Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tác động của hiệp định TPP đến nghành dệt may việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.58 KB, 19 trang )

BẢN BÁO CÁO ĐỀ TÀI : TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH TPP ĐẾN NGÀNH DỆT
MAY VIỆT NAM.
Nhóm 3
MỤC TIÊU CẦN ĐẠT QUA BÀI BÁO CÁO:
I/ Tổng quan về TPP?
Trả lời cho câu hỏi TPP là gì? Những tác động chính của TPP đến nền kinh tế Việt
Nam?.
II/ Tác động của TPP đến ngành dệt may Việt Nam trên góc độ phân tích của những
nhà kinh tê Việt Nam.
Như chúng ta đã biết dệt may là một ngành mà Việt Nam có lợi thế trong việc xuất khẩu
như vậy trong điều kiện kí kết thành công TPP chúng ta có thể có những dự đoán về con
số sự thay đổi của ngành dệt may?
Trên cơ sở lí luận thực tiễn thì ngành dệt may đang đứng trước những cơ hôi và thách
thức như thế nào?
Những giải pháp cho ngành dệt may Việt Nam để có thể tận dụng những cơ hôi và loại
bỏ những thách thức.
III/ Một số quan điểm nhận định của nhóm về tác động của TPP đến ngành dệt may
Việt Nam.
1
PHẦN I : TỔNG QUAN VỀ TPP.
A.TPP là gì?
Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương, tên tiếng Anh: "Trans-
Pacific Strategic Economic Partnership Agreement", viết tắt: TPP, là một hiệp định
thương mại tự do nhiều bên, được coi như một hiệp định thương mại tự do thế hệ thứ 2
với mục tiêu thiết lập một mặt bằng tự do chung cho các nước khu vực châu Á - Thái
Bình Dương.
Phạm vi điều chỉnh của TPP rất rộng, một thoả thuận toàn diện bao quát tất cả các khía
cạnh chính của một hiệp định thương mại tự do bao gồm trao đổi hàng hoá, các quy định
về xuất xứ, rào cản kỹ thuật, trao đổi dịch vụ, vấn đề sở hữu trí tuệ, các chính sách của
chính quyền về vấn đề môi trường, lao động, chống tham nhũng
Hiệp định này được ký kết ngày 3-6-2005, có hiệu lực từ 28-5-2006 giữa 4 nước


Singapore, Chile, New Zealand, Brunei (vì vậy Hiệp định này còn gọi là P4). Tháng 9-
2008, Hoa Kỳ tỏ ý định muốn đàm phán để tham gia TPP. Sau đó, tháng 11-2008, các
nước khác là Australia, Peru, Việt Nam cũng thể hiện ý định tương tự. Ngày 13-11-2010,
Việt Nam tuyên bố tham gia TPP với tư cách thành viên đầy đủ. Hiện nay, có 12 quốc gia
đang đàm phán TPP, ngoài 8 quốc gia có tên trên, còn thêm các nước Malaysia, Mexico,
Canada và Nhật.
Vớisự tham gia của các nền kinh tế lớn trên thế giới (như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Australia ),
TPP trở thành khu vực kinh tế hơn 790 triệu dân, đóng góp 40% GDP và chiếm 1/3
thương mại toàn cầu.
Mục tiêu ban đầu của Hiệp định là giảm 90% các loại thuế xuất nhập khẩu giữa các nước
thành viên trước ngày 01 tháng 01, 2006 và cắt giảm bằng không tới năm 2015. Đây là
một thỏa thuận toàn diện bao quát tất cả các khía cạnh chính của một hiệp định thương
mại tự do, bao gồm trao đổi hàng hóa, các quy định về xuất xứ, can thiệp, rào cản kỹ
thuật, trao đổi dịch vụ, vấn đề sở hữu trí tuệ, các chính sách của chính quyền
Hiện 12 nước thành viên TPP đang tiếp tục bàn thảo nhằm đạt sự thống nhất rộng rãi vào
tháng 10 và sẽ ký Hiệp định vào cuối năm nay.
B.Tại sao gia nhập TPP?
Theo đánh giá của các chuyên gia trong nước cũng như quốc tế, khi tham gia "sân
2
chơi" này, Việt Nam sẽ là một trong những nước có lợi nhiều nhất vì mục tiêu chính của
TPP là giảm thuế và những rào cản hàng hoá cho dịch vụ. Khi các dòng thuế giảm xuống,
Việt Nam có thể gia tăng xuất khẩu quần áo, giày dép và nhiều mặt hàng khác vốn là thế
mạnh của mình vào các thị trường lớn, đặc biệt là thị trường Hoa Kỳ mà không phải cạnh
tranh với sản phẩm của một số nước khác.
Đánh giá tác động của TPP, theo chuyên gia kinh tế Võ Trí Thành, những nước mức
phát triển thấp hơn sẽ có cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn. Trong nhiều nghiên cứu định
lượng của chuyên gia nước ngoài, Việt Nam là một trong những nước hưởng lợi lớn từ
TPP (phần lớn các nước có lợi khoảng 1-2 điểm % từ TPP, riêng Việt Nam khoảng 5%).
Tuy nhiên theo ông Thành, đánh giá này cũng chưa tính được đầy đủ những chuyển biến
thể chế của cải cách trong nước,những cải cách có thể hỗ trợ cho quá trình này.

Bên cạnh đó, trong số 11 đối tác đang đàm phán với Việt Nam, hiện có 7 đối tác có
quan hệ thương mại tự do với nước ta; 4 đối tác còn lại (Hoa Kỳ, Canada, Mexico, Peru),
chưa thiết lập quan hệ thương mại tự do nên cơ hội chủ yếu của Việt Nam sẽ mở rộng ở 4
thị trường này.
Điều đáng nói Theo Thứ trưởng Trần Quốc Khánh, nếu xét theo cơ cấu kinh tế của
các nước đang đàm phán với Việt Nam, họ có cơ chế kinh tế mang tính bổ sung cho Việt
Nam nhiều hơn. Vì vậy, tác động cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam có thể có nhưng
không lớn như ta lo ngại.
Cũng theo ông Trần Quốc Khánh, qua một số nghiên cứu mang tính định tính cho
thấy ngành hàng trong nước có thể gặp khó khăn đầu tiên là ô tô nếu chúng ta mở cửa thị
trường hoàn toàn cho Hoa Kỳ và Nhật Bản. Cùng với đó, ngành nông nhiệp với các mặt
hàng thịt gà , lợn, bò là ngành lợi thế của Hoa Kỳ hoặc mặt hàng đường là thế mạnh của
Australia thì các ngành hàng tương ứng của ta cũng có thể gặp khó khăn.
Thứ trưởng Trần Quốc Khánh nhấn mạnh Hiệp định TPP rất rộng, vì thế các vấn đề
được đề cập không chỉ gói gọn trong phạm vi biên giới mà còn phải tính toán cả các vấn
đề sau biên giới. Điều quan trọng là cần đưa ra chínhsách minh bạch và điều này sẽ mang
lại lợi ích vô cùng to lớn cho doanh nghiệp trong nước.
PHẦN II. TÁC ĐỘNG CỦA TPP ĐẾN NGÀNH DỆT MAY TRÊN QUAN ĐIỂM
CỦA NHỮNG NHÀ KINH TẾ.
3
A. SO SÁNH NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM CHỊU VÀ KHÔNG CHỊU TÁC
ĐỘNG CỦA TPP
1. Ngành dệt may Việt Nam không chịu tác động của TPP
1.1. Tình hình tăng trưởng chung
Trong Quyết định số 55/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 23/04/2007 về phê
duyệt “Danh mục các ngành công nghiệp ưu tiên, ngành công nghiệp mũi nhọn giai đoạn
2007 - 2010, tầm nhìn đến năm 2020”, ngành dệt may được lựa chọn là ngành mũi nhọn
trong xuất khẩu của Việt Nam, bởi vậy Nhà nước cũng đã có những chính sách ưu tiên để
phát triển của ngành dệt may. Bên cạnh đó, từ tháng 3 năm 2007 Việt Nam bắt đầu thực
hiện các cam kết với WTO.Theo Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam, trong toàn

bộ biểu thuế gồm 10.689 dòng thuế, Việt Nam sẽ cắt giảm khoảng 3.800 dòng, chiếm
34,5% số dòng thuế của biểu thuế. Những yếu tố trên góp phần tác động lớn vào ngành
dệt may Việt Nam.
Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam giai đoạn 2007 – 2013
Năm 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Kim ngạch
xuất khẩu
(triệu USD)
7732 9120 9066 11200 14043 15176 20096
Tốc độ tăng
trưởng
KNXK (%)
31,30 17,40 -0,60 23,54 25,38 8,07 18,7
Nguồn: Tổng hợp từ nguồn số liệu Bộ Công thương
Giai đoạn 2007 – 2013, ngành dệt may có kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh với tốc độ tăng
trưởng khoảng trên 20%/ năm (trừ năm 2009 do sức mua của thị trường giảm mạnh, hệ
quả từ cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu). Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu của
dệt may nước ta chỉ đạt 1,9 tỷ USD thì đến năm 2013 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
đã đạt 20.096 tỷ USD chiếm tỷ trọng 15.2% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Hàng dệt may Việt Nam đã được xuất khẩu đi hơn 180 nước và vùng lãnh thổ trên thế
giới như thị trường Mỹ, Nhật Bản, EU, các nước Đông Âu, các nước Trung Đông Sự
đón nhận của các thị trường này chứng tỏ hàng dệt may của Việt Nam bước đầu đã có sự
cạnh tranh về giá cả và chất lượng sản phẩm trên thị trường quốc tế. Tỷ lệ đóng góp của
ngành dệt may Việt Nam trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước luôn ở mức trên
12%, kim ngạch xuất khẩu chiếm khoảng 80% doanh thu toàn ngành.
4
Tuy nhiên, việc cắt giảm thuế nhập khẩu như trên cùng với “tự do hóa hạn ngạch”, đã làm
cho dệt may Việt Nam gặp khó khi cạnh tranh với các sản phẩm dệt may của Trung Quốc,
ƒn Độ, Thái Lan, Hàn Quốc tràn vào. Hàng dệt may Việt Nam từ đầu năm 2007 tuy có
được lợi thế trên thị trường Hoa Kỳ và EU, nhưng lại bất lợi trên thị trường khu vực và

ngay trên sân nhà. Như vậy trên thị trường khu vực ASEAN, đặc biệt là thị trường nội
địa, hàng dệt may Việt Nam đã lâm vào tình thế “bỏ trống sân nhà”.
1.2. Chuỗi giá trị
Tuy ngành dệt may là một trong những ngành xuất khẩu đi đầu của Việt Nam, nhưng nếu
xét về chuỗi giá trị của ngành thì vẫn còn nhiều hạn chế. Chuỗi giá trị toàn cầu ngành dệt
may bao gồm các khâu: sản xuất nguyên liệu; sản xuất sản phẩm cuối cùng, nghiên cứu
thiết kế, marketing và phân phối, trong đó khâu sản xuất sản phẩm cuối cùng là khâu tạo
ra giá trị gia tăng thấp nhất (chỉ chiếm 5 – 10% tỷ suất lợi nhuận). Nhưng hiện nay theo
thống kê của Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas) ngành dệt may trong nước có đến 70%
doanh nghiệp sản xuất theo hình thức gia công cho các doanh nghiệp nước ngoài, tức là
chỉ tham gia vào khâu sản xuất sản phẩm cuối cùng.
Về khâu cung ứng nguyên phụ liệu: theo bảng số liệu ngành dệt may của Việt Nam
đang phụ thuộc quá lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Tính trong năm 2013, ước đạt
nhập khẩu bông là 590 nghìn tấn, trị giá 1189 triệu USD; nhập khẩu xơ, sợi nguyên liệu
đạt 692 nghìn tấn, trị giá 1514 triệu USD; nhập khẩu vải đạt 8405 triệu USD. Các nhóm
hàng này chủ yếu được nhập từ thị trường Trung Quốc, Hàn Quốc và Đài Loan, Hoa Kỳ,
ƒn Độ…Điều này cho thấy các doanh nghiệp ngành dệt may chưa thực sự chủ động được
về nguồn cung ứng nguyên liệu để đáp ứng nhu cầu sản xuất, làm giảm khả năng cạnh
tranh trên thị trường.
Về khâu nghiên cứu thiết kế: đây là khâu sẽ cho lợi nhuận cao kéo theo đó nâng giá trị
gia tăng trong các mặt hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên khâu nghiên cứu
và thiết kế sản phẩm lại là khâu yếu nhất của các doanh nghiệp Việt Nam. Đa phần các
công đoạn thiết kế cho các sản phẩm may ở của nước ta được thực hiện tại những nước có
ngành công nghiệp thời trang phát triển như Anh, Pháp, Mỹ, Hồng Kông…sau đó, các
mẫu thiết kế được chuyển về Việt Nam, các công ty may của nước ta chỉ gia công theo
đúng mẫu mã theo đơn đặt hàng. Mới chỉ có một số doanh nghiệp đang cố gắng xây dựng
và đưa thương hiệu của mình vào thị trường như may Việt Tiến với sản phẩm San Sciaro
và Manhattan, công ty thời trang Việt với thương hiệu Nino max, Công ty TNHH May
Thêu Giày An Phước…
5

Giá bán: chi phí cho nguyên phụ liệu, vận chuyển, lương tối thiểu tăng cao dẫn đến giá
sản phẩm tăng lên  giá hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam cao hơn 15% - 30% so với
giá thế giới.
Về hoạt động marketing & phân phối: Các doanh nghiệp dệt may trong nước hiện nay
vẫn chưa có hệ thống phân phối rộng lớn đến tận tay người tiêu dùng, nhất là trên thị
trường quốc tế. Theo kết quả nghiên cứu của Dang Nhu Van (Vietnamese T&G firms in
he Global Value Chain), các doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải qua các nhà cung cấp khu
vực để có được hợp đồng gia công, rất ít doanh nghiệp có được hợp đồng từ các nhà bán
lẻ để cung cấp sản phẩm của mình. Nói cách khác, doanh nghiệp dệt may trong nước vẫn
thiếu liên kết với người tiêu dùng sản phẩm cuối cùng, do đó thường không nắm bắt được
nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng, điều này dẫn đến việc sản phẩm dệt may ít được
đón nhận.
Nhìn chung trong chuỗi giá trị sản phẩm ngành dệt may, Việt Nam mới chỉ tham gia ở vai
trò sản xuất sản phẩm cuối cùng, các khâu còn lại như: sản xuất nguyên vật liệu, nghiên
cứu thiết kế, marketing và phân phối…thì hầu như chưa tham gia một cách mạnh mẽ,
xuất khẩu của ngành dệt may thực chất mới chỉ dừng lại ở khâu gia công hộ nước ngoài,
các sản phẩm đúng nghĩa “made in Vietnam” chưa thực sự có nhiều trên thị trường nội địa
nói riêng và cả trên thị trường thế giới nói chung.
1.3. Thị trường chính
Thị trường quốc tế: Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản là 3 thị trường xuất khẩu hàng đầu của
ngành dệt may Việt Nam.
Hoa Kỳ
Hiện nay, Việt Nam là nhà cung cấp hàng may mặc lớn thứ 2 vào Mỹ sau Trung Quốc,
với kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ năm 2013 chiếm 48% tổng giá trị xuất khẩu của toàn
ngành. Đơn giá nhập khẩu hàng may mặc của Mỹ từ Việt Nam luôn đứng ở mức bằng
hoặc cao hơn so với các nhà cung cấp cạnh tranh khác như Trung Quốc và Banladesh, tốc
độ gia tăng nhập khẩu hàng may mặc Việt Nam sang Mỹ cao nhất trong số 10 nhà cung
cấp lớn nhất thị trường này trong năm 2013.
EU
Là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 của ngành dệt may Việt Nam, với kim ngạch xuất khẩu

2013 chiếm 15,2% toàn ngành. Tuy nhiên, hàng năm EU nhập khẩu hơn 250 tỷ USD hàng
6
dệt may, trong khi đó Việt Nam mới chỉ xuất khẩu 2,4 – 2,5 tỷ USD, do đó thị phần dệt
may Việt Nam tại thị trường này còn thấp.
Nhật Bản
Việt Nam nằm trong top 10 các nhà cung cấp hàng dệt may lớn nhất vào thị trường Nhật
Bản. Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này năm 2013 chiếm 13,3% toàn ngành.
Thị trường nội địa
Thị phần dệt may sản xuất trong nước chiếm khoảng 70% tổng mức tiêu thụ tại thị trường
nội địa, 30% còn lại là hàng dệt may nước ngoài, trong đó 20% hàng dệt may Trung Quốc
dưới dạng tiểu ngạch. Theo nghiên cứu của Niesel cho thấy, có đến 90% người tiêu dùng
được hỏi ở TP Hồ Chí Minh và 83% ở Hà Nội cho biết chọ có thể hoặc chắc chắn mua
hàng Việt Nam nhiều hơn. Có thể thấy xu hướng sử dụng hàng Việt Nam đang tăng lên.
Bên cạnh đó, mặc dù triển vọng phát triển thị trường may mặc ở khu vực nông thôn là rất
lớn nhưng việc triển khai hệ thống phân phối tại khu vực này còn gặp nhiều khó khăn do
nhu cầu tiêu dùng chưa cao, các kênh phân phối nhỏ khi giao hàng còn nợ đọng vốn, nên
lượng vốn lưu động cần rất lớn.
2. Ngành dệt may chịu sự tác động của TPP
Tầm quan trọng của các nước TPP và Mỹ
• 40% xuất khẩu hàng hóa Việt Nam đến 11 quốc gia TPP.
• Dệt may và giày dép chiếm 31% tổng kim ngạch xuất khẩu sang các nước TPP.
• 20% xuất khẩu toàn cầu là hàng hóa vào Hoa Kỳ.
• Tỷ trọng lớn (72%) hàng may xuất khẩu sang các nước TPP, gần 50% dệt may.
Ngày 13/11/2010, Việt Nam tuyên bố tham gia vào TPP với tư cách thành viên đầy đủ.
Việc tham gia vào hiệp định này tác động như thế nào đến ngành dệt may:
2.1. Thuế xuất khẩu
Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam, thuế suất đối với các thị trường trọng điểm mà Việt
Nam xuất khẩu mặt hàng dệt may đang quá cao. Cụ thể, trong thị trường xuất khẩu dệt
may của Việt Nam, Hoa Kỳ chiếm 50%, châu Âu chiếm 17%, Nhật Bản 12%, Hàn Quốc
6%, còn lại 2% là các thị trường khác. Trong đó, thị trường Hoa Kỳ phải chịu thuế suất

17,5% và châu Âu là 9,6% trong trường hợp sản lượng dệt may của Việt Nam sang thị
trường này chiếm kim ngạch dưới 17%, nếu kim ngạch xuất khẩu vượt quá 17% thì thuế
suất sẽ tự động điều chỉnh lên 17,5% giống như tại thị trường Hoa Kỳ.
7
Cái lợi lớn nhất của ngành dệt may khi tham gia TPP đã được nhắc tới khá nhiều, đó là
việc cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu còn 0% nếu đáp ứng đủ yêu cầu của TPP góp phần
làm gia tăng đơn hàng cho xuất khẩu dệt may, tạo cơ hội cho hàng hóa Việt Nam “tấn
công” vào thị trường Mỹ - thị trường chủ lực của xuất khẩu dệt may. Nhưng khi thuế suất
về 0% cũng đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường
này cũng phải giảm giá xuất khẩu. Trong khi đó, hầu hết các doanh nghiệp dệt may hiện
nay chủ yếu làm gia công - công đoạn có giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi sản xuất,
còn nguyên vật liệu đầu vào đều tăng khiến cho lợi nhuận của doanh nghiệp sụt giảm.
Dự báo tác động TPP vào năm 2020
Nguồn: Vanzetti(2014)
2.2.Quy tắc xuất xứ
Thế nhưng, theo các chia sẻ của DN thì để được hưởng lợi nhờ TPP không phải chuyện
dễ dàng bởi TPP đòi hỏi rất nghiêm ngặt về quy tắc xuất xứ, tức là, giá trị của hàng hóa
xuất khẩu phải được tạo ra tại nước tham gia TPP với một tỷ lệ nhất định. Với hàng dệt
may, để được hưởng thuế suất NK 0%, TPP yêu cầu các công đoạn sợi, vải, cắt, may phải
được thực hiện tại quốc gia tham gia TPP. Điều đó có nghĩa là, bên cạnh cơ sở sản xuất
chính phải có hàng loạt cơ sở công nghiệp hỗ trợ. Đây là điểm yếu nhất của nền kinh tế
nước ta. Trên thực tế, nguyên liệu phục vụ cho ngành dệt may của Việt Nam vốn phụ
thuộc vào… nhập khẩu nhưng lại nhập khẩu nhiều từ Trung Quốc và một số nước
ASEAN (các nước không tham gia vào TPP).
Việc tham gia Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) được kỳ vọng là cơ hội để
chúng ta mở rộng thị trường xuất khẩu tại các nước thành viên khi hàng rào thuế quan đối
với sản phẩm dệt may sẽ là 0%. Tuy nhiên, đó là cơ hội bị thách thức khi TPP quy định
8
để được hưởng mức thuế này, nguyên phụ liệu làm ra sản phẩm phải được làm tại chính
nước xuất khẩu hoặc các nước thành viên. Chúng ta sẽ “hụt ăn” một miếng bánh lớn hơn

nữa nếu lỡ nhịp với việc phát triển công nghiệp phụ trợ nói chung và công nghiệp phụ trợ
cho ngành may của mình. TPP cũng là áp lực để chúng ta phải “thoát Trung”, vì lợi ích
của chính mình.
2.3. Chuỗi cung ứng là trọng tâm
TPP nếu được ký sẽ là cú hích mới cho phát triển, cả số lượng và chất lượng. Số lượng ở
đây hàm ý quy mô sản xuất và xuất khẩu, chất lượng là nói tới sự hoàn thiện hơn trong hệ
thống sản xuất kinh doanh dệt may Việt Nam, cải thiện giá trị gia tăng của sản phẩm dệt
may Việt Nam.
Dệt may Việt Nam muốn tận dụng hiệu quả cao nhất Hiệp định TPP thì phải hình thành
chuỗi cung ứng bên trong, có sự liên kết hữu cơ giữa các khâu. Một chuỗi cung ứng hoàn
chỉnh từ thiết kế - nguyên phụ liệu - may - phân phối phải được hình thành trong cộng
đồng các thành viên tham gia ký kết Hiệp định TPP. Các DN cũng không nên tận dụng
TPP như một cứu cánh để phát triển trong ngắn hạn, mà quan trọng hơn là cần tận dụng
tốt cơ hội này để gia tăng năng lực cạnh tranh, xây dựng chiến lược phát triển bền vững.
Thực tế cho thấy trong thương mại toàn cầu, luôn có những thỏa thuận thương mại mới
được hình thành và những thuận lợi ban đầu sẽ không tồn tại mãi.
Hiện nay, cơ hội lớn từ TPP, cũng như FTA với EU, Hàn Quốc khiến nhiều doanh
nghiệp dệt may mạnh dạn đầu tư và mở rộng các nhà máy. Đặc biệt, các dự án mở rộng
năng lực sản xuất tự chủ từ khâu kéo sợi, dệt vải, nhuộm như hướng đi lâu dài và bền
vững trong chiến lược đưa ngành dệt may Việt Nam vào sâu hơn vào chuỗi giá trị công
nghiệp dệt may thế giới. Điển hình, cuối năm 2013, An Phước đã đầu tư 450.000USD cho
dây chuyền sản xuất đồ lót sau khi mua lại nhà máy sản xuất của hai thương hiệu đồ lót
Anamai và Bonjour của một DN trong nước. Cuối năm 2013, Công ty CP May Sài Gòn 2
đã đầu tư gần 5 tỷ đồng để cải tiến dây chuyền, nâng cao năng suất.
2.4. Phát triển đồng bộ hạ tầng
Hiệp hội chúng tôi mong muốn rằng, TPP là cơ hội cho phát triển, cho nên cần thiết có
quy hoạch phát triển dệt may trong nước cả về địa lý và nguồn lực lao động (vì ngành sử
dụng nhiều lao động). Cần công khai và có cam kết của các địa phương để tận dụng cơ
hội từ Hiệp định TPP. Khi quy mô sản xuất tăng, sự phân bố các khu vực nhà máy sản
xuất cũng tăng, đòi hỏi hệ thống hạ tầng nối các khu trung tâm thiết kế với khu vực sản

9
xuất, trung tâm ICD (cảng nội địa), và cảng biển phải hoàn thiện. Những chính sách trong
kêu gọi đầu tư vào dệt may, với cả đối tác trong nước và nước ngoài, cần quan tâm đến
trình độ công nghệ, môi trường cho dự án đầu tư mới. Đảm bảo dự án đầu tư mới phải sử
dụng công nghệ tốt, bền vững, lâu dài, tránh tình trạng dịch chuyển công nghệ cũ về đây,
biến chúng ta thành nơi chứa rác thải công nghiệp.
2.5. Xu hướng phát triển
- Tăng trưởng với CAGR 9,8%/năm và đạt giá trị xuất khẩu 55 tỷ USD vào năm 2025 nếu
Hiệp định TPP được thông qua.
- Dịch chuyển nhập khẩu nguyên liệu từ các thị trường chính hiện tại là Trung Quốc, Đài
Loan, Hàn Quốc về các nước nội khối TPP.
- Bắt đầu phát triển hướng sản xuất xuất khẩu theo các phương thức cao hơn CMT là
FOB, ODM, OBM.
- Thu hút đầu tư lớn vào ngành công nghiệp phụ trợ và dòng vốn FDI từ các quốc gia lân
cận nhằm tận dụng những lợi ích từ TPP và FTA EU-Việt Nam.
Hiện các quốc gia Chile, Brunei, Singapore, Malaysia, Úc, New Zealand, Nhật Bản đã ký
FTA với Việt Nam, vì vậy tác động của TPP về mở cửa thị trường giữa Việt Nam và các
nước này là không đáng kể. Trong khi, Hoa Kỳ hiện là thị trường xuất khẩu lớn nhất của
Việt Nam, vì vậy TPP được kỳ vọng sẽ tác động lớn đến xuất khẩu Việt Nam vào
thịtrường này.
AmCham mô tả diễn biến và dự báo nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ từ một số nước từ
2005-2025, trong đó Việt Nam liên tục dẫn đầu từ năm 2011 -2025
10
Amcham cũng điều chỉnh dự báo kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam vào Hoa Kỳ
đến năm 2025 đạt 19,9 tỷ USD thay vì 16,4 tỷ USD như trước đó chưa tính đến tác động
của TPP
Theo dự báo, kim ngạch nhập khẩu của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam các mốc năm
như 2015, 2017, 2019, 2021, 2023 và 2025 lần lượt đạt: 10,5 tỷ USD; 12,5 tỷ USD; 14,3
tỷ USD; 16,2 tỷ USD; 18 tỷ USD và 19,9 tỷ USD.
B. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA NGÀNH DỆT MAY KHI ĐÀM PHÁN

THÁNH CÔNG TPP.
1.Cơ hội cho thị trường dệt may Việt Nam khi đàm phán thành công hiệp định TPP
Việc gia nhập Hiệp định đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) là cơ hội lớn
cho ngành thương mại Việt Nam, trong đó các doanh nghiệp dệt may sẽ có điều kiện thúc
đẩy xuất khẩu và gỡ bỏ hàng rào thuế vốn rất nặng nề như hiện nay. Ngoài ra, TPP còn
mang đến cú huých lớn và mang đến động lực quan trọng cho sự phát triển của dệt may
Việt Nam, góp phần đưa dệt may Việt Nam lên tầm cao hơn trong tương lai.
Ngành dệt may Việt Nam có thị trường xuất khẩu lớn là Nhật Bản và Hoa Kì đây cũng là
2 nước thành viên của TPP. Trong năm 2013 tuy các nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may
trên thế giới giảm nhưng nước ta vẫn xuất khẩu được 9,2% vào Hoa Kì và 19,3% vào
Nhật Bản. Những tín hiệu tăng trưởng khả quan nêu trên đã khẳng định vị thế cạnh tranh
11
của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới, đặc biệt là Hoa Kì và Nhật Bản….
Kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may nước ta sẽ tiếp tục gia tăng vào hai nước thành
viên TPP này sau khi TPP được kí kết và có hiệu lực. Phó chủ tịch hiệp hội dệt may Việt
Nam(Vitas) người trực tiếp tham gia đoàn đàm phán của Việt Nam cho biết : “ Hiệp định
TPP nếu được kí kết sẽ là cú hích mới cho các doanh nghiệp dệt may phát triển cả về số
lượng lẫn chất lượng. Số lượng ở đây hàm ý quy mô sản xuất và xuất khẩu, còn chất
lượng là sự hoàn thiện hơn trong hệ thống sản xuất kinh doanh, cải thiện giá trị gia tăng
của sản phẩm dệt may Việt Nam”.
Khi hiệp định TPP có hiệu lực thì về cơ bản, các loại hàng hóa xuất, nhập khẩu của các
nước thành viên TPP sẽ được ưu đãi thuế quan, trong dài hạn thuế quan có khả năng về
mức 0%.Hiện nay, mức thuế suất trung bình của 1000 dòng thuế nhập khẩu sản phẩm dệt
may của Việt Nam vào Mỹ ở mức 17%, trong đó nhiều dòng sản phẩm phải chịu mức
thuế cao trên 30% nếu được giảm hoặc miễn thuế 0% thì dệt may Việt Nam sẽ có lợi thế
cạnh tranh rất lớn trước các nước xuất khẩu khác trong khu vực như Trung Quốc, Băng-
la-đét…, những nước xuất khẩu dệt may hàng đầu thế giới nhưng không phải là thành
viên TPP. Theo tính toán của các chuyên gia, nếu gia nhập thị trường TPP ngành dệt may
Việt Nam sẽ tăng gấp ba kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Mỹ, tức từ 8,6 tỷ USD năm
2013 sẽ tăng lên khoảng hơn 20 tỷ USD trước năm 2020.

Lợi thế của dệt may Việt Nam trước ngưỡng cửa TPP đó là ngoài sự đồng lòng của các
doanh nghiệp trong nước, Việt Nam còn nhận được hỗ trợ rất lớn từ phía Hiệp hội nhà
nhập khẩu và người tiêu dùng Hoa Kỳ. Bởi khi gia nhập TPP Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ
chung khối, lúc đó bản thân người tiêu dùng Hoa Kỳ sẽ được lợi khi hàng dệt may Việt
Nam nhập khẩu vào Hoa Kỳ được hưởng thuế suất ưu đãi, điều đó có nghĩa là người tiêu
dùng Hoa Kỳ sẽ được dùng hàng dệt may Việt Nam với giá rẻ hơn.
Điều kiện được đưa ra khi Việt Nam gia nhập TPP ở đây là các doanh nghiệp Việt Nam
phải chứng minh lô hàng xuất khẩu có xuất xứ nguyên liệu, phụ liệu từ sợi trở đi được sản
xuất tại Việt Nam hoặc tại các nước thành viên TPP. Hiện nay đang có làn sóng đầu tư
vào Việt Nam để sản xuất sợi vải, chỉ may công nghiệp phụ liệu cho ngành dệt may nhằm
hưởng ưu đãi thuế, đây cũng là cơ hội để ngành dệt may nước ta tranh thủ phát triển sản
xuất nguyên, phụ liệu vải, chỉ may công nghiệp trong nước.Đánh giá về cơ hội đối với các
doanh nghiệp dệt may Việt Nam theo nghiên cứu của Vitas nếu TPP góp phần thúc đẩy
tốt vào đầu tư nguyên liệu thì các chỉ tiêu về xuất siêu, giá trị gia tăng, tỉ lệ nội địa hóa
của ngành đều được nâng cao. Dự kiến ngành sẽ sớm đạt được mục tiêu tỉ lệ nội địa hóa
12
60% năm 2015 và 70% vào năm 2020.
Việc Việt Nam tham gia Hiệp định TPP đang tạo sức hút lớn đối với các doanh nghiệp
FDI thuộc các lĩnh vực dệt, nhuộm, nguyên phụ liệu đầu tư vào Việt Nam. Hiện nay, các
công ty Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc đang đầu tư vào sản xuất sợi tại Việt Nam
như : Tập đoàn dệt may TexHong (Hong Kong) đã khánh thành giai đoạn đầu tiên của
nhà máy sợi thứ 4 với vốn đầu tư 300 triệu USD; Công ty Kyungbang( 100% vốn Hàn
Quốc) khởi công xây dựng nhà máy dệt 40 triệu USD tại Bình Dương và Vinatex khởi
công xây dựng nhà máy VINATEX Kiên Giang(150 tỷ đồng) vào đầu năm 2014 ngoài ra
còn rất nhiều các nhà đầu tư trong nước đang chuẩn bị đầu tư vào công nghiệp phụ liệu
cho ngành dệt may.
2. Thách thức của Việt Nam khi TPP thành công:
2.1.Cấu trúc ngành có vấn đề : chuỗi cung ứng khiếm khuyết, nguyên liệu quá phụ
thuộc nhập khẩu, tăng cường chuỗi cung ứng trong nước, đòi hỏi đầu tư vào dệt và nhuộm
và có vấn đề về môi trường.

Doanh Nghiệp dệt may Việt Nam muốn tận dụng hiệu quả cao nhất TPP thì phải hình
thành chuỗi cung ứng bên trong, có sự liên kết hữu cơ giữa các khâu.
Tính trong năm 2013, ước đạt nhập khẩu bông là 590 nghìn tấn, trị giá 1189 triệu USD;
nhập khẩu xơ, sợi nguyên liệu đạt 692 nghìn tấn, trị giá 1514 triệu USD; Nhập khẩu vải
đạt 8405 triệu USD. Các nhóm hàng này chủ yếu được nhập từ thị trường Trung Quốc,
Hàn Quốc và Đài Loan, Hoa Kỳ, ƒn Độ…Điều này cho thấy các doanh nghiệp ngành dệt
may chưa thực sự chủ động được về nguồn cung ứng nguyên liệu để đáp ứng nhu cầu sản
xuất, làm giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường
 Để đưa sản phẩm của Doanh Nghiệp vào thị trường các nước thành viên TPP
thì Doanh nghiệp phải tìm nguồn cung ứng nguyên, phụ liệu trong nước, từ các
nước trong TPP cũng như tìm nguồn liên kết chuỗi cung ứng.
Nếu cứ để tình trạng bị động nguyên liệu thì ngành dệt may sẽ dần đuối sức cạnh
tranh. Trong 5.982 doanh nghiệp (DN) dệt may, tỷ lệ doanh nghiệp sản xuất nguyên phụ
liệu chỉ chiếm 0,7%; xơ sợi tổng hợp là 0,1%; bông 0,2%; sợi chỉ 4,3%; nhuộm hoàn tất
3%. Tình trạng bị động về nguyên liệu khiến DN dệt may Việt Nam đuối sức cạnh tranh
trên thị trường thế giới.
2.2. Nguyên liệu dệt may và môi trường :
Trên thực tế, Việt Nam là quốc gia có lợi thế rất lớn về diện tích trồng cây lanh hoặc cây
bông nhưng lại chưa khai thác được do sự thiếu quan tâm của Nhà nước khi quy hoạch
13
đất đai cũng như các chính sách phát triển nông nghiệp đặc biệt là nông nghiệp phục vụ
cho công nghiệp.
 Cần có sự liên kết giữa Nhà nước, doanh nghiệp và nông dân trong việc hình
thành vùng nguyên liệu trong nước giúp ổn định đầu vào cho nhà sản xuất và
đồng thời ổn định đầu ra cho các sản phẩm nông nghiệp liên quan.
2.3. Quy tắc xuất xứ có thể hạn chế tác động tích cực tiềm năng ở mức đáng kể
- Các doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với nguyên tắc xuất xứ tính từ sợi (yarn-forward), tức
sợi để dệt phải được sản xuất tại Việt Nam hoặc các nước thành viên TPP từ bông nội
vùng, nếu nguyê tắc này được áp dụng thì việc nhập khẩu nguyên liệu sẽ ảnh hưởng rất
lớn tới lợi ích của các doanh nghiệp.

- Các nước thành viên FTA có xu hướng đặt ra các tiêu chí xuất xứ khắt khe hơn với các
mặt hàng phải cạnh tranh với hàng nhập khẩu để bảo hộ sản xuất trong nước. Vì vậy mà
ngành dệt may lại thêm 1 thách thức trên con đường xuất khẩu ra nước ngoài.
2.4. Giá trị gia tăng thấp :
+ 25% doanh thu xuất khẩu.
+ Chuỗi giá trị toàn cầu ngành dệt may bao gồm các khâu: Sản xuất nguyên liệu; sản xuất
sản phẩm cuối cùng, nghiên cứu thiết kế, marketing và phân phối, trong đó khâu sản xuất
sản phẩm cuối cùng là khâu tạo ra giá trị gia tăng thấp nhất (chỉ chiếm 5 – 10% tỷ suất lợi
nhuận)
+ 70% doanh nghiệp sản xuất theo hình thức gia công cho các doanh nghiệp nước ngoài,
tức là chỉ tham gia vào khâu sản xuất sản phẩm cuối cùng.
 Để vươn lên vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị cần đòi hỏi đầu tư lớn về cả công
nghệ và nhân lực
2.5. Năng suất lao động thấp đẩy giá thành lên cao :
So với các quốc gia khác, năng suất lao động khu vực sản xuất của Việt Nam rất thấp. Chỉ
số năng suất lao động khu vực sản xuất của Việt Nam chỉ đạt 2,4; trong khi các quốc gia
sản xuất dệt may lớn khác như Trung Quốc, Indonesia là 6,9 và 5,2. Đây là một trong
những điểm yếu lớn nhất của dệt may nói riêng và các ngành công ngành sản xuất thâm
dụng lao động nói chung của nước ta.
14
C. GIẢI PHÁP CHO NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM KHI GIA NHẬP TPP
1.Giải pháp chiến lược ngành dệt may.
1.1.Giải pháp về đầu tư
-Khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước đầu tư phát triển ngành dệt
may để phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
-Xây dựng các dự án đầu tư trong lĩnh vực dệt, nhuộm, sản xuất nguyên liệu bông xơ và
sợi nhân tạo, sản xuất nguyên phụ liệu, để kêu gọi các nhà đầu tư trong nước và nước
ngoài. Trong đó ưu tiên các dự án sản xuất vải dệt thoi phục vụ cho sản xuất hàng may
mặc xuất khẩu.
-Xây dựng các khu công nghiệp chuyên ngành Dệt May có đủ điều kiện hạ tầng cung cấp

điện, cấp nước, xử lý nước thải, đảm bảo các yêu cầu về môi trường và lao động có khả
năng đào tạo.
-Phối hợp với các địa phương đầu tư phát triển cây bông, trong đó chú trọng xây dựng
vùng bông có tưới, từng bước đáp ứng nhu cầu bông cho ngành dệt, sợi.
1.2.Giải pháp phát triển nguồn nhân lực.
- Mở các lớp đào tạo cán bộ quản lý kinh tế - kỹ thuật, cán bộ pháp chế, cán bộ bán hàng
15
chuyên ngành Dệt May, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề của các dự án dệt,
nhuộm trọng điểm.
- Liên kết với các tổ chức quốc tế để học hỏi kinh nghiệm.
- Củng cố, mở rộng hệ thống đào tạo chuyên ngành Dệt may.
1.3. Gỉai pháp về khoa học công nghệ
-Nghiên cứu áp dụng các công nghệ mới, các nguyên liệu mới để tạo ra các sản phẩm dệt
có tính năng khác biệt, triển khai các chương trình sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng
lượng, áp dụng các phần mềm trong thiết kế, quản lý sản xuất và chất lượng sản phẩm Dệt
May.
-Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật sản phẩm dệt may phù hợp và hài hòa
với pháp luật về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và thông lệ quốc tế. Hỗ trợ nâng cấp các
trung tâm giám định, kiểm tra chất lượng sản phẩm Dệt May, hỗ trợ cho các doanh nghiệp
Dệt May trong quản lý chất lượng và khắc phục các rào cản kỹ thuật.
-Tổ chức lại các Viện nghiên cứu chuyên ngành dệt may theo hướng tự chủ, tự chịu trách
nhiệm.
-Xây dựng phòng thí nghiệm sinh thái Dệt May, cơ sở dữ liệu về ngành Dệt May, nâng
cao chất lượng của trang thông tin điện tử.
-Nghiên cứu xây dựng các chính sách khuyến khích thúc đẩy chuyển giao công nghệ
trong ngành Dệt May.
1.4 Giải pháp về thị trường.
-Tập trung mọi khả năng và cơ hội đàm phán mở rộng thị trường Dệt May trên thị trường
quốc tế.
-Cải cách các thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan, xuất nhập khẩu theo

hướng thực hiện cơ chế một dấu, một cửa, đơn giản hóa các thủ tục.
-Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống buôn lậu, trốn thuế, gian lận
thương mại.
-Tăng cường công tác tư vấn pháp luật thương mại quốc tế. Chuẩn bị kỹ việc chống các
rào cản kỹ thuật mới của các nước nhập khẩu cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
-Tổ chức mạng lưới bán lẻ trong nước, đổi mới phương thức tiếp thị xuất khẩu, đồng thời
quan tâm đến việc xây dựng, quảng bá thương hiệu sản phẩm, xây dựng hình ảnh của
16
ngành Dệt May Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế.
-Bố trí đủ cán bộ pháp chế cho các doanh nghiệp trong ngành để tham gia soạn thảo, đàm
phán và giải quyết các tranh chấp hợp đồng, nhất là hợp đồng thương mại quốc tế.
1.5. Giải pháp về cung ứng nguyên phụ liệu
-Xây dựng các doanh nghiệp kinh doanh nguyên phụ liệu tập trung nhằm đáp ứng được
nhu cầu nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp với chất lượng cao và giá nhập khẩu hợp
lý.
1.6 Giải pháp về tài chính
- Vốn cho đầu tư phát triển:
+huy động vốn từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước thông qua các hình thức
hợp tác kinh doanh, công ty liên doanh, công ty liên kết, cổ phần hóa các doanh nghiệp,
doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài.Khuyến kích doanh ngiệp huy động vốn
qua thị trường chứng khoán,vay thương mại.
-Vốn cho hoạt động nghiên cứu,đào tạo nguồn nhân lực,xử lí môi trường.
+ Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí trích từ ngân sách nhà nước.
+Nhà nước cho doanh nghiệp dệt may được vay vốn tín dụng nhà nước, vốn ODA và vốn
của quỹ môi trường để thực hiện các dự án xử lý môi trường.
PHẦN III. ĐÁNH GIÁ CỦA NHÓM VỀ TÁC ĐỘNG CỦA TPP ĐẾN VỚI NGÀNH
DỆT MAY VIỆT NAM.
Ngay sau khi Việt Nam nhận được thư mời gia nhập TPP , Việt Nam đã lấy ý kiến từ các
chuyên gia kinh tế từ mọi nơi và các doanh ngiệp trong nước và nhận được phản hồi 99%
người đồng ý nên gia nhập TPP nhưng phải hết sức thận trọng. 13/11/2010, Việt Nam

tuyên bố tham gia như thành viên đầy đủ của TPP. Như vậy, TPP là một hiệp định thương
mai quốc tế có tầm quan trọng hơn bất cứ một hiệp định thương mại nào mà Việt Nam đã
từng kí kết. Đặc biệt trong 3 bối cảnh của nền kinh tế Việt Nam hiện nay: 1. Nền kinh tế
Việt Nam đang nhiều bất ổn cần có sự cải cách thể chế hợp lí, tham gia TPP sẽ thúc đẩy
nhanh quá trình cải cách tốt. 2. Ngành dệt may Việt Nam là ngành xuất khẩu mũi nhọn
của nước ta. 3. Việt Nam đang ngày càng khẳng định mình là một nước có nền kinh tế thị
trường.
1. Trước tình hình hiện nay , khi kí kết thành công TPP với những mục tiêu đã đặt ra, cái
lợi cũng có mà cái hại cũng có nhưng với điều kiện trong các nước gia nhập TPP thì chỉ
17
có Việt Nam là nước đang phát triển nên sẽ có những ưu đãi đặc biệt cho Việt Nam để có
thể vừa hôi nhập vừa có cơ hội mà cũng đảm bảo cho quá trình phát triển nền kinh tế.
Tóm lại, cơ hội để ngành dệt may Việt Nam có những cải cách tiến bộ để thay dổi bộ mặt
cho ngành dệt may trở thành một ngành có chất lượng có uy tín và có chất lượng công
nghệ và trí tuệ cao, để có thể cạnh tranh với không những hàng quốc tế trên thế giới mà
còn ngay trên thị trường nôi địa, giúp đẩy mạnh kinh tế thay đổi bộ mặt Việt Nam trên
trường quốc tế.
Cơ hội:
- Việt Nam là nhà xuất khẩu ngành dệt may lớn thứ ba vào thị trường Mỹ.
- Các thành viên Mexico và Peru người có FTA với Mỹ ủng hộ quy tắc xuất xứ hạn chế
để ngăn chặn cạnh tranh từ Malaysia và Việt Nam.
- TPP có thể chuyển hướng thương mại mạnh vì thay thế một phần xuất khẩu từ Trung
Quốc.
2. Như vậy đứng trước tình hình cơ hội cho Việt Nam có thể chuyển hướng thương mại
mạnh thì những gì đang kéo Việt Nam vẫn sẽ chững lại và lại bỏ lỡ những cơ hội phát
triển như những lần trước là một vấn đề cần cải thiện ngay để khi đàm phán thành công
TPP, Việt Nam có thể tự tin đáp ứng mọi đơn hàng:
- Cấu trúc ngành có vấn đề : Khiếm khuyết chuỗi cung ứng dẫn đến phụ thuộc quá nhiều
vào nguyên liệu nhập khẩu.
- Tăng cường chuỗi cung ứng trong nước đòi hỏi dệt và nhuộm, vốn lớn và có vấn đề môi

trường.
- Quy tắc xuất xứ FTA hạn chế tác động tích cực tiềm năng một cách đáng kể.
- Giá trị gia tăng thấp nhưng để chuyển lên vị trí cao hơn thì cần khoản đầu tư lớn về
nguồn công nghệ và nhân lực.
- Năng suất lao động thấp đòi hỏi đẩy giá thành cao.
3. Như vậy, khi gia nhập TPP lợi ích tiềm năng rất lớn nhưng chi phí và rủi rp cũng rất
lớn. Đặc biệt lợi ích có xu hương dồn vào một số ngành. Vậy chúng ta cần phải làm gì?
- Việt Nam cần có cách tiếp cận mở cửa hơn hơn là cách đàm phán phòng thử khi kí kết
TPP.
- Tái cấu trúc ngành để hoàn thiện chuỗi cung ứng là sống còn không chỉ đáp ứng cho nhu
cầu tham gia TPP mà còn phát triển bền vững nâng cao năng lực cạnh tranh.
- Điều này cần vốn lớn và tính chất môi trường cao (đòi hỏi công nghệ xử lí chất thải)
nhưng đứng trước tình hình nợ công nợ xấu ngày càng gia tăng thì điều này có thể coi là
18
rất khó khăn.
- Thúc đẩy mối liên kết giữa các doanh nghiệp trong chuỗi giá trị thông qua phát triển các
cụm dệt may.
- Vai trò của nhà nước: tạo môi trường thuận lợi để hội nhập, chính sách giáo dục nâng
cao trình độ ý thức và năng suất lao động của nguồn nhân lực,cân nhắc tỉ giá hối đoái có
lợi cho xuất khẩu.
19

×