vào trong đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân.
d) Giá trị đạo đức thể hiện trong nền kinh tế thị trường:
Đạo đức Phật giáo là một hệ đạo đức tôn giáo xuất thế, thiên về thế
giới nội tâm và có khuynh hướng vô thần. Điểm mạnh của đạo đức Phật
giáo là ở chỗ, nó cũng là một thứ đạo đức tôn giáo nhưng lại có khuynh
hướng vô thần nên tính nhân đạo có phần độc đáo hơn so với các tôn giáo
hữu thần do phát huy tối đa tính tự giác, tự tại của nội tâm cá nhân. Sự phán
xét của đạo đức là nghiệp quả, nghệp báo, nó điều chỉnh cá nhân theo qui
luật nhân quả tự tại.
Ra đời tại Ấn Độ vào thế kỉ VI trước Công nguyên, khi kinh tế Ấn
Độ vẫn là tự cung tự cấp, trao đổi bằng hiện vật, thì giá trị lí luận của Phật
giáo rất mờ nhạt. Tư tưởng kinh tế căn bản trong giáo lí Phật giáo là kinh tế

đạo đức với chủ trương “ham muốn ít”, bằng biện pháp “diệt dục, thiểu
dục” để tạo ra sự sung túc, chứ không phải là sản xuất nhiều hay tăng năng
suất để có được sự sung túc. Tư tưởng này đối lập với kinh tế thị trường vì
nó phản đối hưởng thụ, không khuyến khích làm giàu thậm chí còn không
khuyến khích tích luỹ.
Ngày nay, khi Phật giáo đã được phổ biến và trở thành tôn giáo lớn
trên thế giới thì sự tác động của thị trường tới đạo đức Phật giáo là không
thể tránh khỏi. Sự tác động này gồm hai mức độ là tác động tới hành vi đạo
đức và tác động tới đạo lí gốc của Phật giáo.
Cụ thể là sự xuất hiện quan hệ trao đổi giữa một bên là tăng sĩ Phật
giáo làm nghĩa vụ chăn lo phần tâm linh cho quốc gia, triều đình và dân
chúng trong các dịp quan trọng như lễ lên ngôi, cầu mưa, …và cho những
người dân trong cá sinh hoạt tinh thần như cưới xin, ma chay…Đối lại, bên
kia là triều đình cũng như quí tộc và dân chúng chăm lo phần vật chất cho
các tăng sĩ như ban thưởng lương thực, vàng bạc…Song song với sự tồn tại
của hình thức này là sự tác động của cơ chế thị trường đã làm biến dạng nó
đi và mặt khác đã ảnh hưởng không ít tới danh dự của Phật từ và tăng đoàn
9
Phật giáo phải chịu thiệt hại lớn. Chịu ảnh hưởng của nguyên tắc cung cầu
của cơ chế thị trường, hình thức trao đổi trên đã biến đổi cả về nội dung và
chất lượng kéo theo sự biến dạng. Nhu cầu tâm linh của con người quá lớn,
có khi còn hoàn toàn trái ngược với tinh thần giáo lí của Phật giáo, như
“trúng quả đậm”. Bên cạnh đó là nhu cầu của tăng sĩ cũng ngày càng đa
dạng và hiện đại như sử dụng tivi, di động hay xe ôtô…Hơn thế là sự xuất
hiện của những dịch vụ như bói toán, và những hòm công đức, hòm từ
thiện.
Một khía cạnh nữa về sự tác động của cơ chế thị trường đó là sự thay
đổi trong nhữngqui phạm của Giới luật. Ví dụ như giá trị từ bi, cứu độ của
giới Bố thí trong “Lục độ” bị sự chi phối trực tiếp của nguyên tắc “có đi có
lại” nên đã mang màu sắc tính toán vị kỉ.

Tuy vậy, về căn bản đạo lí Phật giáo vẫn giữ nguyên được giá trị
“đạo đức giải thoát”. Tứ diệu đế luôn là nhân lõi của toàn bộ hệ giáo lí,
trong đó Bát Chánh đạo vẫn là sự kết hợp không tách dời lý thuyết với thực
hành của Giới- Định- Tuệ trên tinh thần đạo đức hướng thiện: từ bi, hỉ xả,
bác ái, làm lành, lánh ác.
Kinh tế thị trường phát triển cả giá trị tích cực và tiêu cực. Đạo đức
Phật giáo vơí tư cách ý thức xã hội cũng tác động tới kinh tế thị trường
nhưng không trực tiếp mà qua lăng kính giá trị tôn giáo. Phật giáo coi mặt
tiêu cực của kinh tế thị trường như là “quả báo” của cuộc cạnh tranh hưởng
thụ. Giới- Định- Tuệ, Bát- Chính- đạo vẫn là khung lí thuyết đạo đức- tôn
giáo có tính vô thần, hướng nội, phát huy được tính hợp lí của giá trị nhân
văn trong nền kinh tế thị trường. Trong cơ chế cạnh tranh, đạo lí Phật giáo
vẫn cần để nhắc nhở con người không được phép quên sự phán xử tự tại
của lý “nghiệp báo”, sự đánh giá, động viên của quả phúc để tự điều chỉnh
hành vi đạo đức hướng thiện.
Đạo đức Phật giáo không ngừng chọn lọc, hoàn thiện qua lịch sử phát
triển của Phật giáo và giờ đây nó trở thành tinh hoa văn hó chung của của
loài người chứ không chỉ riêng Phật giáo theo nghĩa tôn giáo. Dưới thử
thách của cơ chế thị trường, đạo đức Phật giáo sẽ không ngừng vươn tới
hoàn thiện cả về mặt nội dung và hình thức.
1.3. Những hạn chế của Phật giáo:
Thứ nhất là về Thiền Phật giáo không thể trực tiếp mở rộng sang các
lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật hiện đại. Đây là một hạn chế lớn của
Thiền với tư cách hệ tư tưởng triết học- tôn giáo. Hạn chế này bắt nguồn từ
10
sự giải thoát của Thiền Phật giáo. Nó là một trải nghiệm tâm linh có tính
hướng nội và tính cá thể tuyệt đối nên không thể chứng minh hay bác bỏ.
Do vậy kết quả đạt được cũng không cũng không thể chứng minh hay bác
bỏ. Vì vậy mà Thiền Phật giáo chủ yếu phát huy sức mạnh trực giác hướng
nội trong các lĩnh vực triết học, đạo đức, tôn giáo, hay nghệ thuật…và có

khả năng hấp dẫn đối với nhu cầu nội tâm. Hạn chế này vẫn đang tồn tại và
khó khắc phục.
Thứ hai là Phật giáo đã không thấy được sự hồi sinh của con người
qua cá hoạt động thực tiễn và sáng tạo khoa học. Đây là một hạn chế trong
nhân bản luận của Phật giáo. Trong quan niệm của Phật giáo thì con người
rất mờ nhạt tính xã hội, tính giai cấp, tính kinh tế, tính kỹ thuật…Đó là một
con người ngoài thực tiễn lịch sử được con người cải tạo và sáng tạo. Cụ
thể, tính xã hội của con người trong Phật giáo chỉ thể hiện gián tiếp qua các
chuẩn mực đạo đức bao gồm chánh- tà, thiện- ác, và khổ- lạc. Khi những
chuẩn mực này bị coi là nguy cơ trở thành đối tượng của ái dục thì chúng
có khuynh hướng bị phủ định. Mặt khác, cáI khổ của con người trong Phật
giáo là cái khổ của nội tâm, tâm lí và tâm linh. Phật giáo không nhìn thấy
sự chuyển hoá và tha hoá của con người trong quan hệ sản xuất, quan hệ xã
hội. Cái khổ mà Phật giáo quan niệm là cái khổ của con người nói chung
với sinh- lão- bệnh- tử, chức không phải là cái khổ của con người lao động
bị áp bức, bị tước mất quyền làm chủ các sản phẩm do chính mình tạo ra,
để thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần chính đáng của mình. Nhưng
Phật giáo lại không nhận thức được thực tiễn này.
Trong khi đó, con người luôn luôn biến đổi bản thân và xã hội để phù
hợp với những thay đổi của lịch sử và thoả mãn nhu cầu chính đáng của họ.
Tuy nhiên, trong quá trình du nhập, đối thoại và phân phái nhân bản luận
Phật giáo đã liên tục khắc phục hạn chế và hiện đại hoá. Chẳng hạn, nó
luôn tận dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật để bảo vệ, bổ sung và phát
triển thêm giá trị nhân bản truyền thống của nó.
Cần phải nói thêm rằng, con người của đạo Phật là con người “xuất
thế”, tránh việc thoả mãn các nhu cầu tự nhiên tới mức “diệt dục”, “phi bạo
lực”, thích nghi với mọi điều kiện và không phản kháng (cả chính nghĩa và
phi nghĩa). Mô hình lí tưởng là con người bình đẳng về đạo đức, tất cả đều
thiện, tốt và không phân biệt đẳng cấp. Song thực tế lại không có nhiều
người được như vậy. Và giáo đoàn Phật giáo đã nhiều lần phải cải tổ chỉ vì

chính sự tha hoá nhân cách của một số tăng sĩ trong giáo đoàn và cả vì sự
11
tranh chấp quyền lực giữa các giáo phái, thậm chí có lúc đã đổ máu. Đây là
một sự thật đáng buồn trong nội bộ Phật giáo.
Thứ ba là tính ích kỉ trong Phật giáo Tiểu Thừa với chủ trương cứu
rỗi cá thể. Đây cũng là một hạn chế lớn của Phật giáo. Vì Phật giáo chủ
trương “vô ngã” để tự giải thoát cho chính mình (tự ngộ). Tuy nhiên, hạn
chế nhanh chóng được khắc phục với sự xuất hiện của Phật giáo Đại thừa.
Giáo phái này do Long Thọ sáng lập nhằm tiếp tục triển khai nguyên lý
Không và giải thoát luận “ Trung đạo” mang tính chất phổ quất cao hơn.
Theo ông, giác ngộ là sự giải thoát không chỉ cho chính mình mà còn cho
mọi chúng sinh (giác tha). Quan niệm giác ngộ còn phân biệt có- không về
“ngã vô, pháp hữu”của Tiểu thừa được triệt để hoá theo nguyên lý Không
thành “ngã pháp câu không”, tức là vứt bỏ cả ý thức phân biệt có- không.
Như vậy, hạn chế lớn nhất và cũng khó khắc phục nhất của Phật giáo
là chưa giải thích đúng đắn bản chất của các hiện tượng lịch sử xã hội, chưa
tìm ra nguyên nhân đích thực nỗi khỗ mà nhân dân phải gánh chịu. Và nó
cũng chưa chỉ ra được con đường và biện pháp cỉa tạo xã hội một cách
đúng đắn, có hiệu quả để xoá bổ tận gốc rễ sự đau khổ và bất công trong xã
hội đương thời.
2. Ảnh hưởng của Phật giáo ở Việt Nam hiện nay:
Phật giáo ra đời ở Ấn Độ vào cuối thế kỉ VI trước Công nguyên.
Phật giáo được truyền bá vào Việt Nam từ thế kỉ I, do sự tác động của thị
trường thông qua sự thông thương từ Ấn Độ tới Trung Quốc qua hai con
đường “Gió mùa” và “Tơ lụa”, nên Việt Nam cũng sớm tiếp thu loại văn
hoá này.
Và giờ đây, Phật giáo chính là một trong ba phông tư tưởng chính
hợp nên tư tưởng, văn hoá, đạo đức của Việt Nam. Dưới thời Lý- Trần,
Phật giáo Việt Nam đã trở thành quốc giáo, cũng đã xuất hiện nhiều vị sư
giỏi có công lớn trong trị nước và giữ nước.

Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, Phật giáo đã có lúc thăng,
lúc trầm, nhưng nhìn chung, nó có đóng góp không nhỏ trong việc xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. Thế giới của Phật giáo là duy tâm, nhưng nhân
sinh quan Phật giáo Việt Nam được xây dựng trên cơ sở thế giới quan ấy
luôn chứa đựng những nét nhân bản, nhân văn cao cả. Trong khoản 2000
năm tồn tại và phát triển, Phật giáo Việt Nam đã xây dựng cho mình truyền
thống yêu nước, gắn bó với dân tộc, trở thành thành tố quan trọng chugn
xây dựng đất nước nên nền văn hoá Việt Nam.
12
a) Ảnh hưởng tích cực của Phật giáo tại Việt Nam:
Điều này được thể hiện rõ nét trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh. Người luôn dành mối quan tâm lớn cho
Phật giáo. Và điều Hồ Chí Minh quan tâm lớn nhất ở Phật giáo là vấn đề
đoàn kết toàn dân vì nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
và giàu mạnh. Để thực hiện được mong ước lớn lao này của mình, dù bận
trăm công nghìn việc, Người vẫn dành thời gian viết thư gửi tới Hội Phật
Tử 1947, hay gửi những đồng bào theo đạo Phật nhân lễ Phật thành đạo
năm 1957 và gửi Hội nghị đại biểu Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam năm
1964. Với mỗi bức thư, Người đều sử dụng những lời lẽ hết sức thuyết
phục của đạo Phật để khuyến khích và kêu gọi những tín đồ Phật giáo Việt
Nam đoàn kết, hy sinh của cải, xương máu, kháng chiến đến cùng để đánh
tan thực dân phản động, để cứu quốc dân ra khỏi khổ nạn, để giữ gìn thống
nhất và độc lập tổ quốc.
Bên cạnh đó Hồ Chí Minh còn là người rất am hiểu vầ đạo Phật, luôn
đánh giá đúng vai trò, tầm quan trọng và những đóng góp cho đất nước cảu
Phật giáo Việt Nam trong lịch sử cũng như trong cách mạng dân tộc, dân
chủ nhân dân và trong cách mạng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Người
luôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân, đồng thời nhắc nhở nhân dân
cảnh giác với những kẻ lợi dụng tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết dân
tộc. Tuy Người viết về Phật giáo không nhiều nhưng cuộc đời và sự nghiệp

của Người rất gắn bó với đạo Phật, và để lại nhiều ấn tượng đẹp trong lòng
Phật tín đồ cả nước và thế giới. Với nhân dân, Người không chỉ là một vị
chủ tịch nước mà còn là một vị “Phật sống” đã phát huy được truyền thống
yêu nước, đoàn kết dân tộc, cứu nhân độ thế, vị tha, hướng thiện,…của
Phật giáo Việt Nam vì mục đích dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Với tài năng kiệt xuất, sự hiểu biết sâu rộng và một tấm
lòng nhân đạo cao cả, Người đã làm cho nhân dân và đất nước của Người
lớn lên cùng Người. Với Hồ Chí Minh, danh lợi là phi nghĩa, và Người chỉ
có một ham muốn, ham muốn tột bậc là “làm sao cho đất nước ta hoàn toàn
độc lập, dân ta hoàn toàn được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo
mặc, ai cũng được học hành”.
Xin cảm ơn vì Việt Nam đã có một Hồ Chí Minh như thế! Người đã
vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo những giá trị của Phật giáo để giúp
cho nhân dân ta, dân tộc ta đi đúng hướng và giành được những chiến thắng
lớn.
13
Một khía cạnh khác là sự ảnh hưởng tích cực của đạo đức Phật giáo
đối với nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Việt Nam là một trong những
nước nghèo, trong khi đó chúng ta lại đang phát triển theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Dù không muốn, chúng ta vẫn phải đối mặt
và chịu ảnh hưởng của mặt trái của cơ chế này. Do vậy, để hạn chế ảnh
hưởng tiêu cực của cơ chế thị trường, Việt Nam phải lựa chọn và thực hiện
theo biện pháp kinh tế- đạo đức “khổ hạnh, thiểu dục” của Phật giáo. Trong
hoàn cảnh hiện nay của đất nước thì việc áp dụng biện pháp này vẫn là một
sự cần thiết và đúng đắn.
Bên cạnh đó, khi nền kinh tế chịu tác động bởi nguyên tắc cạnh tranh
của cơ chế thị trường thì vấn đề đạo đức con người càng bức xúc hơn. Mỗi
người kinh doanh đều mong muốn thu được lợi nhuận tối đa trong công
việc làm ăn của mình. Và họ đã bị cuốn theo vòng danh lợi mà đánh mất
chính bản thân mình. Thì khi đó, đạo đức Phật giáo chính là nơi để họ tĩnh

tâm và tìm lại được đúng đường đi cho mình. Có thể nói rằng những giá trị
nhân văn của đạo đức Phật giáo đã góp phần không nhỏ trong việc cải thiện
và hoàn thiện nhân cách cho mỗi cá nhân. Và thực tế ngày nay cho thấy
rằng đạo đức Phật giáo vẫn thật cần thiết trong cuộc sống của mỗi chúng ta.
Khía cạnh thứ ba là ảnh hưởng tích cực của Phật giáo được thể hiện
rõ nét trong lối sống, đặc điểm chuẩn giá trị xã hội lành mạnh và đời sống
văn hoá phong phú.
Với nhân dân Việt Nam, Phật giáo thật quen thuộc, gần gũi và thân
thiết. Phật giáo chính là một trong ba phông tư tưởng tạo nên tư tưởng, văn
hoá, đạo đức của người Việt Nam. Có thể nói rằng Phật giáo và dân tộc ta
có sự gắn bó mật thiết với nhau. Từ xưa, khi vua Lý Nam Đế vừa lập ra
nước Vạn Xuân, ông vừa cho xây dựng chùa Khai Quốc. Hình ảnh ngôi
chùa đã đi vào tiềm thức của mỗi người dân đất Việt như là một nơi hết sức
tôn nghiêm, trong sạch và yên tĩnh. Tiếp nối truyền thống chùa với nước,
Phật với người, đạo với đời, Thiền sư Không Việt phái Ngôn Thông và
Thiền sư Pháp Nhuận phái Tỳ Ni đa lưu chi đã tham gia bàn luận và giải
quyết những công việc quốc gia với tư cách là những cố vấn của vua Lê
Đại Hành. Ở thời nhà Lý, Phật giáo chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống tinh
thần của nhân dân. Theo tài liệu của nhà sử học Lê Văn Hưu thời Lý hơn
một nửa dân số nước ta đã vào chùa, và hơn thế mỗi địa phương đều có
chùa của mình. Mỗi người dân lúc đó đều ý thức được vai trò của Phật
giáo, bởi vậy mà nhân dân ta có câu tục ngữ “đất vua, chùa làng, phong
14
cảnh Bụt”. Hình ảnh ông Bụt hiền hậu, nhân từ hiện lên cứu giúp những
người dân nghèo thật quen thuộc với dân ta. Không những vậy, đã có nhiều
vua Lý như Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Cao Tông và Lý Huệ Tông
đã cắt tóc đi tu. Đủ thấy rằng, Phật giáo đã có ảnh hưởng sâu sắc trong đời
sống xã hội trong giai đoạn lịch sử đó. Phật giáo đã in đậm dấu ấn trong
hầu hết các lĩnh vực văn hoá của dân tộc ta. Những nhà sư có uy tín đặc
biệt trong xã hội, mỗi chùa lớn đều được nhà vua ban tặng và quyên cúng

hàng ngàn mẫu ruộng. Để đáp lại tấm lòng ưu đã này, các nhà sư đã tham
gia tích cực vào đời sống chính trị và sau đó họ đã đạt được những vị trí
cao trong triều đình, như sư Đa Bảo, sư Viên Thông, sư Vạn Hạnh đã giúp
vua Lý Công Uẩn khai sáng triều Lý.
Đến đầu triều Trần, Phật giáo vẫn còn phát triển mạnh và là quốc
giáo của nước ta lúc đó. Các vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần
Nhân Tông và Trần Anh Tông, Trần Minh Tông đều là những “thánh đăng”
của vườn thiền. Vua Trần Nhân Tông còn nổi tiếng là người sáng lập ra
dòng thiền “Trúc Lâm”. Tuy nhiên đến cuối triều Trần, Phật giáo ngày
càng yếu dần và đến cuối thời Lê thì nhường bước cho Nho giáo.
Như vậy, trong suốt bốn mươi năm thế kỉ đầu tiên, lịch sử tư tưởng
Triết học ở Việt Nam chủ yếu là lịch sử tư tưởng Phật giáo, mà chủ yếu là
Thiền. Và trong giai đoạn này, Phật giáo đã ăn sâu và tiềm thức và được thể
hiện đậm nét trong lối sống của người dân đất Việt. Cụ thể là dân ta có một
nền nông nghiệp tĩnh lặng, làng quê Việt Nam hiện lên trong những câu ca
dao thật yên bình và mộc mạc sau những luỹ tre làng. Người dân chất phác,
hiền lành quanh năm chỉ lo làm ăn với đồng ruộng mà không tham danh
lợi. Và đặc biệt, họ yêu chuộng hoà bình và ghét cảnh chiến tranh, tang
thương, chết chóc. Một hình ảnh rất quen thuộc và đặc trưng cho miền quê
Việt Nam đó là ngôi chùa. Những ngôi chùa Việt Nam với mái cong, tường
thấp như từ đất mọc lên không uy hiếp con người cũng chẳng thách đố tự
nhiên, mà giao hoà với vạn vật và chúng sinh. Chính Phật giáo đã góp phần
khích lệ tấm lòng từ bi, hỉ xả, bác ái trong đạo đức đối trọng với cạnh tranh
thị trường và lợi nhuận của người dân. Bên cạnh đó, ta còn thấy ảnh hưởng
của Phật giáo ở những lễ hội trong xã hội, những lễ thức gắn liền với những
thời kì quan trọng của một đời người như cưới xin, ma chay, sinh nở…và
nó cũng có mặt những khi sản xuất gặp bất trắc, cánh đồng có tai nạn hay
khi con người gặp may.
15
Người Việt Nam có văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo ảnh hưởng của

Phật giáo. Dường như người Việt Nam nào trong tâm linh cũng có tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên và biểu tượng của các vị thần như Trời, Phật…Và
cả trong thuần phong mỹ tục, hội hoạ, điêu khắc và âm nhạc đều có bóng
dáng của Phật giáo. Cũng bởi vì ở Phật giáo họ đã tìm thấy được những giá
trị chuẩn mực của đạo đức để có thể giúp họ định hướng hành vi và đi đến
tương lai tốt đẹp.
Như vậy, Phật giáo đã có rất nhiều ảnh hưởng tích cực đối với đời
sống tinh thần và đời sống xã hội của nhân dân ta và dân tộc ta trong quá
khứ và ngay trong thời điểm hiện tại.
Tuy nhiên, không thể nói rằng Phật giáo không có ảnh hưởng tiêu cực
ở Việt Nam.
b) Ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo ở Việt Nam:
Tín ngưỡng tôn giáo là một nét đẹp trong văn hoá của người dân Việt
Nam. Hầu như gia đình nào cũng có bàn thờ tổ tiên của gia đình và dòng họ
mình. Hay cứ mỗi khi đến Tết Nguyên Đán, mọi người lại rủ nhau lên chùa
thắp hương và hái lộc, với hy vọng mang sự bình yên và may mắn về nhà.
Tuy nhiên một số người đã biến tướng nét đẹp này dưới dạng mê tín dị
đoan. Hiện tượng này có thể nói rằng khá phổ biến trong đời sống xã hội
hiện nay. Những con người này do ỷ lại và mù quáng vào số mệnh của
mình đã đi tin tưởng và cầu xin những điều vô lí. Chẳng hạn họ xin được
trúng quả đậm, xin thần linh phù hộ cho làm ăn phát đạt, làm sao để tiền
vào như nước, tiền ra nhỏ giọt,…Và những hậu quả mà mê tín dị đoan để
lại thì không thể kể hết được. Nó len lỏi vào trong từng gia đình bất kể giàu
nghèo và phá tan nát biết bao tổ ấm hạnh phúc. Chính mê tín dị đoan đã
góp phần cổ vũ lối sống thụ động, cam chịu, khép kín, dễ ngả nghiêng và
dễ bị những lối sống khép kín, bi quan và bế tắc cám dỗ. Và giờ đây, khi
đất nước đang ngày càng phát triển thì mê tín dị đoan chính là một rào cản
lớn cho sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hoá bởi sự tác động của nó
đến nguồn nhân lực của Việt Nam.
Bên cạnh hiện tượng mê tín dị đoan còn có hiện tượng tiêu cực khác

do chịu ảnh hưởng của Phật giáo đó là “đất lề, quê thói”. Đây chính là một
câu tục ngữ đã được đúc kết từ xa xưa và có lẽ đến bây giờ nó vẫn còn
nhiều giá trị. Đất có lề, quê có thói đó là điều mà ai cũng hiểu và chấp nhận
thực hiện theo nó với không lí do nào cả. Khi những thói quen của con
người đã có từ lâu đời, nó trở thành những qui định, nguyên tắc cố hữu và
16
buộc mọi người phải tuân theo nó. Nếu đó là những điều tốt đẹp thì chúng
ta trân trọng và giữ gìn cho ngàn đời sau. Nhưng nếu nguyên tắc ấy quá
cứng nhắc, cổ hủ và có phần không hợp lí với xu thế ngày càng phát triển
của cuộc sống thì chúng ta sẽ không muốn và không thể làm theo. Tuy
nhiên Phật giáo khi can thiệp vào vấn đề này lại mang nhược điểm lớn. Đạo
đức và giáo lý Phật giáo không giúp con người xoá bỏ mà trái lại phải phục
tùng không điều kiện những nguyên tắc đó. Như vậy, nó sẽ kìm hãm sự
phát triển của xã hội Việt Nam.
Vậy, ta phải có những biện pháp thiết thực nào để phát huy tính tích
cực cũng như hạn chế tiêu cực của Phật giáo, để Phật giáo Việt Nam tồn tại
lâu dài với thời gian.
3. Giải pháp phát huy tính tích cực cũng như hạn chế ảnh hưởng tiêu
cực của Phật giáo trong giai đoạn hiện nay:
Đầu tiên, để Phật giáo có thể truyền bá được rộng rãi trong nhân dân
thì Đảng và Nhà nước ta phải tiến hành mở các trường đại học chuyên tâm
nghiên cứu về Phật giáo. Bên cạnh đó, Bộ Giáo Dục cũng có thể mở thêm
khoa Phật giáo học tại Đại Học Văn Hoá. Có như vậy lớp trẻ chúng ta mới
có thể tiếp nhận trực tiếp những giá trị tốt đẹp của Phật giáo được. Ngoài
ra, Nhà nước có thể phối hợp với chính quyền địa phương để trùng tu và
nâng cấp những ngôi chùa cổ hay những mái đình ở làng quê Việt Nam. Để
mọi người có thể thấy được tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ và giữ gìn
những di sản phi vật thể mang đậm giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc
Việt Nam. Mặt khác, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân kết hợp nhau trong
công tác tuyên truyền bài trừ nạn mê tín dị đoan. Bằng quyền hạn của mình,

Nhà nước có thể ban hành những chính sách khuyến khích tạo việc làm cho
một số lượng lớn những người thất nghiệp trong xã hội. Việc làm này có ý
nghĩa rất lớn đối với những người kém may mắn, giúp họ tu tỉnh làm ăn và
hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn. Từ đó nó góp phần thúc đẩy xã hội
phát triển theo một chiều hướng tích cực.
Bên cạnh đó, Đảng cần tăng cường công tác tuyên truyền lối sống
lành mạnh cùng nền văn hoá văn minh trong dân cư. Để xã hội Việt Nam
luôn trong sạch, vững mạnh tiến lên chủ nghĩa xã hội.
17
C. KẾT LUẬN:
Qua bài viết này, em mong rằng mình đã đóng góp một phần nhỏ bé
vào việc giải thích những giá trị và hạn chế của Phật giáo cũng như ảnh
hưởng của Phật giáo ở Việt Nam. Cho đến nay, Phật giáo vẫn tồn tại ở
nhiều nước và có khi còn là quốc giáo của nước đó nữa. Cũng bởi vì một lí
do dễ hiểu là những giá trị của Phật giáo vẫn mang tính thiết thực và cập
nhật trong cuộc sống. Theo dòng thời gian, nhu cầu vềmọi mặt của con
người tăng lên theo hướng hiện đại hoá thì nhu cầu tâm linh cũng không
phải là ngoại lệ. Và Phật giáo vẫn sẽ chiếm lĩnh một vị trí quan trọng trong
đời sống văn hoá tinh thần của người dân. Tuy nhiên không thể phủ nhận
những hạn chế đang tồn tại trong lòng Phật giáo, có ảnh hưởng không tốt
đối với quá trình phát triển đi lên của xã hội. Do vậy, một việc làm hết sức
thiết thực và cần thiết đối với mọi người là hãy nhận thức rõ ràng về những
giá trị và hạn chế của Phật giáo, để có thể tìm được những giải pháp tối ưu
nhẩttong việc phát huy, nâng cao vai trò, giá trị cũng như giảm thiểu đến
mức tối đa hạn chế của Phật giáo. Và Phật giáo sẽ mãi mãi là nơi đáng tin
cậy để con người có thể thoả mãn nhu cầu tâm linh của mình.
Một lần nữa, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy giáo - ThS.
Trần Viết Quang!
18
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Thạc sĩ triết học Hoàng Ngọc Vĩnh- Hồ Chí Minh với đạo Phật- Tạp Chí
Triết học số 4/tháng 4/2002.
2. Tiến sĩ Hoàng Thị Thơ:
- Đạo đức Phật giáo với Kinh tế thị trường- TC Triết học số 6/2001.
- Giá trị nhân bản của Phật giáo trong truyền thống và hiện đại- TC Triết
học số 6/2001.
3. Hoàng Thơ- Vấn đề con người trong đạo Phật- TC Triết học số 6/2000.
4. Hoàng Văn Cảnh- Trần Thái Tông với “Pháp Bảo Đàn Kinh”- TC Triết
học số 9/2002.
5. Nguyễn Thị Minh Hương- Ảnh hưởng của Phật giáo đối với một số triết
gia ở phương Tây- TC Triết học số 10/2000.
19

20

×