Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Nghiên cứu sử dụng lá cây chè đại (trichanthera gigantea) bổ sung vào khẩu phần ăn cho lợn thịt f1 nuôi tại huyên yên sơn tỉnh tuyên quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.16 MB, 117 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM









NGHIÊN CỨU
(TRICHAN
1 ( × ) NUÔI





LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP










THÁI NGUYÊN - 2014
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM








NGHIÊN CỨU
(TRICHAN
1 ( × ) NUÔI


Chuyên ngành: Chăn nuôi
Mã số: 60.62.01.05


LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. TRƢƠNG HỮU DŨNG






THÁI NGUYÊN - 2014

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này
đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn đã được chỉ rõ nguồn gốc.


TÁC GIẢ LUẬN VĂN























Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

ii
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn Thạc sĩ
khoa học nông nghiệp, chúng tôi nhận được sự giúp đỡ quý báu của Nhà
trường và địa phương. Nhân dịp hoàn thành luận văn này tôi xin chân thành
bày tỏ lòng biết ơn và sự kính trọng sâu sắc nhất tới:
Ban Giám hiệu Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên,
Khoa Sau Đại học và các thầy cô giáo Khoa Chăn nuôi - Thú y,
, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
Xin được bày tỏ biết ơn chân thành nhất đến TS. Trƣơng Hữu Dũng
người hướng dẫn khoa học đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề
tài và hoàn thành luận văn 42A
khoa Chăn nuôi - t .
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành
Sơn và bà con nông dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang đã tạo điều kiện và
giúp đỡ về thời gian, cơ sở vật chất, nhân lực, vật lực để tôi hoàn thành luận văn.
Nhân dịp này tôi cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất tới
toàn thể gia đình, bạn bè gần xa và đồng nghiệp đã tạo mọi điều kiện thuận lợi
và sự giúp đỡ vô hạn về mọi mặt, động viên, khuyến khích tôi trong quá trình

học tập và nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng gửi tới các thầy cô giáo, các quý vị trong Hội đồng
chấm luận văn lời cảm ơn chân thành và lời chúc tốt đẹp nhất.
Thái Nguyên, ngày 04 tháng 12 năm 2014
Học viên




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

iii
MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT vi
DANH MỤC CÁC BẢNG vii
DANH MỤC CÁC HÌNH viii
MỞ ĐẦU 1
1
2
2
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
3
3
1.1.2. Đặc tính sinh trưởng 4
1.1.3. Vấn đề giữ đạm không khí của cây họ đậu 8
11

11
15
1.2. Cơ sở khoa học của sự sinh trưởng ở lợn thịt 16
1.2.1. Cơ sở di truyền của sự sinh trưởng 16
18
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá sức sinh trưởng 19
20
1.3.1. Yếu tố bên trong 20
1.3.2. Yếu tố bên ngoài 22

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

iv
26
26
27
1.5. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 28
1.5.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 28
29
Chƣơng 2.
32
2.1. Đối tượng nghiên cứu 32
32
32
32
2.3. Nội dung nghiên cứu 32
2.4. Phương pháp nghiên cứu 32
2.5. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi 36
2.5.1. Khối lượng lợn bắt đầu thí nghiệm và kết thúc 36
38

2.6. Phương pháp xử lý số liệu 40
Chƣơng 3. 42
3.1.
42
42
47
50
52
56
58

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

v
của lợn thí nghiệm 62
3.2.1. 62
67
71
1. Kết luận 71
72
3. Đề nghị 72
73
MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA 81
PHỤ LỤC 85


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

vi


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ĐB :
ĐC : Đối chứng
KHKT : Khoa học Kỹ thuật
KPCS : Khẩu phần chăm sóc
MC : Móng Cái
NLN : Nông lâm nghiệp
TĂ : Thức ăn
TN : Thí nghiệm
VCK :


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

vii

DANH MỤC CÁC BẢNG

2.1. Sơ đồ bố trí thí nghiệm 33
34
35
35
35
44
48
51
54
57
59

63
68



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

viii

DANH MỤC CÁC HÌNH

28
50
52
65
66
67
69



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

1
MỞ ĐẦU
1.
Trong chăn nuôi,
,
, l
.

Việt Nam là nước có nhiều giống lợn cho từng vùng sinh thái
như vùng đồng bằng châu thổ Sông Hồng có lợn Ỉ, lợn Móng Cái, lợn Lang
Hồng. Các vùng núi và trung du có các giống lợn Mường Khương, lợn Mẹo,
lợn Táp Ná, lợn Vân Pa, Theo Pháp lệnh Giống vật nuôi, Nhà nước sẽ đầu
tư và hỗ trợ cho việc thu thập, bảo tồn nguồn gen vật nuôi quý hiếm; xây
dựng cơ sở lưu giữ bảo tồn nguồn gen vật nuôi quý hiếm tại địa phương
(Cục Chăn nuôi, 2006) [4].
h Tuyên Quang
đang ,
. V
,
,
.
Trong những năm gần đây, n nhiều loại
cây thức ăn cho gia súc, gia cầm, trong đó có cây Chè đại (Trichanthera
gigantea). Đây là loại cây cho lá, dễ trồng trên mọi loại đất, có năng suất
xanh cao, nhiều gia súc, gia cầm thích ăn…
-

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

2
là loại cây có tiềm năng, năng suất
, dê. Tuy nhiên, h chưa
trong . Xuất phát từ
trên, chúng tôi tiến hành đề tài:
(Trichan
F1(♂Rừng × ♀ .
2. M


,
F1(♂R x ♀ĐP)
.


Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ
.
Đề tài đóng góp thêm những số liệu khoa học phục vụ cho nghiên cứu
và giảng dạy trong nhà trường và ứng dụng vào trong sản xuất.
3.2.

,
, .

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

3
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1
1.1.1. Nguồn gốc
Trichanthera thuộc họ Acanthaceae
rô); họ phụ: Ancanthoideae; bộ: Trichanthera ); giống Hera;
loài: Trichanthera gigantea. Cây thân bụi, tán tròn, nhánh bậc hai, lá cánh quạt
dài đến 26 cm và rộng 14 cm, đỉnh nhọn, bản hẹp; nở hoa theo chu kỳ.
à một cây trồng mới làm thức ăn gia súc được nhập
vào Việt Nam năm 1993 từ
đã được trồng ở miền Tây Nam bộ, Tây Nguyên
.
Cây có nhiều ở vùng núi Côlômbia, dọc theo các dòng suối và

khu vực đầm lầy Costarica tới p Bắc Nam Mỹ. Đây là loài cây thức ăn cho
gia súc thích nghi được với nhiều điều kiện khí hậu khác nhau. Chúng có thể
sống trong khoảng 0 - 2000m (Murgueitio, 1989)[61], 800-1600m, (Acero,
1985)[47] và từ 500-1800m trên mực nước biển (Jaramillo và Correcdor,
1989)[58]. Đối với vùng có khí hậu ẩm ướt, lượng mưa hằng năm khoảng
1000-2800mm (Jaramillo và Correcdor, 1989) [58] cây vẫn có khả năng sinh
sống, ngay cả khi lượng mưa lên đến 5000-8000mm/năm, (Murgueitio, 1989)
[61]. C phát triển được trong điều kiện đất acid, kém màu mỡ nhưng
thoát nước tốt.
Cây được trồng chủ yếu bằng phương pháp giâm cành vào các mùa
trong năm đều thấy nảy mầm rất tốt, cây ưa ẩm vừa phải, nếu ở nơi thiếu
nước thì năng suất bị hạn chế vì cây có lá mỏng lại rất to bản nên thoát nước

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

4
rất mạnh. Cây có thể thu hoạch lần đầu tiên ở 4 - 6 tháng tuổi, năng suất 15,6
và 16,74 tấn/ha (thân tươi) tương đương 40.000 cây/ha (khoảng cách 0,5m x
0,5m), sau 1,5 - 3 tháng thu hoạch một lần năng suất 17 tấn /
, ngay cả trong
điều kiện thu hoạch nhiều lần mà không cung cấp phân bón. Điều này cho
thấy quá trình tổng

của urea lên đến 240 kgN/ha/năm.
Hàm lượng protein chứa bên trong lá thay đổi từ 18 - 21% và hầu hết là
protein thật. Hàm lượng canxi đặc biệt cao khi so với các loại cây thức ăn
khác. Thí nghiệm kiểm tra các chất kháng dinh dưỡng (Rosales and Galindo,
1987)[66] chứng minh rằng, ,
hàm lượng saponin và steroid thấp.
1.1.2. Đặc tính sinh trưởng

1.1.2.1. Đặc tính sinh trưởng chung
Sinh trưởng và phát triển không phải là một chức năng sinh lý riêng
biệt mà là kết quả hoạt động tổng hợp của nhiều chức năng trong quá trình
sinh lý của cây.
Theo David W.Pratt, 1993 [54] thì tính hiệu quả của cỏ là làm biến đổi
năng lượng mặt trời thành lá xanh, để động vật có khả năng thu nhận chúng.
Tuy nhiên, sử dụng năng lượng từ lá lại phụ thuộc vào chu kỳ phát triển của
cây. Thực vật nói chung và cỏ nói riêng sinh trưởng và tái sinh trải qua 3 giai
đoạn, mỗi giai đoạn lại có đặc điểm riêng:
Giai đoạn sinh trưởng chậm (giai đoạn I): xảy ra sau khi mới gieo
trồng, mới bị chăn thả hay thu cắt. Lúc này chất dự trữ ở hạt giảm, lá non còn
ít; lá bị mất (do thu cắt) nên cây không có khả năng nhận ánh sáng mặt trời,
trong khi đó cây đòi hỏi nhiều năng lượng để phát triển.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

5
Giai đoạn sinh trưởng nhanh (giai đoạn II): Đây là thời gian phát triển
nhanh nhất. Trong giai đoạn này lá chứa đủ protein và năng lượng thỏa mãn
cho nhu cầu dinh dưỡng của vật nuôi. Cỏ có chất lượng cao và số lượng lớn.
Giai đoạn sinh trưởng chậm (giai đoạn III): là giai đoạn gần trưởng
thành hoặc sau khi chăn thả hay thu hoạch cỏ khoảng 40 - 70 ngày. Ở giai
đoạn này, cỏ có phần thân chiếm đa số và nhiều xơ. Hàm lượng dinh dưỡng
cao, số lượng nhiều, tuy nhiên khả năng tiêu hóa của vật nuôi đối với lá và
thân cây giai đoạn này thấp (Đoàn Ẩn, Võ Văn Trị, 1976) [3].
Vì vậy, trong quản lý đồng cỏ cần chăn thả hay thu cắt khi kết thúc giai
đoạn II và cần có thời gian nghỉ hợp lý để duy trì cây cỏ lâu dài. Mặt khác,
tránh không cắt cỏ quá thấp hay cho động vật gặm cỏ còn lại quá ngắn gây tái
sinh chậm làm giảm tổng sản lượng cỏ.
1.1.2.2. Động thái sinh trưởng, tái sinh của thân và lá

Lá non của cỏ non phát triển từ chồi mầm tạo ra ở đỉnh mô phân sinh.
Hầu hết các tế bào của lá được cấu tạo trong khi lá còn rất nhỏ trong chồi
(Langer, R.H.M, 1972) [59]. Kết quả sinh trưởng của lá là sự mở rộng của
kích cỡ tế bào (Esau. K, 1960) [56] và tăng trưởng khối lượng (Coyne. P.I,
1995) [52]. Lá mới sinh lấy cacbonhydrate từ rễ, thân hay từ lá già cho tới
khi chúng hoàn thiện và do đòi hỏi phải sinh trưởng, nên chúng đồng hóa
các sản phẩm từ rễ, lá, gốc để hình thành lá mới (Langer R.H.M, 1972) [59],
(Coyne P.I, 1995) [52].
* Các yếu tố ảnh hưởng tới sinh trưởng của thân, lá
Có rất nhiều yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến sinh trưởng của thực vật
như giống, hay các yếu tố ngoại cảnh: khí hậu, thời tiết, đất, nước Trong các
yếu tố đó thì ánh sáng, nhiệt độ, nước và chất dinh dưỡng trong đất là các yếu
tố chủ yếu của đời sống thực vật.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

6
- Sức nảy mầm của cỏ (hạt, hom)
Sự sinh trưởng của cỏ phụ thuộc trực tiếp vào sức nảy mầm của hạt, nếu
hạt có sức nảy mầm cao sẽ tạo điều kiện cho sinh trưởng mạnh sau này. Phẩm
chất của hạt thể hiện qua độ thuần và % nảy mầm (Bogdan A. V, 1977) [49].
- Nhiệt độ
Nhiệt độ là một nhân tố sinh thái có ảnh hưởng rất lớn đối với sinh vật
nói chung và thực vật nói riêng. Nhiệt độ có ảnh hưởng trực tiếp tới sinh
trưởng của cây, nhiệt độ tăng thì sinh trưởng cũng tăng và nhiệt độ giảm sinh
trưởng chậm lại. Khi tăng nhiệt độ tới hạn nhất định có tác dụng thúc đẩy quá
trình hấp thu chất khoáng của rễ (Trịnh Xuân Vũ và công sự, 1976) [46].
Cũng theo tác giả này, sự hô hấp bắt đầu trong khoảng 10
0
C và tối thích ở

nhiệt độ 35
0
C. Theo Bogdan A. V, 1977 [49] nhiệt độ thấp nhất để cỏ nhiệt
đới nảy mầm là 15 - 20
0
C và tối ưu là 25 - 35
0
C; Nhiệt độ tối ưu cho quang
hợp của cỏ ôn đới là 15 - 20
0
C, và ở cỏ nhiệt đới là 30 - 40
0
C; Sự hình thành
diệp lục bắt đầu khi nhiệt độ lớn hơn 10 - 15
0
C.
Vì vậy nhiệt độ hay thời gian trong năm mà ta thu hoạch sẽ ảnh hưởng
tới giá trị của thức ăn (Marten, G.C. 1970) [60].
Nhiệt độ đất có tác dụng đối với nhiệt độ bên trong thực vật lớn hơn
nhiệt độ không khí, nguyên nhân là do vỏ và cây dẫn nhiệt kém còn nhiệt độ
đất thông qua nước hấp phụ từ đất mà chuyển vào cây dễ dàng (Phan Nguyên
Hồng, 1971) [21].
- Ẩm độ
Ẩm độ hay lượng nước trong đất có ý nghĩa đặc biệt đối với đời sống
cây trồng. Lượng nước trong đất nhiều hay ít đều ảnh hưởng đến việc cung
cấp dinh dưỡng, chế độ quang hợp, chế độ thoát hơi nước để thực vật khỏi bị

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

7

nóng quá, độ thoáng khí của đất điều đó ảnh hưởng tới năng suất, sinh
trưởng và chất lượng cây trồng (Nguyễn Đức Quý, 2007 [32].
- Ánh sáng
Ánh sáng là nhân tố quan trọng, mối quan hệ giữa ánh sáng và sinh trưởng
của cây rất phức tạp. Có ánh sáng cây mới sinh thân, cành lá và cây mới ra hoa
kết quả bình thường.
- Dinh dưỡng trong đất
Điều kiện thổ nhưỡng có ảnh hưởng trực tiếp tới sinh trưởng của cỏ
trồng, trong đó các chất dinh dưỡng trong đất đóng vai trò quan trọng kể cả
các nguyên tố đa và vi lượng. Phân bón lót P - K rải một lần trong năm có tác
dụng trong cả năm làm tăng năng suất cỏ so với không bón phân. Ngược lại,
sự tăng năng suất do tác dụng của N chỉ xảy ra ngay khi trước đó người ta bón
phân (A. Voisin, 1963) [48], cũng chính vì vậy mà người ta có thể sử dụng
đạm một cách hợp lý nhằm cân bằng năng suất cỏ trong cả năm để khắc phục
tình trạng mùa do điều kiện thời tiết gây nên.
Đất có hạt sét quá nhiều thì thường dí chặt, yếm khí, hoạt động rễ của
thực vật bị hạn chế. Những loại đất này thường khiến cho rễ thực vật tiết ra
nhiều độc tố. Những cây thức ăn dùng cho gia súc thường không mọc ở đất
này (Từ Quang Hiển và cs, 2002) [17].
* Các nhân tố ảnh hưởng tới tái sinh của thân và lá
- Tuổi thiết lập
Là tuổi kể từ khi trồng cỏ cho đến khi cỏ thiết lập và có thể đưa vào sử
dụng lần đầu tiên. Lứa tuổi này rất quan trọng vì nó tạo điều kiện cho các bộ
phận dưới đất (rễ, thân ngầm ) phát triển làm cơ sở cho việc dự trữ dinh
dưỡng sau này. Chỉ khi các bộ phận này đã phát triển và dự trữ dinh dưỡng
đầy đủ mới cho phép quá trình tái sinh mạnh (A. Voisin, 1963) [68].
- Tuổi thu hoạch

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


8
Kể từ lứa cắt thứ nhất trở đi, thời gian giữa các lần thu hoạch gọi là tuổi
thu hoạch. Khi cây dự trữ đủ dinh dưỡng thì ta bắt đầu thu hoạch. (A. Voisin,
1963) [68] khẳng định: một cây cỏ nếu bị cắt trước khi rễ và những phần còn
lại của lứa cắt chưa dự trữ đủ dinh dưỡng thì sự tái sinh sẽ gặp khó khăn và có
thể không tái sinh được. Nếu tuổi thu hoạch chỉ bằng ½ tuổi thu hoạch thích
hợp thì năng suất chỉ còn 1/3. Nếu tăng hơn tuổi thích hợp nhất 50% thì chỉ
tăng năng suất 20%, nhưng chất lượng giảm, tỷ lệ xơ tăng.
- Độ cao thu hoạch
Độ cao thu hoạch cũng quyết định lượng dự trữ của cỏ cho quá trình tái
sinh trưởng. Khi cắt cỏ quá cao sẽ làm giảm sản lượng cỏ vì một phần sản
lượng nằm ở phần để lại, khi cắt cỏ quá thấp sẽ ảnh hưởng tới các lần tái sinh
sau đó, làm mất đi phần thân gần gốc là cơ quan dự trữ chất dinh dưỡng cơ bản
để nuôi rễ và toàn bộ lá, không tạo ra các chất hữu cơ khác được.
1.1.2.3. Đặc điểm sinh trưởng của rễ
Bộ rễ chùm của cỏ hòa thảo chủ yếu sinh trưởng ở những lớp đất mặt trừ
một số loài như cỏ Voi có thể ăn sâu tới 2m. Bộ rễ cọc của cây họ đậu ăn sâu
hơn. Thường trong những năm đầu tiên sẽ ăn sâu gần mức độ sâu nhất có thể tùy
theo loại cỏ, loại đất và mạch nước ngầm (Whyte R.O. và cộng sự, 1964) [65].
Sau khi bộ rễ được thiết lập, sự sinh trưởng cũng mang tính chất theo
mùa rõ rệt như các bộ phận trên mặt đất. Phần lớn rễ sinh trưởng mạnh vào
mùa xuân đạt tới mức cao nhất trước khi bộ phận trên mặt đất đạt được và
ngừng khi cây ra hoa.
1.1.3. Vấn đề giữ đạm không khí của cây họ đậu
Cây họ đậu có đặc tính sinh học chung đó là rễ có nốt rễ, mang vi
khuẩn cộng sinh Rhizobium cố định được nitơ trong không khí. Mặc dù trong
không khí trên mỗi hecta đất có tới 80 ngàn tấn nitơ ở dạng khó tiêu. Tuy
nhiên, cây trồng không thể sử dụng được loại nitơ phân tử này. Trong khi đó,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


9
có một số vi sinh vật có khả năng đồng hóa dễ dàng nitơ của không khí, người
ta gọi là vi khuẩn nốt sần .
Các điều kiện nhiệt độ, độ ẩm, độ thoáng khí, pH đất và dinh dưỡng
khoáng gồm N, P, K, Ca ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng nốt sần.
Cây họ đậu ngoài việc có vi khuẩn cố định đạm ở rễ, nó còn có một số
đặc tính như: có biên độ sinh thái rộng, có nhiều loài có khả năng chịu được
đất khô nóng, nghèo chất dinh dưỡng. Bên cạnh đó, với khả năng sinh trưởng
nhanh hàng năm cây họ đậu trả lại cho đất một lượng chất xanh khá lớn, đặc
biệt trong các bộ phận của cây (thân, cành, lá) chứa rất nhiều chất dinh dưỡng.
Ngoài ra, cành lá của cây họ đậu thường mọc dày phủ kín đất và hạn chế được
sự phát triển của cỏ dại.
- Vai trò sinh lý của nitơ: so với CHO, N không nhiều (1 - 3%) nhưng
nó có vai trò hết sức quan trọng, thiếu nitơ cây không thể tồn tại được.
+ Nitơ được xem như là nguyên tố quan trọng bậc nhất và hạn chế lớn
nhất đối với năng suất cây trồng vì nhu cầu dinh dưỡng nitơ của cây cao trong
khi đó khả năng cung cấp của đất cho cây rất thấp. Hàm lượng nitơ thay đổi
từ 0,1 - 0,2 % (dưới dạng hữu cơ), khả năng cung cấp cho cây 30 - 40
kg/ha/năm. Đây là một lượng quá nhỏ so với nhu cầu của cây
+ Cây có thể hấp thu dưới hai dạng đạm: NH
4
+
và NO
3
-
, hàm lượng nitơ
chiếm 1 - 3% khối lượng khô của cây tùy theo bộ phận. Nitơ tham gia vào
thành phần của hầu hết các hợp chất hữu cơ trong cây.
+ Nitơ có mặt trong axit nucleic nên quyết định đặc tính di truyền của

cơ thể do đó điều chỉnh sự tổng hợp protein và phân chia tế bào, các acid
amine - do đó là thành phần bắt buộc của protein. protein trong cơ thể thực
vật là không thể thiếu vì nó tham gia vào cấu tạo nên membrane, hệ thống
enzyme, phitocrom, các phitohormone - điều chỉnh quá trình sinh trưởng phát
triển của cây kể cả hợp chất hữu cơ thứ cấp như tanin, cafein

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

10
+ Nitơ tham gia cấu tạo nên nhiều enzym quan trọng: dehydrogenaza,
FAD, NAD
+ Nitơ tham gia vào cấu trúc vòng poorphiril, đây là cấu tử quan trọng
của chlorophil, cytocrom→ Nitơ quyết định quá trình trao đổi chất, những
biến đổi sinh lý sinh hóa, ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng, phát triển;
năng suất và chất lượng cây trồng. Do đó, để tăng năng suất và phẩm chất cây
trồng thì việc thỏa mãn nhu cầu nitơ có ý nghĩa quyết định.
+ Thiếu nitơ cây sinh trưởng còi cọc, lá màu vàng nhạt, cây đẻ ít nhánh,
sinh chồi, kém diện tích lá nhỏ, năng suất và phẩm chất thấp (thậm chí không
có quả tùy thuộc mức độ thiếu nitơ).
+ Tuy nhiên nếu bón quá nhiều nitơ và bón không cân đối với các
nguyên tố đa lượng khác thì thân lá sinh trưởng rậm rạp, lá màu xanh đục
đậm, cây mềm yếu, khả năng chống đổ kém, đối với cây lấy hạt thì hạt lép
nhiều, thậm chí không ra hoa kết quả. Cây sinh trưởng mạnh thân lá, nhưng
khả năng chống chịu kém, dễ bị sâu bệnh phá hại.
- Mối quan hệ dinh dưỡng nitơ với cây họ đậu
Với cây họ đậu mối quan hệ giữa dinh dưỡng nitơ có sự tác động qua
lại. Nghĩa là nó có thể hút chất dinh dưỡng nitơ từ trong đất dưới dạng NH
4
+
và NO

3-
, vừa có thể tổng hợp dinh dưỡng nitơ nuôi cây và để lại trong đất
dinh dưỡng đạm. Điều đó tùy thuộc vào khả năng tạo nốt sần và thời gian tạo
nốt sần của cây họ đậu.
+ Giai đoạn cây còn non chưa hình thành nốt sần:
Ở giai đoạn này cây họ đậu với bộ rễ mới hình thành thì nó chưa có khả
năng tạo nốt sần nên không có khả năng tổng hợp đạm. Do đó cây phải hút
dinh dưỡng nitơ dưới dạng ion NH
4
+
và NO
3
-
ở trong đất. Sự hấp thụ dinh
dưỡng nitơ vào cây có thể theo hai kiểu:
Hấp thụ thụ động:
Các ion NH
4
+
và NO
3
-
theo sự chênh lệch nồng độ từ cao đến thấp.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

11
Các ion NH
4
+

và NO
3
-
hòa tan trong nước và vào rễ theo dòng nước.
Các ion NH
4
+
và NO
3
-
hút bám trên bề mặt các keo đất và trên bề mặt rễ
trao đổi với nhau khi có sự tiếp xúc giữa rễ và dung dịch đất. Cách này gọi là
hút bám trao đổi.
Hấp thụ chủ động:
Phần lớn các ion NH
4
+
và NO
3
-
được hấp thụ vào cây theo cách chủ
động. Tính chủ động ở đây được thể hiện ở tính thấm chọn lọc của màng sinh
chất và các chất khoáng cần thiết cho cây đều được vận chuyển trái với quy
luật khuếch tán, nghĩa là vận chuyển từ nơi có nồng độ thấp đến nơi có nồng
độ cao. Vì cách hấp thụ khoáng này mang tính chọn lọc và ngược với gadrien
nồng độ nên cần thiết phải có năng lượng, tức là sự tham gia của ATP và một
chất trung gian thường gọi là chất mang. ATP và chất mang được cung cấp từ
quá trình chuyển hóa vật chất (chủ yếu từ quá trình hô hấp).
Ở giai đoạn này của các loại cây họ đậu, quá trình phát triển của rễ
càng nhanh càng tốt. Do đó, chúng ta phải bón phân đạm với lượng nhỏ và

kèm theo bón phân lân vì phân lân sẽ kích thích sự phát triển của bộ rễ.
1.2. trong chăn nuôi
1.2.1.
: , trồng bằng hom đạt
tỷ lệ sống 90% - 95%. Cây phát triển vào mùa mưa, không kén đất, có kháng thể
cao chống được sâu bệnh và không bị cỏ dại lấn át. Ngoài cung cấp dinh dưỡng,
lá cây còn có tác dụng phòng chống bệnh đường ruột cho vật nuôi.
Trong thời gian gần đây, nhà nước đa bắt đầu triển khai các n
. Các hộ chăn
nuôi có thể thu được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

12
.
rất giàu đạm, khoáng, sinh tố,
còn có tác dụng chống bệnh đường
ruột cho vật nuôi ( , 2010) [28].
ở dạng bột
- và 0,2-0,3% Carophyll trong khẩu phầ
- trong khẩu
phần, kết quả c làm da có màu vàng tốt hơn so với vịt
ở nghiệm thức đối chứng.
, gia
cầm và cá ăn tươi ở dạng bột cỏ mang lại năng suất, chất lượng và hiệu quả
kinh tế cao hơn. Đặ
.
Cần Thơ đã và đang sử dụng lá cây
Trichanthera gigantea tươi bổ sung vào khẩu phần thức ăn cho heo:
4,2kg/con/ngày cho heo nái và 3,6kg/con/ngày cho heo thịt, tương đương 110 -

130g protein/con/ngày cho kết quả tốt: Heo nái sinh sản tốt, heo thịt tăng trọ
quả tốt: đẻ trứng nhiều hơn, chất lượng trứng tốt hơn ( , 2010) [28].
1/3 chi phí mua
thức ăn, lợi nhu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

13
lòng đỏ rất đỏ, gà con có da, mỏ vàng hơn, rất hợp thị hiếu
người tiêu dùng.
Khoa Nông nghiệp - Trường đại học Cần Thơ trồng thử nghiệm có thể
thay 30-40% lượng tấm cám trong khẩu ph
ở dạng bột còn bổ sung 2-4% khẩu phần thức ăn cho gà, vịt, cút nuôi. Đã
có trên với giá 10.000 đồng/kg về
trồng. Theo tính toán, trồng khoảng 30 cây sẽ cung cấp thức ăn cho
một con heo hoặc dê trong suốt thời gian nuôi .
- :
Sử dụng bột lá Chè đại thay thế một phần thức ăn hỗn hợp không làm
ảnh hưởng tới tỷ lệ nuôi sống của gà Broiler, kết thúc thí nghiệm ở 6 tuần tuổi
gà đạt tỷ lệ nuôi sống 94 - 96 % tương đương như lô đối chứng không thay thế.
Với tỷ lệ thay thế bột lá Chè đại đã dùng từ 1 - 3% và 3 - 5% trong thức
ăn hỗn hợp tương ứng với 2 giai đoạn nuôi gà Broiler từ 1 - 42 ngày tuổi đã
có ảnh hưởng tốt tới sinh trưởng của gà: với tỷ lệ thay thế 3 - 5% lô thí
nghiệm 2 đã cho khối lượng cơ thể cao hơn đối chứng 295g/con, tương ứng
cao hơn 11,3%, đạt độ tin cậy (P<0,05); tốt hơn tỷ lệ thay thế 1 - 3% ở lô thí
nghiệm 1 chỉ có chênh lệch so với lô đối chứng 68g/con, tương ứng cao hơn
2,8% (P>0,05).
nái ăn chè đại theo cách nấu cám chung
với cám gạo, ngô như nấu với rau, khoai lang. Kinh nghiệm của trạm cho
thấy, với lợn nái, việc bổ sung chè đại cần đi theo một quá trình thêm dần để

cho lợn quen với thức ăn mới, nghĩa là cần cho lợn tập ăn. Chỉ sau 3 bữa là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

14
lợn sẽ quen “mùi”, và ăn nhiều trở lại. Theo tài liệu nước ngoài, thức ăn từ
chè đại có thể thay thế 30% thức ăn tinh cho thỏ. Với thỏ của Trạm Thực
nghiệm, chè đại được bẻ là và chặt cành non và cho thỏ ăn, không cần chế
biến. Thỏ được ăn chè đại và qua đó giảm khẩu phần thức ăn tinh. Trong năm
2010, chè đại được trạm dùng phổ biến làm thức ăn bổ xung cho đàn gà sau
12 ngày tuổi. Khi gà còn bé (ở 12 -30 ngày tuổi), chè đại có thể thái nhỏ cho
gà ăn. Khi gà lớn, khoảng 1 tháng tuổi, thì không cần phải thái. Mỗi ngày, gà
của trạm thực nghiệm được cho ăn chè đại hai bữa vào lúc 9h sáng và 2h
4 kg) thân và lá một bữa. Chẳng hạn, với
lượng thức ăn một ngày cho gà khoảng 20 kg, nếu có chè đại bổ sung thì
chỉ cần 12 kg là đủ. Với khả năng thay thế tới 40% thức ăn tinh, khi dùng chè
đại làm thức ăn bổ sung, người chăn nuôi có thể giảm lượng thức ăn đáng kể
( , 2011) [70]
như: lá sắn, lá keo dậu, cỏ Stylo, bèo hoa dâu, lá và hạt cây so đũa, rau cỏ…
Theo Nguyễn Đức Trân và cs (1997) [44] cho biết: Ở vùng núi, có thể
lấy lá và cả cành non các loại cây không độc, không có chất chát (trâu bò
thường ăn) để phơi khô, dự trữ dành cho mùa đông hiếm rau cỏ.
Thức ăn gia cầm, ngoài lượng ngô vàng có sẵn trong công thức,
thường cần có thêm nguồn cung cấp sắc tố để làm vàng da, lòng đỏ trứng
theo thị hiếu người tiêu dùng. Tại các nước ôn đới sử dụng nguồn bột cỏ chế
biến từ cỏ alfalfa (Medicago sativa). Đây là loại cỏ họ đậu (Leguminosacea),
có hàm lượng caroten cao, khoảng 270 - 300 mg caroten/kg bột cỏ, hàm
lượng protein thô 17% hoặc 20%, có mùi thơm và chứa nhiều vi khoáng,
vitamin. Ở các nước nhiệt đới, bột cỏ thường được chế biến từ các nguồn lá
xanh khác như bột lá bình linh (Leucaena leucocephala), cỏ Stylo

(Stylosanthes gracilis).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

15
Cỏ Stylo: Cỏ Stylo là cây họ đậu, 1 kg bột cỏ Stylo có 96 g đạm tiêu hóa,
tương đương 0,64 đơn vị thức ăn, dùng nuôi lợn rất tốt không kém cám gạo.
Bèo hoa dâu: Bèo hoa dâu là cây phân xanh có đến 28 - 30% protein
trong vật chất khô, trên 3% chất béo, 10,5% chất khoáng, 6,5% tinh bột
đường, còn nhiều vitamin B12, vitamin A rất cần cho gia cầm.
Lá sắn: Lá sắn là nguồn nguyên liệu phong phú ở Việt Nam, có hàm
lượng chất dinh dưỡng tương đối cao, giá trị protein thô chiếm 21%, chất béo
5,5%, xơ thô 21% .
Lá keo dậu: Cây keo dậu phát triển ở hầu khắp các vùng trên nhiều loại
đất khác nhau. Lượng protein thô trong lá keo dậu khá cao 270-280 g/kg chất
khô, tỷ lệ xơ thấp 155g/kg chất khô, nên lá keo dậu có thể dùng làm thức ăn
bổ sung protein, vitamin cho gia súc và gia cầm.
1.2.2.
Trong một số loại lá thực vật có chứa một số chất như: lá sắn có độc tố
HCN, Cỏ Mêdicago, cây họ đậu, điền thanh có chứa chất độc saponin nên khi
sử dụng chúng cho vật nuôi phải hết sức chú ý đến tỷ lệ trong khẩu phần.
Theo Vũ Duy Giảng và cs (1997) [11] cho biết: Tỷ lệ bổ sung bột lá
thực vật cho gà thịt là 2% tính theo đơn vị khẩu phần, gia cầm khác là 4 - 6%
tính theo đơn vị khẩu phần. Trong lá keo dậu có chứa độc tố mimosin, do đó
không nên dùng quá 15% trong khẩu phần của lợn và không quá 5% trong
khẩu phần của gia cầm (tính theo giá trị dinh dưỡng) bột cỏ alfalfa thường
chứa saponin với hàm lượng 0,2-1,8% gây tác dụng dung huyết và kìm hãm
sinh trưởng ở gia súc, gia cầm, gây chướng hơi dạ cỏ ở trâu bò, cho nên bột
cỏ alfalfa chỉ được sử dụng với tỷ lệ hạn chế trong khẩu phần ăn của gia súc.
Mặt khác, bột lá, bột cỏ nếu bảo quản kém hoặc quá lâu dễ bị mốc và làm hao

hụt các chất dinh dưỡng, đặc biệt là B-caroten, vitamin bị mất đi.
dưỡng (Rosales and Galindo, 1987) [66]

×