Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

NGHIÊN cứu CÁCH sử DỤNG PROPOFOL TRONG gây mê một số BỆNH THƯỜNG gặp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.48 KB, 5 trang )


Y học thực hành (8
69
)
-

số
5
/201
3






4
NGHIÊN CứU CáCH Sử DụNG PROPOFOL TRONG GÂY MÊ MộT Số BệNH THƯờNG GặP

Trần Thị Kiệm - Bệnh viện Bạch Mai
TóM TắT
Mục tiêu: Nghiên cứu các cách sử dụng propofol
trong khởi mê mổ mổ ngắn, duy trì mê cho mổ kéo dài:
đánh giá chất lợng khởi mê, các đặc tính khác tác
dụng không mong muốn của thuốc. Xây dựng phác đồ
sử dụng propofol tại Việt Nam.
Đối tợng và phơng pháp: Nghiên cứu tiến cứu,
mô tả cắt ngang. Gồm 64 bệnh nhân của 4 nhóm
bệnh: nhóm 1(sốc điện điều trị loạn nhịp tim), tiêm
TM 1mg/kg/20s, nhóm 2 (nội soi đờng tiêu hóa):
tiêm TM Propofol 1,5 mg/kg và phối hợp 50


à
g
fentanyl và midazolam 1-1.5 mg. Nhóm3(nắn xơng
trật khớp): tiêm TM propofol 1,5 mg/kg và
succinylcholin 1mg/kg; nhóm 4 (kết hợp xơng): khởi
mê 3 mg/kg, duy trì 6-9 mg/kg/h, kết hợp fentanyl 5
mcg/ kg hoặc sufentanyl 1-2 mcg/kg.
Kết quả và bàn luận: Nhóm 1 (sốc điện, n=14): chủ
yếu ngời cao tuổi; nhóm 2 (nội soi đờng tiêu hóa,
n=28): đa số là nữ; nhóm 3: cấp cứu (trật khớp chấn
thơng, n=10): TM 2mg/kg và nhóm 4: n=14 đa số trẻ
tuổi, chấn thơng, nam. Thời gian khởi mê 288 giây,
êm, tỉnh nhanh (73 phút), thời gian hồi tỉnh: 73
minutes, chất lợng tỉnh rất tốt: 95%, chậm tỉnh: 0. Tác
dụng phụ: khởi mê: HA giảm: 26%, Nhịp tim
chậm:31%; ngừng thở ngắn: 30%; hồi tỉnh: nôn (2%),
nấc (3%). Kết luận: Khởi mê nhanh, êm, tỉnh nhanh;
các tác dụng phụ dễ xử trí. Propofol gây mê đợc cho
tất cả các loại can thiệp y khoa và mổ ngoại trú. Phác
đồ sử dụng: mổ ngắn (dới 30 phút), mổ ngoại trú: khởi
mê: 1-1,5 mg/kg, rồi tiêm cách quãng 5 -10 phút 3
mg/kg/h. Thời gian mổ TB hoặc dài: bolus hoặc bơm
tiêm điện: 3-9 mg/kg/h. Bệnh nhân cao tuổi, suy thận,
suy gan: khởi mê: 1mg/kg, duy trì mê: 1,5-2mg/kg/h,
ngời lớn: khởi mê: 2-3 mg/kg/h, duy trì: 6 mg/kg/giờ
đầu, các giờ sau: 4 hoặc 3 mg/kg/h.
Từ khóa: propofol, khởi mê.
SUMMARY
Objectives: To study the methods usages of
propofol in the induction and maintain for the short or

long anesthesia - surgery. Evaluation the qualite
anesthesia induction, the differents characterics and
outsides effects of propofol. Contructing the protocol
for applicating in Vietnamese.
Materials and method: Prospective, cross-sectional
decribitive. Consists of 4 groups of patients with
diseases: Group 1 (shock electric treatment
arthytmya): injecting a dose IV 1mg/kg/20 seconds,
Group 2 (gastrointestinal tract endoscopy): ambulatory
anesthesia with propofol IV injection or infusion pump
electric combination 50
à
g fentanyl and midazolam 1-
1.5mg; Group 3: bent dislocation (shoulder, hip, elbow)
Emergency: Propofol injection of 1-1.5mg/kg IV
combines muscle relaxants (succinyl); Group 4
(prolonged surgical anesthesia): propofol induction
doses of 2.5-3mg/kg then maintain 6-9 mg/kg/h,
combined with morphinique (fentanyl 5
à
g/kg or
sufentanyl 1-2
à
g/kg) and muscle relaxants (Atracurium
0.5mg/kg or Vecuronum 1mg/kg).
Results and discussion: Induction time: 288
seconds; induction quality: very good (100%) satisfied.
Time extubation: 73 minutes; quality recovery: very
good (95%), no late recovery. Outsites effects: In
induction: Pain at the injection site: 22%, decrease

blood presure (<20%): 26%; rate heart slow: 31%,
short apnea: 31%; In recovery: Nausea: 2%;
stimulated hiccups: 3%. Conclussion: Drugs rapid
induction (288 seconds), smooth, fast recovery (73
minutes), the quality is very good (95%) and no late
recovery. Outsite efects: In induction: blood pressure
decrease (26%), brachicardy (31%), short apnea
(30%), in recovey: nausea (2%), stimulate hicure (3%).
Can be applied to most types of medical interventions
and outpatient surgery. Regiment used for short
surgical anesthesia and long time short anesthesia
(under 30 minutes), anesthesia for outside patient are
loading dose: 1-1.5 mg/kg. Then injections bolus 5-10
minutes at a dose of 3mg/kg/h. In short, moyen or long
times anesthesia: bolus or infusion pump power 9
doses of 3 mg/kg/h. With elderly patient, renal failure,
liver failure, the induction dose is 1 mg/kg dose then
maintained: 1.5-2 mg/kg/h. Adults: dose induction is 2-
3 mg/kg/h. Maintaining power injection 6 mg/kg in the
first hour and the hour is 4 or 3 mg/kg/h.
Keywords: propofol, bolus, power injector,
induction and maintenance anesthesia.
ĐặT VấN Đề
Propofol là thuốc gây mê tĩnh mạch có nhiều u
điểm nh khởi mê êm dịu, tỉnh nhanh, ngay cả khi gây
mê trong thời gian kéo dài. Thuốc dùng thuận lợi cho
các loại phẫu thuật thời gian ngắn nh mổ tai mũi
họng, mắt, sản phụ khoa, gây mê mổ ngoại trú.
Propofol cũng đợc dùng an thần cho bệnh nhân phối
hợp với gây tê vùng. Tuy các chỉ định sử dụng thuốc

không khác nhiều so với Thiopental, đặc điểm riêng
của thuốc giúp cho khả năng mở rộng chỉ định sử dụng
trên nhiều loại hình phẫu thuật. Chính vì những lý do
trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu phơng pháp sử
dụng propofol gây mê cho các loại phẫu thuật, thủ
thuật khác nhau tại Khoa Gây mê Hồi sức bệnh viện
Charles-Nicolle (Rouen-CH Pháp) với mục tiêu:
1- Nghiên cứu các cách sử dụng propofol trong:
Khởi mê các phẫu thuật ngắn (liều lợng khởi mê, thời
gian xuất hiện mất ý thức); khởi mê và duy trì mê cho
các phẫu thuật (tiêm TM, duy trì bằng bơm tiêm điện).
2- Đánh giá chất lợng khởi mê và các đặc tính
khác của thuốc.
3- Tìm hiểu các tác dụng không mong muốn của
propofol.
4- Xây dựng phác đồ sử dụng propofol ứng dụng ở
Việt Nam.
ĐốI TƯợNG Và PHƯƠNG PHáP
1. Phơng pháp: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt
ngang: gồm 64 bệnh nhân chia 4 nhóm ở 4 khoa khác
nhau, phẫu thuật chấn thơng chỉnh hình, phòng nội
Y học thực hành (8
69
)
-

số

5/2013








5
soi (ASA 1-2), khoa Tim mạch (chỉ định sốc điện điều
trị loạn nhịp, nhịp nhanh trên thất ASA 2-3). Bệnh nhân
nội soi tiêu hóa cần gây mê ngoại trú có ASA 1-3.
Phác đồ cho thuốc gây mê: gây mê thời gian ngắn
(dới 30 phút): một liều duy nhất tiêm TM; gây mê
phẫu thuật kéo dài: truyền propofol liên tục bằng bơm
tiêm điện tự động.
2. Kỹ thuật gây mê: Theo dõi bệnh nhân theo
phác đồ gây mê ngắn.
+ Nhóm 1 (bệnh nhân tim mạch): Propofol tiêm TM
một liều 1mg/kg/20 giây. Thở oxy mask.
+ Nhóm 2 (nội soi ống tiêu hóa): Gây mê ngoại trú
với propofol tiêm TM (n=14) hoặc bơm tiêm điện
(n=14) kết hợp fentanyl 50àg và midazolam 1-1,5mg.
Tiêm propofol liều 1-1,25 mg/kg trong 25-30 giây, sau
đó tiêm nhắc lại hoặc đặt bơm tiêm điện duy trì.
+ Nhóm 3 (nắn trật khớp vai, háng, khuỷu) cấp cứu:
Gây mê ngắn bằng tiêm propofol TM kết hợp giãn cơ:
propofol 2-2,5 mg/kg, tiếp theo là succinyl-choline
1mg/kg, tiêm nhắc lại khi cần.
+ Nhóm 4 (gây mê phẫu thuật kéo dài cho bệnh
nhân cấp cứu chấn thơng): Khởi mê propofol liều
2,5-3 mg/kg, sau đó duy trì bơm têm điện 6-9

mg/kg/h, kết hợp với morphin (fentanyl 5àg/kg hoặc
sufentanyl 1-2àg/kg) và giãn cơ (Atracurium 0,5
mg/kg hoặc Vecuronum 1mg/kg). Đặt ống thở và
thông khí nhân tạo. Theo dõi bệnh nhân theo phác đồ
phẫu thuật kéo dài.
3. Các chỉ số theo dõi
Liều khởi mê: tiêm TM nhắc lại hoặc duy trì bơm
tiêm điện. Tốc độ tiêm nhắc lại: - Thời hạn tác dụng (từ
lúc tiêm thuốc đến khi mất ý thức).
- Thời gian tác dụng (từ lúc dừng tiêm liều cuối cùng
đến khi hồi phục ý thức).
- Thời gian hồi phục vận động.
- Thời gian tỉnh trớc rút ống thở (sau khi dừng
propofol đến khi rút ống thở).
- Các tác dụng không mong muốn của thuốc khi
khởi mê và lúc thức tỉnh.
4. Xử lý số liệu: phần mềm Kruskall-
Wallis(ANOVA).
KếT QUả
- Trong 8 tháng nghiên cứu tiến hành gây mê cho
64 bệnh nhân tại Viện trờng Rouen (CH Pháp). Có 4
nhóm bệnh nhân (sốc điện điều trị loạn nhịp tim), chấn
thơng (nắn trật khớp các loại), mổ kết hợp xơng và
nội soi đờng tiêu hóa.
1. Đặc điểm bệnh nhân nghiên cứu.
Bảng 1: Phân bổ giới, trọng lợng và tuổi,
Nhóm
Tỷ lệ
nữ/nam
(%)

Trọng
lợng (kg)

Tuổi (năm)
(XSD)
Trên 60
tuổi (%)
1 (n=14) 21* 80 12
61,9 9,7

(42-73)*
64*
2 (n=28) 64* 67 14
56,2 15,4

(17 -76)*
50*
3 (n = 10)

30* 69 9
44,8 19,5

(21-68)*
40*
4 (n = 12)

25* 73 13
34,0 9,7

(24-53)*

0*
= 64
42 71 14
51,6 17


(21-76)
42
* p< 0,005; nhóm 1, 2 so với nhóm 3, 4
Nhận xét: Nhóm 1 (sốc điện): chủ yếu trên ngời
già; nhóm 2 (nội soi đờng tiêu hóa): chủ yếu là nữ;
nhóm 3 và 4 (chấn thơng): chủ yếu là nam, trẻ tuổi.
Bảng 2: Liều khởi mê, tốc độ tiêm thuốc và thời hạn
có tác dụng
Nhóm

Liều khởi mê
(mg/kg)
(X SD)
Tốc độ khởi mê
(mg/giây)
(X SD)
Thời gian khởi
phát tác dụng
(giây) (XSD)

1
1,2 0,4

(0,8 2,1)*

3 1 (2 - 5)
25 6

(15 - 35)
2
1,0 0,3

(0,6 2,0)*
2 1 (1 4)
26 9

(10 50)
3
2,6 0,6

(1,4 3,5)
5 2 (3 7)
30 8

(20 40)
4
2,7 0,7

(1,7 4,4)
5 1 (3 8)
32 8

(25 50)
=64


1,6 0,9

(0,6 4,5)
3 2 (1 8)
28 8

(10 - 50)
*p<0,05; nhóm 1 và 2 so với nhóm 3 và 4
Nhận xét: Các bệnh nhân nhiều tuổi nhất trong
nhóm 1 và 2 đã đợc khởi mê với liều hạ thấp đáng kể
so với các nhóm khác. Tốc độ tiêm và thời hạn thuốc
có tác dụng tơng đơng.
Bảng 3: Chất lợng khởi mê
Nhóm
Tuyệt vời
(n)
Tỷ lệ
(%)
Hài lòng
(n)
Tỷ lệ
(%)
Không tốt

1

13

93


1

7

0

2

25

90

3

10

0

3

9

90

1

10

0


4

12

100

0

0

0


= 64 59 92 5 8 0
Nhận xét: Hầu hết đợc đánh giá rất tốt và hài lòng.
Không có trờng hợp nào chất kém.
Bảng 4: Liều duy trì bằng bolus và khoảng cách
giữa các lần tiêm
Nhóm

Liều duy trì bằng bolus

(mg/kg/h)
Khoảng cách giữa các

lần tiêm (phút)
1 (n = 2)

0,6 0,3


4 1

2 (n = 10)

4,2 3,2

9 2

3 (n = 7)

3,1 1,8

10 3


= 19
3,4 2,7

9 3

Nhận xét: Khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa
3 nhóm bệnh nhân do số bệnh nhân còn ít. Tuy nhiên,
chiều hớng là dùng liều thấp và rút ngắn khoảng cách
khi tiêm nh trong nhóm 1.
Bảng 5: Liều duy trì và thời gian truyền liên tục
(bơm tiêm điện)
Nhóm
Liều (mg/kg/h) (

XSD) Thời gian (phút) (


XSD)

2 (n=
14)

8 4*

25 7

4 (n=
12)

5 2

117 73


= 26
7 4 67 67
*p<0,05; nhóm 2 với nhóm 4 cho liều duy trì băng
bơm tiêm điện.
Nhận xét: Liều duy trì nhiều hơn ở nhóm 2 do lợng
thuốc morphin ít hơn (nhiều nhất là 50àg/kg fentanyl)
kết hợp với propofol. Cha thấy khác biệt có ý nghĩa

Y học thực hành (8
69
)
-


số
5
/201
3






6
giữa hai nhóm, mặc dù thời gian trung bình của nhóm 4
dài hơn.
Bảng 6: Rút ống và thời gian tỉnh
Nhóm
Thời gian tỉnh (phút)
(X SD)
Khoảng thời gian
trớc khi rút ống
(phút) (X SD)
1 (n=14)

6 2 (4
-

10)


2 (n = 28)


7 2 (4


12)

10 (n = 1)

3 (n = 10)

6 2 (3


8)


4 (n = 12)

11 4 (6
-

16)*

16 4

ó = 64

7 3 (3
-


16)


*p<0,05; nhóm 4 so với nhóm 1, 2 và 3
Nhận xét: Thời gian tỉnh kéo dài có ý nghĩa trong
nhóm 4 bởi nó tơng ứng với sự kết hợp với các thuốc
khác (giãn cơ, morphin).
Bảng 7: Chất lợng hồi tỉnh (thoát mê)
Nhóm

Rất tốt (n)

Tỷ lệ (%)

Đúng (n)

Tỷ lệ (%)

Chậm

1 (n =
14)

14

100

0

07


0

2 (n = 28)

27

96

1

4

0

3 (n = 10)

9

90

1

10

0

4 (n = 12)

11


91

1

9

0


= 64
61

95

3

5

0

Nhận xét: ở tất cả các nhóm đợc quan sát, chất
lợng hồi tỉnh đều đợc đánh giá là rất tốt (trả lời đúng
các câu hỏi), không có trờng hợp tỉnh chậm.
Bảng 8: Tác dụng phụ và tác động có hại của thuốc
khi khởi mê
Nhóm
Đau

tại vị trí

tiêm
Hạ HA
(>20%)
Hạ nhịp

tim (>20%)

Ngừng
thở
Cử động
tự nhiên

1
(n=14)

36% (5)

21% (3)

21% (3)

29% (4)

0

2(n=28)

11% (3)

18

%

(5)

18
%

(5)

32% (9)

3% (1)

3
(
n
=10)

40
% (4)

40% (4)

40% (4)

30% (3)

0

4(n=12)


17% (2)

42% (5)

42% (5)

33% (4)

0


= 64
22% (14) 26% (17)

31% (20)

31% (20)

2% (1)
Nhận xét: Kết quả đợc diễn tả bằng tỷ lệ phần
trăm số bệnh nhân dựa vào số lợng thực đợc ghi bên
cạnh trong dấu ngoặc đơn.
Bảng 9: Tác dụng phụ và tác động có hại của thuốc
trong hồi tỉnh
Nhóm
Buồn
nôn
Ho
Kích

thích
Nấc
Giảm
trơng
lực
An
thần

Cử
động tự
nhiên
1(n=14)

0

0

0

0

7%(1)

0

0

2(n=28)

4%(1)


13%(3)

4%(1)

4%(1)

0

7%(2)

4%(1)

3(n
=10)

0

0

10%(1)

0

0

0

0


4
(n=12)

0

17%(2)

0

8%(1)

0

8%(1)

17%(2)


= 64

2%(1)

8%(5)

3%(2)

3%(2)

2% (1)


5%(3)

8%(5)

Nhận xét: Kết quả đợc diễn tả bằng tỉ lệ phần trăm
số bệnh nhân dựa vào số lợng thực đợc ghi bên
cạnh trong dấu ngoặc đơn. Do số lợng bệnh nhân ít
nên không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa các nhóm.
Các biến chứng hậu phẫu chủ yếu kết hợp với các yếu
tố nguy cơ trên bệnh nhân nghiện rợu hay thuốc lá.
BàN LUậN
1. Đặc điểm bệnh nhân nghiên cứu.
Nhóm 1 (gồm 14 bệnh nhân bệnh tim) nh: loạn
nhịp tim (nhịp nhanh trên thất, nói chung là có kết hợp
các nguy cơ: THA, đái tháo đờng, béo phì. Tất cả ở
độ ASA 2-3; sốc điện 1 hoặc 2 lần điều trị rung nhĩ
hoăc fluter nhĩ nếu nh toàn trạng ổn định). Sau khi
can thiệp, bệnh nhân có thể xuất viện giống nh bệnh
nhân nhóm 2 (mổ ngoại trú). Cách làm này do
Mangleliar và cộng sự [5] đề ra. Cách này có thể áp
dụng trên bệnh nhân cao tuổi, sau khi cho một liều
1mg/kg tác dụng lên huyết động (tơng đơng liều 2-
2,5 mg/kg ở ngời trẻ tuổi). Trong nghiên cứu này, với
liều 1 mg/kg không thay đổi về huyết động nặng nề
mặc dù huyết áp có giảm trên 20%. Bệnh nhân nhóm
1 có cân nặng và tuổi cao hơn so với các bệnh nhân
nhóm khác, có ý nghĩa thống kê với p< 0,05.
Nhóm 2 (gồm 28 bệnh nhân khám, điều trị tổn
thơng đờng tiêu hóa): Bệnh nhân có chỉ định nội
soi ống tiêu hóa, gây mê ngoại trú, xuất viện sau can

thiệp 6 giờ. Tuổi trung bình 56,215,4 tuổi (cao nhất
76 tuổi, thấp nhất 17 tuổi), ngời trên 60 tuổi chiếm
50% - đây là tuổi hay mắc bệnh đờng tiêu hóa (nam
50%, nữ 50%); cân nặng trung bình 6714 kg.
Lapuelle J. và cộng sự[3] đã chứng minh đợc rằng
dùng propofol bệnh nhân tỉnh sớm hơn rất nhiều so
với dùng thiopental.
Nhóm 3 (các bệnh nhân chấn thơng, nh: trật
khớp vai, khuỷu, háng): hầu hết còn rất trẻ, tuổi trung
bình 44,819,5 tuổi; cân nặng trung bình 699 kg.
Chúng tôi sử dụng propofol và succinyl-cholin. Liều
khởi mê từ 2-2,5 mg/kg, có thể tiêm nhắc lại khi cần vì
thời gian kéo nắn ngắn trong khoảng 5-15 phút.
Peacock J.E. và cộng sự [7] còn phối hợp với gây tê tại
chỗ cho các bệnh nhân phẫu thuật tạo hình ngoại trú.
Bệnh nhân có thể xuất viện 2 giờ sau khi phẫu thuật.
Nhóm 4 (tổn thơng gẫy các chi): gồm 12 bệnh
nhân trẻ nhất. Tuổi trung bình 34,09,7 tuổi (cao nhất
53 tuổi, thấp nhất 27 tuổi); tỷ lệ nam là 75%; cân nặng
trung bình 7313kg. Kaladji và cộng sự[2] đã dùng
propofol gây mê cho bệnh nhân trẻ tuổi thay khớp
háng nhân tạo.
2. Các kết quả thu đợc sau khi gây mê bằng
propofol.
Chúng tôi sử dụng propofol để cho các cuộc mê
ngắn (tiêm một lần duy nhất hoặc bolus) và thời gian
dài (với bơm tiêm điện). Kết quả đợc tóm tắt nh sau:
2.1. Khởi mê
- Liều và tốc độ khởi mê: Tất cả 64 bệnh nhân đợc
sử dụng liều khởi mê. Liều này đợc thay đổi tùy theo

các nhóm can thiệp, các khác biệt có ý nghĩa thống kê
với p<0,05.
Nhóm 1 (bệnh nhân tim mạch): Liều trung bình:
1,200,4 mg/kg. Tốc độ truyền là 31 mg/giây; không
kết hợp propofol với các thuốc gây mê khác. Đây là
phơng pháp đợc đánh giá rất hiệu quả, lợi thế của
nó đã đợc biết đến nhờ các báo cáo về thiopenal, nh
Vailly và Fegger[9] đã chứng minh. Chúng tôi đã sử
dụng liều thấp bởi các bệnh nhân mang bệnh tim
mạch, có biến chứng rung thất đợc điều trị trong quá
trình gây mê. Cuộc phẫu thuật đã diễn ra suôn sẻ,
không có thay đổi lớn về mặt huyết động. So sánh với
thiopental, Youngberg, Valtonen và cộng sự[10] đã báo
cáo trên các bệnh nhân từng đợc sử dụng cả hai loại
thuốc thì đều thích propofol hơn.
Y học thực hành (8
69
)
-

số

5/2013








7
Nhóm 2 (các bệnh nhân nội soi): Đây là một can
thiệp y khoa phổ biến, các bệnh nhân có thể ra viện
trong ngày. Liều trung bình là 1,00,3 mg/kg. Can thiệp
nội soi cũng không gây đau nhiều. Tốc độ tiêm là 21
mg/giây. Kết hợp propofol với fentanyl và midazolam
trớc khi khởi mê nhằm làm giảm liều propofol. Thời
gian trung bình của can thiệp là 15-30 phút. Lợi thế của
propofol đợc thấy rõ trong trờng họp này, tất cả các
bệnh nhân ra viện trong 6 giờ sau can thiệp. Liều lợng
tơng ứng với liều lý thuyết.
Nhóm 3: Gây mê bằng propofol với liều 2,60,6
mg/kg, tốc độ tiêm là 52mg/giây kết hợp với afentanyl
(10mg/kg) và succinylcholin (1mg/kg), do tính đau
nhiều nên cần thiết phải có sự giãn cơ. So sánh với các
thuốc gây mê khác nh midazolam, propofol dễ dàng
hơn trong sử dụng và kiểm soát độ mê. Propofol có
chất lợng tỉnh tốt hơn.
Nhóm 4 (các bệnh nhân đợc gây mê toàn thể với
mổ dài): liều propofol trung bình là 2,70,7 mg/kg, tốc
độ tiêm là 51 mg/giây, không có giá trị thống kê trong
4 nhóm (p>0,05).
- Thời gian tiêm và thời gian khởi phát tác dụng:
Tiêm khởi mê trong khoảng: 25-50 giây. Thời gian
trung bình khi bệnh nhân ngủ: 21 giây với cách tiêm
thuốc trong 5 giây (liều 2 mg/kg) trên bệnh nhân không
dùng thuốc trớc đó. Chúng tôi đã tiêm cho nhóm 1:
thời gian 32,510 giây với thời gian khởi phát tác dụng
là 256 giây; nhóm 2: thời gian tiêm là 48,811,4 giây
với thời gian khởi phát tác dụng là 269 giây. Kết quả

này tơng đồng với các nghiên cứu của Rolly G. và
Verchelen[8] đã có những kết luận đồng nhất về thời
gian tiêm thuốc. Các bệnh nhân có thể ngủ trong vòng
35 giây khi tiêm trong 20 giây và ngủ trong 50 giây khi
tiêm trong 60 giây.
- Chất lợng khởi mê: Propofol rất tốt với liều phù
hợp với tuổi và tác động phẫu thuật. Trong nghiên cứu
này, tỷ lệ đánh giá chất lợng khởi mê rất tốt là 92%.
Liều phù hợp trên ngời cao tuổi là 1-1,5 mg/kg (nhóm
1: 1,00,3), khi gây mê ngoại viện là 1,20,4 mg/kg,
kết hợp với midazolam và/hoặc alfentanyl (trên các
bệnh nhân trẻ và sử dụng rợu), cuối cùng là 2,60,6
mg/kg (nhóm 3) hoặc 2,70,7 mg/kg (nhóm 4). Bệnh
nhân chắc chắn bị mất tri giác, các kết quả này thấp
hơn so với các kết quả của Delhumeau A.[1] là rất tốt
10/10. Trên các bệnh nhân thiếu khối lợng tuần hoàn
không đợc sửa chữa và các bệnh nhân tim mạch cần
phải giảm liều nh những ngời già hoặc sử dụng
étomidate. Khi tiêm nhắc lại, chúng tôi tiêm bolus hoặc
sử dụng bơm tiêm điện và giảm liều. Tránh hạ huyết áp
khi truyền kéo dài hoặc với bệnh nhân thiếu khối lợng
tuần hoàn nặng không dùng liều quá 3 mg/kg/h và
đảm bảo cung cấp oxy cho bệnh nhân.
2.2. Duy trì mê: Chúng tôi sử dụng propofol trong
duy trì mê thời gian dài cũng nh các thuốc gây mê
khác.
- Bằng cách bolus: Với các cuộc mê xấp xỉ nửa giờ,
chúng tôi sử dụng phơng pháp bolus. Sau khi khởi
mê, tiêm nhắc lại liều 3,42,7 mg/kg/h, không có sự
khác biệt giữa 3 nhóm. Giảm liều với ngời già (nhóm

1) và các tác động phẫu thuật (nhóm 2). Khoảng cách
giữa các lần tiêm là 93 phút, không có sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê. Với khoảng cách nh nhau (10 phút)
thời gian mở mắt của thiopental:7,9 phút (n=32), với
propofol: 4,1 phút (n=33)[9]. Trong các can thiệp kéo
dài khoảng 1 giờ, so sánh với isoflurane, Youngberg và
cộng sự[10] đã chứng minh: thời gian trả lời câu hỏi
(3,3 phút), định hớng đợc (6,5 phút), ngắn hơn
thiopental (7,5 và 15,9 phút) với p<0,05.
- Duy trì bằng bơm tiêm điện: Dùng bơm tiêm điện
truyền thuốc liên tục để nồng độ thuốc trong máu ổn
định cho phép bệnh nhân ngủ sâu cho 2 nhóm: Nhóm
2 (nội soi) 14 bệnh nhân, liều duy trì: 84 mg/kg/h; thời
gian duy trì: 257 phút. Giá trị này tơng ứng với lý
thuyết, là 8-9 mg/kg/h trên các bệnh nhân nội soi với
các tác động không quá đau và thời gian khoảng nửa
giờ. Nhóm 4 (gây mê chấn thơng với thời gian dài) có
12 bệnh nhân. Phẫu thuật rất đau, duy trì bơm tiêm
điện: 52 mg/kg/h (kết hợp với fentanyl và atracurium
hoặc vecuronium, đặt ống và thông khí nhân tạo); thời
gian dùng bơm tiêm điện:11773 phút, thay cho dùng
liều 3-9 mg/kg/h. ở nghiên cứu này, chúng tôi dùng
liều 6 mg/kg/h trong giờ đầu và 3 hoặc 4 mg/kg/h trong
các giờ sau. Wetcheler và cộng sự đã báo cáo sự khác
biệt có ý nghĩa trong khoảng thời gian để đạt điểm
Aldrete = 10 sau khi khởi mê bằng propofol và
thiopental. Kết luận của chúng tôi tơng tự: tất cả đều
diễn ra êm và 96% trờng hợp cho thấy duy trì mê và
hồi tỉnh.
- Hồi tỉnh: Chất lợng hồi tỉnh của propofol rất tốt.

Trong nghiên cứu này, các kết quả về thời gian thực
hiện các lệnh đơn giản và thực hiện kiểm tra trí nhớ
sau khi dừng thuốc là 73 phút so với 27 20 phút khi
dùng thiopental[10]. Bệnh nhân trả lời chính xác các
câu hỏi và thực hiện các lệnh đơn giản. Không có hiện
tợng ý thức u ám hay ngủ gà. Các kiểm tra trí nhớ
sớm đợc thực hiện tốt. Rút ống có thể đợc từ 164
phút. Nghiên cứu của Millar và Jewkes[6], thời gian rút
ống sau khi gây mê bằng propofol là 12,98 phút và thời
gian mở mắt là 7,5 phút (p<0,05). Các bệnh nhân
nhóm 1 và 2 đều xuất viện bắt đầu từ 6 giờ sau can
thiệp.Tỉnh nhanh, không buồn ngủ trở lại là một lợi thế
quan trọng của propofol.
3. Tác dụng phụ của thuốc
Trong điều kiện của nghiên cứu, chúng tôi nhận
thấy có các tác dụng phụ sau:
3.1. Đau tại nơi tiêm: Có 22% trờng hợp bị đau
tại vị trí tiêm, nhất là trên các tĩnh mạch nhỏ của lng
bàn tay. Không có sự khác biệt giữa các nhóm. ở
nhóm 2 chúng tôi thêm Xylocain (10mg) vào propofol
để giảm đau. Delhumeau A. và cộng sự[1] đã kết luận
rằng bệnh nhân không thấy đau nếu tiêm vào các tĩnh
mạch lớn ở cánh tay với lu lợng lớn khi tiêm.
3.2. Tụt huyết áp động mạch: Sau khi khởi mê, có
tụt huyết áp động mạch 26% trong 4 nhóm. Có sự
khác biệt có ý nghĩa trong 4 nhóm (p<0,05). ở nhóm 1
ta thấy tần số tim hạ, huyết áp ít thay đổi (3/4) bởi vì
không đặt ống và không kết hợp với thuốc mê khác. Cơ
chế của sự tụt huyết áp này khá phức tạp, có thể do
giãn mạch, giảm tiền gánh và giảm co bóp cơ tim. Trên


Y học thực hành (8
69
)
-

số
5
/201
3






8
các bệnh nhân không dùng thuốc trớc đó thì khởi mê
do propofol bằng bolus gây ra tụt huyết áp tâm thu. Sự
hạ huyết áp này thấy rõ hơn trên bệnh nhân kết hợp
với thuốc họ morphin và các bệnh nhân điều trị bằng
betabloque (3/14 bệnh nhân nhóm 1). Theo chúng tôi,
có thể dễ dàng đặt ống, không dùng giãn cơ, hoặc đặt
mask thanh quản. Tuy nhiên nên hiểu rõ nguy cơ hạ
huyết áp để tránh trong trờng hợp bệnh nhân thiếu
khối lợng tuần hoàn hoặc bệnh nhân có dùng thuốc
họ morphin hoặc betabloque.
3.3. Nhịp tim chậm: Để giải thích hiện tợng hạ
tần số tim khi gây mê bằng propofol, có lẽ thuốc làm
giảm tốc độ tối đa của tái khử cực và kéo dài thời gian

dẫn truyền, dới điều kiện sử dụng nồng độ cao
(>30àg/ml). Trong nghiên cứu này chúng tôi thấy có
31% bệnh nhân có giảm nhịp tim từ 10-20% giá trị ban
đầu, sau đó trở lại bình thờng mà không dừng thuốc
propofol. Có thể dùng Atropin để ngăn ngừa nhịp chậm
trên bệnh nhân có nhịp xoang bình thờng.
3.4. Ngừng thở: Sau khi tiêm 2-2,5 mg/kg propofol,
xuất hiện tăng tấn số thở và giảm thể tích thở. Sau đó
xuất hiện ngừng thở thoáng qua khoảng 30 giây. Trong
thời gian duy trì mê ngời bệnh thở với tần số lớn hơn
tần số thở ban đầu. Trong 4 nhóm, ngừng thở tạm thời
nhóm 1: 29%, nhóm 2 (liều 1,5mg/kg): 32%, nhóm
3:30% và nhóm 4: 33%. Tỷ lệ ngừng thở cao hơn ở các
nhóm có kết hợp với thuốc giảm đau họ morphin và
liều lợng chỉ là một yếu tố có ảnh hởng yếu đến tỷ lệ
ngừng thở khi quan sát với liều kể từ 1,5mg/kg trở lên.
Không có hiện tợng co thắt thanh quản khi khởi mê.
Kết quả này phù hợp với kết luận của Rolly và cộng
sự[8]. ở nhóm 2, có một bệnh nhân có cử động chi
không gây cản trở trên bệnh nhân nội soi. Không thấy
hiện tợng này trên bệnh nhân đợc dùng thuốc giảm
đau họ morphin trớc đó.
4. Những tác dụng không mong muốn khi hồi
tỉnh
Sau khi gây mê bằng propofol, có một số các tác
dụng không mong muốn trong khoảng thời gian hồi
tỉnh: nôn: 2%, kích thich nấc: 3%. Tỷ lệ buồn nôn và
nôn của étomidate nhiều hơn so với propofol.
Mackenzie và Grand[4] đã chứng minh, có 7/20 bệnh
nhân có biểu hiện đau đầu, ngủ gà sau khi truyền

thiopental, trong khi đó dùng propofol không xảy ra
trờng hợp nào. Bởi vậy, propofol đợc a dùng hơn,
ngoại trừ trên các bệnh nhân mang bệnh tim mạch
không ổn định.
KếT LUậN
Nghiên cứu 64 bệnh nhân gây mê bằng propofol,
cho thấy:
1. Khởi mê bằng propofol nhanh, êm dịu và không
gây co thắt thanh quản. Thời gian khởi phát tác dụng là
288 (giây). Liều lợng phụ thuộc vào tuổi, nhóm
bệnh.
2. Chất lợng khởi mê rất tốt: 95%, hài lòng: 5%.
Chậm tỉnh: 0%.
3. Hồi tỉnh đạt mức độ tuyệt vời và nhanh nhất trong
nhóm các thuốc gây mê tĩnh mạch. Tỉnh nhanh hay
chậm phụ thuộc vào độ dài của cuộc mê, liều lợng và
tuổi của bệnh nhân (15-20 phút sau khi dừng truyền).
Thuốc không gây quên. Các tác hại của thuốc không
trầm trọng và có thể sửa chữa nhanh chóng nên nó
đợc dùng cho bệnh nhân mổ ngoại trú.
4. Phác đồ sử dụng propofol nh sau:
- Gây mê ngắn (dới 30 phút), gây mê ngoại viện:
Liều khởi mê: 1-1,5mg/kg, sau đó tiêm cách quãng 5
đến 10 phút: 3mg/kg/h.
- Gây mê thời gian ngắn, trung bình, dài: bolus
hoặc bơm tiêm điện, liều lợng là từ 3- 9 mg/kg/h.
+ Ngời cao tuổi, suy thận, suy gan: khởi mê:1
mg/kg, duy trì: 1,5-2 mg/kg/h.
+ Ngời trởng thành: khởi mê: 2-3 mg/kg, duy trì
mê (bơm tiêm điện) 6 mg/kg trong giờ đầu và các giờ

sau: 4 hoặc 3 mg/kg/h.
TàI LIệU THAM KHảO
1. Delhumeau A., Haberer J.P. La place de
letomidate parmi les autres anesthésiques intra-veineux.
Résumes et articles de travaux cliniques récents.
1989,p.3.
2. Kaladji C. et coll. Balanced anaesthesia with
propofol/fentanyl at continuos flow over long perious in
orthopaedic prosthetic surgery. Journées
Méditerranéenes dAnesthesie - Réanimation. Textes des
conferences et resumes des posters. 1987;121: poster
19.
3. Lapuelle J. et coll.Avantages of propopol in
coloscopy-gastroenterologie clinique et Biologique.
1987;11: 924.
4. Makenzie N., Grant I.S. Comparaision of propofol
of the new emoulsion formulation of propofol
methohexitone for induction of anaesthesia (in day
cases. Br. J. Anaesth.; 1985; 1167-1172.
5. Mangliar, Touzetm, Corsia G. et coll. Propofol ou
kétamine pour lanesthesie du grand vieillard. Etude des
effets haemodynamiques à linduction. Ann. Fr. Anesth.,
1987.6:285-288.
6. Millar J.M., Jewkes C.P. Recovery and morbidity
after day careanaesthesia. A comparion of propofol with
methohexitone - enfluran with and without alfentanyl.
Anaesthesia 1988;43:738-43.
7. Peacock J.E. et coll. Effects of diffent rates of
infusion of propofol for induction of anaesthesia in elderly
patients. Bristish Journal of Anaesthesia; 1990;6:243-

246.
8. Rolly G. et coll. Effects of speed of injection on
induction of anaesthesia using propofol . Br. J.
Anaesthesia 1985; 61[suppl.3]:14-7.
9. Vailly B., Feger J. M. Anaesthesia for
cardioversion: Whats new in 1989 Archives des malades
du coeur et des vaiseaux, 1989; 82:2049-51.
10. Youngberg, Valtonen và cộng sự, Anaesthesia
for cardioversion: A comparison of propofol and
thiopental. Canadian Journal of Anaesthesia,
1988;35:479-83.

×