Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Kết hợp giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên ở nước việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 125 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN THỊ HOÀI THU




KẾT HỢP GIÁO DỤC PHÁP LUẬT, GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
Ở NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





Hà Nội – 2014



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





NGUYỄN THỊ HOÀI THU



KẾT HỢP GIÁO DỤC PHÁP LUẬT, GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
Ở NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TSKH. Đào Trí Úc


Hà Nội – 2014



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin đảm bảo những thông tin trong luận văn là trung thực không sao
chép từ bất kỳ công trình nào khác. Được sự hướng dẫn của GS.TSKH Đào Trí Úc
và đọc các tài liệu tham khảo để hoàn thành công trình này. Tôi đã hoàn thành tất cả
các khoản học phí theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Kính

mong khoa Luật tạo điều kiện để tôi được bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN



Nguyễn Thị Hoài Thu






MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC VỚI NHU CẦU GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN Ở VIỆT
NAM 10
1.1. Sự liên hệ giữa pháp luật và đạo đức- cơ sở cho việc xây dựng hành vi xã hội
của người chưa thành niên 10
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của người chưa thành niên 10
1.1.2. Mối liên hệ giữa pháp luật và đạo đức 17
1.1.3 Mục đích cung cấp tri thức, hình thành kỹ năng pháp luật, quyền con người
cho người chưa thành niên 32

1.1.4 Yêu cầu về sự kết hợp giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật cho người chưa
thành niên 33
1.1.5 Các chuẩn giá trị pháp luật và đạo đức đối với quá trình hình thành hành vi xã
hội của người chưa thành niên 39
1.2. Các hình thức kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho người chưa
thành niên 46
1.2.1. Thông qua chương trình giáo dục công dân ở nhà trường 46
1.2.2. Thông qua sách, báo, phương tiện truyền thông, games 50
1.2.3. Thông qua các chương trình kể chuyện về đạo đức và thi tìm hiểu những câu
chuyện hay về đạo đức và pháp luật 53
1.2.4. Thông qua việc xét xử của tòa án từ các vụ án cụ thể 53
1.2.5. Thông qua hành động thực tiễn của người lớn trong đời sống hàng ngày 55
Chương 2: THỰC TRẠNG KẾT HỢP GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC
CHO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN Ở NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY 58



2.1. Thực trạng về người chưa thành niên và sự hiểu biết pháp luật của người chưa
thành niên 58
2.1.1. Thực trạng về người chưa thành niên ở nước Việt Nam hiện nay 58
2.1.2 Thực trạng về sự hiểu biết pháp luật của người chưa thành niên hiện nay 61
2.2 Thực trạng của việc kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho người
chưa thành niên ở nước ta 69
2.2.1. Thực trạng về chủ thể thực hiện công tác kết hợp giáo dục pháp luật và giáo
dục đạo đức cho người chưa thành niên ở Việt Nam hiện nay 69
2.2.2 Thực trạng về nội dung kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho
người chưa thành niên ở Việt Nam hiện nay hiện nay 73
2.2.3. Thực trạng về phương pháp kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức
cho người chưa thành niên ở Việt Nam hiện nay hiện nay 78
2.2.4. Thực trạng GDPL, GDĐĐ thông qua các hình thức giáo dục 81

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG KẾT HỢP GIÁO
DỤC PHÁP LUẬT VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO NGƯỜI CHƯA THÀNH
NIÊN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 85
3.1 Giải pháp chung 85
3.1.1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật dựa trên nền tảng các quan điểm,
chuẩn mực đạo đức xã hội 85
3.1.2. Nâng cao nhận thức về vai trò của pháp luật, đạo đức cũng như mối quan hệ
giữa chúng trong giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức cho NCTN 87
3.1.3. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý bảo đảm kết hợp GDPL,
GDĐĐ cho NCTN 88
3.1.4. Đổi mới, đa dạng hóa các hình thức giáo dục pháp luật, coi trọng giáo dục
đạo đức 90
3.1.5. Tăng cường công tác đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật, vi phạm
đạo đức; coi trọng khía cạnh giáo dục cải tạo khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế
nhà nước đối với NCTN 94
3.2 Giải pháp cụ thể 95



3.2.1. Tăng cường vai trò của gia đình với ý nghĩa là rào cản của hiện tượng vi
phạm pháp luật của người chưa thành niên 95
3.2.2. Tăng cường sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình, và xã hội trong việc giáo
dục đạo đức, giáo dục pháp luật cho người chưa thành niên 97
3.2.3. Nâng cao hiệu quả kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức trong nhà
trường 99
3.2.4. Thiết chặt quản lý trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư 102
KẾT LUẬN CHUNG 106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 108
Phụ lục














DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Bộ LĐ – TB&XH Bộ Lao động – Thương binh & xã hội
ĐĐ Đạo đức
GDĐĐ Giáo dục đạo đức
GDPL Giáo dục pháp luật
NCTN Người chưa thành niên
PL Pháp luật
VPHC Vi phạm hành chính
VPPL Vi phạm pháp luật















DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Số hiệu biểu đồ

Tên biểu đồ Trang
Biểu đồ 2.1:
Biểu đồ nhận thức của NCTN về các hành vi vi
phạm PL và ĐĐ
64
Biểu đồ 2.2:
Biểu đồ các hành vi vi phạm pháp luật và đạo đức
của NCTN
66
Biểu đồ 2.3:
Biểu đồ đánh giá của NCTN về sự phối hợp của
các chủ thể trong GDPL, GDĐĐ
73
Biểu đồ 2.4:
Biểu đồ đánh giá của NCTN về mức độ triển khai
các nội dung GDPL, GDĐĐ
74
Biểu đồ 2.5: Biểu đồ các phương pháp GDPL,GDĐĐ 79
Biểu đồ 2.6: Biểu đồ hình thức GDPL 83







1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, thế hệ trẻ Việt Nam đã và đang có những cống hiến
thiết thực cho đất nước, bởi lẽ, những người trẻ là những người hăng hái, nhiệt tình
đi đầu trên mọi mặt trận: học tập, lao động, sản xuất… Họ xứng đáng là thế hệ kế
tục sự nghiệp vĩ đại của ông cha ta. Chuyển sang xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân sống và làm việc theo Hiến pháp
và pháp luật, việc tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật (GDPL) đã trở nên
cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, pháp luật dù hoàn thiện đến đâu
cũng không thể điều chỉnh hết mọi quan hệ xã hội. Do đó, ý thức tự giác chấp hành
pháp luật của mỗi người dựa trên lòng tự trọng, danh dự, phẩm giá, lương tâm -
biểu hiện tập trung của một nhân cách đạo đức là những yếu tố điều chỉnh xã hội
không gì có thể thay thế được. Vì vậy mà giáo dục pháp luật (GDPL) và giáo dục
đạo đức (GDĐĐ) phải song hành đồng thời phải có sự kết hợp với nhau là vấn đề
hết sức cần thiết trong tổ chức quản lý xã hội cũng như trong hoạt động giáo dục.
Hiện nay, vẫn còn một bộ phận thanh thiếu niên có những biểu hiện không
lành mạnh trong cuộc sống, vi phạm pháp luật, phạm tội. Vì vậy, đối với người
chưa thành niên, yêu cầu đặt ra đối với toàn xã hội đó là làm thế nào để giảm tối đa
các hành vi vi phạm pháp luật và phạm tội của thanh thiếu niên. Điều đó cần thiết
phải có sự kết hợp giữa giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho thanh thiếu
niên, nhất là người chưa thành niên trong giai đoạn hiện nay.
Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ cấu kinh tế thị trường, tình hình
đời sống xã hội nước ta diễn biến rất phức tạp, tình trạng vi phạm pháp luật đặc biệt
là tình trạng phạm tội ngày càng gia tăng đáng báo động. Mặc dù các cơ quan chức

năng đã có nhiều biện pháp tích cực để nâng cao hiệu quả phòng ngừa và đấu tranh
chống tội phạm , song hoạt động của bọn tội phạm vẫn diễn ra hết sức phức tạp
không chỉ về số lượng các vụ phạm tội tăng lên mà mức độ phạm tội ngày càng
nguy hiểm và hậu quả do chúng gây ra đối cho xã hội hết sức nặng nề.
Hậu quả do bọn tội phạm gây ra không những xác định bằng sự thiệt hại về
người, thiệt hại về vật chất mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến các thành viên khác



2
trong xã hội đặc biệt là thế hệ trẻ. Tình hình vi phạm pháp luật của người chưa
thành niên ở nước ta ngày càng nhiều, số lượng người chưa thành niên phạm tội ở
mức ngày càng cao, quy mô cũng như tính chất, mức độ phạm tội ngày càng
nghiêm trọng, nguy hiểm. Điều này cho thấy sự ảnh hưởng tiêu cực từ tội phạm đã
tác động đến những người trẻ tuổi là thái độ coi thường pháp luật, coi thường tính
mạng, nhân phẩm và tài sản của người khác.
Đất nước ta ngày càng phát triển, chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng
lên song nhược điểm lớn ở đây là vấn đề “người người bận rộn, nhà nhà bận rộn”,
cha mẹ mải mê kiếm tiền, con cái thì ham chơi hơn ham học, không được sự quan
tâm, chăm sóc của gia đình, nhà trường và toàn xã hội nhất là lứa tuổi chưa thành
niên. Đây là lứa tuổi dễ bị tác động từ các yếu tố ngoại cảnh, độ tuổi này dễ bị chi
phối từ các tác nhân bên ngoài, thích nổi trội, hay bị kích động, thích khám phá
những cái mới nên rất cần có sự quan tâm chăm sóc, quản lý đặc biệt của người lớn,
của toàn xã hội.
Trong thời gian dài Đảng và nhà nước ta rất quan tâm, chú trọng đến việc
giáo dục pháp luật ở lứa tuổi thanh thiếu niên, họ là nguồn trí tuệ cho cho xã hội
tương lai và là thế hệ trẻ tiếp nối thực hiện công cuộc đổi mới đất nước. Chính vì
vậy Đảng và nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách pháp luật để thực hiện, điển
hình như:
Ngày 7/12/1982, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành chỉ thị số 315/CT về

việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật đã xác định: “Hình thức
tuyên truyền cần phong phú, hấp dẫn, thích hợp với từng loại đối tượng”[7]. Cần sử
dụng rộng rãi báo chí, phát thanh, truyền hình và các hình thức văn hoá, nghệ thuật
khác để phổ biến pháp luật…Tiếp đó chỉ thị số 300/CT ngày 22/10/1987 của Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng về một số công tác trước măt nhằm tăng cường quản lý
Nhà nước bằng pháp luật đã yêu cầu.
Tiếp đó trong Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg ngày 07/01/1998 của Thủ tướng
Chính phủ về việc tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn
hiện nay và Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg về việc ban hành Kế hoạch triển khai



3
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 1998 đến năm 2002 và thành lập Hội
đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục pháp luật.
QĐ số 13/2003/QĐ-TTg ngày 17/01/2003 phê duyệt chương trình phổ biến,
giáo dục pháp luật từ năm 2003 đến năm 2007; NQ 61/2007/NQ-CP của Chính phủ
ban hành ngày 7/12/2007, phổ biến giáo dục pháp luật là nhiệm vụ của toàn bộ hệ
thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Ngày 12/03/2008 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
37/2008/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phổ biến giáo dục pháp luật từ năm 2008
đến năm 2012 trong đó mục tiêu đề ra:
Tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tôn trọng và chấp
hành pháp luật của cán bộ, nhân dân, đổi mới phương thức tổ chức thực
hiện phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lựclàm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, , tổ chức có hiệu quả công
tác phổ biến giáo dục pháp luật trên toàn quốc…” [51].
Đặc biệt những năm gần đây Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định
số 1928/QĐ-TTg ngày 20 tháng 11 năm 2009 về việc phê duyệt đề án “ Nâng cao
chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường” và mới đây Thủ

tướng đã ký Quyết định số 1141/QĐ-BĐHĐA ban hành kế hoạch thực hiện Đề án
nói trên giai đoạn 2013-2016.
Gần đây nhất ngày 20/06/2012 tại kì họp thứ 3 Quốc hội khóa XIII đã thông
qua luật số 14/2012/QH13 của Quốc hội: LUẬT PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT với năm chương, 41 Điều, với những quy định chung về phổ biến và giáo
dục pháp luật; các nguyên tắc quản lý về phổ biến và giáo dục pháp luật; nội dung
và hình thức phổ biến và giáo dục pháp luật; cũng như trách nhiệm phổ biến và giáo
dục pháp luật cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền; và các điều kiện
đảm bảo cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
Điều đó cho thấy sự nỗ lực của Chính phủ ta quyết tâm thực hiện việc giáo
dục, phổ biến pháp luật trong nhà trường một cách sâu rộng, toàn diện, phối kết hợp
giáo dục pháp luật trong chương trình chính khóa với các hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp và giáo dục ngoại khóa ở tất cả các cấp học từ Phổ thông cơ sở đến Phổ



4
thông trung học rồi đến trung cấp, cao đẳng và đại học với mục đích tạo sự chuyển
biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật và hành vi nghiêm chỉnh
chấp hành pháp luật ở lứa tuổi chưa thành niên và cả lứa tuổi đã thành niên.
Trên thực tế công tác giáo dục môn học đạo đức, giáo dục công dân trong
các trường phổ thông đã và đang tiến hành thường xuyên ở các cấp học song hiệu
quả mà các môn học này mang lại cho xã hội còn rất kém. Cụ thể tình trạng học
sinh vi phạm pháp luật ngày càng nhiều ở các lĩnh vực giao thông, trận tự an toàn xã
hội…. và rất đáng lên án là tình trạng học sinh nữ đánh nhau chỉ vì những lý do rất
đơn giản xảy ra ở nhiều nơi trên cả nước, đồng thời với hành vi không đẹp ấy là một
bộ phận học sinh đứng ngoài không can ngăn mà lại cổ vũ, khuyến khích, tệ hại hơn
nữa một số em còn quay video qua điện thoại để tung lên mạng. Điều này cho thấy
ý thức pháp luật của học sinh quá kém và sự xuống cấp thê thảm về đạo đức ở một
bộ phận không nhỏ học sinh phổ thông hiện nay.

Tình trạng vi phạm pháp luật hình sự diễn ra ở độ tuổi chưa thành niên
ngày càng diễn biến phức tạp. Nếu như trước đây các em phạm tội do suy nghĩ
bột phát, ngây thơ thì hiện nay mức độ phạm tội của người chưa thành niên ngày
càng nghiêm trọng, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hơn, các em phạm tội có tổ chức,
băng nhóm, sử dụng nhiều loại phương tiện, công cụ nguy hiểm gây hậu quả
nghiêm trọng về người và tài sản. Một vấn đề báo động và là câu hỏi đặt ra cho
toàn xã hội hiện nay, đó là tại sao tính “hăng máu”, tính “ anh hùng rơm” và tình
trạng “ bạo lực học đường” đang diễn ra gây nhức nhối cho toàn xã hội đến như
vậy. Chỉ có câu trả lời duy nhất là sự xuống cấp về đạo đức và sự kém hiểu biết về
pháp luật trong việc hình thành nhân cách của người chưa thành niên mà hệ quả
của sự việc này là kết quả của nền giáo dục từ gia đình, từ nhà trường và toàn xã
hội trong thời gian dài.
Để góp phần giải quyết vấn đề trên, việc làm sáng tỏ tình hình tội phạm của
người chưa thành niên, phát hiện những quy luật chi phối sự vận động của hiện
tượng xã hội này, đồng thời tìm hiểu, đánh giá được mặt tích cực, các mặt hạn chế
của công tác giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức sẽ cho phép nâng cao chất
lượng và hiệu quả giáo dục.



5
Như vậy, cần thiết phải tìm hiểu thực trạng giáo dục đạo đức và pháp luật
cho lứa tuổi chưa thành niên, đặc biệt là học sinh phổ thông và đề xuất giải pháp để
nâng cao hiệu quả của việc kết hợp hai loại hình giáo dục này trong thực tiễn đang
là yêu cầu bức xúc hiện nay. Từ những điểm phân tích trên đây, tác giả thấy rằng
việc nghiên cứu đề tài: “Kết hợp giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức cho người
chưa thành niên ở nước Việt Nam hiện nay” trên cơ sở lý luận và thực tiễn là hết
sức cần thiết, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của toàn xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu
Về phương diện lý luận, từ trước đến nay, mối quan hệ giữa pháp luật và đạo

đức đã thu hút được sự quan tâm của cả Luật học và Đạo đức học. Điều này được
phản ánh trong các tác phẩm lý luận về pháp luật và đạo đức như Giáo trình lý luận
chung về nhà nước và pháp luật của Khoa Luật trường Đại học Tổng hợp, năm
1993; Giáo trình Đạo đức học của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm
2000, đều có những mục xem xét mối quan hệ này. Nội dung của những mục tiêu
này tuy không nhiều nhưng đã đưa ra được những định hướng bước đầu rất có ý
nghĩa cho việc nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức.
Ở góc độ nghiên cứu cụ thể,trong thời gian qua phải kể đến một số công
trình tiêu biểu như Đạo đức và pháp luật trong triết lý phát triển ở Việt Nam của
các tác giả Vũ Khiêu và Thành Duy, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 2000, các
tác giả đã giới thiệu mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức qua các giai đoạn lịch
sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này… Đặc biệt phải kể đến ở đây là loạt công
trình nghiên cứu chuyên sâu của GS.TS Hoàng Thị Kim Quế về mối quan hệ giữa
pháp luật và đạo đức như: Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo
đức trong hệ thống điều chỉnh xã hội - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 7/
1999; Trần Minh Đoàn (2001), Giáo dục đạo đức cho thanh niên, học sinh theo tư
tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị
- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh; Nguyễn Đình Đặng Lục (2008), Giáo dục
pháp luật trong nhà trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội; Nguyễn Thúy Hoa (2005), Kết
hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Luận văn
thạc sĩ luật, Học viện chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh; Một số suy nghĩ



6
về trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm đạo đức- Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số
3/2000; Xu hướng vận động, phát triển của pháp luật và đạo đức ở Việt Nam qua
các thời kỳ lịch sử - Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 7, 8 /2002…là những bài
viết có giá trị. Bên cạnh đó, phải kể đến một số công trình đáng chú ý khác
như: Bàn về giáo dục pháp luật của TS. Trần Ngọc Đường, Nhà xuất bản Chính

trị Quốc gia, Hà Nội, 1995; Tìm hiểu về mối liên hệ giữa đạo đức và pháp
luật của Luật gia Lê Quang Thưởng; Đạo đức truyền thống của dân tộc là môi
trường thuận lợi của việc thực hiện pháp luật của Luật gia Phạm Văn Tỉnh; Tư
tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội của tác
giả Lương Hồng Quang, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2003….
Người chưa thành niên là đối tượng nghiên cứu của rất nhiều tác giả, trong
lĩnh vực luật học, có nhiều luật gia nghiên cứu, có thể kể đến các sách:
Phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội, Nhà xuất bản pháp lý Hà Nội,
1987 do Phó Tiến sĩ Vũ Đức Khiển làm chủ biên. Tác giả đề cập đến vấn đề NCTN,
vấn đề phạm tội của NCTN để từ đó đưa ra một số giải pháp thiết thực.
Tư pháp với người chưa thành niên và quyền trẻ em, 1996, NXB Chính trị
quốc gia, của Vũ Ngọc Bình bàn đến vấn đề tư pháp đối với NCTN và có đề cập
đến quyền trẻ em, từ đó đưa ra cách nhìn về xử lý trên khía cạnh luật pháp đối với
đối tượng này. Ngoài ra còn rất nhiều bài viết về vấn đề này như: Trách nhiệm hình
sự của cha mẹ trong Pháp lệnh bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của tác giả Vũ
Kim đăng trên tập san của Tòa án nhân dân, số 6/1980; Vai trò của Tòa án nhân
dân trong việc ngăn ngừa vị thanh niên phạm tội, tác giả Đặng Quang Phương,
đăng trên tập san của Tòa án nhân dân, số 5/1982. Về tâm lý xã hội đối với tội phạm
và các hành vi vi phạm pháp luật của người chưa thành niên và việc tổ chức phòng
ngừa các tội phạm đó của tác giả Đào Trí Úc (1989), Xây dựng ý thức và lối sống
theo pháp luật của GS.TSKH

Đào Trí Úc (đề tài KX - 07 - 17)
Những kết quả nghiên cứu của các tác giả trên là nguồn tài liệu quý để tác
giả luận văn triển khai đề tài của mình theo cách tiếp cận riêng. Đó là việc phân
tich sự liên hệ giữa pháp luật và đạo đức- cơ sở cho việc xây dựng hành vi xã hội




7
của người chưa thành niên, từ đó đưa ra các hình thức kết hợp giáo dục pháp luật và
giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên. Trên cơ sở phân tích, khảo sát thực
trạng của việc kết hợp giáo dục pháp luật và đạo đức cho người chưa thành niên ở
nước ta để đưa ra các giải pháp thiết thực.
3. Mục đích, nhiệm vụ và ý nghĩa của luận văn
- Mục đích của luận văn:
Nghiên cứu về việc kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho
người chưa thành niên ở Việt Nam hiện nay để giải quyết việc thay đổi phương
pháp giáo dục pháp luật bằng việc giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức
cho đối tượng là những người chưa thành niên. Từ đó đi đến nghiên cứu đồng bộ hệ
thống chương trình giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức cho người chưa
thành niên ở nước Việt Nam hiện nay.
-
Nhiệm vụ của luận văn
:
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Thứ nhất, phân tích được cơ sở lý luận của sự liên hệ giữa pháp luật và
đạo đức- cơ sở cho việc xây dựng hành vi xã hội của người chưa thành niên.
- Thứ hai, phân tích thực trạng của việc kết hợp giáo dục pháp luật và giáo
dục đạo đức cho người chưa thành niên ở nước Việt Nam hiện nay.
-Thứ ba, đề xuất một số phương hướng và giải pháp tăng cường kết hợp
giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên ở nước Việt Nam
hiện nay
Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn ở mức độ nhất định có thể sử dụng làm tài liệu
tham khảo, góp thêm cơ sở cho việc hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước
để phát huy việc giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên ở
Việt Nam hiện nay.
Luận văn đóng góp một hướng giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức

cho người chưa thành niên chứ không chỉ đơn thuần là giáo dục pháp luật cho đối
tượng này hiện nay vẫn đang thực hiện. Luận văn còn góp phần nâng cao nhận thức
và phương hướng cho các cơ quan nhà nước trong việc giáo dục pháp luật và đạo



8
đức cho người chưa thành niên. Luận văn là tài liệu tham khảo bổ ích đối với cán
bộ, giáo viên, giảng viên làm công tác giáo dục pháp luật.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài:

Với đề tài này tác giả tập trung tìm hiểu
chuẩn giá trị pháp luật và đạo đức và việc kết hợp giữa hai giá trị ấy vào việc giáo
dục nhân cách, phẩm chất, biết tuân thủ pháp luật cho người chưa thành niên. Từ đó
hình thành hành vi xã hội của người chưa thành niên ở nước Việt Nam hiện nay.
Đề tài nghiên cứu tình hình giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức cho
người chưa thành niên trên cả nước và tìm hiểu, phân tích thực trạng công tác giáo
dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên hiện nay ở
nước Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tham khảo nguồn số liệu của Tòa án nhân dân tối
cao, Cục cảnh sát điều tra tội phạm xã hội…Ngoài ra, đề tài giới hạn ở việc khảo sát
tình hình giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức cho người chưa thành
niên ở một số trường THCS, PTTH ở Hà Nội để làm rõ thực trạng công tác giáo dục
pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên ở nước Việt Nam
hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên việc vận dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, phép biện chứng của Chủ
nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Bên cạnh đó

luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể là phân tích, đối chiếu, so
sánh, thống kê, tổng hợp, phương pháp điều tra xã hội học; phương pháp phân tích
quy phạm cũng được tác giả vận dụng để phân tích quan điểm của Đảng và pháp
luật của nước ta về hoạt động phổ biến pháp luật nói chung.
6. Những điểm mới của luận văn
Đề tài “Kết hợp giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức cho người chưa
thành niên ở nước Việt Nam hiện nay” mà tác giả lựa chọn có tính mới so với các
đề tài nghiên cứu về giáo dục pháp luật đã được hoàn thành ở chỗ:



9
- Luận văn nghiên cứu và phân tích chi tiết đặc điểm của người chưa thành
niên ở nước ta.
- Luận văn nghiên cứu, tìm hiểu việc kết hợp giữa giáo dục pháp luật và
giáo dục đạo đức cho đối tượng là người chưa thành niên chứ không dừng lại ở việc
giáo dục, phổ biến pháp luật như các đề tài khác.
- Luận văn đóng góp việc giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức
cho người chưa thành niên không chỉ về phương diện lý luận mà còn cần phải áp
dụng việc giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức cho người chưa thành
niên về mặt thực tiễn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương.
Chương 1: Pháp luật và đạo đức với nhu cầu giáo dục pháp luật và giáo dục
đạo đức cho người chưa thành niên ở Việt Nam
Chương 2: Thực trạng của việc kết hợp giáo dục pháp luật và đạo đức cho
người chưa thành niên ở nước Việt Nam hiện nay
Chương 3:


Phương hướng và giải pháp tăng cường kết hợp giáo dục pháp luật, giáo
dục đạo đức cho người chưa thành niên ở nước Việt Nam hiện nay













10
Chương 1
PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC VỚI NHU CẦU GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN Ở
VIỆT NAM

1.1. Sự liên hệ giữa pháp luật và đạo đức- cơ sở cho việc xây dựng hành vi xã
hội của người chưa thành niên
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của người chưa thành niên
* Khái niệm người chưa thành niên:
Khái niệm NCTN là một khái niệm được sử dụng nhiều trong các văn bản
pháp luật. Bên cạnh khái niệm này, chúng ta cũng thường xuyên sử dụng khái niệm
trẻ “vị thành niên” hay “trẻ em” Tuy nhiên, khái niệm NCTN được đề cập đến
trong một số văn bản sau:
Theo Từ điển Tiếng việt, thì “thành niên” là đến tuổi được pháp luật công

nhận là công dân với đầy đủ quyền và nghĩa vụ, “vị thành niên” là chưa đến tuổi
được pháp luật công nhận là công dân với đầy đủ quyền và nghĩa vụ [35, tr17].
Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc
thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa
là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định
tuổi thành niên sớm hơn” [59, Điều 1].
Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất trong
Hiến Pháp năm 1992, Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và
một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy
định tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế
định pháp luật đối với người chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể.
Như vậy, qua sự phân tích các quan điểm nêu trên, có thể xác định độ tuổi
NCTN là những người dưới 18 tuổi. Bao gồm tất cả trẻ em (những người chưa đủ
16 tuổi) và vị thành niên (những người trong độ tuổi từ 12 đến dưới 18 tuổi). Trong
phạm vi đề tài này, tác giả chỉ nghiện cứu lứa tuổi vị thành niên ở độ tuổi từ 12 tuổi



11
đến dưới 18 tuổi. Đó là những người chưa trưởng thành (đang phát triển) về thể
chất, thần kinh – tâm lý và xã hội. Trong thực tiễn đời sống mọi người đều hiểu
rằng: người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất lẫn tinh
thần nên họ chưa có khả năng nhận thức, kiểm soát được suy nghĩ, hành vi của
mình, họ dễ bị tác động từ các yếu tố bên ngoài và thực hiện hành vi một cách nông
nổi, thiếu chín chắn.
Từ những quy định và sự phân tích trên đây, khái niệm người chưa thành
niên được xây dựng dựa trên sự phát triển về mặt thể chất và tinh thần của con
người và được cụ thể hoá bằng giới hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật của
từng quốc gia. Theo đó, người ta quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của

người chưa thành niên. Có thể khái niệm: Người chưa thành niên là người dưới 18
tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có khả năng nhận
thức, kiểm soát được hành vi của mình chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp
lý như người đã thành niên.
* Đặc điểm của người chưa thành niên:
Dưới góc độ tâm lý học, con người trải qua các giai đoạn lứa tuổi khác nhau,
trong đó mỗi giai đoạn có đặc điểm tâm sinh lý riêng, đặc trưng cùng với tác động bên
ngoài làm hình thành những hành vi ứng xử khác nhau. Giai đoạn chưa thành niên là
giai đoạn quan trọng trong quá trình phát triển và hoàn thiện nhân cách của con người.
Nghiên cứu NCTN qua các đặc điểm tâm sinh lý giúp chúng ta lý giải được cơ sở khoa
học của những quy định pháp luật nói chung và pháp lệnh xử lý vi phạm đối với người
NCTN nói riêng. Những đặc điểm của NCTN được biểu hiện cụ thể:
Trong phạm vi đề tài, tác giả đi tìm hiểu NCTN gồm những người ở độ tuổi
từ 12 đến dưới 18 tuổi. Với NCTN ở giai đoạn này họ cần có thời gian để chuẩn bị
về mọi mặt để chuyển sang một giai đoạn mới: giai đoạn trưởng thành (giai đoạn
lớn lên về cơ thể, mở rộng các quan hệ xã hội, tích lũy tri thức, phương thức hoạt
động ). Tuổi của NCTN cũng có thể gọi là “thời kỳ quá độ” (chưa phải là người
lớn cũng không còn là trẻ con), “tuổi khủng hoảng” (cả về tâm lý lẫn sinh lý), “tuổi
khó bảo”, “tuổi bất trị” những nguyên nhân của cách gọi trên xuất phát từ đặc
điểm sau:



12
Thứ nhất, đặc điểm sinh lý. Thời kỳ này, cơ thể phát triển mạnh mẽ những
chưa đồng đều, biểu hiện bên ngoài là các em lớn lên trông thấy. Tùy thuộc vào độ
tuổi, ngay trong cùng một giai đoạn mà sự phát triển giữa nam và nữ là khác nhau,
các em nữ phát triển cao hơn nam về hình dáng ở độ tuổi 14 – 15. Tuy nhiên, các
em lại có chung những đặc điểm chung của lứa tuổi. Nhóm tuổi chưa thành niên là
nhóm tuổi có sự thay đổi mạnh mẽ nhất về thể chất trong cuộc đời mỗi người. Trên

bình diện y sinh học nó là giai đoạn chuyển biến từ đứa trẻ non nớt thành một người
lớn khỏe mạnh. Cấu tạo hệ thần kinh có những thay đổi rất nhiều và chức năng của
hệ thần kinh phức tạp hơn. Hệ tim mạch phát triển mạnh làm cho các em đôi khi có
cảm giác mệt mỏi, chóng mặt dẫn đến hiện tượng dễ bị kích động, dễ nổi nóng.
“Tuyến nội tiết hoạt động mạnh, đặc biệt là tuyến sinh dục và tuyến giáp gây ra sự
mất cân bằng tạm thời trong hoạt động của hệ thần kinh trung ương”[48, tr.35],
điều đó lý giải vì sao một số em hay bị xúc động mạnh, một số em khác nóng nảy
vô cớ hoặc có hành vi bất thường không làm chủ được bản thân. Một đặc điểm sinh
lý nữa của NCTN đó là sự phát dục, điều này làm xuất hiện ở các em những nhu
cầu mới như nhu cầu giao tiếp với bạn bè, đặc biệt là bạn bè khác giới. Các em
trưởng thành hơn về mặt cơ thể, nhưng nhận thức vẫn còn hạn chế.
Thứ hai, về đặc điểm tâm lý. NCTN đã bắt đầu hình thành sự “tự ý thức ” về
mình, các em thường đặt ra câu hỏi: mình đang làm gì? Mình như thế nào? Những ai
quan tâm đến mình? quá trình này diễn ra dần dần với những diễn biến tâm lý phức tạp,
dễ xúc động, chợt vui, chợt buồn, tình cảm bồng bột, hoạt động thần kinh không cân
bằng, do đó khiến các em không tự kiềm chế được bản thân khi gặp tình huống bất ngờ.
Các nhà tâm lý học đã nói nhiều về sự đa dạng, phức tạp trong tình cảm, tâm lý của các
em. Lúc này trẻ mang đầy tính năng động, mang nhiều mơ ước và khát vọng nói chung
song có nhiều em gái mang trong mình tâm lý trầm tư, u uất, khép mình vào thế giới nội
tâm trong khi đó nhiều ban trai tỏ thái độ ngang bướng, thậm chí phá phách, muốn khẳng
định mình. Do vậy, có thể nói rằng , độ tuổi chưa thành niên là giai đoạn có nhiều biến
động nhất trong sự hình thành các giá trị đạo đức, lối sống và nhân cách của mỗi người.
“Tuổi vị thành niên là thời gắn liền với các xung đột và xáo trộn tâm trạng. Những suy



13
nghĩ, cảm xúc của NCTN thường dao động giữa tính kiêu ngạo và tính tự ti, giữa sự
điềm tĩnh và sự nóng nảy, giữa niềm hạnh phúc và nỗi đau buồn” [18, tr.7- 8].
Do có thể tự ý thức về bản thân mình, các em đôi khi có những thái độ khó chịu

với sự thay đổi về tâm sinh lý. Các em biết những việc nào thì được phép làm, những
việc nào không nhưng đôi khi vẫn làm theo cách của mình với những lý do rất riêng.
Do đó, khi mắc lỗi, thay vì nhìn nhận thẳng vào vấn đề, một số em lại cố che giấu, cử
chỉ bên ngoài thiếu tự nhiên, các em muốn bộc lộ cá tính, tự khẳng định mình, muốn
nhanh chóng được trở thành người lớn và cố gắng đối xử như người lớn, song nhận
thức về xã hội, đạo đức, đặc biệt là pháp luật còn nhiều hạn chế.
Từ sự thay đổi về thể chất và tinh thần dẫn đến việc biến đổi mạnh mẽ trong
hành vi ở nhóm tuổi chưa thành niên. Rất nhiều hành vi của nhóm tuổi chưa thành
niên luôn khó hiểu và không lường trước được đối với những thế hệ khác đặc biệt là
người lớn tuổi. Các em hành động một cách bột phát mà không cần cân nhắc, tính
toán chín chắn. Các em đã biết nhìn nhận về bản thân và mong muốn tạo cho mình
uy tín, sự mến phục trong con mắt bạn bè, đặc biệt là bạn khác giới. Trẻ chưa thành
niên có thể là những người vị tha, độ lượng, có thể hy sinh thân mình để làm những
điều tốt đẹp nhưng cũng có thể ngay sau đó lại bị lôi kéo vào những hành vi xấu mà
không nhận biết được. Các em cũng dễ bị lây nhiễm vào các tệ nạn xã hội như cờ
bạc, rượu chè, trộm cắp, đánh nhau khi ở vào tuổi này mà đến khi trưởng thành đã
không thể dễ dàng từ bỏ những tệ nạn đó.
NCTN cần có sự quan tâm, chăm sóc của cha mẹ bởi những khó khăn, rắc
rối về mặt tâm sinh lý là không tránh khỏi. Cha mẹ phải là người hiểu rõ điều đó và
cần có sự quan tâm đúng mức, sao cho các em vẫn phát huy được tính độc lập của
mình nhưng cũng không tách rời sự quản lý cần thiết và chặt chẽ của cha mẹ.
Phần lớn NCTN sống phụ thuộc vào gia đình, trong mối quan hệ với gia
đình, cụ thể là đối với cha mẹ, sự hiểu biết tâm sinh lý đối với NCTN là rất quan
trọng. Tuy nhiên, sự hiểu biết này mới dừng lại ở những thay đổi bên ngoài, còn
những thay đổi tâm sinh lý bên trong cha mẹ ít quan tâm hơn. Do đó, khi ý thức của
NCTN lệch lạc dẫn đến vi phạm pháp luật, cha mẹ lại nghĩ nguyên nhân chính do
bản thân chúng gây ra, rất nhiều trong số các em bị cha mẹ bỏ mặc và không quan




14
tâm. Khi thiếu vắng tình cảm của cha mẹ, NCTN còn tìm sự an ủi ở họ hàng, gia
đình và bạn bè, tuy nhiên điều đó không thể thay thế bằng tình cảm thân yêu của
cha mẹ, khi đó các em nhanh chóng tìm đến sự giải tỏa tâm lý bằng những hành
động nông nổi, bồng bột.
NCTN VPPL là những người có hành vi vi phạm các quy định của pháp luật
ở các mức độ khác nhau từ vi phạm hành chính cho đến vi phạm pháp luật hình sự.
Tuy nhiên, khi NCTN từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi mà phạm tội quy định trong Bộ
luật hình sự thì họ chỉ chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp phạm tội rất
nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng theo điều 12 Bộ luật
hình sự 1999. NCTN VPPL thường có những đặc điểm tâm lý về nhận thức và tính
cách như sau:
Lệch lạc trong nhận thức về hành vi vi phạm như: Nói giảm nhẹ hành vi vi
phạm của mình để người nghe có thể chấp nhận được; Chối bỏ trách nhiệm về hành
vi của mình; Có niềm tin sở hữu khi cho rằng mình có quyền đối với tài sản của
người khác; Cho rằng mình có quyền gây tổn thương cho người khác; Đổ lỗi cho
nạn nhân.
Đặc điểm tính tiêu cực ở người chưa thành niên vi phạm pháp luật như:
Không vâng lời, bướng bỉnh, có xu hướng chống đối các biện pháp giáo dục; Vô kỷ
luật, dối trá, xấc xược, hung tính, dễ manh động; Lười biếng thiếu quyết tâm, thiếu
trách nhiệm đối với bản thân và người khác; A dua, bắt chước; Thất vọng ở bản
thân; Có xu hướng xung đột nội tâm và mâu thuẫn trong hành vi; Thiếu kiềm chế,
xúc cảm thất thường;
Khi NCTN bị người thân bỏ rơi, thiếu nâng đỡ tinh thần hoặc bị bạo lực,
chửi rủa, xỉ vả và xúc phạm liên tục, hoặc thường xuyên sống trong lo sợ, căng
thẳng, họ dễ bị tổn thương tâm lý. Đôi khi để giải tỏa trạng thái tâm lý tiêu cực
trong gia đình, họ có những phản ứng chống trả quyết liệt như: bỏ học; bỏ nhà đi
lang thang; sử dụng các chất kích thích; hoặc gây ra những hành vi rối loạn xã hội
như gây hấn với người khác, phá hoại tài sản, trộm cắp; thậm chí tự hủy hoại bản
thân mình như tự hành xác, tự tử.




15
NCTN vi phạm pháp luật là một hiện tượng xã hội vô cùng phức tạp và
nguyên nhân của hiện tượng này cũng vô cùng đa dạng. Nhìn từ góc độ bản thân
người NCTN thì mỗi người lại có những hành động vi phạm pháp luật dưới sự chi
phối của những ý thức xã hội khác nhau. Những ý thức xã hội khác nhau ấy là
những phản ứng của NCTN trước những biến động xã hội khi tác động vào bộ não
của họ. NCTN có sự phát triển và thay đổi sinh lý khá nhanh chóng, nhưng lại có sự
phát triển tâm lí và nhận thức xã hội tương đối chậm. Lúc này, gia đình, nhà trường,
bạn bè và môi trường khách quan bên ngoài sẽ có tác động hai chiều đến sự hình
thành và phát triển tâm lý, ý thức của họ. Nếu sự tác động là tích cực, phù hợp thì
sự phát triển tâm lý, ý thức của NCTN sẽ theo hướng tích cực. Ngược lại, nếu sự tác
động là tiêu cực, chưa phù hợp thì sự phát triển tâm lý, ý thức của NCTN sẽ theo
hướng tiêu cực, và đây chính là mầm mống hình thành ý thức phạm tội của họ.
Nghiên cứu này chủ yếu xem xét những ảnh hưởng từ môi trường bên ngoài dẫn
đến tâm lý phạm tội của NCTN bao gồm: gia đình, nhà trường, xã hội và pháp luật.
Do vậy, NCTN là giai đoạn phát triển đặc biệt quan trọng trong cả cuộc đời
con người, mỗi người ở độ tuổi này thường có những thay đổi rõ nét về tâm sinh lý
và hành vi. Hiểu được những đặc điểm mang tính đặc thù này là chìa khóa mở ra
cánh cửa thành công cho công tác giáo dục NCTN.
Nếu ở độ tuổi này NCTN có những hành vi vi phạm pháp luật, hình thành
thế giới quan, nhân sinh quan không phù hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội thì
rất có thể đến lứa tuổi trưởng thành họ sẽ là đại diện cho những thành phần bất
kham trong xã hội.
NCTN vẫn đang ở trong giai đoạn hình thành để đi đến tương đối ổn định về
nhân sinh quan và thế giới quan vì thế mà những hành vi và quan điểm giá trị của
họ có thể uốn nắn được. Đứng từ góc độ tâm lý học và sinh lý học có thể nhận thấy
thanh thiếu niên về tâm lý vẫn chưa ổn định, về sinh lý vẫn chưa phát triển hoàn

thiện. Sự mất cân bằng giữa phát triển sinh lý và nhận thức xã hội có ảnh hưởng
quan trọng đến đặc điểm tâm lý, tình cảm, hành vi của NCTN trong giai đoạn này.
Hệ thống thần kinh của các em vẫn ở trong trạng thái chưa ổn định. Nhận thức, tình
cảm và ý chí của các em vẫn đang có những sự biến đổi mạnh mẽ, điều này khiến



16
cho các em khó kiểm soát tình cảm và hành vi của mình, các em thường dùng tình
cảm nhất thời để giải quyết mọi việc, đồng thời cũng dễ bị ảnh hưởng của môi
trường bên ngoài tác động.
Điều kiện sống, sinh hoạt và học tập của NCTN đều đa phần phụ thuộc vào
người lớn và sự bảo trợ của xã hội. Các em không có thu nhập ổn định, khả năng tự
lập còn kém, sức chịu đựng tâm lý cũng còn kém cùng với đó là cảm xúc, tình cảm
cũng chưa ổn định, đây là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thanh thiếu niên
thường có tính dựa dẫm, mà chính sự dựa dẫm và phụ thuộc này khiến cho thanh
thiếu niên trở thành những người dễ gặp phải những nguy cơ không tốt trong cuộc
sống và cũng dễ bị tổn thương. Nếu không nhận được tình cảm từ gia đình, sự dạy
dỗ từ thầy cô, sự yêu mến từ bạn bè và sự quan tâm từ xã hội thì các em khó có
được tương lai tốt đẹp. Những hiện tượng tiêu cực ngoài xã hội, sự mất công bằng
trong giáo dục gia đình và nhà trường,… đều là những nhân tố có thể trở thành
nguyên nhân dẫn đến việc NCTN đi theo những con đường xấu.
NCTN nói riêng và bộ phận thanh thiếu niên nói chung chính là những chủ
nhân tương lai của xã hội giúp duy trì và ổn định sự phát triển bền vững của xã hội.
Đồng thời cũng chính bởi thanh thiếu niên là đại diện cho tương lai nên bản thân
các em cũng có những quan điểm, suy nghĩ, việc làm không giống với chúng ta. Ở
các em có những quan niệm mới, thói quen mới, tri thức mới, kỹ thuật mới mà
người trưởng thành cho rằng khó chấp nhận và khó thực hiện được trong cuộc sống
thì các em lại dễ dàng chấp nhận và dễ dàng theo đuổi. Các em dám bước qua
những quan niệm truyền thống để tạo dựng cho thế hệ mình những nấc thang mới,

xét trên khía cạnh này thì sự dũng cảm của thanh thiếu niên được đánh giá là cao
hơn người trưởng thành. Nếu không có sự bứt phá trong tư duy và hành động của
NCTN thì xã hội của chúng ta trong tương lai sẽ không thể phát triển hơn xã hội
hiện tại. Nhưng trong thực tế những điều mới mẻ của NCTN lại dễ bị người lớn phủ
nhận và bác bỏ, người lớn hay những người đang làm chủ cuộc sống hiện tại luôn
mong muốn NCTN sẽ trưởng thành trong sự quản lý và bao bọc của họ, cũng như
làm theo những điều mà họ đã đề ra, chấp hành những luật lệ mà họ đưa ra. Khi
đứng trước những rào cản này một bộ phận NCTN trở nên cô độc, những hành động



17
bộc phát mang tính tiêu cực chính là những ví dụ điển hình cho việc chống lại
những quy tắc gò bó. Do vậy, giúp cho thế hệ trẻ của chúng ta có cơ hội phát triển
đúng đắn mà vẫn đảm bảo phát huy được những tư duy mới mẻ của trẻ cần kết hợp
giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật, để cung cấp cho NTCN những kiến thức về
đạo đức và pháp luật, những chuẩn giá trị về đạo đức, chuẩn giá trị về pháp luật
nhằm ngăn chặn những hành vi lệch lạc của trẻ.
1.1.2. Mối liên hệ giữa pháp luật và đạo đức
Điều chỉnh hành vi con người, xã hội có nhiều công cụ khác nhau, trong đó,
pháp luật và đạo đức là công cụ quan trọng bậc nhất. Bên cạnh những ưu thế vốn
có, cả pháp luật và đạo đức đều có những hạn chế nhất định. Song pháp luật và đạo
đức có mối liên hệ mật thiết, tác động qua lại, bổ sung cho nhau. Do vậy, để quản lý
xã hội có hiệu quả, cần phải có sự kết hợp giữa pháp luật và đạo đức.
Để tìm hiểu mối liên hệ giữa đạo đức và pháp luật trước hết chúng ta cần tìm
hiểu đạo đức, pháp luật và vai trò của đạo đức và pháp luật trong đời sống xã hội.
*Đạo đức
Đạo đức là khái niệm có lịch sử lâu đời ở phương Đông lẫn
phương Tây. Nếu như ở phương Tây, đạo đức có gốc từ thuật ngữ dùng
để chỉ tập quán, lề thói, những phương thức ứng xử được xã hội công

nhận thì phương Đông, chữ “đạo đức” bắt nguồn từ “đạo” nghĩa là quy
luật, con đường sống của con người và “đức” là biểu hiện của đạo, là
nhân đức, là tình nghĩa con người. Đạo đức ghép lại là quy luật sống của
con người theo nhân nghĩa, luân lý, là nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà
con người phải tuân theo. Đạo đức là nguyên tắc của cả cộng đồng. Cá
nhân tuân theo những nguyên tắc ấy là hoàn toàn tự nguyện, tự giác. Đây
là một đặc trưng của đạo đức và là sức mạnh của đạo đức khác hẳn với
các quy tắc tôn giáo hay những quy phạm pháp luật"[17,tr.5].
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, “đạo đức là tập hợp những
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá ứng xử của con
người trong quan hệ với nhau và trong quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện
bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội” [17, tr.8].

×