ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐÀO THỊ NGỌC QUÝ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHĂM SÓC SỨC KHỎE BAN ĐẦU
CHO PHỤ NỮ NÔNG THÔN DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG
(Nghiên cứu tại xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam)
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60.90.01.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Văn Quyết
Hà Nội -2015
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn này, tôi nhận được những
sự giúp đỡ chân thành và hướng dẫn nhiệt tình từ các ban ngành, tổ chức xã hội tại
địa bàn nghiên cứu; Quý thầy cô, bạn bè và gia đình. Với sự kính trọng và biết ơn,
tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới những người hỗ trợ tôi trong suốt thời
gian thực hiện đề tài này:
Đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới PGS.TS Phạm Văn Quyết là
người trực tiếp hướng dẫn khoa học và theo sát mọi bước tiến trong quá trình tôi
tiến hành nghiên cứu. Mặc dù bận rộn với công việc tại trường, nhưng thầy đã
thường xuyên giành thời gian để kịp thời giúp đỡ và chỉ dẫn tận tình những vướng
mắc về chuyên ngành. Thầy cũng luôn tạo điều kiện để tôi phát huy những sáng
kiến và ý tưởng vào bài luận văn. Hơn nữa, thầy đã dành cho tôi những lời động
viên, khích lệ trong những lúc tôi gặp khó khăn trong việc triển khai kế hoạch.
Tiếp theo, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Khoa Xã hội học,
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội. Những kiến thức và kinh
nghiệm chuyên môn được thầy cô truyền đạt lại đã trở thành nền tảng vững chắc để
tôi xây dựng định hướng sát thực trong quá trình nghiên cứu.
Bên cạnh đó, tôi xin chân thành cảm ơn các lãnh đạo, tổ chức xã hội và nhân
dân xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam đã tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho tôi thực hiện nghiên cứu trên địa bàn xã. Đặc biệt, tôi muốn dành lời cảm ơn
sâu sắc tới các cán bộ thuộc Trạm y tế xã Thanh Hà đã cung cấp những thông tin, số
liệu thực tế đồng thời hợp tác cùng tôi để thực hiện những hoạt động tại cộng đồng.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình và bạn bè của tôi đã
luôn động viên, tạo động lực cho tôi quyết tâm vượt qua mọi trở ngại để học tập,
nghiên cứu trong thời gian vừa qua.
Tuy rằng đã luôn nỗ lực nhưng do còn hạn chế về khả năng, kinh nghiệm
làm việc cũng như những trải nghiệm thực tế nên luận văn chắc chắn còn tồn tại
những thiếu sót. Kính mong nhận được sự đóng góp quý báu từ thầy cô, những nhà
chuyên môn và cá nhân quan tâm tới đề tài luận văn này.
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung trong luận văn này là công trình nghiên
cứu của tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Phạm Văn Quyết. Toàn bộ số liệu và
thông tin được nêu ra đảm bảo tính xác thực, những phần kiến thức tham khảo đều
được trích nguồn một cách đầy đủ. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm với những
cam đoan trên đây.
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Học viên
Đào Thị Ngọc Quý
1
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT 4
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU 5
PHẦN I. MỞ ĐẦU 6
1. Lý do chọn đề tài 6
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 8
3. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 17
4. Đối tượng nghiên cứu, khách thể nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 18
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 19
6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu 19
7. Phương pháp tiếp cận và các phương pháp nghiên cứu 20
8. Cấu trúc luận văn 25
PHẦN II: NỘI DUNG CHÍNH 26
Chương 1. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của nghiên cứu 26
1.1. Khái niệm công cụ 26
1.1.1. Chăm sóc sức khỏe ban đầu 26
1.1.2. Hiệu quả chăm sóc sức khỏe ban đầu 27
1.1.3. Phụ nữ nông thôn 28
1.1.4. Cộng đồng 29
1.1.5. Dựa vào cộng đồng 31
1.1.6. Huy động sự tham gia của cộng đồng 33
1.2. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu 35
1.2.1. Lý thuyết nhu cầu 35
1.2.2. Lý thuyết hệ thống 38
1.3. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 40
1.4. Quan điểm về chăm sóc sức khỏe ban đầu 42
1.4.1. Quan điểm về chăm sóc sức khỏe ban đầu trên thế giới 42
1.4.2. Quan điểm về chăm sóc sức khỏe ban đầu tại Việt Nam 43
2
1.4.3. Chăm sóc sức khỏe ban đầu cho phụ nữ 45
Chương 2. Thực trạng công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho phụ nữ nông thôn
xã Thanh Hà 47
2.1 Tình hình chung về chăm sóc sức khỏe ban đầu tại địa phương 47
2.2. Hệ thống thiết chế của xã với chăm sóc sức khỏe ban đầu cho phụ nữ 50
2.2.1. Trạm y tế xã Thanh Hà 50
2.2.2. Hệ thống nhân viên y tế tại xã Thanh Hà 51
2.2.3. Chủ chương chính sách của xã Thanh Hà và việc tổ chức thực hiện 52
2.3 Tình hình thực hiện các chương trình chăm sóc sức khỏe ban đầu cho phụ nữ
nông thôn 54
2.3.1. Nội dung và kết quả thực hiện 55
2.3.2. Đánh giá công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu 65
2.4. Tác động của các bên liên quan tới chăm sóc sức khỏe ban đầu cho phụ nữ
nông thôn tại cộng đồng 70
2.4.1. Chính quyền địa phương và tổ chức xã hội 70
2.4.2. Tác động từ phía gia đình 74
2.4.3. Hoạt động của cán bộ y tế và cá nhân phụ nữ tại xã Thanh Hà 76
2.4.4. Thế mạnh và rào cản từ phía cộng đồng đối với chăm sóc sức khỏe ban đầu
cho phụ nữ tại xã Thanh Hà 78
Tiểu kết chương 2 81
Chương 3: Đề xuất định hướng can thiệp nâng cao hiệu quả chăm sóc sức khỏe ban
đầu cho phụ nữ xã Thanh Hà dựa vào cộng đồng 83
3.1. Nội dung can thiệp dựa vào cộng đồng 83
3.1.1. Cải thiện các chương trình chăm sóc sức khỏe ban đầu 83
3.1.2. Phát triển các chương trình chăm sóc sức khỏe ban đầu 88
3.2. Cách thức triển khai 93
3.3. Vai trò của nhân viên công tác xã hội 105
Tiểu kết chương 3 110
KẾT LUẬN 112
3
HẠN CHẾ 114
KHUYẾN NGHỊ 115
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 117
PHỤ LỤC 122
4
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Kí hiệu viết tắt
Nghĩa
CBYT
Cán bộ y tế
CSSK
Chăm sóc sức khỏe
CSSKBĐ
Chăm sóc sức khỏe ban đầu
CTXH
Công tác xã hội
KHHGĐ
Kế hoạch hóa gia đình
NVCTXH
Nhân viên công tác xã hội
PCT
Phó chủ tịch
PNNT
Phụ nữ nông thôn
WHO
Tổ chức Y tế Thế Giới
UNICEF
Quỹ nhi đồng Liên Hợp Quốc
5
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1. Số lượng mẫu tham gia phỏng vấn sâu 23
Hình 1.1. Thang nhu cầu của A. Maslow 36
Bảng 2.1. Số liệu báo cáo công tác CSSKBĐ 4 tháng đầu năm 2014 tại xã Thanh Hà
49
Bảng 2.2. Tình hình sử dụng các dịch vụ CSSKBĐ 4 tháng đầu năm 2014 ở xã
Thanh Hà 58
6
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nằm trong chiến lược CSSK toàn dân, công tác CSSKBĐ được coi là nấc
thang quan trọng đối với việc đảm bảo cho người dân được đón nhận những thông
tin và dịch vụ CSSK thiết yếu một cách đầy đủ và công bằng với mức chi phí mà họ
có thể chấp nhận được. CSSKBĐ lần đầu tiên được khẳng định có vị trí quan trọng
đặc biệt đối với các nước đang và chưa phát triển tại hội nghị Alma – Ata. Sau khi
đón nhận tuyên ngôn Alma – Ata (ngày 12 tháng 9 năm 1978), Việt Nam bắt đầu
triển khai mạnh mẽ các nội dung có trong tuyên ngôn này, phát triển thành 10 nội
dung CSSKBĐ để phù hợp với tình hình thực tế của quốc gia. Với hệ thống mạng
lưới y tế cơ sở được mở rộng tới những vùng khó khăn đã tạo điều kiện cho người
dân được tiếp cận với hoạt động CSSKBĐ. Trong bối cảnh con người đang phải đối
mặt với ngày càng nhiều những vấn đề sức khỏe do tốc độ phát triển nhanh chóng
của xã hội công nghiệp thì việc thực hiện hiệu quả các chương trình CSSKBĐ cũng
trở thành mục tiêu chiến lược đảm bảo đời sống người dân.
Trong suốt quá trình phát triển của ngành CTXH, lĩnh vực CSSK luôn giữ
được vị trí quan trọng và thu hút sự quan tâm của đội ngũ chuyên nghiệp. CTXH
với CSSK là một mảng lớn của CTXH trong y tế, nó cũng là một dạng đặc biệt
trong thực hành CTXH mà đóng góp vào sự phát triển của ngành nghề này. Hoạt
động thực hành trong y tế đã được bắt đầu từ Anh sau đó lan sang Mỹ vào năm
1850, với mô hình bác sĩ là người tình nguyện trợ giúp, tìm hiểu những khó khăn
trong điều kiện kinh tế xã hội của bệnh nhân bằng hình thức vãng gia. Đến năm
1902, CTXH trong các cơ sở y tế vẫn chưa hình thành đội ngũ riêng do vậy những
sinh viên y khoa được cung cấp kiến thức để xem xét yếu tố môi trường và xã hội
ảnh hưởng như thế nào đến bệnh nhân của họ. Tuy nhiên vào những năm đầu thế kỷ
20, do nhận thấy tính chuyên biệt của hoạt động này nên lực lượng NVCTXH trong
y tế tăng lên và tách biệt hoàn toàn với y bác sĩ tại cơ sở khám chữa bệnh. Từ những
nỗ lực phát triển các tiêu chuẩn và kỹ năng cho NVCTXH, năm 1916 NVCTXH
trong y tế đã thiết lập tổ chức chuyên nghiệp đầu tiên. Đến nay, CTXH với
7
CSSKBĐ có nhiều thành công và được đánh giá cao đặc biệt tại các nước có truyền
thống về CTXH.
Tại Việt Nam, ngành CTXH đang từng bước xây dựng chỗ đứng của mình
trong xã hội vì vậy các NVCTXH luôn định hướng đến những hỗ trợ thiết thực và
phù hợp với tình hình quốc gia. Một trong những hướng tiếp cận mang lại hiệu quả
thiết thực hiện nay là các hoạt động phát triển cộng đồng, bởi trong bối cảnh ngành
CTXH chưa có được nền móng dày dặn thì hoạt động cộng đồng giúp NVCTXH
tích lũy kinh nghiệm cho những can thiệp chuyên sâu với từng đối tượng. Các hoạt
động dựa vào cộng đồng thường có tính khả thi cao, cùng với đó nó giúp nâng cao
năng lực cộng đồng cũng như sự liên kết của các thành viên hay nhóm xã hội trong
cộng đồng đó.
CSSKBĐ là một trong những biện pháp mang tính chiến lược được chính
phủ Việt Nam coi như thành tố quan trọng quyết định sự phát triển và đảm bảo an
sinh xã hội của đất nước. Với mục tiêu tương đồng đó, việc CTXH tham gia vào đội
ngũ hỗ trợ nhằm giúp hoạt động CSSKBĐ đến được với người dân là hoàn toàn phù
hợp. Thực tế, trong quá trình đào tạo chuyên môn, NVCTXH đã biết đến kiến thức
và vai trò của mình trong hệ thống CSSKBĐ tại các cơ sở y tế và cộng đồng. Nhưng
với nhiều khó khăn trong khả năng liên kết đa ngành nên việc tham gia vào mạng
lưới này của NVCTXH còn nhiều hạn chế.
Ngoài ra, sức khỏe là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới đời
sống của con người, do đó để có những cải thiện tích cực cho mỗi cá nhân cũng như
cộng đồng thì NVCTXH cần mang đến sự trợ giúp để con người đạt đến trạng thái
tốt nhất cả về thể chất và tinh thần. Tham gia vào thực hiện hoạt động CSSKBĐ,
NVCTXH đóng vai trò là giúp người dân được đón nhận những thông tin và dịch vụ
chăm sóc thiết yếu một cách công bằng và tự chủ.
Phụ nữ là nhóm đối tượng có nhiều nhu cầu trong việc CSSK xuất phát từ cả
đặc điểm sinh lý và xã hội. Ngày nay, người phụ nữ không chỉ giữ vai trò chăm sóc
gia đình mà còn tham gia hoạt động kinh tế xã hội nên họ thường phải chịu nhiều áp
lực dễ khiến cho sức khỏe giảm sút và đối mặt với bệnh tật. Đặc biệt, phụ nữ ở độ
8
tuổi 25 đến 40 thường có nhiều nhu cầu trong CSSK bởi đây là giai đoạn phụ nữ
thực hiện thiên chức làm mẹ. Một thực tế rằng phụ nữ ở các khu vực nông thôn,
vùng sâu vùng xa không có nhiều cơ hội tiếp cận với các thông tin truyền thông về
CSSK, kiến thức cơ bản để đảm bảo tình trạng sức khỏe ổn định.
CSSKBĐ là một hình thức mang tính chất cộng đồng do đó những nguyên
tắc hoạt động của nó luôn hướng đến quyền lợi của người dân ở mức tối đa. Từ đó
có thể thấy rằng CTXH có mối liên kết chặt chẽ với CSSKBĐ, cùng hướng tới mục
tiêu chung là đảm bảo sự công bằng và phát triển của xã hội, phát huy thế mạnh trợ
giúp từ phía cộng đồng. Có được cải thiện tích cực trong đời sống của PNNT thì
NVCTXH cần giúp họ đáp ứng nấc thang nhu cầu đầu tiên là sức khỏe, khả năng
chủ động đối phó với những rủi ro bênh tật. Mặc dù, các chương trình hay nghiên
cứu nhằm nâng cao việc CSSKBĐ nói chung và dành cho phụ nữ nói riêng được
triển khai đa dạng tuy nhiên việc can thiệp vào lĩnh vực này từ phía ngành CTXH
chỉ tập trung chủ yếu cho hoạt động CSSK riêng biệt như hỗ trợ về kiến thức sức
khỏe sinh sản, sức khỏe tâm thần mà chưa khai thác những yếu tố liên quan trực
tiếp tới CSSKBĐ.
Xuất phát với những lý do trên tác giả tiến hành thực hiện nghiên cứu “Nâng
cao hiệu quả chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho phụ nữ nông thôn dựa vào cộng đồng”
– Nghiên cứu thực hiện tại xã Thanh Hà, huyện Thanh Liên, tỉnh Hà Nam. Tác giả
mong muốn luận văn thạc sĩ này sẽ mang đến góc nhìn mới về việc hỗ trợ CSSKBĐ
với vai trò của CTXH và trở thành mảnh ghép để góp phần hoàn thiện công cuộc
nâng cao sức khỏe và đời sống của cộng đồng.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1. Nghiên cứu về hiệu quả chăm sóc sức khỏe ban đầu
Nhằm xác định giá trị của việc phối hợp dịch vụ CSSKBĐ ở các nước thu
nhập trung bình và thấp, Magtymova A (2006) thực hiện nghiên cứu “Những chiến
lược để phối hợp khi cung cấp dịch vụ sức khỏe ban đầu ở các nước thu nhập
trung bình và thấp”. Nghiên cứu được phân nhóm thành ba loại là phục vụ từng
bước thêm vào ở Togo, dịch vụ phối hợp so với dịch vụ chuyên biệt đơn thuần ở
9
Cộng hòa liên hiệp Tanzania, gói dịch vụ chăm sóc trẻ nâng cao ban đầu so với
chăm sóc trẻ thường quy tại Cộng hòa liên hiệp Tanzania và Bangladesh. Phối hợp
dịch vụ được cho là sẽ mang lại lợi ích trong việc gia tăng hiệu quả cung cấp CSSK
từ cấp độ kinh tế, tiết kiệm trong việc cung cấp dịch vụ, gia tăng chất lượng chăm
sóc cho người sử dụng dịch vụ. Thực tế, trong chính sách của các quốc gia đang
phát triển có một phần quan niệm phối hợp, nhưng tác giả nhận thấy các nước này
vẫn đang thiếu khả năng xây dựng những chương trình và chiến lược phối hợp cụ
thể. Một giả pháp cho vấn đề này là việc hình thành các cơ chế theo dõi và đánh giá
tiến trình cung cấp các dịch vụ CSSKBĐ.
“Tác động của CSSKBĐ đến sức khỏe nhân dân tại các nước thu nhập
trung bình và thấp” là nghiên cứu được thực hiện bởi James Macinko, Barbara
Starfield và Temitope Erinosho vào năm 2009. Mục đích nghiên cứu là chỉ ra những
cách thức dẫn đến ảnh hưởng tích cực của CSSKBĐ và cung cấp gợi ý cho những
hoạt động trong tương lại. Kết quả điều tra cho thấy những bằng chứng về hiệu quả
CSSKBĐ tập trung vào sức khỏe của bà mẹ và trẻ em, tuy nhiên công tác này vẫn
thể hiện vai trò đối sức khỏe của mọi người. Hai yếu tố quyết định những thành
công đạt được trong CSSKBĐ là cách tiếp cận và thực hành. Về cách tiếp cận, sự
tích hợp giữa việc cung cấp những dịch vụ đáp ứng nhu cầu của hầu hết người cần
và những dịch vụ cho đối tượng được lựa chọn ưu tiên đã chạm đến được mong đợi
của từng cá nhân trong cộng đồng. Nguồn nhân lực chính là yếu tố quyết định một
hoạt động thực hành tốt, để có kết quả cao trong việc tiếp cận với cộng đồng nhiều
quốc gia trong nhóm nghiên cứu đã sử dụng cả nhân viên sức khỏe cộng đồng và y
tá cộng đồng.
Năm 2002, Trần Ngọc Hữu đã thực hiện nghiên cứu “Nghiên cứu đánh giá
hoạt động CSSKBĐ tại Tỉnh Long An và đề xuất một số biện pháp can thiệp” với
mục tiêu là tìm hiểu CSSKBĐ ở tuyến xã, phân tích nguồn nhân lực và yếu tố ảnh
hưởng tới hệ thống quản lý. Nghiên cứu làm sáng tỏ việc CSSKBĐ ở thế kỷ 21 sẽ
nhắm vào việc mở rộng vai trò y tế tuyến huyện, bảo đảm sự cam kết của các thành
viên trong xã hội, theo đuổi mục tiêu công bằng cho những người bị thiệt thòi trong
10
xã hội, nâng cao chất lượng và hiệu quả của dịch vụ y tế công và tư, xác định lại
cách chọn ưu tiên. Tác giả tập trung đánh giá hoạt động này ở tuyến xã với kết luận
rằng sự thu hút của trạm y tế là chưa cao bởi hạn chế về cơ sở vật chất và nhân viên
chăm sóc cộng đồng, theo điều tra chỉ có 19.4% bác sĩ có thể liệt kê được nội dung
của CSSKBĐ. Nghiên cứu cũng chỉ ra tại các trạm y tế tình hình sử dụng thuốc
không an toàn – hợp lý và kém hiệu quả đang trở thành thách thức lớn trong vấn đề
cung ứng thuốc cho nhân dân với 21% TYT có thuốc quá hạn. Hình thức can thiệp
bằng việc điều hành CSSKBĐ dựa vào cộng đồng hay phòng chống sốt xuất huyết
dựa vào cộng đồng đều phát huy vai trò của các cộng tác viên để tổ chức thảo luận
nhóm hay đến tư vấn kiến thức tại nhà, mô hình xây dựng hệ thống giáo dục dựa
vào cộng đồng tổ chức các buổi họp dân cư để lấy ý kiến.
Như vậy, các nghiên cứu trên cung cấp một số nội dung về các yếu tố quyết
định đến sự hiệu quả mà các chương trình CSSKBĐ mang lại cho cộng đồng, đặc
biệt cho thấy sự thành công của một chương trình CSSKBĐ được đánh giá từ hai
phía là người cung cấp dịch vụ và đối tượng sự dụng. Tuy nhiên, các nghiên cứu
trên tập trung tìm hiểu hiệu quả từ chính sách CSSKBĐ hay can thiệp của ngành y
tế. Điểm mới trong nghiên cứu của tác giả là đặc hiệu quả các chương trình
CSSKBĐ vào bối cảnh cộng đồng để nhìn nhận cả những hạn chế xuất phát từ yếu
tố xã hội.
2.2. Nghiên cứu các yếu tố tác động đến chăm sóc sức khỏe ban đầu
Nằm trong mạng lưới các nghiên cứu phát triển, Paul Cohen và John Purcal
(1989) thuộc Trung tâm đào tạo ASEAN về phát triển CSSKBĐ Canberra đã thực
hiện nghiên cứu “Kinh tế chính trị đối với việc CSSKBĐ tại Đông Nam Á”.
Nghiên cứu này tìm hiểu sự tác động của yếu tố kinh tế chính trị tới xây dựng, thực
hiện và phát triển các chương trình CSSKBĐ tại 11 quốc gia trong khu vực Đông
Nam Á. Tác giả đã chỉ ra rằng để duy trì được hoạt động này cần tới sự ủng hộ về
kinh tế và chính trị thực tế từ tất cả các cấp chính quyền và hỗ trợ từ phía cộng
đồng. Qua những kinh nghiệm nghiên cứu tại nhiều quốc gia, tác giả thấy được vai
trò của các tổ chức phi chính phủ đối với sự phát triển của lĩnh vực CSSK, nghĩa là
11
nếu một quốc gia thu hút nguồn đầu tư từ các tổ chức như WHO, UNICEFT, ngân
hàng thế giới và có chính sách cởi mở đối với hoạt động của tổ chức thì sẽ tạo ra
nhiều cơ hội hoàn thiện mạng lưới CSSKBĐ. John Purcal đã có những đánh giá
chung rằng các quốc gia Đông Nam Á đã phản ứng tích cực với sáng kiến CSSKBĐ
và phát triển cách tiếp cận phù hợp với bối cảnh kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, để
khắc phục được hạn chế còn tồn tại thì cộng đồng nên xây dựng các nguồn quỹ đa
dạng.
Nghiên cứu trên đã cho thấy một chương trình CSSKBĐ luôn chịu ảnh
hưởng từ các yếu tố kinh tế chính trị của quốc gia đó, nó chính là nguồn lực giúp
các chương trình tồn tại và phát triển và cũng chính là điểm tựa vững chắc cho quá
trình cung cấp dịch vụ. Nhưng nghiên cứu mới chỉ chú trọng phản ánh sự hỗ trợ của
cộng đồng là các tổ chức phi chính phủ quan tâm đến lĩnh vực CSSK. Trong nghiên
cứu của mình tác giả tìm hiểu yếu tố tác động trực tiếp hơn chính là thành viên, tổ
chức thuộc vào mạng lưới bên trong cộng đồng.
2.3. Nghiên cứu về chăm sóc sức khỏe ban đầu dựa vào cộng đồng
Một nghiên cứu về hoạt động CSSK dưới góc độ xã hội học do tác giả Trịnh
Hòa Bình (1996) thực hiện với tên đề tài “Vai trò của gia đình nông thôn đối với
việc CSSK trong thời kỳ đổi mới”. Qua nghiên cứu, tác giả cho thấy gia đình đóng
vai trò quan trọng và quyết định hoạt động CSSK của cá nhân và cộng đồng. Trước
hết, tác giả xác định các yếu tố xác lập nên vai trò CSSK của gia đình bao gồm tính
huyết thống, ảnh hưởng của Nho giáo Việt Nam và điều kiện của đời sống tiểu nông
thôn khép kín. Nghiên cứu đã giải thích rất chi tiết về vai trò CSSK của gia đình.
Thứ nhất, kiến thức của bà mẹ ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe của các thành viên
trong gia đình đặc biệt là trẻ dưới 5 tuổi. Do đó, việc giáo dục, huấn luyện và tuyên
truyền về những nội dung cơ bản trong CSSK (phòng bệnh, phát hiện dấu hiệu và
xử lý tình huống) là yếu tố quan trọng. Thứ hai, xét về yếu tố hoàn cảnh kinh tế gia
đình thì qua điều tra của nghiên cứu cho thấy hậu quả trực tiếp của điều kiện kinh tế
thiếu thốn là tình trạng suy dinh dưỡng của bà mẹ và trẻ em. Các yếu tố còn lại gồm
điều kiện tổ chức và sinh hoạt gia đình, quy mô và tình trạng hôn nhân gia đình,
12
điều kiện nhà ở, tiện nghi sinh hoạt và vệ sinh, điều kiện hạ tầng và mô trường. Từ
kết quả nghiên cứu, tác giả đánh giá về hệ thống y tế cộng đồng nhìn chung là đáp
ứng được nhu cầu, năng lực chăm lo cho sức khỏe của gia đình trong mối liên hệ
với đời sống cộng đồng nông thôn. Bên cạnh đó, thực tế thái độ văn hóa y tế của gia
đình chưa cao nên gia đình có thể khắc phục khả năng bằng cách tích cực dựa vào
mối quan hệ với cộng đồng và nhà nước. Tóm lại, vai trò của gia đình được thể hiện
bằng việc mỗi nhà tự chăm lo sức khỏe cho gia đình mình và gia đình sử dụng các
dịch vụ y tế cộng đồng.
Một nghiên cứu thể hiện góc nhìn phát triển hoạt động CSSKBĐ từ sự tham
gia của cộng đồng đó là nghiên cứu “Xây dựng mô hình cộng đồng tham gia vào
các hoạt động CSSKBĐ cho nhân dân một số vùng núi phía Bắc” được thực hiện
bởi Đàm Khải Hoàn (1998). Tác giả đã tiến hành điều tra cơ bản tình hình hoạt
động y tế, vệ sinh môi trường và sức khỏe nhân dân các dân tộc xã Vũ Lăng (Lạng
Sơn), Chiềng Sinh (Sơn La), Can Tỉ (Hà Giang), Sơn Thủy (Hòa Bình) và Đồng Hỷ
(Thái Nguyên). Mô hình được áp dụng thử tại các xã trên gồm việc huy động nhân
dân tham gia xây dựng cho trạm y tế xã, xây dựng đội ngũ nhân viên y tế thôn bản,
thực hiện các chương trình cộng đồng tham gia lựa chọn và giải quyết vấn đề sức
khỏe ưu tiên, giáo dục sức khỏe toàn dân. Tác giả nhận định sự tham gia của cộng
đồng là sự tham gia của những người đưa ra những quyết định và của số đông thực
hiện các quyết định ấy, hai nhóm này cùng chia sẻ lợi ích của quyết định mang lại.
Nghiên cứu này còn cung cấp kiến thức về các mức độ tham gia bao gồm tham gia
cộng đồng bằng kích thích, tham gia cộng đồng bằng các quyết định hành chính và
tham gia cộng đồng bằng tự giác.Với mô hình mà tác giả xây dựng thì việc tham gia
cộng đồng chính là xã hội hóa sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.
Hoạt động này được triển khai trong sự phối hợp liên ngành và đoàn thể xã hội, sự
huy động của các lực lượng xã hội tham gia và huy động nguồn đầu tư trong xã hội.
Kết quả của cuộc nghiên cứu đã chỉ ra rằng một đội ngũ cán bộ thành thạo và
phương thức hoạt động tốt sẽ lôi cuốn sự tham gia của cộng đồng.
13
2.4. Nghiên cứu về công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe ban đầu
“Chuẩn bị cho sự thay đổi của CTXH với CSSKBĐ” là tài liệu chỉ ra những
định hướng cho CTXH trước sự biến đổi không ngừng của dịch vụ CSSK do Rob
Fildes và Bruce Cooper biên soạn (2003). Hai tác giả này đưa ra vai trò và thành
phần hoạt động của NVCTXH dựa trên mục tiêu là tiếp cận tới mọi nơi trong cộng
đồng để can thiệp sớm và có chiến dịch phòng ngừa. NVCTXH thực hiện đánh giá
nguy cơ và sức mạnh của cá nhân, gia đình, nhóm, tổ chức, chương trình và cộng
đồng trong suốt tiến trình chăm sóc. Thêm vào đó, nhân viên chuyên nghiệp biết lên
kế hoạch dựa vào khả năng xác định các thành phần văn hóa, giới tính, đặc điểm cá
nhân, gia đình và cộng đồng để có can thiệp phù hợp. Hai tác giả cũng chỉ ra để đối
mặt với thách thức NVCTXH sẽ thực hành giống như là đang làm việc trong tổ
chức y tế, nghĩa là tham gia như một thành viên trong nhóm liên ngành để biện hộ
trường hợp. Bên cạnh đó, xây dựng mối quan hệ đối tác với các tổ chức cộng đồng
thể hiện cách làm việc hiệu quả trong hệ thống rộng của NVCTXH.
Nhóm nghiên cứu của hiệp hội CTXH Ai-len (2011) đã tiến hành nghiên cứu
“Vai trò của CTXH trong CSSKBĐ” dựa trên các mô hình thực hành đã được triển
khai tại đất nước này. Trong nghiên cứu đã giới thiệu mô hình chăm sóc ban đầu là
hoạt động của một nhóm chuyên gia dựa trên cách tiếp cận tới việc phân phối dịch
vụ nhằm giúp người dân có được sự chăm sóc tốt hơn và thậm chí là phát huy việc
tự chăm sóc bằng cách trao quyền cho người bệnh từ đó tăng năng lực phòng ngừa
bênh tật. Mô hình CSSKBĐ tại Ai-len mang tính xã hội cao bằng việc nhấn mạnh
đến sự công bằng trong việc hưởng các dịch vụ xã hội, cải thiện sự tham gia và trao
quyền cho người sử dụng, giảm khoảng cách về tình trạng sức khỏe giữa các nhóm
xã hội.
Với mô hình này, CTXH với CSSKBĐ là dựa trên nền tảng về quyền “sức
khỏe cho tất cả mọi người”. Qua nghiên cứu, nhóm tác giả đã cho thấy rõ vai trò
của CTXH bao gồm hỗ trợ phân phối dịch vụ sức khỏe và xã hội tới thân chủ, đưa
dịch vụ tới cá nhân một cách thự nguyện và toàn diện, duy trì cách tiếp cận con
người ở trong môi trường để tạo ra kết nối cần thiết trong xã hội. Ngoài ra, nhóm
14
tác giả cũng đề cập đến chức năng hiện tại của nhân viên CTXH là đánh giá nhu cầu
tổng thể, tham vấn với những người cung cấp dịch vụ sức khỏe khác, giáo dục và
đào tạo trong CSSK và chức năng xã hội, phát triển cộng đồng và xây dựng nguồn
lực, cung cấp dịch vụ cụ thể. Các chức năng này được NVCTXH tại Ai-len phát
huy mạnh mẽ trong việc tham gia vào tiến trình đánh giá nhu cầu cộng đồng và thúc
đẩy sự tham gia của cộng đồng. Tuy nhiên vai trò của NVCTXH bị ảnh hưởng rất
nhiều bởi nhu cầu của mỗi khu vực. Bên cạnh đó, khi làm việc với hoạt động
CSSKBĐ thì NVCTXH thiết lập nhóm can thiệp và thúc đẩy sự năng động của
nhóm đó trong việc quản lý khủng hoảng, tăng sự tự tin, nâng cao hiểu biết về vấn
đề sức khỏe dinh dưỡng.
Bài viết “Thực trạng và định hướng phát triển CTXH trong lĩnh vực y tế,
văn hóa xã hội” trên tạp chí Lao động và Xã hội (2005) đã chỉ ra CTXH có vai trò
đặc biệt trong lĩnh vực y tế và CSSK cộng đồng. Theo TS. Nguyễn Viết Cương
“Bệnh viện là nơi cần có sự xuất hiện của CTXH nhất”. Tuy nhiên, hoạt động tại
các bệnh viện vẫn chỉ chủ yếu là khám chữa bệnh do đó có rất ít cơ sở bệnh viện
xây dựng lên các phòng CTXH giúp giải quyết nhiều nhu cầu bức xúc của bệnh
nhân như cung cấp thông tin về dịch vụ, tham vấn cho người bệnh nhằm ổn định
tinh thần trong giai đoạn khám chữa bệnh. Trong lĩnh vực CSSK cộng đồng,
NVCTXH sẽ mang lại lợi ích cho người dân bằng việc phối hợp với cán bộ chuyên
môn theo dõi và cung cấp dịch vụ hiệu quả, tăng năng lực cho cộng đồng trong việc
giải quyết vấn đề sức khỏe, can thiệp rộng hơn ở mức độ biện hộ chính sách và đảm
bảo an sinh xã hội. Hiện nay, các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế tại cộng
đồng cần đến sự tham gia của CTXH nhưng thực tế các tình nguyện viên hay một số
CBYT chưa được đào tạo chuyên nghiệp lại đang đảm nhiệm vai trò của NVCTXH.
2.5. Nghiên cứu về chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ
Dưới sự hỗ trợ của ngân hàng Thế giới, nhóm các chuyên gia gồm Anna
Tinker, Kathleen Finn và Joanne Epp (2000) đã tiến hành tìm hiểu và tổng hợp dữ
liệu về đề tài “Cải thiện sức khỏe của phụ nữ: Vấn đề và sự can thiệp”. Nội dung
chính của nghiên cứu được phân tích từ những số liệu được tổng hợp chủ yếu tại
15
một số quốc gia và một số vùng có sự hỗ trợ của ngân hàng Thế giới như Ấn Độ,
Pakistan, Liên bang Nga và Yemen. Những yếu tố về sinh học và xã hội có tác động
mang tính quyết định tới sức khỏe của phụ nữ trong suốt cuộc đời họ và chúng tạo
ra những ảnh hưởng tích lũy. Nhóm tác giả đã làm sáng tỏ một số vấn đề có nguy cơ
dẫn đến trạng thái sức khỏe không tốt của phụ nữ. Chín vấn đề được nêu ra gồm
tình trạng kinh tế xã hội thấp và vai trò của phụ nữ trong việc sinh sản, sự phức tạp
của việc mang thai và sinh con, quyền lực không công bằng giữa nam và nữ trong
mối quan hệ tình dục, việc thiếu các chất dinh dưỡng, bạo lực gia đình, vấn đề về
làm dụng tình dục, sự giới hạn trong tiếp cận với các dịch vụ y tế tạo ra do khoảng
cách giàu nghèo, chất lượng của sự chăm sóc, chính phủ chưa đưa ra những cam kết
mạnh mẽ và bền vững thông qua chính sách và chiến lược có mục tiêu cụ thể. Với
một dãy những vấn đề đang dạng thì đòi hỏi các can thiệp ở nhiều cấp độ và hình
thức, nhưng tất cả đều xuất phát từ việc tìm hiểu nhu cầu thực chất của phụ nữ để
xây dựng các hoạt động. Nghiên cứu cung cấp một số gợi ý cải thiện sức khỏe phụ
nữ bằng việc thực hiện nội dung có định hướng tới sự tham gia của nam giới, phát
huy vai trò từ phía chính phủ và các nhà đầu tư.
Ban Giới, phụ nữ và sức khỏe của WHO (2010) đã thực hiện cuốn sách
“Giới, phụ nữ và đổi mới CSSKBĐ”, đây được coi như là một tài liệu thảo luận về
tác động của vấn đề giới tới các hoạt động CSSKBĐ và một chương trình hành
động bình đẳng giới trong hệ các hệ thống CSSK. Sự khác biệt trong cách xã hội
đánh giá và chấp nhận những dạng hành vi của nam và nữ ảnh hưởng tới nguy cơ
phát triển các vấn đề sức khỏe đặc biệt cũng như những hiệu quả của việc CSSK.
Tại nhiều xã hội truyền thống, những hình thức văn hóa xã hội đã cản trở sự chủ
động và quyền đưa ra quyết định của phụ nữ đối với vấn đề sức khỏe của chính họ.
Phát triển cách tiếp cận CSSKBĐ là một sự tiến bộ đáng kể để liên kết sức khỏe với
sự phát triển và ưu tiên bình đẳng thông qua các chính sách và chương trình liên
quan đến cộng đồng và nhu cầu thực sự của con người. Các quốc gia đã nhiều cách
thức để đạt được thành công khi kết hợp sự tôn trọng giới với hình thức chăm sóc
và phân phối dịch vụ. Trung Quốc, Thái Lan, Brazil và Bolivia đã đạt được hiệu
16
quả từ việc thực hiện mối quan hệ đối tác giữa tư và công tạo ra gói dịch vụ và bảo
hiểm y tế với giá cả và chất lượng hợp lý. Những nghiên cứu tại Bangladesh và Việt
Nam lại cho thấy kết quả tốt nằm ở tổ chức hệ thống dịch vụ với địa điểm và thời
gian phù hợp. Về mặt chính sách công và hình thức lãnh đạo, những quan điểm về
giới được thúc đẩy thực hiện thông qua tác động của các tổ chức dân sự đặc biệt là
những tổ chức của phụ nữ.
Đối với hoạt động CSSK và khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế của phụ nữ,
Công ty Tư vấn đầu tư Y tế, Tổ chức Dân số và Phát triển quốc tế, Viện Nghiên cứu
và Đào tạo JSI (2002) đã tiến hành nghiên cứu nhằm tìm hiểu thông tin qua các
quan niệm truyền thống, yếu tố kinh tế và các yếu tố thuộc chương trình tuyên
truyền và dịch vụ y tế. Thêm vào đó, các tác giả Trần Thị Vân Anh, Nguyễn Hữu
Minh (2008); Trần Trọng Thủy (2000) đã nghiên cứu thực trang khám chữa bệnh và
sự phục vụ của các dịch vụ khám chữa bệnh cho lao động nữ nhập cư, nguyên nhân
của vấn đề là việc chưa đáp ứng được nhu cầu CSSK phụ nữ. Các nghiên cứu này
đề cập đến điều kiện thu nhập, khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế của phụ nữ sinh
sống ở những vùng khó khăn, phụ nữ dân tộc…Từ những nghiên cứu đều cho thấy
tình hình CSSK của PNNT còn nhiều bất cập.
Tác giả Lê Thị Hồng Thơm (2006) đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu về tiếp
cận, sử dụng dịch vụ khám bệnh PNNT và đánh giá giải pháp can thiệp tại một
xã”. Trong nghiên cứu này tác giả thực hiện đánh giá thực trạng cung cấp và sử
dụng dịch vụ CSSK phụ nữ tuổi sinh đẻ ở tuyến xã các vùng nghiên cứu, thử
nghiệm giải pháp can thiệp và đánh giá hiệu quả nâng cao sức khỏe phụ nữ một xã
thuộc huyện Cam Lộ tỉnh Quảng Trị. Trong tìm hiểu về tiếp cận dịch vụ y tế tác giải
chú ý đến những khả năng tiếp cận về nhân lực, vật lực, tài lực và địa lý. Qua
nghiên cứu cho ra kết quả là sau khi lập gia đình thì tần suất bệnh tăng lên. Tuy
nhiên, việc sử dụng các dịch vụ y tế tại xã chỉ chiếm khoảng 1,8% và việc tự chữa
trị lên tới 48,6%. Biện pháp can thiệp của tác giả xuất phát từ nguyên nhân và nhu
cầu của PNNT do đó đem lại thay đổi đáng kể, nó bao gồm các chương trình giáo
17
dục và nâng cao sức khỏe, nâng cao kiến thức bằng truyền thông giáo dục, tuyên
truyền giáo dục sức khỏe .
Tóm lại, CTXH tại nhiều nơi trên thế giới đã có thể hiện sự quan tâm tới lĩnh
vực CSSKBĐ nhưng đó vẫn chỉ là những tìm hiểu về mô hình chung. Đối với
những nghiên cứu ở Việt Nam thì chủ yếu mang tính chất của ngành y tế hoặc y tế
cộng đồng. Những nghiên cứu về CSSK phụ nữ thường chỉ tập trung vào vấn đề
bênh tật cụ thể. Trong ngành CTXH, đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp dường như
thiếu cơ hội tham gia vào lĩnh vực CSSKBĐ, do đó các nghiên cứu liên quan đến
CSSKBĐ còn rất ít ỏi. Nghiên cứu “Nâng cao hiệu quả chăm sóc sức khoẻ ban đầu
cho phụ nữ nông thôn dựa vào cộng đồng (Nghiên cứu tại xã Thanh Hà, huyện
Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam)” góp phần giảm đi sự thiếu hụt về tư liệu khoa học trong
lĩnh vực này của ngành CTXH, đưa ra cách nhìn và gợi ý can thiệp mới dựa vào ba
yếu tố quan trọng là nhu cầu CSSK của phụ nữ, hệ thống thiết chế và sự tham gia
của cộng đồng.
3. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
3.1. Ý nghĩa lý luận
Nghiên cứu vận dụng lý thuyết nhu cầu, cấu trúc chức năng và kiến thức huy
động sự tham gia của cộng đồng trong hoạt động xã hội để phân tích việc thực hiện
CSSKBĐ cho PNNT.
Nghiên cứu áp dụng kiến thức về phát triển cộng đồng dựa trên kết quả điều
tra đánh giá để đưa ra được kế hoạch để cải thiện hiệu qủa CSSKBĐ đồng thời thúc
đẩy vai trò của CTXH với CSSKBĐ.
Kết quả nghiên cứu đóng góp tài liệu và góc nhìn mới đối với lĩnh vực
CSSKBĐ cũng như hoạt động của ngành CTXH.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu góp phần đưa ra cái nhìn thực tiễn về hoạt động
CSSKBĐ nhằm thúc đẩy việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho PNNT.
Nghiên cứu cho thấy giá trị của cộng đồng và vai trò, chức năng CTXH với
hoạt động CSSKBĐ cho PNNT.
18
Những phân tích được thực hiện giúp cho các chuyên gia và nhà hoạch định
có cái nhìn sâu sắc với vấn đề CSSKBĐ và dựa vào đó xây dựng những kế hoạch
khắc phục hạn chế đang tồn tại.
Đề xuất về các hình thức can thiệp là cơ sở để địa phương phát triển thành
mô hình hỗ trợ phù hợp với điều kiện thực tế.
Nghiên cứu trở thành tư liệu tham khảo cho NVCTXH tiếp tục phát huy tính
chuyên nghiệp trong lĩnh vực CSSKBĐ.
4. Đối tƣợng nghiên cứu, khách thể nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Nâng cao hiệu quả CSSKBĐ cho PNNT dựa vào cộng đồng.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể trọng tâm được xác định trong quá trình nghiên cứu là phụ nữ ở
độ tuổi từ 25 đến 40 đang sinh sống tại đại bàn nghiên cứu.
Bên cạnh đó, những khách thể nghiên cứu khác bao gồm đối tượng tác động
tới việc CSSKBĐ: Cán bộ và nhân viên của trạm y tế, CBYT thôn; cán bộ lãnh đạo
xã; cán bộ hội phụ nữ.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
4.3.1. Phạm vi thời gian
Đề tài nghiên cứu được tiến hành trong khoảng thời gian từ tháng 4/2014 đến
tháng 10/2014.
4.3.2. Phạm vi không gian
Nghiên cứu được triển khai tại địa bàn xã Thanh Hà, huyện Tham Liêm, tỉnh
Hà Nam.
4.3.3. Giới hạn nội dung nghiên cứu
Lĩnh vực CSSKBĐ gồm nhiều những khía cạnh đa dạng và góc độ ngành
nghề khác nhau. Mang tính chất của ngành CTXH, nghiên cứu này tiến hành tìm
hiểu tình hình CSSKBĐ cho phụ nữ xã, phân tích sự tham gia của các yếu tố cộng
đồng (hệ thống thiết chế địa phương, CBYT, gia đình, chính quyền và các tổ chức
xã hội liên quan). Từ những thông tin tổng quan này, nghiên cứu đề xuất kế hoạch
19
nâng cao hiệu quả dựa vào cộng đồng để phát triển và cải thiện những can thiệp đã
thực hiện trước đó.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu tình hình CSSKBĐ cho PNNT và các nguồn lực, tiềm năng sẵn có
của cộng đồng tham gia nâng cao hiệu quả các chương trình CSSKBĐ, phân tích
một số yếu tố tác động của các bên liên quan tới công tác này tại cộng đồng. Từ đó,
đề xuất hình thức can thiệp dựa vào cộng đồng theo hướng CTXH nhằm nâng cao
hiệu quả, tạo ra ảnh hưởng tích cực của các chương trình CSSKBĐ dành cho phụ nữ
ở khu vực nông thôn.
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khái quát và hệ thống lý thuyết CTXH ứng dụng trong lĩnh vực CSSKBĐ.
Tìm hiểu nội dung các công tác CSSKBĐ đã được triển khai cho PNNT.
Phân tích hệ thống thiết chế của địa phương đối với việc chăm sóc sức khỏa
ban đầu bao gồm hệ thống cơ sở, y bác sĩ và chủ chương của chính quyền địa
phương và ngành y tế.
Phân tích nguồn lực cộng đồng tác động tới việc CSSKBĐ cho PNNT.
Xây dựng định hướng can thiệp dựa vào hệ thống lý thuyết, cách tiếp cận
trong phát triển cộng đồng và tình hình thực tế.
6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
6.1. Câu hỏi nghiên cứu
Tình hình CSSKBĐ cho PNNT hiện nay tại xã Thanh Hà diễn ra như thế nào?
Tác động của các tiểu hệ thống xã hội, những thế mạnh và rào cản trong cộng
đồng ảnh hưởng như thế nào đến công tác CSSKBĐ cho PNNT tại xã Thanh Hà?
Những nguồn lực và thế mạnh được khai thác như thế nào để nâng cao hiệu
quả CSSKBĐ cho phụ nữ xã Thanh Hà?
6.2. Giả thuyết nghiên cứu
Hiện nay, xã Thanh Hà đã và đang thực hiện các chương trình CSSKBĐ tuy
nhiên phụ nữ tại xã vẫn chưa tiếp cận và sử dụng hiệu quả các dịch vụ. Về mặt xã
20
hội, hiệu quả của các chương trình CSSKBĐ bị hạn chế bởi cách thức tuyên truyền
và triển khai vào trong đời sống của phụ nữ.
Chính quyền địa phương và tổ chức xã hội, gia đình, đội ngũ CBYT và phụ
nữ trong cộng đồng làm nảy sinh những tác động tích cực và tiêu cực tới hoạt động
của các chương trình CSSKBĐ. Thế mạnh chính nằm ở tính cấu kết chặt chẽ giữa
các thành viên trong cộng động. Rào cản trong cộng đồng hiện nay là quan niệm và
lối sống bị ảnh ảnh bởi tư duy, phong tục tập quá lạc hậu của phụ nữ nông thôn.
Nguồn lực từ phía cộng đồng là sự tham gia của CBYT, nguồn vốn từ chính
quyền địa phương và các dự án quốc tế được sử dụng vào việc cải thiện và phát
triển các chương trình CSSKBĐ đang triển khai tại địa phương.
7. Phƣơng pháp tiếp cận và các phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Phƣơng pháp tiếp cận
Một cách tiếp cận trong phát triển cộng đồng đang được dử dụng rộng rãi và
hiệu quả là cách tiếp cận từ dưới lên (bottom-up). Theo Angelika Kruger (2009)
cách tiếp cận “bottom-up” hướng tới tăng cường sức mạnh và hiệu quả của đời sống
cộng đồng và xây dựng vốn xã hội; tăng cường điều kiện địa phương, đặc biệt với
những người trong tình huống bất lợi, và vượt qua những sự loại trừ xã hội; tạo điều
kiện cho người dân tham gia vào việc ra quyết định công khai và đạt được sự kiểm
soát dài hạn lớn hơn, vượt qua những phong tục của họ [24,tr.4].
Những nguồn lực hiện có trong cộng đồng sẽ là cơ sở để nhân viên phát triển
cộng đồng xác định được điểm tiếp cận, hay nói cách khác cách tiếp cận phát triển
cộng đồng này được chia ra dựa vào xuất phát điểm nghiên cứu, do đó tiếp cận cộng
đồng có thể xuất phát từ nhóm yếu thế, nhóm nòng cốt, các chính sách xã hội, các
chương trình đang được triển khai hoặc toàn bộ cộng đồng [25]. Đối với đề tài này,
tác giả lựa chọn việc tiếp cận từ các chương trình CSSKBĐ đang được triển khai tại
cộng đồng nhằm đánh giá hiệu quả chương trình và tìm hiểu nhu cầu của người dân
từ đó có được giải pháp cải tiến dịch vụ.
7.2. Phƣơng pháp phân tích tài liệu
21
Tác giả tiến hành thu thập các tài liệu thứ cấp trong nghiên cứu này để nắm
bắt được thông tin cơ sở cho việc phân tích hoạt động CSSKBĐ. Hệ thống tài liệu
chính thu thập là các nghiên cứu và bài viết chứa nội dung về lĩnh vực CTXH đối
với CSSK đặc biệt là CSSKBĐ. Hơn nữa, tác giả tìm hiểu nghiên cứu trong lĩnh
vực CSSKBĐ tại Việt Nam và trên thế giới, điều này giúp tác giả nhìn nhận cơ
bản về tình hình thực tế chung và khái quát vấn đề đã diễn ra từ trước đến nay.
Những thông tin thu thập cũng giúp tác giả phát huy những điểm mới và nổi bật
trong luận văn.
Bên cạnh đó, tác giả tiến hành thu thập các thông tin từ các quy định chính
sách, báo cáo thường kỳ của xã Thanh Hà về hoạt động CSSKBĐ cho phụ nữ tại địa
phương. Những dự liệu này cung cấp cái nhìn khái quát về sự quan tâm và hướng
phát triển của địa phương dành cho vấn đề sức khỏe của phụ nữ. Thu thập dữ liệu từ
hệ thống tài liệu về CSSKBĐ do các tổ chức chính thức cung cấp và tài liệu được
triển khai xuống các cơ sở y tế địa phương, các kế hoạch liên quan tới CTXH nhằm
hỗ trợ phát triển hoạt động CSSKBĐ. Thông qua kho dữ liệu này tác giả có được cơ
sở để đưa ra so sánh các hoạt động tại địa phương với những mục tiêu chính trong
CSSKBĐ.
Đối với mọi thông tin thu thập dưới hình thức khác nhau đều được ghi chép
và lưu trữ đầy đủ, tiến hành gỡ băng với các phỏng vấn thực hiện bằng cách ghi âm.
Các dữ liệu phân chia dựa theo từng nội dụng chính và nhóm đối tượng phỏng vấn,
sau đó thông tin được sắp xếp để đánh giá điểm chung và điểm khác biệt của mỗi
vấn đề nghiên cứu.
7.3. Phƣơng pháp quan sát
Phương pháp này là cách thức hiệu quả để cung cấp cho tác giả cái nhìn thực
tế tuy nhiên cũng đòi hỏi người thực hiện nó có khả năng bao quát và cụ thể hóa vấn
đề. Đối với nghiên cứu này, tác giả tiến hành quan sát nhằm tìm hiểu xem ai là
người triển khai việc CSSKBĐ và nó được diễn ra như thế nào? Phụ nữ được cung
cấp các dịch vụ CSSKBĐ như thế nào?, đây là cơ sở đánh giá tình hình chăm lo sức
khỏe và sự hỗ trợ từ gia đình của PNNT. Từ những mong muốn đó, tác giả lựa chọn
22
đối tượng và địa điểm cho tiến trình quan sát như sau: Hoạt động CSSK của CBYT
tại trạm y tế, quá trình làm việc của CBYT thôn bản (đặc biệt các hoạt động tuyên
truyền và giáo dục trực tiếp tại địa bàn nghiên cứu), hoạt động khám chữa bệnh và
tham gia vào một số hoạt động cộng đồng lồng ghép với vấn đề CSSKBĐ của phụ
nữ tại xã Thanh Hà, đời sống sinh hoạt hàng ngày của phụ nữ trong xã.
Như vậy, sau khi thực hiện hoạt động quan sát, tác giả lưu giữ thông tin thu
thập được bằng việc ghi chép. Quá trình quan sát giúp tác giả khám phá ra những
thông tin để so sánh với giả thuyết đã đặt ra.
7.4. Phƣơng pháp phỏng vấn sâu
Mục đích của tác giả khi tiến hành phỏng vấn sâu là để thu thập được các ý
kiến từ nhiều đối tượng trọng cộng đồng, đặc biệt là trả lời cho câu hỏi về sự tham
gia của cộng đồng đối với việc CSSK cho PNNT. Phương pháp này giúp cho tác giả
khai thác được sâu hơn từ những nhận định tình hình ban đầu của quá trình phân
tích tài liệu. Tác giả dự kiến thực hiện 10 cuộc phỏng vấn sâu với thời lượng mỗi
cuộc kéo dài từ 60-90 phút.
Mẫu phỏng vấn sâu được xây dựng với mục đích tìm hiểu cụ thể hơn về hiệu
quả của công tác CSSKBĐ đối với phụ nữ được thực hiện với 5 người đã và đang
sử dụng dịch vụ CSSK tại cơ sở. Thông tin thu thập trong mẫu phỏng vấn tập trung
vào nhu cầu CSSK của PNNT, hiểu biết của phụ nữ về CSSKBĐ và sự tham gia của
cộng đồng đối với việc chăm lo cho sức khỏe của phụ nữ trong địa bàn. Những
thông tin chi tiết được phát hiện ra bằng các câu hỏi đặt vào tình huống cụ thể như
thói quen và lối sống của địa phương, tình trạng bệnh tật hay mắc phải, đánh giá của
phụ nữ về hoạt động của các cơ sở y tế.
Mẫu phỏng vấn sâu tiếp theo là để tìm hiểu việc triển khai chương trình
CSSKBĐ cho PNNT tại các cơ sở y tế của xã. Nghiên cứu thực hiện phỏng vấn sâu
với CBYT xã, CBYT dự phòng để nắm được chương trình và cách thức thực hiện
CSSKBĐ. Bên cạnh đó, nghiên cứu dành ra 1 cuộc phỏng vấn sâu đối với CBYT
thôn bản bởi đây là người trực tiếp đưa thông tin về CSSKBĐ và giúp người dân
tiếp cận tới các chương trình CSSK tại cộng đồng.