ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
_____________________________
NGUYỄN THỊ THỊNH
ĐỊNH KIẾN GIỚI VỀ TÍNH CÁCH NỮ NÔNG DÂN
KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số đào tạo thí điểm
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÝ HỌC
Hà Nội - 2015
Công trình khoa học được hoàn thành tại:
1
Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn
Đại học Quốc gia Hà Nội
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Vũ Dũng
Giới thiệu 1:…………………………………………………………
Giới thiệu 2:…………………………………………………………
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận án cấp cơ sở, họp
tại …………………………………………………………………
Vào hồi:… giờ, ngày… tháng… năm 2015
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội
MỞ ĐẦU
2
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
- ĐKG đối với người PN gây ra những trở ngại đối với sự
phát triển PN và đối với sự tiến bộ của xã hội
- Trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc, Nho giáo được coi là hệ
tư tưởng chính thống của chế độ phong kiến Việt Nam. Nho giáo là
một học thuyết chứa đựng nhiều tư tưởng ĐKG. Điều này khiến
ĐKG ở nước ta tồn tại sâu bền cội rễ qua nhiều thế hệ.
- Người nữ nông dân là những người ít được đào tạo. Đại đa
số họ là những người PN nghèo. Chính vì vậy, những ĐKG đối với
họ có thể trở nên gay gắt hơn.
Với cách tiếp cận như trên, chúng tôi chọn đề tài: “Định kiến
giới về tính cách nữ nông dân khu vực Đồng bằng Sông Hồng”
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu lý luận và thực trạng, phân tích các yếu tố ảnh
hưởng đến định kiến giới về tính cách người nữ nông dân ở khu vực
Đồng bằng Sông Hồng. Trên cơ sở đó, đề xuất những kiến nghị góp
phần hạn chế, giảm thiểu những tác động tiêu cực của những định
kiến này.
3. ĐỐI TƯỢNG, KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu những biểu hiện, mức độ, các yếu tố duy trì định
kiến giới về tính cách người nữ nông dân ở khu vực Đồng bằng Sông
Hồng.
3
3.2. Khách thể nghiên cứu
Tổng số khách thể nghiên cứu là 656 người dân sống ở nông
thôn Đồng bằng Sông Hồng.
4. GIẢ THIẾT NGHIÊN CỨU
4.1. Hiện nay tồn tại những định kiến giới về tính cách người
nữ nông dân trên cả 3 mặt: nhận thức, xúc cảm và hành vi. Trong đó,
ĐKG thể hiện ở mặt nhận thức là thấp nhất, ở mặt hành vi là cao
nhất. ĐKG có xu hướng cao hơn ở nhóm những người nam giới,
những người có trình độ học vấn thấp hơn, và những người cao tuổi
hơn.
4.2. Sự tồn tại những tư tưởng phong kiến về người PN, sự tự
phân biệt đối xử với chính mình của người nữ nông dân, sự duy trì
những ĐKG trên các phương tiện truyền thông, dư luận xã hội,
những nhận thức còn mang đậm tư tưởng phong kiến của người nam
nông dân, và việc người nữ nông dân ít được tạo điều kiện phát triển
là những nguyên nhân duy trì những định kiến giới về tính cách
người nữ nông dân.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
5.1. Hệ thống hoá một số vấn đề lí luận cơ bản về định kiến
giới, định kiến giới về tính cách người nữ nông dân.
5.2. Khảo sát và phân tích thực trạng, các yếu tố duy trì định
kiến giới về tính cách người nữ nông dân khu vực Đồng bằng Sông
Hồng.
4
5.3. Đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm hạn chế định
kiến giới.
6. GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU
6.1. Giới hạn về nội dung
ĐKG về tính cách người nữ nông dân được nghiên cứu trên 3
mặt: nhận thức, xúc cảm và hành vi. Đồng thời chúng tôi phân tích
các yếu tố duy trì những định kiến giới đó.
6.1. Giới hạn về khách thể, địa bàn nghiên cứu
- Về khách thể: Chỉ nghiên cứu những người đã có gia đình
- Về địa bàn: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu ở nông thôn 3
tỉnh: Ninh Bình, Thái Bình, Hà Nam.
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận án đã sử dụng kết hợp 7 phương pháp nghiên cứu.
8. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
- Về lý luận: Đề tài đã hệ thống hoá một số vấn đề lý luận có
liên quan đến nội dung nghiên cứu
- Về thực tiễn: Đề tài đã chỉ ra ĐKG về tính cách người nữ
nông dân hiện nay tồn tại trên cả 3 mặt: nhận thức, xúc cảm, hành vi.
Nhưng định kiến thể hiện ít hơn ở mặt nhận thức, nhiều hơn ở mặt
xúc cảm và hành vi. Điều này càng làm rõ hơn những biểu hiện tinh
vi, ngầm ẩn của ĐKG. Nghiên cứu này có thể gợi ý cho những
5
nghiên cứu tiếp theo về định kiến nói chung khai thác tốt hơn những
biểu hiện đa dạng của định kiến trong thực tế.
- Đề tài đã đề xuất một số kiến nghị nhằm hạn chế ĐKG.
- Đề tài là một tài liệu tham khảo hữu ích cho những người
giảng dạy, nghiên cứu về giới; những người làm công tác về phụ nữ,
công tác giới.bình đẳng giới.
9. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, tài liệu tham khảo,
danh mục các công trình đã công bố, phụ lục, luận án gồm 4 chương.
Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
6
1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU ĐỊNH KIẾN GIỚI Ở NƯỚC NGOÀI
1.1.1. Một số lý thuyết cơ bản lý giải về nguồn gốc hình
thành định kiến giới
1.1.2. Nghiên cứu định kiến giới về tính cách người phụ nữ
2.1.3. Sự tồn tại những định kiến giới một cách tinh vi
1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU ĐỊNH KIẾN GIỚI Ở TRONG NƯỚC
1.2.1. Những nghiên cứu lý luận về định kiến giới
1.2.2. Nghiên cứu định kiến giới về tính cách người phụ nữ
(trong lãnh đạo, quản lý; trên các phương tiện truyền thông và ấn
phẩm)
1.2.3. Những nghiên cứu đề cập đến định kiến giới với người
phụ nữ nông thôn.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU ĐỊNH KIẾN GIỚI VỀ
TÍNH CÁCH NGƯỜI NỮ NÔNG DÂN
7
2.1. ĐỊNH KIẾN GIỚI
Trên cơ sở phân tích những định nghĩa của các tác giả, trong
nghiên cứu của mình, chúng tôi đề nghị cách hiểu khái niệm về định
kiến giới, định kiến giới đối với người phụ nữ như sau:
Định kiến giới là thái độ mang tính định trước, tiêu cực, bất
hợp lý về phẩm chất, vị trí, vai trò của nam giới và phụ nữ.
Định kiến giới đối với người phụ nữ là thái độ mang tính
định trước, tiêu cực, bất hợp lý về phẩm chất, vị trí, vai trò của phụ
nữ xét trong tương quan với nam giới.
2.2. ĐỊNH KIẾN GIỚI VỀ TÍNH CÁCH NGƯỜI NỮ NÔNG DÂN
Định kiến giới về tính cách người nữ nông dân là thái độ
mang tính định trước, tiêu cực, bất hợp lý khi đánh giá tính cách của
họ trong mối quan hệ với tập thể - xã hội, với mọi người, trong lao
động và đối với bản thân xét trong tương quan với nam giới.
2.3. NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA ĐỊNH KIẾN GIỚI VỀ TÍNH
CÁCH NGƯỜI NỮ NÔNG DÂN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG
HỒNG
2.3 1. Định kiến giới biểu hiện ở mặt nhận thức
Thể hiện qua các quan niệm, đánh giá tính cách người nữ
nông dân mang tính định trước, tính tiêu cực, bất hợp lý trong mối
quan hệ với mọi người, với bản thân và trong lao động
8
2.3.2.2. Định kiến giới biểu hiện ở mặt cảm xúc.
Thể hiện qua những trải nghiệm cảm xúc tích cực hoặc tiêu
cực trong các tình huống người nữ nông dân thể hiện nét tính cách
tuân theo hoặc không tuân theo các khuôn mẫu giới truyền thống.
2.3.2.3. Định kiến giới biểu hiện ở mặt hành vi
a. Trong gia đình: Thể hiện ở những hành vi ứng xử trong mối quan
hệ vợ chồng, quyền ra các quyết định gia đình, quyền kiểm soát và sở
hữu các tài sản gia đình, sự phân công công việc trong gia đình.
b. Trong cộng đồng: Thể hiện ở việc phân công các công việc trong
cộng đồng liên quan đến: quyền lãnh đạo, ra các quyết định trong
cộng đồng.
c. Tự phân biệt đối xử với chính mình của người nữ nông dân
2.4. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐỊNH KIẾN GIỚI VỀ
TÍNH CÁCH NGƯỜI NỮ NÔNG DÂN VÙNG ĐỒNG BẰNG
SÔNG HỒNG.
2.4.1. Người nữ nông dân tự định kiến giới với chính mình
2.4.2. Tư tưởng phong kiến về người phụ nữ
2.4.3. Những yếu tố khác: nhận thức của nam giới, hoạt động truyền
thông và dư luận xã hội.
CHƯƠNG 3
TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
9
3.1. NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN
Nhằm tổng quan vấn đề nghiên cứu, hệ thống hóa một số vấn
đề lý luận cơ bản có liên quan đến ĐKG về tính cách người nữ nông
dân, xây dựng khung lý thuyết của luận án để triển khai nghiên cứu
vấn đề trong thực tiễn.
Để nghiên cứu lý luận, chúng tôi tiến hành phương pháp
nghiên cứu văn bản, tài liệu và phương pháp chuyên gia
3.2. NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN
Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
3.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
a. Mục đích: Khảo sát thực trạng những ĐKG về tính cách người nữ
nông dân vùng ĐBSH hiện nay, tìm hiểu các nguyên nhân duy trì
những định kiến giới đó, từ đó đưa ra những kết luận của nghiên cứu.
b. Các bước tiến hành phương pháp điều tra.
* Thiết kế bảng hỏi.
* Giai đoạn điều tra thử, chuẩn hóa bảng hỏi.
* Giai đoạn điều tra chính thức.
Chúng tôi tiến hành chọn điều tra các xã thuộc 3 tỉnh: Xã Gia
Phú, huyện Gia Viễn, Tỉnh Ninh Bình; Xã Dân Chủ, Huyện Hưng Hà
và 2 xã ven Thành phố Thái Bình (Xã Vũ Phúc, xã Đông Thọ), Tỉnh
Thái Bình; Xã Châu Sơn, huyện Duy Tiên, Tỉnh Hà Nam. Số phiếu
10
được chúng tôi sử dụng để xử lý và phân tích dữ liệu cho luận án là
504 phiếu
3.2.2. Phương pháp phỏng vấn
Nhằm thu thập thông tin, làm rõ hơn thực trạng, những yếu
tố duy trì ĐKG về tính cách người nữ nông dân khu vực ĐBSH
3.2.3. Phương pháp thảo luận nhóm
Nhằm xem xét, đánh giá mối quan hệ giữa sự đóng góp thực
tế của người nữ nông dân với mức độ ĐKG về họ.
3.2.4. Phương pháp nghiên cứu chân dung tâm lý
Làm rõ thêm thực trạng ĐKG về tính cách người nữ nông
dân qua chân dung các trường hợp điển hình với những biểu hiện
ĐKG cụ thể ở từng người qua các mặt: nhận thức, xúc cảm, hành vi.
3.2.5. Các phương pháp phân tích kết quả nghiên cứu
3.2.5.1.Phương pháp phân tích định tính.
3.3.6.2. PP phân tích định lượng (bằng PP thống kê toán học)
Sử dụng các phép thống kê mô tả và thống kê suy luận nhằm
tính toán tỷ lệ %, giá trị trung bình (mean), trung vị (M
o
), độ lệch
chuẩn (SD), của những biểu hiện ĐKG, tìm hiểu các mối tương
quan đồng thời, nhân- quả giữa mặt, các yếu tố duy trì những ĐKG
về tính cách người nữ nông dân, so sánh sự khác nhau về mức độ
ĐKG về tính cách người nữ nông dân khu vực ĐBSH theo: Giới tính,
độ tuổi, theo khu vực, trình độ học vấn,
11
3.4.2. Thang điểm đánh giá mức độ định kiến giới
Chúng tôi tiến hành đánh giá mức độ ĐKG trên các thang đo
bậc 4. Điểm của thang đo và từng item được tính ra điểm trung bình
(Mean). Mức độ ĐKG trên thang đo trong đề tài được tính dựa trên
phân bố chuẩn của mẫu nghiên cứu, điểm trung bình (Mean) và độ
lệch chuẩn (SD) của toàn thang đo. Cụ thể như sau:
- Các giá trị trong khoảng Mean ± 1SD là nằm ở
mức ĐKG ở mức trung bình.
- Các giá trị nằm trên khoảng Mean + 1SD: là nằm ở
mức điểm ĐKG cao
- Các giá trị nằm ở dưới khoảng Mean - 1SD: là nằm
ở mức điểm ĐKG thấp
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
THỰC TRẠNG ĐỊNH KIẾN GIỚI VỀ TÍNH CÁCH NGƯỜI NỮ
NÔNG DÂN KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY
12
4.1. Đánh giá chung thực trạng định kiến giới về tính cách người
nữ nông dân vùng Đồng bằng Sông Hồng
Bảng 4.1: Đánh giá chung thực trạng định kiến giới về tính cách
người nữ nông dân
TT Biểu hiện
định kiến
giới
ĐTB ĐLC Trung
vị (Mo)
Độ
nghiêng
Thứ
bậc
1 Mặt nhận
thức
0.96 0.43 0.91 3
2 Mặt cảm
xúc
1.45 0.54 1.5 2
3 Mặt hành vi 1.69 0.32 1.65 1
ĐKG chung ở 3
mặt
1.37 0.31 1.34 0.34
(Ghi chú: ĐTB càng cao càng mang nhiều định kiến giới)
- Định kiến giới về tính cách người nữ nông dân khu vực ĐBSH
hiện nay đang ở mức trung bình với ĐTB = 1.37. Trong 3 mặt biểu
hiện thì định kiến giới về tính cách người nữ nông dân biểu hiện ở
mặt hành vi là cao nhất và ở mức khá nhiều ĐKG (với 1.69 điểm),
mặt cảm xúc (xếp thứ 2), mặt nhận thức (xếp thứ 3). Như vậy, chưa
có sự tương xứng giữa mức độ ĐKG ở mặt nhận thức và ĐKG ở mặt
hành vi.
13
- Khi so sánh sự khác biệt về mức độ ĐKG nói chung theo các biến
số, ta có kết quả sau: Nhóm nam giới có mức độ định kiến giới nhiều
hơn nhóm phụ nữ tự định kiến về mình (với p = 0.000, mức khác biệt
0.130); nhóm những người có trình độ học vấn cao và những người
không làm nghề nông nghiệp có mức độ định kiến giới thấp hơn so
với nhóm những người có trình độ học vấn thấp và những người làm
nghề nông nghiệp (với p = 0.000, và p =0.04, mức khác biệt là 0.115
và 0.17); Nhóm những người nông dân ở Thái Bình có mức độ định
kiến giới về tính cách người nữ nông dân cao hơn nhóm những người
trả lời ở Ninh Bình và Hà Nam (với p = 0.03, mức khác biệt là 0.014,
và 0.095)
Như vậy, các yếu tố giới tính, trình độ học vấn, nghề nghiệp và
tỉnh là các biến số ảnh hưởng có ý nghĩa đến sự khác biệt về mức độ
định kiến giới đối với tính cách người nữ nông dân khu vực Đồng
bằng Sông Hồng.
3.2. Các mặt biểu hiện cụ thể của định kiến giới về tính cách
người nữ nông dân khu vực Đồng bằng Sông Hồng.
3.2.1. Định kiến giới về tính cách người nữ nông dân thể hiện ở
mặt nhận thức
Với ĐTB = 0.96, độ lệch chuẩn là 0.43, nghĩa là các câu trả
lời chủ yếu rơi vào điểm dao động từ 0.53 - 1.39. Như vậy, về mặt
nhận thức định kiến giới đối với tính cách người nông dân ở mức
thấp (dưới trung bình).
Bảng 4.3: Định kiến giới về tính cách người nữ nông dân vùng
ĐBSH thể hiện ở mặt nhận thức
14
TT Đánh giá về tính
cách người nữ
nông dân trong
các mối quan hệ
ĐTB ĐLC
(SD)
Trung
vị
Độ
nghiêng
Thứ
bậc
1 Trong mối quan hệ
với người khác
0.91 0.53 0.86 0.27 3
2 Trong mối quan hệ
với bản thân
1.07 0.82 1.0 0.77 1
3 Trong lao động 1.01 0.65 0.89 0.85 2
Định kiến giới ở mặt nhận
thức
0.96 0.43 0.91 0.74
(Ghi chú: ĐTB càng cao càng mang nhiều định kiến giới)
Xét trong các mối quan hệ ta thấy: Người nữ nông dân bị
định kiến giới nhiều nhất liên quan đến những tính cách trong mối
quan hệ với bản thân (xếp thứ 1), trong lao động (xếp thứ 2), trong
mối quan hệ với người khác (xếp thứ 3). Nghĩa là, họ bị đánh giá là
những người an phận, tự ty nhiều hơn. Định kiến giới về những tính
cách này có thể hạn chế sự phát triển năng lực của người phụ nữ
ngoài xã hội.
- Trong mối quan hệ với mọi người
Mặc dù người dân có xu hướng ủng hộ những đánh giá tích
cực về tính cách người nữ nông dân, nhưng khi đặt trong tương quan
với nam giới, người PN vẫn bị đánh giá là những người: yếu đuối,
15
phụ thuộc vào nam giới, là những người phục vụ trong gia đình, tuân
thủ nam giới, PN là người lệ thuộc vào kinh tế, tình cảm của người
chồng (nam giới)” (Với các mức ĐTB xếp thứ 1 đến thứ 5 trên thang
đo).
- Trong mối quan hệ với bản thân
Vẫn còn khoảng 1/2 số người dân vẫn đánh họ tuân theo
khuôn mẫu giới cho rằng: Phụ nữ là những người an phận. Nhưng
kết quả phỏng vấn sâu, chúng tôi nhận được ý kiến của người nữ và
nam nông dân cho rằng: “Hầu hết người PN nông thôn chỉ an phận
về người chồng, chứ họ không an phận trong công việc”
- Trong lao động
Hiện nay đại đa số người dân đánh giá cao về về nghị lực
vượt qua những khó khăn trong công việc của người PN, nhưng họ
vẫn bị cho là: do dự - thiếu quyết đoán, không lo được việc lớn, là
người thừa hành, tuân thủ,….còn nam giới thì có những tính cách ưu
việt ngược lại. ĐK này duy trì vai trò người thừa hành của nữ giới.
3.2.2. Những định kiến giới về tính cách người nữ nông dân vùng
Đồng Bằng Sông Hồng thể hiện ở mặt cảm xúc
Với số ĐTB = 1.45, trung vị là 1.5, độ lệch chuẩn SD là 0.54,
nghĩa là các câu trả lời trên mẫu nghiên cứu dao động chủ yếu ở mức
điểm 0.91 – 1.99. Con số này chỉ ra, ĐKG về tính cách người nữ
nông dân thể hiện ở mặt cảm xúc chủ yếu tập trung ở mức trung bình
và trên trung bình. Mức độ này cao hơn so với ĐKG thể hiện ở mặt
nhận thức
16
Chỉ có sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê giữa 2 nhóm
nam và nữ (với p = 0.036 <0.05), giữa các nhóm có trình độ học vấn
khác nhau (với p = 0.04 < 0.05), theo hướng: ở nam giới và ở những
người có trình độ học vấn thấp hơn có sự trải nghiệm ĐKG thể hiện ở
mặt cảm xúc nhiều hơn so với nhóm nam giới và nhóm người có
trình độ học vấn cao
3.2.3. Những định kiến giới về tính cách người nữ nông dân biểu
hiện ở mặt hành vi
3.2.3.1. Thực trạng chung ĐKG thể hiện ở mặt hành vi
ĐKG đối với người nữ nông dân thể hiện ở mặt hành vi là
cao nhất và ở mức khá nhiều ĐKG trên thang đo với ĐTB = 1.69.
Khi so sánh theo nhóm khác nhau về ĐKG thể hiện ở mặt
hành vi. Kết quả cho thấy:
- Có sự đồng tình trong câu trả lời giữa 2 nhóm nam và nữ về
những hành vi thể hiện ĐKG về tính cách người nữ nông dân trong
gia đình và cộng đồng (với mức ý nghĩa p = 0.314 >0.05).
- Xu hướng càng ở nhóm những người có trình độ học vấn
thấp có nhiều hành vi thể hiện ĐKG hơn so với nhóm người có trình
độ học vấn cao (với p = 0.001 < 0.05, mức khác biệt là: 0.284,
0.309).
- Những người trẻ tuổi lại càng có nhiều hành vi thể hiện
ĐKG đối với người nữ nông dân hơn so với nhóm những người cao
tuổi (với p = 0.001 < 0.05, mức khác biệt là: 0.19, 0.132).
17
3.2.3.2. Định kiến giới thể hiện ở mặt hành vi ứng xử với người nữ
nông dân trong gia đình, cộng đồng, và tự phân biệt đối xử của
người nữ nông dân.
a. Trong gia đình
- Trong mối quan hệ vợ chồng.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra ở nông thôn ĐBSH khá phổ biến
những hành vi mà người chồng ngụ ý mình là người bề trên, có
quyền với vợ, yêu cầu vợ phải phục vụ, nghe lời chồng, chịu sự chỉ
đạo của nam giới, trong khi nam giới vẫn giữ quyền lãnh đạo, quyết
định những việc quan trọng của gia đình.
- Về quyền kiểm soát, quản lý, sở hữu chính các tài sản
trong gia đình giữa nam và nữ (vợ và chồng)
Hiện nay trong cộng đồng nông thôn ĐBSH, các tài sản lớn,
có giá trị phần lớn đều thuộc về quyền kiểm soát, sở hữu của nam
giới (người chồng); còn những tài sản nhỏ, khoản tiền nhỏ chi tiêu
hàng ngày mới thuộc quyền kiểm soát, sở hữu của nữ giới (người
vợ).
- Về quyền ra quyết định các công việc trong gia đình
Mặc dù quyền quyết định các công việc gia đình giữa vợ và
chồng đã phần nào thể hiện tư tưởng bình đẳng vợ - chồng: có từ 2/3
đến 3/4 số người trả lời cho rằng những công việc này quyền quyết
định thuộc về cả vợ và chồng. Song quyền quyết định các công việc
gia đình vẫn mang màu sắc của khuôn mẫu giới: nam giới thì quyết
18
định những việc lớn trong gia đình, còn PN thì quyết định những việc
vốn được coi là “việc nhỏ” của gia đình
- Định kiến giới thể hiện thông qua việc phân công các công
việc trong gia đình
Việc thực hiện các công việc trong gia đình hiện nay ở nông
thôn ĐBSH thiên về người nữ nông dân đảm nhận nhiều hơn, đặc
biệt là đối với những công việc phục vụ, chăm sóc, nội trợ, dạy dỗ
con Trong số 21 đầu công việc mà chúng tôi đưa ra, chỉ có 4 công
việc vốn được coi là “việc nặng” thì do người nam nông dân đảm
nhận là chủ yếu. Sự phân công này thể hiện sự duy trì những ĐKG về
tính cách người nữ nông dân cho rằng: PN phù hợp với những công
việc chăm sóc, là người phục vụ, tuân thủ, còn nam giới phù hợp với
những công việc lớn, lãnh đạo, chỉ đạo.
b. Định kiến giới thể hiện qua sự phân công công việc trong cộng
đồng giữa người nam và nữ nông dân.
Việc lãnh đạo, ra quyết cho cộng đồng hiện nay vẫn thuộc
về người nam giới. Điều này thể hiện những quan niệm mang ĐKG:
Phụ nữ không đảm đương được các vai trò lãnh đạo và ra quyết định
cho cộng đồng.
c. Định kiến giới thể hiện thông qua hành vi tự phân biệt đối
xử với chính mình của người nữ nông dân
Vẫn tồn tại những hành vi tự phân biệt đối xử với chính mình
mang ĐKG về tính cách người nữ nông dân. Đại đa số người nữ
nông dân có những hành vi thể hiện sự nhẫn nhịn, hy sinh, chịu đựng,
19
những hành vi nói lên sự an phận, phụ thuộc vào chồng về mặt kinh
tế thì tỷ lệ rất ít người nữ nông dân thường xuyên thực hiện
3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và duy trì định kiến
giới về tính cách người nữ nông dân.
3.3.1. Yếu tố thuộc về chính bản thân người PN:
Hành vi tự ĐKG của người nữ nông dân là nguyên nhân tác
động khiến duy trì những ĐKG về tính cách của họ, với mức ý nghĩa
p = 0.000 < 0.05. Sự tác động này tuân theo phương trình hồi quy
sau: ĐKG về tính cách người nữ nông dân = 1.21 + 0.448* hành vi
thể hiện sự tự ĐKG, tự phân biệt đối xử với chính mình của người nữ
nông dân.
3.3.2. Tư tưởng phong kiến về người phụ nữ
Tư tưởng phong kiến là một yếu tố quan trọng có tác dụng
duy trì những ĐKG về tính cách người nữ nông dân ĐBSH hiện nay.
Sự tác động này tuân theo phương trình hồi quy sau (với mức ý nghĩa
p = 0.000 < 0.05):
ĐKG về tính cách người nữ nông dân = 1.37 + 0.525* mức
độ đồng tình của người dân về những quan niệm mang ĐKG đối với
người PN thể hiện qua ca dao, tục ngữ, thành ngữ Việt Nam
3.3.3. Các yếu tố khác
Ngoài ra, các yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến sự duy trì
những ĐKG về tính cách người nữ nông dân như: người nữ nông dân
không được tạo nhiều điều kiện để họ phấn đấu như nam giới, không
20
được đánh giá đúng với công sức và sự đóng góp của họ (với số ĐTB
cao nhất 2.34), nguyên nhân từ chính bản thân người đàn ông mang
ĐKG (với số ĐTB là 2.11), các phương tiện truyền thông và dư luận
xã hội (với số ĐTB là 1.62).
4.4. Phân tích các trường hợp điển hình
- Khi những người nam giới và phụ nữ đánh giá và tự đánh
giá tính cách của một người nữ nông dân cụ thể thì họ không cho
rằng: người nữ nông dân là những người yếu đuối, phụ thuộc, phục
tùng, tự ty, thiếu ý chí, thiếu linh hoạt, sáng tạo trong công việc,….
Mặc dù vậy, vẫn đang tồn tại những ĐKG về tính cách người
nữ nông dân với những ĐKG phổ biến hơn là:
+ Người nữ nông dân luôn phải là người: nhẫn nhịn, cam chịu,
chấp nhận, nhường nhịn chồng để bảo toàn hạnh phúc gia đình.
+ Nam giới có khả năng hơn, có điều kiện hơn để đảm nhận vai
trò lãnh đạo, nghĩa là dù thế nào thì PN vẫn ở vị trí là người “cấp
dưới” so với nam giới.
- Thứ hai: Những gánh nặng kinh tế đã dịch chuyển nhanh
sang đôi vai người nữ nông dân, nhưng quá trình dịch chuyển về
quyền lực từ người nam giới sang người nữ nông dân diễn ra chậm
hơn cả trong gia đình và cộng đồng.
- Thứ ba: Nam giới vẫn mang nhiều ĐKG về tính cách người
nữ nông dân hơn người PN tự ĐKG về mình.
21
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
* Về mặt lý luận:
22
Định kiến giới về tính cách người nữ nông dân là thái độ
mang tính định trước, tiêu cực, bất hợp lý khi đánh giá tính cách của
họ trong mối quan hệ với tập thể - xã hội, với mọi người, trong lao
động và đối với bản thân xét trong tương quan với nam giới.
* Về mặt thực tiễn:
Vẫn tồn tại những ĐKG về tính cách người nữ nông dân ở
ĐBSH. ĐKG về tính cách người nữ nông dân thể hiện trên cả 3 mặt:
nhận thức, xúc cảm và hành vi:
Ở mặt nhận thức: Phổ biến hơn cả là quan niệm: PN là những
người nhẫn nhịn, cam chịu, hy sinh vì chồng con và gia đình, yếu
đuối, phụ thuộc, an phận, do dự - thiếu quyết đoán, tuân thủ.
Ở mặt cảm xúc: Có khoảng gần ½ số người được điều tra vẫn
thể hiện những cảm xúc mang ĐKG. Họ có xu hướng hài lòng khi
người PN thể hiện tính cách theo khuôn mẫu giới: nhẫn nhịn, hy sinh,
tuân thủ, an phận,….và ngược lại. Nghĩa là ĐKG về tính cách người
nữ nông dân vẫn hàm chứa quan niệm “nam ngoại, nữ nội”, PN phải
là người tuân thủ, phục tùng nam giới.
Ở mặt hành vi: Những hành vi có liên quan đến ĐKG về tính
cách người nữ nông dân thể hiện trong gia đình (qua cách ứng xử
mang tính gia trưởng của người chồng đối với vợ, quyền sở hữu tài
sản, quyền ra quyết định các công việc gia đình vẫn nghiêng về người
nam giới, PN vẫn là người đảm nhận chủ yếu các công việc gia đình);
trong cộng đồng quyền lãnh đạo và ra các quyết định cho cộng đồng
vẫn chủ yếu do nam giới đảm nhận; người nữ nông dân cũng tự phân
biệt đối xử với chính mình mang ĐKG về mình). Nhìn chung, ĐKG
23
ở mặt hành vi thể hiện ở mức độ khá cao trong đời sống nông thôn
ĐBSH hiện nay.
Trong 3 mặt biểu hiện của ĐKG, thì ở mặt nhận thức ĐKG
biểu hiện là ít nhất, tiếp đó là ĐKG thể hiện ở mặt cảm xúc ở mức
trung bình và ở mặt hành vi ĐKG biểu hiện là cao nhất. Điều này nói
lên những ĐKG ngầm ẩn mà khi được hỏi ở mặt nhận thức chủ thể
không biểu lộ, nhưng ở mặt hành vi thì ĐKG được bộc lộ rõ ràng
hơn.
Có xu hướng tồn tại nhiều ĐKG hơn ở những người nam
giới, những người có trình độ học vấn thấp, những người trẻ tuổi hơn.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến sự tồn tại những ĐKG về
tính cách người nữ nông dân hiện nay: tư tưởng “trọng nam khinh
nữ” còn để lại, sự tự phân biệt đối xử mang ĐKG với chính mình của
người nữ nông dân, dư luận xã hội và các phương tiện truyền thông
mang ĐKG, việc người nữ nông dân không được tạo điều kiện để
phát triển năng lực, không được đánh giá đúng với sự đóng góp của
họ. Trong đó nguyên nhân từ tư tưởng “trọng nam khinh nữ” từ chế
độ phong kiến còn để lại là nguyên nhân gốc, có tác động mạnh hơn
cả đến sự duy trì những ĐKG đối với người nữ nông dân hiện nay.
Kết quả phân tích các trường hợp điển hình cho thấy: cho dù
người nữ nông dân có đóng góp vai trò kinh tế và các công việc gia
đình tương đương hoặc thậm chí nhiều hơn so với chồng của họ
(người nam nông dân) thì họ vẫn bị định kiến. Bản thân người nữ
nông dân và cả những người nam nông dân ý thức rất rõ những ĐKG
bất công với PN, song những nguyên tắc và luật lệ bất thành văn đã
tồn tại từ lâu đời quy định những cách nghĩ, cách ứng xử trong tương
24
quan nam – nữ khiến người PN đành chấp nhận, lâu dần cũng thành
quen, còn nam giới thì dường như không muốn thay đổi bởi những
ĐKG có vẻ mang lại đặc quyền cho nam giới (người chồng). Muốn
giảm đi ĐKG cả người nam và nữ nông dân đều cho rằng người nữ
nông dân phải cố gắng nhiều hơn nữa, nhưng việc chia sẻ trách
nhiệm công việc gia đình và chăm sóc con cái của người nam giới lại
chưa được đặt ra mạnh mẽ. Như vậy, hóa ra, để giảm đi ĐKG, có
được bình đẳng giới lại là bất bình đẳng với PN, bởi họ lại phải gánh
vác quá nhiều vai trò. Cách suy nghĩ này có thể khiến vấn đề giải
phóng người PN không được giải quyết mà ngược lại có thể khiến họ
bị đẩy sâu hơn vào vòng quay của ĐKG, bất bình đẳng giới.
2. Kiến nghị
- Đối với người nữ nông dân: Cần tiếp tục vươn lên để khẳng
định năng lực, phẩm chất của bản thân, tránh những quan niệm, ứng
xử mang ĐKG về chính mình và giới mình.
- Đối với người nam nông dân: Cần tự nâng cao nhận thức
của bản thân về giới, ĐKG, chia sẻ trách nhiệm công việc gia đình
với người PN
- Đối với cộng đồng dân cư: Chính quyền thôn, xã cần tăng
cường những nội dung thông tin tuyên truyền về giới và ĐKG nhằm,
tạo điều kiện để phát triển năng lực người nữ nông dân dần nâng cao
vị thế của họ trong gia đình và xã hội, chú ý tăng cường vai trò của
nam giới trong công cuộc đấu tranh xóa bỏ ĐKG với người nữ nông
dân.
- Đối với các phương tiện truyền thông: Cần xây dựng những
hình ảnh về người nữ nông dân nói riêng, người PN nói chung một
25