Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Giải pháp mở rộng cho vay ngắn hạn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài gòn - Chi nhánh Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.5 KB, 80 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khoá luận tốt nghiệp với đề tài: “Giải pháp mở rộng
cho vay ngắn hạn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Ngân hàng
thương mại cổ phần Sài Gòn – chi nhánh Hà Nội” là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu nêu trong khoá luận là trung thực, chính xác, xuất
phát từ thực tế tại Chi nhánh ngân hàng.
Tác giả khoá luận
Sinh viên: Phan Thị Thu Hiền
MỤC LỤC
BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT
STT VIẾT TẮT VIẾT ĐẦY ĐỦ
1 SCB Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn
2 NHTM Ngân hàng thương mại
3 TMCP Thương mại cổ phần
4 NHNN Ngân hàng nhà nước
5 KBNN Kho bạc nhà nước
6 HĐQT Hội đồng quản trị
7 XHCN Xã hội chủ nghĩa
8 TCKT Tổ chức kinh tế
9 DNNQD Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
10 BGĐ Ban giám đốc
11 VCSH Vốn chủ sở hữu
12 CNTT Công nghệ thông tin
13 KTKS Kiểm tra kiểm soát
14 HSC Hội sở chính
15 CBTD Cán bộ tín dụng
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU
LỜI NÓI ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Vốn là điều kiện tiên quyết đối với bất kỳ doanh nghiệp nào trong việc
đảm bảo tiến trình sản xuất kinh doanh được liên tục, hiệu quả. Không chỉ có


nhu cầu vốn trung và dài hạn để đổi mới công nghệ, nhà xưởng máy móc, các
doanh nghiệp luôn có nhu cầu vay vốn ngắn hạn để bổ sung cho nhu cầu thiếu
hụt vốn tạm thời khi gặp khó khăn trong việc thanh toán với khách hàng, trả
lương cho công nhân, mở rộng sản xuất trong mùa vụ…. Đặc biệt trong điều
kiện nền kinh tế nước ta chưa phát triển, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ dễ gặp phải khó khăn về vốn trong quá trình
hoạt động – do đó nhu cầu vay vốn ngắn hạn, đặc biệt là nguồn vốn vay từ
ngân hàng là sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với quá trình phát triển của loại hình
TCKT này.
Chính vì sự quan trọng của cho vay ngắn hạn đối với hoạt động sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp như vậy, đồng thời với chủ trương của
Đảng và Nhà nước ta hiện nay, nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh có quy mô nhỏ mở rộng sản xuất, kích thích tính năng động sáng tạo
của chúng, các NHTM đặc biệt là các ngân hàng trên địa bàn Hà Nội đã có
những biện pháp mở rộng cho vay ngắn hạn nhằm giúp các doanh nghiệp này.
Là một chi nhánh còn khá còn trẻ nhưng SCB – Chi nhánh Hà Nội đã
đạt được khá nhiều thành tích đáng ghi nhận. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là tỷ lệ
cho vay ngắn hạn tại Chi nhánh còn thấp chưa tương xứng với quy mô của
ngân hàng. Trong khi đó, địa bàn Hà Nội là nơi đông dân cư và tập trung
nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh quy mô nhỏ với nhu cầu vốn ngắn hạn
cao. Do đó, vấn đề đặt ra với Chi nhánh hiện nay là làm thế nào để mở rộng
cho vay ngắn hạn, từng bước giúp doanh nghiệp mở rộng sản xuất, từ đó góp
phần phát triển kinh tế, xã hội.
1
Nắm bắt được yêu cầu cấp thiết trên, sau thời gian thực tập tại phòng
Tín dụng SCB – Chi nhánh Hà Nội, em mạnh dạn chọn đề tài: “Giải pháp
mở rộng cho vay ngắn hạn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Chi nhánh Hà Nội”.
2. Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận sử dụng tổng hợp các phương pháp như: phương pháp duy

vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống
kê kế toán, phương pháp so sánh, đối chiếu với thực tiễn, qua đó hệ thống hoá
được những vấn đề mang tính lý luận thực trạng cho vay ngắn hạn các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh từ đó chỉ ra mặt tồn tại và đưa ra hệ thống các giải
pháp mở rộng cho vay ngắn hạn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Ngân
hàng TMCP Sài Gòn – Chi nhánh Hà Nội.
3. Kết cấu khoá luận
Khoá luận được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về nghiệp vụ cho vay ngắn hạn của NHTM đối
với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Chương 2: Thực trạng cho vay ngắn hạn đối với các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Chi nhánh
Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng cho vay ngắn hạn đối
với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Ngân hàng TMCP
Sài Gòn – Chi nhánh Hà Nội.
Ngoài nỗ lực không ngừng của bản thân em xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến các anh chị cán bộ của Phòng giao dịch Thanh Xuân đã tận tình
hướng dẫn, chỉ bảo và thạc sĩ Nguyễn Thị Hoài Thu - người đã giúp đỡ em rất
nhiều trong việc hoàn thành khoá luận này.
2
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGHIỆP VỤ CHO VAY NGẮN HẠN CỦA
NHTM ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH
1.1. Nghiệp vụ cho vay ngắn hạn của NHTM
1.1.1. Khái niệm nghiệp vụ cho vay ngắn hạn của NHTM
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ la tinh là credo (tin tưởng, tín
nhiệm). Trong thực tế cuộc sống có nhiều cách hiểu khác nhau về thuật ngữ
tín dụng, ngay cả trong quan hệ tài chính, tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể mà
thuật ngữ tín dụng có nội dung riêng. Trong quan hệ tài chính, tín dụng có thể

hiểu theo các nghĩa sau:
Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm
sang chủ thể thiếu hụt thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ
từ cho vay sang người đi vay.
Trong quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên
cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể. Như vậy một công ty công nghiệp hay
thương mại bán hàng trả chậm cho một công ty khác, trong trường hợp này
người bán chuyển giao hàng hoá cho bên mua và sau một thời gian nhất định
theo thoả thuận bên mua phải trả tiền cho bên bán. Phổ biến hơn cả là giao
dịch giữa ngân hàng và các định chế tài chính khác với doanh nghiệp và cá
nhân thể hiện dưới hình thức cho vay, tức là ngân hàng cấp tiền vay cho bên
đi vay sau một thời gian nhất định người đi vay phải thanh toán toàn bộ gốc
và lãi.
Có nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau, nếu phân loại dựa theo
thời gian tín dụng được chia làm ba loại: cho vay ngắn hạn, cho vay trung
hạn, cho vay dài hạn. Cho vay ngắn hạn là loại cho vay có thời hạn dưới một
năm, thường được dùng để cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời vốn lưu động
3
của doanh nghiệp và cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân. Đối với các
ngân hàng thương cho vay ngắn hạn chiếm tỉ trọng cao nhất.
1.1.2. Đặc điểm cho vay ngắn hạn
1.1.2.1. Vốn cho vay gắn liền với quá trình luân chuyển vốn của khách hàng
Xét về bản chất, cho vay chính là quá trình chuyển dịch vốn dưới hình
thức tiền tệ hay hiện vật của một tổ chức hay cá nhân này cho một tổ chức
hay cá nhân khác sử dụng trong một thời gian nhất định trên nguyên tắc hoàn
trả. Do vậy, quá trình vận động của vốn thường được biểu diễn theo công thức
T – T’.
Nhìn vào công thức trên dường như thấy sự vận động của vốn cho vay
độc lập với sự chu chuyển vốn của các doanh nghiệp. Nhưng trên thực tế
không phải như vậy mà vốn cho vay luôn gắn liền với quá trình luân chuyển

vốn của khách hàng. Trong cho vay ngắn hạn, các ngân hàng thương mại
thường cho vay khi khách hàng phát sinh nhu cầu vốn để mua vật tư, nguyên
liệu, hoặc trang trải các chi phí trong quá trình sản xuất kinh doanh nhằm tạo
ra sản phẩm hàng hoá, đồng thời khi hàng hoá được tiêu thụ, khách hàng có
thu nhập, ngân hàng sẽ tiến hành thu hồi nợ. Xuất phát từ đặc điểm này mà
các ngân hàng thường quy định cơ sở để xác định thời hạn cho vay, đó là phải
căn cứ vào chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng cho vay.
1.1.2.2. Thời gian thu hồi vốn nhanh
Cho vay ngắn hạn của các ngân hàng thương mại chủ yếu để đáp ứng
những nhu cầu vốn lưu động tạm thời thiếu hụt trong quá trình sản xuất kinh
doanh của khách hàng. Khi kết thúc chu kỳ sản xuất kinh doanh, vốn được
giải phóng ra dưới hình thái tiền tệ thì khách hàng phải hoàn trả vốn vay cho
ngân hàng. Trên thực tế, thời gian một vòng luân chuyển vốn lưu động
thường rất nhanh dưới 12 tháng. Khi doanh nghiệp thu hồi được vốn thì
khoản vốn sẽ được dùng để trả nợ cho ngân hàng. Do vậy dẫn đến thời hạn
cho vay vốn ngắn hạn của các ngân hàng thương mại cũng ngắn tương ứng.
4
1.1.2.3. Hình thức cho vay phong phú
Do việc thiếu vốn lưu động tại các doanh nghiệp trong chu kỳ sản xuất
kinh doanh chỉ mang tính chất tạm thời và đôi khi các doanh nghiệp không dự
báo trước được. Nên để đáp ứng được nhu cầu hết sức đa dạng của khách
hàng, để góp phần phân tán rủi ro, đồng thời để tăng cường sức cạnh tranh
trên thị trường tín dụng, các ngân hàng thương mại không ngừng phát triển
các hình thức cho vay trong nghiệp vụ cho vay ngắn hạn của mình. Điều đó
đã làm cho các hình thức cho vay ngắn hạn đa dạng như: nghiệp vụ ứng trước,
nghiệp vụ thấu chi, nghiệp vụ chiết khấu, nghiệp vụ factoring, nghiệp vụ thẻ
tín dụng…
1.1.2.4. Là nghiệp vụ cho vay chủ yếu của ngân hàng thương mại
Xuất phát từ chức năng của các ngân hàng thương mại là đi vay để cho
vay. Trong đó nguồn vốn vay đem lai hiệu quả cao và chi phí thấp là nguồn

vốn huy động tiết kiệm. Nhưng phần lớn là nguồn vốn tiền gửi ngắn hạn, nên
để đảm bảo khả năng thanh toán của mình các ngân hàng thương mại đã cho
vay chủ yếu là ngắn hạn. Với việc cho vay ngắn hạn, thời gian thu hồi nợ của
các ngân hàng thương mại nhanh hơn so với trung và dài hạn bảo đảm được
tính thanh khoản. Do vậy trong cơ cấu cho vay của các ngân hàng thương
mại, tỷ trọng cho vay ngắn hạn luôn chiếm tỷ trọng cao từ 60% - 80% tổng dư
nợ.
1.1.3. Các hình thức cho vay ngắn hạn đối với các doanh nghiệp của các
NHTM
1.1.3.1. Các hình thức cho vay ngắn hạn của các NHTM trên thế giới
* Chiết khấu
Hối phiếu là công cụ của tín dụng thương mại, là một giấy nợ phát sinh
trong quan hệ thương mại, dùng để xác định người cầm nó (người thụ hưởng)
một trái quyền ngắn hạn về tiền đối với người thụ hưởng lệnh khi giấy nợ đến
hạn. Khi đến hạn, người thụ hưởng có thể cầm tờ hối phiếu đến đòi tiền người
5
mua hoặc mang đến ngân hàng để xin chiết khấu khi cần tiền mà hối phiếu
chưa đến hạn.
Chiết khấu hối phiếu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn của các ngân
hàng thương mại, trong đó khách hàng chuyển nhượng quyền sở hữu những
hối phiếu chưa đến hạn thanh toán cho ngân hàng thương mại để nhận lấy một
khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi lợi tức và hoa hồng phí.
Chiết khấu là một hình thức tín dụng khá đơn giản dựa trên sự tín
nhiệm giữa ngân hàng và những người kí tên trên hối phiếu. Mặt khác, chiết
khấu không làm “đóng băng vốn” của ngân hàng vì thời gian chiết khấu ngắn
(dưới 90 ngày) và ngân hàng thương mại có thể tái chiết khấu những hối
phiếu đó ở ngân hàng trung ương. Hơn nữa, đây còn là nghiệp vụ tín dụng ít
rủi ro, khả năng thu hồi nợ là chắc chắn vì hối phiếu được lập trên cơ sở hàng
hoá đã được chuyển giao cho người mua và chiết khấu . Do vậy đây là một
hình thức tín dụng ngắn hạn phổ biến trên thế giới, được các NHTM thế giới

ưa thích sử dụng.
* Tín dụng ứng trước
Tín dụng ứng trước là một hình thức cho vay mà ngân hàng cho khách
hàng vay tiền bằng cách mở và ứng cho họ một số tiền trên tài khoản của họ
tại ngân hàng.
Khoản tiền vay được thực hiện bằng cách ghi có toàn bộ hay nhiều lần
số tiền của một khoản ứng trước đã được thoả thuận vào tài khoản tiền gửi
(hoặc tài khoản vãng lai) của khách hàng và ghi nợ số tiền đó vàô một tài
khoản vay (tài khoản ứng trước) đã được hình thành hoặc sử dụng trực tiếp
bằng cách phát hành séc để chi trả mang số hiệu tài khoản ứng trước.
Khi thực hiện một khoản ứng trước, tuỳ vào sự nhìn nhận của ngân
hàng với khách hàng mà ngân hàng có thể đưa ra một trong hai hình thức :
- Ứng trước có đảm bảo.
- Ứng trước không đảm bảo.
6
* Thấu chi
Thấu chi là loại tín dụng mà qua đó ngân hàng cho phép khách hàng
được sử dụng vượt quá số tiền mà họ đã ký thác ở ngân hàng trên tài khoản
vãng lai.
Để được phép thấu chi trên tài khoản vãng lai thì khách hàng cần làm
đơn xin vay dưới hình thức vượt chi trên tài khoản vãng lai, đồng thời nộp
kèm các hồ sơ khác theo yêu cầu của ngân hàng. Sau khi xem xét, thẩm định
hồ sơ vay vốn, ngân hàng và khách hàng tính toán thoả thuận hạn mức tín
dụng mà ngân hàng cấp cho khách hàng trong thời gian thực hiện kế hoạch.
* Bao thanh toán
Theo công ước quốc tế về bao thanh toán quốc tế của UNIDROIT
1988, nghiệp vụ bao thanh toán là một dạng tài trợ bằng việc mua bán các
khoản nợ ngắn hạn trong giao dịch thương mại giữa các tổ chức tài trợ và bên
cung ứng.
Ngoài ra, đối với một số tổ chức cung cấp dịch vụ thanh toán khác thì

nghiệp vụ bao thanh toán là việc mua lại các khoản phải thu, hay việc cung
cấp tài trợ tài chính ngắn hạn thông qua việc trả các khoản phải thu ngay lập
tức bằng tiền mặt để cải thiện dòng ngân lưu của khách hàng đồng thời nhận
lấy rủi ro tín dụng. Các dịch vụ đi kèm gồm quản lý nợ, quản lý sổ cái bán
hàng, xếp hạng hạn mức tín dụng và thu hộ.
Trong một nghiệp vụ bao thanh toán thông thường sẽ có sự xuất hiện
của ít nhất ba bên: tổ chức bao thanh toán (factor), khách hàng của tổ chức
bao thanh toán (client hay seller) và con nợ của tổ chức bao thanh toán
(debtors hay buyers). Ngoài ra, khi một khách hàng kí kết hợp đồng thực hiện
nghiệp vụ bao thanh toán đối với các factor, họ sẽ bán không phải là một mà
một số các khoản phải thu từ nhiều khách hàng khác nhau, cho nên trong
nghiệp vụ bao thanh toán có thể có rất nhiều con nợ của factor.
7
* Cho vay mua hàng dự trữ
Thuật ngữ cho vay mua hàng dự trữ xuất phát từ tiếng Anh là Self –
liquidating inventory loans, thực chất là việc các ngân hàng cấp tín dụng cho
các doanh nghiệp dưới hình thức các khoản cho vay mang tính tự thanh
khoản. Các khoản cho vay này chủ yếu được sử dụng để tài trợ cho việc mua
hàng dự trữ như nguyên liệu thô hoặc hàng hoá, thành phẩm và sẽ thu nợ khi
hàng tồn kho được tiêu thụ và bên mua thanh toán tiền. Thông thường loại
cho vay này không có tài sản thế chấp hoặc cầm cố.
Kì hạn của khoản vay bắt đầu được tính từ khi hãng cần vốn để đáp ứng
yêu cầu mua hàng, kết thúc (có thể trong vòng từ 60 ngày cho đến 90 ngày) khi
hãng thu được tiền bán hàng và nhập vào tài khoản để trả các nợ cho ngân hàng.
* Cho vay vốn lưu động (Working capital loans)
Cho vay vốn lưu động là loại cho vay để đáp ứng toàn bộ nhu cầu vốn
lưu động thiếu hụt của doanh nghiệp. Đây là loại cho vay tổng hợp đáp ứng
toàn bộ nhu cầu dự trữ tồn kho về nguyên liệu, hàng hóa và thu nợ khi ngân
quỹ nhận được từ tiêu thụ hàng hoá.
Với tính chất như vậy nên loại cho vay này có các đặc điểm cơ bản là:

- Đối tượng cho vay là toàn bộ nhu cầu vốn lưu động thiếu hụt, vì vậy
phải xác định hạn mức tín dụng để làm cơ sở cho việc giải ngân.
- Không có kỳ hạn nợ cụ thể gắn với từng lần giải ngân mà chỉ có thời
hạn cho vay cuối cùng và các điều kiện sử dụng vốn vay, trừ một số trường
hợp đặc biệt.
- Chi phí mà người đi vay phải trả bao gồm chi phí lãi và chi phí phi
lãi. Thông thường chi phí phi lãi bao gồm có chi phí cam kết và số dư tiền
gửi bù trừ.
* Cho vay kinh doanh bán lẻ (Retailes financing)
Cho vay kinh doanh bán lẻ là một hình thức cho vay gián tiếp người
tiêu dùng. Các ngân hàng sẽ hỗ trợ cho người tiêu dùng trong việc mua trả
8
góp xe máy, đồ dùng gia đình, nội thất và các hàng hoá lâu bền khác bằng
cách tài trợ cho các khoản phải thu mà người bán những hàng hoá này sẽ nhận
được sau khi họ ký hợp đồng bán hàng trả góp. Hợp đồng trả góp sẽ được
ngân hàng của người bán lẻ xem xét. Nếu đáp ứng các yêu cầu tín dụng, ngân
hàng sẽ mua những hợp đồng này với một mức lãi suất thay đổi tuỳ theo chất
lượng tín dụng người vay vốn, chất lượng của vật thế chấp và thời hạn của
mỗi khoản vay.
Qui trình cho vay được thực hiện như sau: Sau khi đã thoả thuận giữa
các bên về phương thức tài trợ này, nhà sản xuất sẽ giao hàng cho công ty bán
lẻ, ngân hàng cấp tín dụng cho công ty bán lẻ để trả cho nhà sản xuất. Khi
công ty bán lẻ tiêu thụ được hàng hoá sẽ thanh toán nợ cho ngân hàng. Theo
định kỳ ngân hàng sẽ tiến hành kiểm tra tồn kho để xác định số lượng hàng
hóa đã bán, nếu phát hiện hàng hoá đã bán nhưng không thanh toán cho ngân
hàng thì yêu cầu công ty bán lẻ thanh toán ngay, nếu công ty không có khả
năng trả nợ ngân hàng sẽ thu hồi một phần hoặc toàn bộ hàng hoá tồn kho để
chuyển trả nhà sản xuất.
* Cho vay dựa trên tài sản (Asset-based financing)
Tài trợ dựa trên tài sản có là khoản tín dụng được đảm bảo bằng các tài

sản ngắn hạn của hãng, được dự tính sẽ chuyển thành tiền mặt trong tương lai
– ngày càng chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng cho vay ngắn hạn. Tài sản chủ
yếu được dùng để đảm bảo các khoản vay bao gồm các khoản phải thu,
nguyên vật liệu hoặc thành phẩm tồn kho. Ngân hàng cho vay theo một tỉ lệ
nhất định trên giá trị ghi sổ của tài khoản tiền có thể bằng 70% khoản phải thu
trên tài khoản thanh toán vãng lai của khách hàng doanh nghiệp (tức là tất cả
các khoản tín dụng thương mại chưa đến hạn thanh toán). Ngoài ra, ngân hàng
có thể cho vay tới 40% giá trị hàng hoá tồn kho hiện tại của doanh nghiệp
gồm hàng hoá đang bày bán hoặc hàng hóa trong kho. Khi thu hồi được các
9
khoản phải thu hoặc bán được hàng doanh nghiệp sẽ chuyển một phần tiền
mặt thu về tới ngân hàng để trả nợ tiền vay.
* Cho vay ngắn hạn các công trình xây dựng
Tài trợ xây dựng tạm thời là loại cho vay ngắn hạn của các ngân hàng
thương mại đối với các công ty xây dựng để thi công các công trình xây dựng.
Loại cho vay này có các đặc điểm sau:
- Việc xét duyệt cho vay chủ yếu dựa trên cơ sở từng hợp đồng nhận
thầu và tiền vay được cung ứng để thuê nhân công, thiết bị và mua vật tư,
nguyên liệu dùng để thi công công trình theo hợp đồng nhận thầu cho vay.
- Loại cho vay này được đảm bảo bằng các khoản phải thu từ bên chủ
đầu tư theo hợp đồng nhận thầu.
- Kỳ hạn nợ được xác định trên cơ sở kế hoạch thi công theo hợp đồng
nhận thầu. Nguồn thu nợ là tiền thanh toán của chủ đầu tư, có thể là vốn chủ
sở hữu, hoặc nguồn vốn tài trợ dài hạn của các định chế tài chính.
1.1.3.2. Các hình thức cho vay ngắn hạn đối với các doanh nghiệp của các
NHTM Việt Nam
* Chiết khấu các giấy tờ có giá
Cho vay chiết khấu là nghiệp vụ cấp tín dụng trong đó, NHTM mua lại
các giấy tờ có giá theo giá trị hiện tại tại thời điểm mua lại và có quyền đòi nợ
đối với người phát hành giấy tờ có giá khi đến hạn.

Theo luật các công cụ chuyển nhượng, các loại công cụ chuyển nhượng
được các tổ chức tín dụng xem xét nhận chiết khấu, tái chiết khấu là các công
cụ chuyển nhượng được phát hành tại Việt Nam và các nước khác được
chuyển nhượng ở Việt Nam, bao gồm hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ,
séc. Tuy nhiên, thị trường Việt Nam mới có séc, hối phiếu phát hành trên cơ
sở các giao dịch xuất - nhập khẩu hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam với
doanh nghiệp nước ngoài, chưa có hối phiếu phát hành trên cơ sở các giao
10
dịch trong nước. Do vậy, hiện nay ở Việt Nam nghiệp vụ chiết khấu các giấy
tờ có giá vẫn chưa phát triển so với nhiều nước trên thế giới.
* Cho vay từng lần
Cho vay từng lần là hình thức cho vay gắn với từng mục đích vay cụ
thể, từng phương án kinh doanh cụ thể. Hình thức cho vay này áp dụng đối
với các khách hàng không đủ điều kiện vay theo hạn mức tín dụng, không có
nhu cầu vay vốn thường xuyên. Do vậy, mỗi lần có nhu cầu vay vốn khách
hàng phải lập hồ sơ vay vốn gửi tới ngân hàng. Trên cơ sở đó ngân hàng sẽ
xem xét để đưa ra quyết định có cho vay hay không.
* Cho vay theo hạn mức tín dụng
Cho vay theo hạn mức tín dụng là hình thức cho vay trong đó ngân
hàng và khách hàng cùng thoả thuận kí một hợp đồng hạn mức tín dụng duy
trì trong một thời gian nhất định hay theo chu kỳ sản xuất kinh doanh, ngân
hàng cho vay dựa trên cơ sở đối tượng vay tổng hợp
Về bản chất, cho vay thấu chi và cho vay theo hạn mức tín dụng đều là
việc các ngân hàng thương mại cấp cho khách hàng của mình một hạn mức
tín dụng trong một thời hạn nhất định. Tuy nhiên ở Việt Nam, trong mỗi lần
giải ngân của hình thức cho vay theo hạn mức tín dụng đều có sự giám sát
chặt chẽ của ngân hàng thương mại.
Hình thức cho vay này áp dụng với những đối tượng khách hàng hoạt
động kinh doanh tương đối ổn định, có nhu cầu vay vốn thường xuyên, có tín
nhiệm với ngân hàng trong quan hệ tín dụng, đồng thời khách hàng xác định

được kế hoạch kinh doanh trong từng thời kỳ.
* Bao thanh toán
Nghiệp vụ bao thanh toán ở Việt Nam theo quyết định 1096/2004/QĐ –
NHNN được định nghĩa là “một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng
cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc
11
mua, bán hàng hóa đã được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong
hợp đồng mua bán hàng hoá”.
Hiện nay, phần lớn các ngân hàng trong nước mới chỉ thực hiện dịch vụ
bao thanh toán trong nước, trong khi thương mại quốc tế tiềm ẩn nhiều rủi ro
bởi nhiều nhà nhập khẩu muốn thanh toán bằng hình thức ghi sổ (trả sau). Số
lượng các ngân hàng thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán còn quá nhỏ so với
một nước đang phát triển và đang trong quá trình hội nhập như nước ta.
1.2. Mở rộng cho vay ngắn hạn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
1.2.1. Sự cần thiết của việc mở rộng cho vay ngắn hạn đối với các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh của các NHTM
Trong bối cảnh nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập với kinh tế
toàn cầu thì việc nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam,
đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là vô cùng quan trọng. Khi đó
có thể thấy vốn có tầm quan trọng vô cùng lớn và do vậy không thể thiếu sự
hỗ trợ của các ngân hàng thương mại.
Mở rộng cho vay ngắn hạn khi đó không chỉ có ý nghĩa riêng đối với
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mà còn tác động mạnh mẽ tới hoạt động
kinh doanh của các ngân hàng thương mại và sự phát triển của nền kinh tế.
Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nguồn vốn ngắn hạn giúp
cho họ có thể tăng khả năng cạnh tranh bằng cách đầu tư vốn đổi mới công
nghệ, trang thiết bị để nâng cao chất lượng sản phẩm, hợp lý giá thành sản
phẩm. Bên cạnh đó, vốn ngân hàng còn thúc đẩy các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh hoạt động kinh doanh đầu tư có hiệu quả. Vì vốn ngân hàng không phải
rải đều cho bất kỳ khách hàng nào có nhu cầu mà chọn lọc những khách hàng

làm ăn có hiệu quả. Do đó, để tiếp cận được với nguồn vốn của ngân hàng
một cách dễ dàng thì các doanh nghiệp phải nỗ lực kinh doanh có hiệu quả.
Thêm vào đó tín dụng ngân hàng còn là cầu nối cho các thành phần kinh tế
12
ngoài quốc doanh thiết lập quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế. Do vốn là nhân tố
quyết định cho việc thực hiện đầu tư ra nước ngoài và kinh doanh xuất nhập
khẩu trong hợp tác quốc tế. Nhưng thực tế hầu hết các chủ thể của khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh không đủ vốn để hoạt động. Ngân hàng thông qua
hoạt động cho vay sẽ là trợ thủ đắc lực cho các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh đầu tư và kinh doanh xuất nhập khẩu.
Dễ dàng nhận thấy hiện nay ở nước ta, phần lớn các NHTM nhà nước
mới chỉ chủ yếu cho vay đối với các doanh nghiệp nhà nước, doanh số cho
vay ngoài quốc doanh còn khá hạn chế. Trong khi đó, thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế. Từ đó có thể thấy mở
rộng cho vay ngắn hạn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ảnh hưởng lớn
đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Nó góp phần tạo ra
sự năng động và tích cực phấn đấu trong việc mở rộng thị phần cho vay ngắn
hạn đối với nhóm đối tượng này. Ngoài ra các ngân hàng phải đa dạng hoá
các hình thức cho vay ngắn hạn để đáp ứng tối đa nhu cầu vay của ngân hàng
và thu hút thêm khách hàng mới. Và hơn nữa, mở rộng cho vay ngắn hạn góp
phần đáng kể vào việc gia tăng lợi nhuận cho các ngân hàng thương mại. Mở
rộng cho vay ngắn hạn giúp các ngân hàng thương mại phân tán rủi ro trên cơ
sở làm phong phú thêm đối tượng khách hàng và số lượng khách hàng.
Trên cơ sở thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh và các ngân hàng thương mại, mở rộng cho vay ngắn hạn góp phần
phát triển kinh tế xã hội. Sự phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh và các NHTM góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động, góp
phần giảm tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội, đóng góp vào sự tăng trưởng của nền
kinh tế thông qua việc tăng giá trị GDP. Mở rộng cho vay ngắn hạn các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh thúc đẩy nền kinh tế phát triển đồng đều không chỉ

tập trung phát triển khu vực kinh tế nhà nước.
13
1.2.2. Quan niệm về mở rộng cho vay ngắn hạn đối với các doanh nghiệp
quốc doanh
Cho vay ngắn hạn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh được
hiểu là quá trình các ngân hàng thương mại cung cấp cho khách hàng – các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và
thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
Trong nền kinh tế thị trường sự cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt.
Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì doanh nghiệp phải mở rộng và
cải thiện chất lượng sản phẩm để có thể đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị
trường. Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp nên các ngân hàng cũng cần mở
rộng hoạt động của mình.
Theo từ điển Tiếng Việt giải thích: “Mở rộng làm cho quy mô, phạm vi
lớn hơn trước”.
1.2.2.1. Từ phía các Ngân hàng thương mại
Theo quan điểm của các ngân hàng, mở rộng cho vay ngắn hạn đối với
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là quá trình các ngân hàng thương mại
tìm kiếm các cơ hội và các nguồn lực trong nền kinh tế để tiến hành cho vay
đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng nhiều với quy mô ngày
càng gia tăng, đối tượng khách hàng ngày càng phong phú….
1.2.2.2. Từ phía các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, mở rộng cho vay ngắn
hạn là khả năng tiếp cận với nguồn vốn ngắn hạn ngân hàng dễ dàng hơn, các
hình thức vay vốn đa dạng hơn, điều kiện vay vốn được nới lỏng hơn, thủ tục
vay vốn đơn giản, thuận tiện hơn trước, giới hạn cho vay đối với khách hàng
cũng mở rộng hơn so với trước.
14
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá việc mở rộng cho vay ngắn hạn đối với các
doanh nghiệp ngoài quốc của các NHTM

1.2.3.1. Doanh số cho vay ngắn hạn và dư nợ cho vay ngắn hạn đối với các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh
* Doanh số cho vay ngắn hạn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh
Doanh số cho vay là chỉ tiêu phản ánh qui mô cấp tín dụng ngắn hạn
của ngân hàng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong một thời
gian nhất định.
Khả năng mở rộng doanh số cho vay ngắn hạn đối với các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh của các NHTM có thể được đánh giá dựa trên các
chỉ tiêu:
+ Tỷ lệ tăng doanh số cho vay ngắn hạn đối với các DNNQD.
Trong đó:
DS
t
: Doanh số cho vay ngắn hạn đối với DNNQD năm thứ t.
DS
t-1
: Doanh số cho vay ngắn hạn đối với DNNQD năm thứ t-1.
Chỉ tiêu này cho biết doanh số cho vay ngắn hạn đối với DNNQD năm
nay tăng hay giảm so với năm trước là bao nhiêu %.
+ Tỷ trọng doanh số cho vay ngắn hạn đối với DNNQD.
Bằng cách sử dụng công thức tính toán trên ta sẽ biết được doanh số
cho vay ngắn hạn của đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm bao
nhiêu % trong tổng doanh số cho vay của ngân hàng.
15
Tỷ lệ tăng doanh số cho vay DS
t
- DS
t-1
=

ngắn hạn đối với DNNQD DS
t-1
Tỷ trọng doanh số cho vay Doanh số cho vay ngắn hạn các DNNQD
=
ngắn hạn đối với DNNQD Tổng doanh số cho vay của NHTM
* Dư nợ cho vay ngắn hạn đối với các DNNQD
Dư nợ cho vay ngắn hạn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là chỉ tiêu
phản ánh khối lượng vốn ngắn hạn mà ngân hàng cấp cho các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh tại một thời điểm. Khả năng mở rộng dư nợ cho vay ngắn
hạn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh của các NHTM có thể được đánh giá
dựa trên các chỉ tiêu:
+ Tỷ trọng cho vay ngắn hạn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh:
Chỉ tiêu này giúp ngân hàng xác định được tỷ lệ cho vay ngắn hạn các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm bao nhiêu % trong tổng dư nợ.
+ Chỉ tiêu tuyệt đối:
∆DN = DN
t
– DN
t-1
Trong đó:
DN
t
: Dư nợ cho vay ngắn hạn các DNNQD năm thứ t.
DN
t-1
: Dư nợ cho vay ngắn hạn các DNNQD năm thứ t-1.
∆DN: Chênh lệch dư nợ cho vay ngắn hạn các DNNQD giữa năm t và
năm t-1.
Tính toán chỉ tiêu này cho biết dư nợ cho vay ngắn hạn năm nay tăng
hay giảm so với năm trước. Từ đó phản ánh khả năng mở rộng cho vay ngắn

hạn của NHTM qua các năm.
+ Chỉ tiêu tương đối:

16
∆DN
% (tăng, giảm) =
DN
t-1
Tỷ trọng cho vay Dư nợ cho vay ngắn hạn các DNNQD
=
ngắn hạn các DNNQD Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này cho thấy tốc độ tăng giảm của dư nợ cho vay ngắn hạn các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh của các NHTM năm nay so với năm trước là
bao nhiêu %.
1.2.3.2. Số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay ngắn hạn.
Quy mô khách hàng đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của ngân
hàng, chính sách chủ trương và các điều kiện để thu hút khách hàng của ngân
hàng có hiệu quả hay không. Số lượng khách hàng là doanh nghiệp ngoài
quốc doanh vay ngắn hạn càng nhiều chứng tỏ ngân hàng có thị phần cho vay
ngắn hạn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là lớn trong hệ thống
các ngân hàng. Điều này cho thấy tiềm năng phát triển của ngân hàng trong
cho vay ngắn hạn đối với loại hình doanh nghiệp này là lớn.
Có thể đánh giá việc mở rộng số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh
qua các chỉ tiêu:
+ Chỉ tiêu tuyệt đối:
∆S = S
t
- S
t – 1
Trong đó:

S
t
: Số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay ngắn hạn tại ngân
hàng năm thứ t.
S
t – 1
: Số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay ngắn hạn tại ngân
hàng năm thứ t-1.
∆S: Chênh lệch số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay ngắn
hạn tại ngân hàng giữa năm thứ t và t-1.
Chỉ tiêu này phản ánh số lượng doanh nghiệp năm nay của ngân hàng
tăng bao nhiêu so với năm trước, từ đó cho thấy quy mô khách hàng doanh
nghiệp của năm nay có tăng so với năm trước hay không.
+ Chỉ tiêu tương đối:
17
∆S
%(tăng, giảm) =
S
t-1
Chỉ tiêu này cho phép đánh giá tốc độ tăng giảm quy mô mở rộng thị
phần cho vay ngắn hạn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh về mặt tương đối.
Từ đây ta có thể biết so với năm trước thì số lượng các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh vay ngắn hạn tại ngân hàng tăng hay giảm bao nhiêu %.
1.2.3.3. Đối tượng khách hàng vay ngắn hạn
Theo các tiêu thức phân loại khác nhau, hiện nay có rất nhiều loại hình
kinh tế ngoài quốc doanh. Mở rộng đối tượng khách hàng vay ngắn hạn các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh là đa dạng hoá các loại hình kinh tế ngoài
quốc doanh trong danh mục cho vay của các ngân hàng thương mại. Việc làm
này sẽ làm cho đối tượng khách hàng vay vốn của ngân hàng trở nên phong
phú, nguồn vốn vay không tập trung chủ yếu vào một loại đối tượng khách

hàng giúp ngân hàng có thể phân tán rủi ro, đa dạng hóa danh mục cho vay.
1.2.3.4. Doanh thu từ lãi cho vay ngắn hạn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Doanh thu từ hoạt động cho vay ngắn hạn là toàn bộ số tiền lãi mà ngân
hàng thu được từ các khoản cho vay ngắn hạn. Để đánh giá mức độ đóng góp
của hoạt động cho vay ngắn hạn vào tổng lãi từ hoạt động cho vay phải dựa
trên chỉ tiêu:
Tỷ trọng này càng cao cho thấy khả năng đóng góp của hoạt động cho
vay ngắn hạn vào tổng lãi từ hoạt động cho vay càng lớn. Ngoài ra cũng có
thể dùng các chỉ tiêu:
+ Chỉ tiêu tuyệt đối:
∆L = L
t
– L
t - 1

Trong đó:
L
t
: Lãi từ hoạt động cho vay ngắn hạn các DNNQD năm thứ t.
L
t – 1
: Lãi từ hoạt động cho vay ngắn hạn các DNNQD năm thứ t-1.
18
Tỷ trọng thu lãi từ Thu lãi từ hoạt động cho vay ngắn hạn
=
hoạt động cho vay ngắn hạn Tổng lãi từ hoạt động cho vay
∆L: Chênh lệch lãi từ hoạt động cho vay ngắn hạn các DNNQD giữa
năm thứ t và t-1.
Bằng cách tính toán chỉ tiêu này sẽ biết được doanh thu từ hoạt động
cho vay ngắn hạn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là tăng hay

giảm giữa các năm. Nhưng chỉ tiêu này không phản ánh được tốc độ tăng hay
giảm của doanh thu từ hoạt động cho vay ngắn hạn qua các năm. Do vậy để
biết được tốc độ tăng giảm cần phải sử dụng một chỉ tiêu khác:
+ Chỉ tiêu tương đối:
1.2.3.5. Các phương thức cho vay ngắn hạn
Các hình thức cho vay ngắn hạn có phần đóng góp không nhỏ vào việc
mở rộng cho vay ngắn hạn của các ngân hàng thương mại. Ngân hàng càng có
nhiều hình thức cho vay ngắn hạn thì khả năng đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn
của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh càng cao, khả năng mở rộng cho vay
ngắn hạn đối với đối tượng khách hàng này càng lớn. Vì vậy các ngân hàng
cần có sự đa dạng hoá các phương thức cho vay ngắn hạn theo xu hướng
chung của thế giới.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới việc cho vay ngắn hạn đối với các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới việc mở rộng cho vay đối với doanh
nghiệp ngoài quốc doanh nhưng chúng ta có thể khái quát thành những nhóm
nhân tố chính sau đây.
1.3.1. Nhóm nhân tố khách quan
Đây là nhóm nhân tố thuộc về môi trường bên ngoài hoạt động cho vay
của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh hay đơn
19
∆L
% (tăng, giảm) =
L
t-1
giản hơn là những nhân tố thuộc về môi trường bên ngoài so với các ngân
hàng thương mại và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
1.3.1.1. Môi trường kinh tế
Có thể thấy đây là môi trường sống của doanh nghiệp, bao gồm các yếu
tố như giá cả, cung – cầu, sự cạnh tranh… Những yếu tố này luôn thay đổi và

có nhiều tác động tới cả các ngân hàng thương mại và cả doanh nghiệp ngoài
quốc doanh. Nhân tố này thể hiện sự phát triển hay biến động của nền kinh tế.
Tình trạng của nền kinh tế (phát triển hay suy thoái) luôn có ảnh hưởng tới
nhu cầu vay vốn ngân hàng, ảnh hưởng tói hoạt động của doanh nghiệp trong
nền kinh tế. Sau gần 20 năm đổi mới, nền kinh tế đất nước đã có những
chuyển biến mạnh mẽ, mọi thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển
bình đẳng với kinh tế Nhà nước. Nền kinh tế mở cửa, hội nhập với kinh tế
toàn cầu đã phần nào giúp doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận với khoa học
công nghệ tiên tiến , phương pháp quản lý khoa học… góp phần không nhỏ
vào sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế. Trong suốt thời gian đổi mới,
nền kinh tế luôn trong xu hướng tăng trưởng khá, hàng hoá phong phú đa
dạng, cung cầu có sự chuyển biến theo các quy luật của kinh tế thị trường.
Cùng với sự đổi mới nền kinh tế đất nước, Nhà nước cũng đang thúc đẩy
mạnh mẽ quá trình cổ phần hoá các DNNN, điều này đồng nghĩa với việc làm
giảm số lượng doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn, tăng số lượng
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nhà nước cho phép các doanh nghiệp tự
tìm cách huy động vốn trong khuôn khổ pháp luật không cấm. Đây chính là
cơ hội tốt để các ngân hàng thương mại mở rộng cho vay đối với các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân
hàng.
1.3.1.2. Môi trường chính trị - pháp luật
Kinh doanh ngân hàng là một trong những ngành chịu sự giám sát chặt
chẽ của pháp luật, các quy định của NHNN. Môi trường chính trị - pháp luật
20
là các cơ chế chính sách, luật, quy định của nhà nước, các bộ ngành liên quan
nhằm tác động điều chỉnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc
doanh của các ngân hàng thương mại. Trong quá trình đổi mới nền kinh tế,
môi trường pháp lí về hoạt động của doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã có
nhiều thay đổi theo hướng tích cực, tạo điều kiện phát triển không ngừng cho
doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nếu trước đây, chế độ cho vay đối với doanh

nghiệp ngoài quốc doanh được quy định trong Quyết định số 18/NH – QĐ
ngày 27/4/1988 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì nay đã
không có sự phân biệt giữa khu vực kinh tế Nhà nước và doanh nghiệp kinh tế
ngoài quốc doanh. Quyết định số 1627/2001/QĐ – NHNN ngày 31/12/2001,
quy định việc cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng không
phân biệt khách hàng thuộc thành phần kinh tế nào, thuộc Nhà nước hay
không thuộc Nhà nước. Điều này thể hiện chủ trương quan điểm của Đảng:
mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường đều có quyền tự do kinh
doanh nhưng phải đảm bảo việc tuân thủ pháp luật.
1.3.1.3. Môi trường xã hội
Đây là nhân tố thể hiện sự nhận thức quan điểm của xã hội về các
doanh nghiệp trong đó có doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nó thể hiện tâm lý
xã hội, sự ủng hộ hoặc phản đối sự phát triển của doanh nghiệp ngoài quốc
doanh. Có thể nói trong thời gian qua, nhận thức của xã hội đã có nhiều thay
đổi trong quan điểm về sự tồn tại của các thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh. Hiện nay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhận được nhiều sự ủng
hộ lớn lao do sự phát triển của nó mang lại cho nền kinh tế những điều mà từ
lâu kinh tế Nhà nước không mang lại được. Sự năng động của doanh nghiệp
ngoài quốc doanh chính là phần cốt lõi quyết định sự năng động của nền kinh
tế và chính sự năng động này giúp chúng ta phần nào yên tâm hơn khi bước
vào tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế. Đây không chỉ là khu vực kinh tế
được Đảng, Nhà nước ta và toàn dân quan tâm mà còn cả hệ thống Ngân
21
hàng. Hệ thống ngân hàng đã có những thay đổi theo hướng coi trọng hoạt
động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, điều mà các ngân hàng
thực hiện rất hạn chế trong thời kỳ bắt đầu đổi mới.
1.3.1.4. Môi trường công nghệ
Mặc dù các doanh nghiệp ngoài quốc doanh rất chậm thay đổi công
nghệ. Tuy nhiên để có thể cạnh tranh được trên thị trường thì bắt buộc phải
gắn với yếu tố công nghệ. Khi môi trường công nghệ thay đổi nhanh chóng

thì bắt buộc doanh nghiệp phải nhanh chóng thay đổi theo, phải đổi mới dẫn
đến cần có sự hỗ trợ về vốn từ phía ngân hàng. Nhưng việc thay đổi công
nghệ của doanh nghiệp có thể làm cho rủi ro của ngân hàng tăng lên. Vì chi
phí của doanh nghiệp tăng lên mà lợi nhuận làm ra không bù đắp được chi phí
thì doanh nghiệp gặp rủi ro dẫn đến rủi ro cho ngân hàng.
1.3.2. Nhóm nhân tố chủ quan
Là nhóm nhân tố nằm trong hai đối tượng chính của hoạt động cho vay
doanh nghiệp ngoài quốc doanh: các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các
Ngân hàng thương mại.
1.3.2.1. Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Đây chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (90% doanh nghiệp vừa
và nhỏ là doanh nghiệp ngoài quốc doanh), có quy mô vốn nhỏ, số lượng lao
động không lớn. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động trong nhiều lĩnh
vực, nhiều ngành nghề, nhu cầu vốn tuy nhỏ đối với từng đơn vị nhưng lại rất
lớn đối với nền kinh tế. Tuy nhiên khu vực này lại hạn chế về khả năng tích
luỹ vốn, ít có điều kiện đầu tư khoa học công nghệ hiện đại. Vốn là khó khăn
lớn nhất với sự tăng trưởng của kinh tế ngoài quốc doanh, trong đó trình độ
công nghệ là yếu tố quyết định đến năng suất, chất lượng và khả năng cạnh
tranh của sản phẩm trên thị trường. Trong giai đoạn đầu, phần lớn các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh đều gặp phải vấn đề thiếu vốn.
22

×