Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tóm tắt luận án tiến sĩ nguồn sử liệu hương ước thăng long hà nội trước năm 1945 của NCS đinh thị thùy hiên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.19 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------

ĐINH THỊ THÙY HIÊN

NGUỒN SỬ LIỆU HƯƠNG ƯỚC
THĂNG LONG - HÀ NỘI TRƯỚC NĂM 1945
Chuyên ngành: Lịch sử Sử học và Sử liệu học
Mã số: 62 22 58 01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2015

1


Cơng trình được hồn thành tại:
Khoa Lịch sử - Trường Đại học KHXH&NV
Đại học Quốc gia Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Phạm Xuân Hằng
PGS.TS. Vũ Văn Quân

Giới thiệu 1:……………………………………………………..

Giới thiệu 2:……………………………………………………..

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án Tiến sĩ cấp Đại học


Quốc gia họp tại......................................................................................
vào hồi........giờ........ngày........tháng........năm........

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Trung tâm Thông tin Thư viện - Đại học Quốc gia Hà Nội
2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Hương ước là một cụm từ quen thuộc trong đời sống xã hội, lại cũng
là một chủ đề hấp dẫn các nhà nghiên cứu từ nhiều lĩnh vực học thuật khác nhau.
Việc nghiên cứu từ nhiều góc độ, với những khung lý thuyết, hệ phương pháp và
thước đo khác nhau đã đem đến một hiểu biết căn bản về lịch sử phát triển, về
vai trò của hương ước trong quản lý làng xã cổ truyền, về một loại hình văn bản
pháp luật của các cộng đồng xã hội cấp cơ sở; về hương ước Việt Nam trong đối
sánh với hương ước Trung Hoa và hương ước, luật làng của một số quốc gia
khác cùng chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa ở Đơng Bắc Á như Hàn
Quốc, Nhật Bản; về việc hình thành và đặc điểm của hương ước qua các thời kỳ;
về bài học kinh nghiệm trong việc quản lý xã hội Việt Nam đương đại…
Mặt khác, chính sự đa chiều trong cách tiếp cận, cũng như sự đa dạng của
hương ước theo bình diện và trắc diện hình thành nên những xu hướng nghiên
cứu hoặc đi sâu vào một/một số hương ước cụ thể để suy chiếu ra đặc tính
chung của hương ước Việt Nam, hoặc tìm hiểu những vấn đề lịch sử cụ thể
được phản ánh trong nguồn sử liệu; đi vào một lát cắt đồng đại, hoặc một lát cắt
lịch đại của hương ước Việt Nam. Trong khi đã có những chuyên gia hương
ước về một chuyên ngành nhất định như dân tộc học, sử học, luật học; hoặc về
một giai đoạn trong lịch sử phát triển hương ước như chuyên gia hương ước cổ,
hương ước cải lương, hay hương ước mới, vẫn còn thiếu vắng những nghiên

cứu bao quát và toàn diện về hương ước, đặc biệt nhìn hương ước trong sự liên
tục, với tính kế thừa và biến đổi theo thời gian cũng như sự tương đồng và dị
biệt của tính vùng miền theo khơng gian.
1.2. Một điểm gặp gỡ lớn trong giới nghiên cứu xưa nay là gắn hương
ước với làng xã, với nông thôn, một trong những hằng số của nền văn hóa Việt
Nam, yếu tố trội không chỉ xa xưa mà cả trong hiện tại. Trong khi đó, hương
ước ở một địa bàn mang tính chất “đơ thị” với những thơn, phường, trại hầu
như chưa được quan tâm. Liệu có hay khơng sự khác biệt giữa hương ước của
khu vực này với khối hương ước mà chúng ta vẫn thường biết trước nay? Thăng
Long-Hà Nội được biết đến với tư cách là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội trong chiều dài lịch sử nghìn năm của Việt Nam, hơn nữa lại là một trong
những nơi diễn ra thí điểm cải lương hương ước - nơi lưu dấu bước chuyển từ
hương ước cổ sang hương ước cải lương thực sự là một đối tượng đáng quan
tâm. Làm được điều đó, khơng chỉ giúp hiểu sâu hơn nguồn hương ước trên một
không gian địa lý xác định, mà với tính cách là một không gian đặc biệt - bộ
3


phận hương ước đơ thị, nó hứa hẹn sẽ góp vào hiểu biết chung, toàn diện hơn về
hương ước Việt Nam, cũng như khả năng giúp nhận diện sâu hơn sự chuyển
tiếp giữa hương ước cổ với hương ước cải lương hồi đầu thế kỷ XX.
1.3. Dù là loại hình tài liệu quen thuộc, song thực tế việc sử dụng, khai
thác nguồn tài liệu hương ước còn rất nhiều điều đáng bàn. Hiện tượng tùy tiện,
cẩu thả trong công bố giới thiệu tư liệu, đặc biệt việc thiếu tôn trọng tính tồn
vẹn của văn bản hay nhầm lẫn giữa các niên đại lập, sao hương ước dễ khiến
người sử dụng nhầm lẫn và hệ quả là sai lệch của kết quả nghiên cứu. Việc khai
thác có khi thiếu sự phê phán nghiêm túc, khi lại vì định kiến chủ quan mà coi
thường một bộ phận hương ước giá trị của sử liệu… Nghiên cứu hương ước
Thăng Long-Hà Nội sẽ góp phần chỉ ra một số nguyên tắc mang tính phương
pháp luận trong việc khai thác, sử dụng nguồn hương ước của Thăng Long-Hà

Nội nói riêng, mở rộng ra là của hương ước Việt Nam, hướng đến việc khai
thác đúng và hiệu quả hơn đối với nguồn tài liệu này.
1.4. Hương ước còn là vấn đề của thực tiễn đòi hỏi nhà nghiên cứu phải
nhận chân đầy đủ về bản chất, các yếu tố tác động đến sự hình thành và phát
triển của hương ước, đặc biệt mối quan hệ giữa yếu tố nội sinh/nhu cầu tự
thân/từ bên trong/từ bên dưới của chủ thể hương ước với yếu tố ngoại sinh/nhu
cầu kiểm sốt của nhà nước/từ bên ngồi/từ bên trên để việc thực hiện xây dựng
quy ước làng văn hóa (cịn được biết đến với tên gọi “hương ước mới”) hiện
nay có được hiệu quả thực sự, có sức sống trong đời sống xã hội. Để đưa ra lời
giải cho bài tốn hóc búa mà thực tiễn đang đặt ra cho các nhà quản lý cần phải
có một sự hiểu biết thấu đáo từ chính quá khứ đã qua. Việc nghiên cứu quá
trình phát triển hương ước Thăng Long-Hà Nội sẽ góp phần cung cấp luận cứ
khoa học cho việc xây dựng, quản lý xã hội cơ sở hiện đại.
2. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Góp phần tìm hiểu hương ước Việt Nam, từ lịch
sử hình thành và phát triển cho đến đặc điểm và giá trị sử liệu; Đánh giá giá trị
sử liệu của hương ước, đặc biệt đối với nghiên cứu đời sống xã hội Thăng Long
- Hà Nội trên cơ sở đặc điểm, tính chất của nguồn; Đóng góp vào cơ sở khoa
học cho việc triển khai xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước hiện nay.
Mục tiêu nghiên cứu: Nhận diện quá trình hình thành và chuyển đổi của
hương ước Thăng Long-Hà Nội, đặc điểm hình thức và nội dung của từng giai
đoạn; Từ hương ước Thăng Long-Hà Nội để đi đến nhận thức chung nhất về
lịch sử hình thành và những biến đổi hình thức và nội dung của hương ước Việt
Nam; Nhìn nhận khái quát mọi mặt của đời sống đô thị truyền thống Thăng
Long-Hà Nội.
4


Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Xác định tập hợp hương ước Thăng Long-Hà Nội trên cơ sở phê khảo

các yếu tố địa điểm hình thành và niên đại của các văn bản hương ước hiện
được lưu giữ tập trung ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Thông tin KHXH,
Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, cùng hương ước còn rải rác ở các cộng đồng cơ
sở đã được công bố trong những ấn bản gần đây.
- Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của hương ước Thăng LongHà Nội, bao gồm các điều kiện hình thành hương ước, các giai đoạn phát triển,
đặc điểm về hình thức, nội dung của từng giai đoạn đặt trong mối liên hệ đồng
đại với hương ước Việt Nam nói chung.
- Trên cơ sở những thông tin phản ánh của nguồn hương ước phác họa
những nét căn bản của đời sống xã hội Thăng Long - Hà Nội nhằm làm nổi bật
giá trị sử liệu căn bản của nguồn.
Đối tượng nghiên cứu: Hương ước Thăng Long - Hà Nội với tư cách
một nguồn sử liệu.
Phạm vi nghiên cứu:
Giới hạn thời gian: Luận án chỉ tập trung nghiên cứu các văn bản hương
ước được lập trước tháng Tám năm 1945, bao gồm hai khối hương ước cổ và
hương ước đã biến đổi thời cận đại.
Phạm vi không gian: Luận chỉ chọn nghiên cứu hương ước ở khu vực Hà
Nội truyền thống, hay “Hà Nội - Thăng Long”. Đó là vùng trung tâm Hà Nội
ngày nay, tương đương với các quận Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Ba Đình,
Đống Đa, phần lớn quận Tây Hồ, và một phần các quận Cầu Giấy, Thanh Xuân,
Hoàng Mai.
3. Nguồn tài liệu: Thư tịch cổ ; Các văn bản hương ước của Thăng Long - Hà
Nội ; Bia tục lệ; Tài liệu lưu trữ; Nghiên cứu liên quan đến hương ước.
4. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp sử liệu học; Phương pháp thống
kê; Phương pháp mô tả lịch sử; Phương pháp so sánh; Phương pháp bản đồ;
Các phương pháp lịch sử và phương pháp lơ gíc.
5. Đóng góp của luận án
- Làm sáng tỏ những đặc trưng hình thức và nội dung của khối hương ước
Thăng Long - Hà Nội với tư cách hương ước của đơ thị trong dịng chung
hương ước Việt Nam.

- Làm rõ giá trị phản ánh đời sống xã hội Thăng Long - Hà Nội của nguồn
sử liệu hương ước.
- Góp phần nhận thức đầy đủ, tồn diện và sâu sắc hơn về hương ước Việt
Nam, đặc biệt về điều kiện hình thành và các giai đoạn phát triển.
5


- Đóng góp vào cơ sở khoa học trong việc xây dựng và thực hiện hương
ước, quy ước hiện nay.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án
được cấu trúc thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan
Chương 2: Khái quát về hương ước và hương ước Thăng Long-Hà Nội
Chương 3: Các giai đoạn chuyển đổi của hương ước Thăng Long-Hà Nội
Chương 4: Đời sống xã hội Thăng Long-Hà Nội qua hương ước
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. Những cơng trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến đề tài
1.1.1. Các nghiên cứu về làng xã có đề cập đến hương ước
Đây là những sách chuyên khảo, tham khảo về các khía cạnh nhất định
của đời sống làng xã hoặc khái quát chung về làng xã. Mặc dù không chọn
hương ước làm đối tượng nghiên cứu, song ở những mức độ nhất định, các
nghiên cứu này đã phản ánh quan điểm của người nghiên cứu, từ định nghĩa,
đến chức năng, vai trò của hương ước trong đời sống làng xã Việt Nam.
1.1.2. Các nghiên cứu về cải lương hương chính
Những nghiên cứu này cung cấp hiểu biết chung về điều kiện ra đời, quá
trình phát triển của hương ước dưới điều kiện mới của thời Pháp thuộc hồi nửa
đầu thế kỷ XX.
1.2. Những cơng trình nghiên cứu về hương ước và hương ước Thăng Long
- Hà Nội

1.2.1. Các nghiên cứu về hương ước Việt Nam
1.2.1.1. Các nghiên cứu sử dụng hương ước làm nguồn tư liệu chính
30/125 tổng số đầu cơng trình thuộc nhóm này. Đây là những minh chứng
cụ thể, sinh động cho giá trị phản ánh của nguồn hương ước. Tuy nhiên, vì chỉ
quan tâm đến một khía cạnh nhất định nên các cơng trình này thiếu tính tổng
thể trong đánh giá trị của nguồn tài liệu này. Hơn nữa, nhìn vào thời gian, địa
bàn, khía cạnh nghiên cứu cho thấy sự lẻ tẻ, rời rạc.
1.2.1.2. Các sưu tầm, dịch thuật và cơng bố hương ước
27/125 đầu cơng trình bước đầu đem đến cho người nghiên cứu khả năng
tiếp cận tài liệu, và phản ánh ở mức độ nhất định nhận thức của tác giả về đặc
điểm giá trị nghiên cứu của loại văn bản này.
6


1.2.1.3. Các nghiên cứu lấy hương ước làm đối tượng
68/125 cơng trình chọn hương ước làm đối tượng nghiên cứu cho thấy từ
lâu nó đã thực sự được quan tâm nghiên cứu. Nhóm này có nội dung, góc tiếp
cận… rất đa dạng, từ những cơng trình đi vào các vấn đề chung, khái quát nhất
về hương ước, những nghiên cứu so sánh với hương ước của một số quốc gia
Đông Á khác nhằm nổi rõ đặc điểm của hương ước Việt Nam, cho tới chỉ tập
trung vào một (vài) văn bản hương ước cụ thể để từ nghiên cứu điểm mở rộng
khái quát nên những đặc điểm chung cho toàn bộ bức tranh hương ước Việt
Nam, lại cũng để phác họa nét riêng của hương ước ở một không gian, thời gian
cụ thể.
1.2.2. Các nghiên cứu về hương ước Thăng Long-Hà Nội
1.2.2.1. Các nghiên cứu hương ước với tư cách là dẫn liệu
3/15/125 nghiên cứu về đời sống làng xã dựa trên hương ước trước năm
1945 của Thăng Long-Hà Nội.
1.2.2.2. Sưu tầm, dịch thuật và cơng bố
7/15/125 cơng trình tuyển chọn, giới thiệu, dịch, sưu tầm giúp người quan

tâm tra cứu tương đối đầy đủ tài liệu hương ước cũng như tiếp cận toàn văn
bằng chữ quốc ngữ một phần hương ước Thăng Long - Hà Nội. Những phần
tổng quan với tính cách một bộ phận trong mỗi cơng trình cũng giới thiệu giá trị
chung của mỗi tập hợp văn bản.
1.2.2.3. Hương ước với tư cách là đối tượng nghiên cứu
5/15/125 cơng trình, ở mức độ nhất định, đã gợi ra nét riêng biệt, tính đơ
thị yếu của hương ước Thăng Long-Hà Nội, cũng như có khả năng giúp đem lại
cái nhìn so sánh hương ước Thăng Long-Hà Nội với khu vực nông thôn của Hà
Nội ngày nay. Tuy nhiên, hương ước chưa được đặt ra nghiên cứu một cách hệ
thống với tính cách một tổng thể trọn vẹn và đặc biệt - “hương ước đô thị”.
Hướng tiếp cận dưới góc độ sử liệu học cũng chưa từng được đặt ra đối với
hương ước Thăng Long-Hà Nội.
Tiểu kết chương 1
Hương ước là một nguồn sử liệu sớm có sức hấp dẫn người nghiên cứu,
và kết tinh là sự ra đời hàng trăm cơng trình đa dạng về hình thức (bài viết, đề
tài nghiên cứu, khóa luận, luận văn, luận án, chuyên khảo), phong phú về thể
loại (công bố, giới thiệu, dịch thuật, nghiên cứu), khác biệt về hướng tiếp cận,
phạm vi nghiên cứu… Một số vấn đề chung nhất về hương ước Việt Nam cũng
7


như phần nào hương ước cụ thể đã được giới thiệu, nghiên cứu; đã xuất hiện
chuyên gia thường là về một thời kỳ phát triển hoặc ở một khía cạnh phản ánh
(lịch sử, văn bản học, pháp lý,...) của hương ước- những người dành nhiều công
sức, thời gian và cho “trình làng” nhiều cơng trình khoa học như Vũ Duy Mền,
Bùi Xuân Đính, Phạm Thị Thùy Vinh, Đào Trí Úc...
Tuy nhiên, so với tiềm năng nghiên cứu, trữ lượng hương ước và đòi hỏi
của nhu cầu khoa học và thực tiễn thì những kết quả nghiên cứu kể trên vẫn còn
hạn chế. Thứ nhất, để đi đến một hiểu biết đầy đủ, toàn diện và sâu sắc về
hương ước Việt Nam thì yêu cầu nghiên cứu một cách hệ thống tồn bộ hương

ước Việt Nam là khơng thể né tránh. Khối lượng hương ước đã được sử dụng
thực ra vẫn chưa nhiều, mà phần còn lại tương đối đồ sộ, lại rải rác ở nhiều nơi,
nên trước mắt cần đẩy mạnh sưu tầm, dịch thuật, công bố và nghiên cứu các tập
hợp hương ước theo phạm vi không gian và thời gian xác định. Thứ hai, mặt
khác của sự đa dạng trong tiếp cận, trong mối quan tâm lại khiến một số vấn đề
chung về hương ước Việt Nam chưa đạt được sự thống nhất (khái niệm hương
ước, các giai đoạn phát triển…). Thứ ba, trong khi tập trung vào từng giai đoạn,
địa bàn, lĩnh vực nhất định, thì lại thiếu vắng những chuyên khảo nhìn hương
ước Việt Nam theo suốt chiều dài lịch sử, hay trong tính liên tục, tính kế thừa,
chuyển tiếp giữa các thời kỳ lịch sử. Thứ tư, tính đa dạng của hương ước đã
được đề cập, song có một điểm chung là về cơ bản các nhà nghiên cứu đều nhìn
hương ước với tư cách một sản phẩm của xã hội nông thôn Việt Nam, phản ánh
cái xã hội ấy. Hương ước ở đô thị, như Thăng Long-Hà Nội có đặc điểm, ý
nghĩa, giá trị ra sao chưa từng được quan tâm với tư cách một bộ phận riêng của
hương ước Việt Nam, càng chưa từng được tiếp cận dưới góc độ sử liệu học.
Nghiên cứu tổng thể hương ước Thăng Long - Hà Nội với tư cách một đô
thị lâu đời và tiêu biểu của Việt Nam, như vậy một mặt được kế thừa những kết
quả nghiên cứu đi trước, mặt khác có khả năng đáp ứng được yêu cầu tiếp tục
nghiên cứu đối với chủ đề này: không chỉ để hiểu đặc trưng của hương ước
trong lịch sử phát triển và biến đổi ở một phạm vi khơng gian, mà cịn là một
khơng gian đặc biệt - đô thị truyền thống tiêu biểu của Việt Nam, từ đó đi đến
những hiểu biết thấu đáo hơn về hương ước Việt Nam nói chung.
Nghiên cứu về nguồn sử liệu hương ước Thăng Long - Hà Nội trước năm
1945, vì vậy, là một đề tài hồn tồn khơng trùng lặp với các cơng trình nghiên
cứu đi trước.

8


CHƯƠNG 2. KHÁI QUÁT VỀ HƯƠNG ƯỚC VÀ

HƯƠNG ƯỚC THĂNG LONG - HÀ NỘI
2.1. Khái niệm hương ước
Thực tế nghiên cứu và giới thiệu hương ước Việt Nam, có thể thấy về cơ
bản hương ước được hiểu theo hai nghĩa rộng và hẹp. Trong luận án này, chúng
tôi sử dụng khái niệm hương ước với nghĩa rộng, bao gồm tất cả những văn bản
quy ước của mọi cộng đồng, tổ chức xã hội liên quan đến đơn vị hành chính cơ
sở ở Thăng Long - Hà Nội.
2.2. Sưu tập hương ước Việt Nam
2.2.1. Sưu tập hương ước tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Kho sách tục lệ tại Viện Nghiên cứu Hán Nơm bao gồm hơn 700 đầu tài
liệu, trong đó chủ yếu là phơng sách kí hiệu AF, gồm 647 văn bản chép tay từ
các địa phương gửi đến trong dịp sưu tầm và xây dựng kho tư liệu Hán Nôm
của Viễn đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội vào những năm đầu thế kỷ XX.
2.2.2. Sưu tập hương ước tại Viện Thông tin Khoa học Xã hội
Gồm hơn 5000 đầu tài liệu hương ước chữ quốc ngữ, chủ yếu được viết
tay, soạn thảo vào nửa đầu thế kỷ XX và hơn 1200 văn bản hương ước chữ Hán
Nôm, trong đó khoảng trên 50 văn bản được soạn vào các thế kỷ XVIII, XIX,
còn lại là thế kỷ XX.
2.2.3. Hương ước lưu giữ tại những nơi khác
Hương ước còn nằm ở hệ thống các thư viện, lưu trữ của trung ương và
cấp tỉnh; các cơ quan nghiên cứu. Một số lượng chưa được thống kê, nhưng
chắc chắn là không hề nhỏ hiện vẫn lưu lạc trong các cộng đồng sản sinh ra
chúng.
2.3. Về hương ước Thăng Long-Hà Nội
2.3.1. Địa điểm hình thành
4 trường hợp xuất hiện nhiều địa danh trên cùng văn bản, 3 trường hợp có
sự vênh mang tính đồng đại giữa địa danh trang bìa với nội dung hương ước, và
7 địa danh không rõ đã được xác định rõ.
2.3.2. Niên đại
Làm rõ niên đại của 7 hương ước có thơng tin, xác định niên đại lập đối

với 12 hương ước không ghi năm lập dựa trên thông tin phê duyệt, nội dung
hương ước…
2.3.3. Bản gốc và bản sao
Trong số hương ước này, có 2 văn bản gốc; 1 chỉ có chữ ký Thư ký; 5
trường hợp khơng có dấu chứng thực, trong đó có hai văn bản in; cịn lại là các
bản sao được chứng thực, có giá trị pháp lý ngang bằng với bản gốc.

9


2.3.4. Phân loại
2.3.4.1. Phân loại theo tên gọi
Tên gọi rất đa dạng, trong đó phổ biến nhất là Hương ước (33 lần) và
Khoán lệ (9 lần), Điều lệ và Bạ (đều 4 lần), Tục lệ (2 lần); Lệ, Khoán bạ, Khoán
ước, Lư sử, Lệ bạ, Hương tục (1 lần).
2.3.4.2. Phân loại theo loại hình
Loại hình hương ước chiếm chủ đạo (50/61 văn bản) so với loại hình
khốn ước (11/61 trường hợp). Càng về sau loại hình hương ước càng chiếm
ưu thế.
2.3.4.3. Phân loại theo chữ viết
Có tất cả 22 văn bản chữ Hán, 16 hương ước Nôm, và 23 hương ướcc
quốc ngữ. Hương ước chữ Hán được lập từ năm 1910 (Duy Tân 1) trở về trước,
văn bản Nôm từ 1915-1942, văn bản quốc ngữ từ năm 1920 trở về sau.
2.3.4.4. Phân loại theo các giai đoạn phát triển
Được sử dụng phổ biến, song vẫn còn một số vấn đề chưa thống nhất
trong cách phân chia này, liên quan đến tên gọi cũng như mốc thời gian phân
định giữa các giai đoạn.
Tiểu kết chương 2
Được định nghĩa và sử dụng với nhiều hàm nghĩa khác nhau, song về cơ
bản hoặc được xem là tất cả những tục lệ liên quan đến một cộng đồng ở đơn vị

cơ sở là làng, phường… đã được văn bản hóa, hoặc chỉ là dạng hoàn thiện, đầy
đủ nhất của tục lệ đã được văn bản hóa, có khả năng điều chỉnh hành vi của mọi
thành viên trong làng. Trải qua biến thiên của lịch sử, hương ước Việt Nam
trước 1945 hiện không chỉ nằm rải rác ở nơi sản sinh ra chúng, mà một phần đã
được tập hợp trong nhiều cơ quan lưu trữ, thư viện của tỉnh, của Viện nghiên
cứu, trong đó lớn nhất là tại Viện NCHN và Viện TTKHXH.
Về cơ bản, hương ước Thăng Long-Hà Nội trong phạm vi nghiên cứu là
các bản sao được chứng thực, có giá trị pháp lý ngang bằng với bản gốc. Trên
văn bản ngưng đọng dấu ấn của nhiều lớp niên đại, của những địa danh khác
nhau. Mức độ thông tin về các yếu tố địa điểm, khơng gian hình thành sử liệu
cũng chênh lệch nhau, có hương ước q nhiều thơng tin đến mức dễ gây
“nhiễu loạn”, trường hợp khác lại thiếu rõ ràng, và khơng loại trừ những nhầm
lẫn vơ tình trong q trình biên soạn, sao chép. Bên cạnh đó, hiện tượng điều
chỉnh, sửa đổi, bổ sung hương ước cũng dễ làm người nghiên cứu bối rối.
Trên cơ sở kiểm chứng các niên đại và địa điểm đã có, xác định những
văn bản chưa có hoặc chưa đủ thơng tin về thời gian, địa điểm soạn hương ước
10


dựa trên nội dung và hình thức của văn bản (với các chỉ báo về mặt địa danh,
con dấu,...) cũng như đối chiếu với tài liệu khác (địa bạ, nghiên cứu của người
khác), chúng tôi xác định được 61 văn bản của 59 đơn vị thuộc 11/13 tổng của
Thăng Long-Hà Nội, có niên đại từ cuối thế kỷ XVIII đến trước năm 1945. Đây
là số lượng, mật độ và khung niên đại khiêm tốn so với mật độ hương ước Việt
Nam nói chung, thành phố Hà Nội nói riêng. Với giới hạn không gian và thời
gian của hương ước Thăng Long - Hà Nội, có vẻ như người ta chỉ có thể trơng
đợi khả năng phản ánh khá hạn hẹp về những bộ phận nhỏ lẻ của đô thị Thăng
Long - Hà Nội cuối thời phong kiến và thời thuộc Pháp ở nguồn tư liệu này.
Dù không nhiều song hương ước Thăng Long-Hà Nội vẫn có sự đa dạng
về tên gọi, loại hình, niên đại, chữ viết mà nhà nghiên cứu có thể sử dụng làm

tiêu chí phân loại. Hương ước và khoán ước là hai tên gọi phổ biến hơn cả,
loại hình hương ước chiếm chủ yếu, trong một văn bản có thể xuất hiện nhiều
kiểu văn tự, song dựa trên ngơn ngữ chính thì văn bản Hán Nơm chiếm hơn
phân nửa.
Từ thực tế giới thiệu và nghiên cứu hương ước, có một số hiện tượng
khơng phân biệt rõ giữa các yếu tố, chẳng hạn niên đại hình thành với niên đại
sao chép, hoặc khơng tơn trọng tính tồn vẹn, nguyên bản trong việc giới thiệu
tư liệu, dẫn tới những nhận thức không đúng đắn khi sử dụng các thông tin từ
tài liệu tái dựng lại quá khứ đã qua. Vì vậy, để có những nghiên cứu hiệu quả,
phê phán một cách cẩn trọng nguồn gốc xuất xứ tài liệu là một yêu cầu mang
tính bắt buộc.
CHƯƠNG 3. CÁC GIAI ĐOẠN CHUYỂN ĐỔI
CỦA HƯƠNG ƯỚC THĂNG LONG - HÀ NỘI
3.1. Hương ước cổ (trước năm 1906)
3.1.1. Sự xuất hiện
Đặc điểm dân cư không thuần nhất đã tác động đến sự ra đời muộn và ít
của hương ước Thăng Long-Hà Nội. Mặt khác, nhu cầu tồn tại và phát triển của
cư dân đô thị lại là lực đẩy cho sự phát triển của loại hình khốn ước. Q trình
“nơng thơn hóa” Thăng Long - Hà Nội đầu thế kỷ XIX cũng có tác động tới
việc hình thành và phát triển của hương ước khu vực này.
3.1.2. Đặc điểm hình thức
16 văn bản chữ Hán, phần nhiều viết tay và là bản sao chép. Về cơ bản có
một cấu trúc chung, với số điều khoản đa dạng, từ dưới 10 cho tới trên 50 điều.
Hương ước được tục biên để đáp ứng u cầu của thực tế, song nhìn chung có
hình thức đơn giản, ngắn gọn và mang tính trọn vẹn hơn so với các vùng khác.
11


3.1.3. Đặc điểm nội dung
Nội dung đa dạng, có sự khác biệt giữa các cộng đồng thể hiện rõ đặc

điểm “văn bản hóa tục lệ” của hương ước. Với mục đích đảm bảo sự ổn định,
duy trì trật tự của xã hội nên nội dung hương ước tập trung vào các vấn đề xã
hội và tế tự, đồng thời cũng bảo vệ tôn ti trật tự của một xã hội chịu ảnh hưởng
của Nho giáo khá sâu đậm.
3.2. Hương ước giai đoạn chuyển tiếp (từ năm 1906 đến trước ngày 12-8-1921)
3.2.1. Điều kiện ra đời
Từ khoảng năm 1906 chính quyền một số tỉnh Bắc Kỳ, trong đó có Hà
Đơng đã chủ trương can thiệp vào đời sống chính trị ở cấp cơ sở, từng bước can
thiệp vào việc biên soạn hương ước.
3.2.2. Đặc điểm hình thức
Dù chỉ trong một thời gian ngắn song giai đoạn này lại chứng kiến sự đa
dạng cũng như nhiều biến chuyển lớn về mặt hình thức. Cấu trúc hương ước hai
phần Chính trị và Tục lệ đã dần hình thành, cuối năm 1920-1921 xuất hiện
hương ước biên soạn theo mẫu. Tuy nhiên, vẫn thấy được sự khác biệt về điều,
mục của hương ước, phản ánh đặc điểm riêng của các cộng đồng.
3.2.3. Đặc điểm nội dung
Từ chỗ các điều khoản đa dạng theo nhu cầu của cộng đồng, dần dần
hương ước đã được “cấy” vào các nhân tố chính trị mới vào cũng nâng nội dung
quy định về bộ máy quản lý làng xã lên thành một nội dung căn bản. Cho đến
cuối năm 1920-trước 12/8/1921, các khía cạnh nội dung phản ánh của hương
ước về cơ bản là giống nhau giữa các cộng đồng.
3.3. Hương ước cải lương (từ sau ngày 12-8-1921 đến trước tháng 8 năm 1945)
3.3.1. Bối cảnh lịch sử
Ngày 12-8-1921, Thống sứ Bắc Kỳ đã ra Nghị định tiến hành cải lương
hương chính chính thức ở Bắc Kỳ. Cho đến trước tháng 8/1945, chính quyền
thực dân can thiệp vào việc biên soạn và quản lý hương ước thông qua việc ban
hành một mẫu hương ước với những nội dung định sẵn và các làng có nhiệm vụ
điền thêm thơng tin vào mẫu.
3.3.2. Đặc điểm hình thức
Khác với giai đoạn chuyển tiếp trước đó, đến đây hình thức các văn bản

hương ước có sự tương đồng cao do được biên soạn theo mẫu. Căn bản vẫn là
các bản hương ước chữ quốc ngữ, có dung lượng, số điều khoản ít nhiều khác
biệt. Tính khn mẫu thể hiện rõ ràng ở sự vênh giữa mục lục và nội dung, biểu
hiện của việc biên soạn lấy lệ với nhiều mục bỏ trống, những quy định mang
tính giả định hoặc đưa vào thì tương lai… Tuy nhiên, phân tích hệ thống về mặt
12


hình thức vẫn thấy được đặc điểm kinh tế, xã hội… có tác động nhất định đến
sự khác biệt về hình thức hương ước giữa các cộng đồng.
3.3.3. Đặc điểm nội dung
Hương ước cải lương là những văn bản “lệ làng hóa phép nước”. Một
mặt, tính khn mẫu làm cho hương ước giảm tính sinh động, đa dạng, mang
bản sắc rõ rệt của các cộng đồng chủ thể. Mặt khác, việc đưa về một mẫu chung
với khá đầy đủ các mặt quy ước về đời sống làng thôn, phường, trại, rõ ràng đã
tăng khả năng cung cấp thông tin đầy đủ và đa dạng về đời sống cộng đồng cơ
sở xã hội, tăng khả năng khai thác của nhà nghiên cứu.
Tiểu kết chương 3
Với tư cách trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa, Thăng Long Hà Nội
đã thu hút những luồng di dân từ bốn phương tụ hội. Đặc điểm đa dạng về dân
cư đã tạo nên những cộng đồng không thuần nhất về mặt nguồn gốc, thành
phần, nhu cầu… khác với khối dân cư làng xã mang tính ổn định tương đối. Đó
khơng phải là điều kiện thuận lợi thúc đẩy hương ước phát triển. Nhưng rồi
cũng chính ở nơi bốn phương tụ hội, trung tâm trời đất ấy, để tồn tại và phát
triển, cư dân đô thị lại phải cố kết với nhau trong các tổ chức xã hội, hình thành
nên hương ước của giáp, Hội... Điều kiện hình thành hương ước ở Thăng Long
- Hà Nội, vì lẽ đó phần nào có khác biệt với hương ước Việt Nam nói chung.
Đó cũng là lý do giải thích hương ước Thăng Long - Hà Nội, dù khơng phải
hình thành muộn và ít ỏi như thoạt nhìn, thì vẫn thật sự hình thành muộn với
mật độ thưa thớt và chậm nhịp hơn khi đặt trong dòng chung của lịch sử hương

ước Việt Nam.
Hương ước Thăng Long-Hà Nội chủ yếu hình thành dưới thời Nguyễn,
khi vùng đất này đã bị nơng thơn hóa, những hương ước này có thể xem là
những hương ước Nguyễn đặc trưng, tương đối trọn vẹn. Đây là những văn bản
văn bản hóa tục lệ trong khuôn khổ phép nước nên mang “cá tính” của cộng
đồng với sự đa dạng về hình thức và nội dung phản ánh, đồng thời nội dung
hương ước khơng vượt ngồi, đi ngược lại khn khổ luật pháp của nhà nước,
và dù khơng có khn mẫu, các hương ước vẫn tuân theo một cấu trúc chung,
với sự tham gia biên soạn và chịu trách nhiệm của những người đứng đầu cộng
đồng, trong đó có cả các bậc triều quan. Dầu sao thì vai trị của Nhà nước
phong kiến trong việc quản lý hương ước cũng có vẻ mờ nhạt hơn.
Các hương ước nhằm duy trì ổn định, trật tự của cộng đồng nên tập trung
phản ánh ở hai khía cạnh xã hội và tế tự. Để đảm bảo việc thực thi hương ước,

13


các quy định thưởng phạt xuất hiện khá dầy dặn, cũng tập trung ở các khía cạnh
này, đồng thời bảo vệ tính tơn ti trật tự và tính tự trị của cộng đồng.
Từ khoảng năm 1906 cho đến trước Nghị định tháng 8 năm 1921, hương
ước Thăng Long - Hà Nội bước vào một giai đoạn phát triển mới, một giai đoạn
đặc biệt - giai đoạn chuyển tiếp - trong lịch sử hương ước. Đây là một quá trình
biến chuyển từng bước từ quỹ đạo của hương ước cổ sang hương ước cải lương,
trong đó các yếu tố của hương ước cổ vẫn tồn tại nhưng dần được thay thế bằng
những yếu tố mới của hương ước cải lương. Trước hết, thay vì nhà nước chỉ
đóng vai trị kiểm sốt để các tục lệ khi văn bản hóa khơng phạm trái với luật
pháp, chính quyền thực dân Pháp muốn lợi dụng hiệu quả của hương ước trong
quản lý xã hội, quản lý con người từng bước đưa ra chủ trương biên soạn hương
ước cải lương, từ chỗ khuyến khích đến hình thành văn bản mẫu áp dụng đồng
loạt, trong đó muốn hiện thực hóa các chủ trương, chính sách cải lương hương

chính, “lệ làng hóa phép nước” nhằm giữ vững an ninh trật tự, nền nếp, sự ổn
định của nông thôn. Thực dân Pháp nhận thấy phải dựa vào làng xã mới quản lý
được làng xã nên một mặt đã đưa luật pháp của nhà nước bảo hộ vào hương ước,
tăng quyền cho lực lượng quản lý làng xã nhằm nắm chặt họ để quản lý xã hội,
mặt khác cố níu kéo truyền thống nên một số nội dung dần được “cấy” vào khiến
hương ước ngày càng thêm dày dặn, phong phú hơn về nội dung phản ánh.
Nội dung phản ánh của hương ước đi từ chỗ đa dạng, khác biệt nhiều giữa
các cộng đồng ở giai đoạn đầu, đến chỗ cơ bản giống nhau khi hương ước mẫu
được áp dụng. Ở một góc độ nhất định, chính việc cấy ghép những “khoản,
mục” theo ý đồ cai trị của thực dân Pháp đã làm cho lĩnh vực phản ánh của
hương ước được dầy dặn và phong phú hơn, thay vì chỉ tập trung ở các khía
cạnh thờ cúng và sinh hoạt cộng đồng theo nhu cầu quản lý của từng nơi. Tuy
nhiên, tính khn mẫu của hương ước khiến nhà nghiên cứu phải có sự đối
chiếu, so sánh thật cẩn trọng, bởi những quy định đơi khi chỉ mang tính hình
thức mà thơi. Mặc dù vậy, nhìn một cách tổng thể, ngay cả trong giai đoạn
hương ước được soạn theo mẫu, bản sắc riêng của cư dân đô thị vẫn được phản
ánh, đặc biệt ở khía cạnh ruộng đất.
Tất nhiên, luật pháp của nhà nước bảo hộ không phải là luật pháp mang
tính cơng bằng cho mọi cơng dân, nên bản chất của hương ước vẫn bảo vệ
quyền lợi của thực dân và bộ phận quản lý làng xã bản xứ mà họ muốn nắm giữ
trong tay nhằm phục vụ cơng cuộc khai thác thuộc địa. Bên cạnh đó, dù có ít
nhiều sự cải biến về mặt phong tục, song về cơ bản chúng được duy trì, vì thế
khơng tránh khỏi ngun tắc bảo vệ tính tự trị của thơn, phường trại cũng như
14


bảo vệ tôn ti trật tự của xã hội ấy. Nét tiêu cực này của hương ước cải lương, ít
nhiều có sự tương đồng với hương ước cổ.
So với một số địa phương khác cùng có bước vận động cải lương hương
chính sớm vào những năm 1906-1907, hương ước Thăng Long - Hà Nội có

bước đi chậm hơn, nhưng chắc chắn, để rồi trở thành điển hình, và bản hương
ước mẫu hình thành, rồi hiện diện trong 9 bản hương ước cải lương cuối năm
1920-1921 đã được đem áp dụng rộng rãi sau này. Chính vì thế, phần lớn những
nơi có hương ước “cải lương” trong giai đoạn này vẫn sử dụng hương ước cho
đến hết thời thuộc Pháp. Hương ước Thăng Long - Hà Nội, vì thế cịn là nguồn
tài liệu quý giá để tìm hiểu về cải lương hương chính ở Bắc Kỳ hồi đầu thế kỷ
XX.
Ở một góc độ nhất định thì thực dân Pháp đã thành cơng trong việc “lệ
làng hóa phép nước” để thực hiện mục tiêu cai quản xã hội thuộc địa, đặc biệt là
ở giai đoạn thí điểm cải lương hương ước, với kết quả là sự ra đời của hàng loạt
hương ước cải lương theo mẫu vào cuối năm 1920, đầu năm 1921 và được tiếp
tục duy trì ở giai đoạn sau đó. Tuy nhiên, khi mất đi sự cân bằng giữa nhu cầu
quản lý từ bên trên với nhu cầu nội tại của cộng đồng, nhất là khi nhà nước can
thiệp q thơ bạo vào q trình biên soạn hương ước, thì hương ước sẽ chỉ cịn
mang tính hình thức, thậm chí khơng tn thủ Nghị định của nhà nước.
CHƯƠNG 4. ĐỜI SỐNG XÃ HỘI THĂNG LONG - HÀ NỘI
QUA HƯƠNG ƯỚC
4.1. Các vấn đề chính trị-xã hội
4.1.1. Đặc điểm dân cư và vấn đề quản lý dân ngụ cư
Kết cấu dân cư đa dạng, trong đó nổi bật lên hình ảnh của thị dân, của
người nhập cư. Cũng vì vậy, quản lý dân ngụ cư trở thành vấn đề được tập
trung phản ánh trong hương ước. Các cộng đồng có sự phân chia dân ngụ cư để
quản lý, quy định rõ trách nhiệm của người bảo lãnh và cho trú ngụ.
4.1.2. Bộ máy quản lý cấp cơ sở
4.1.2.1. Bộ máy quản lý hành chính
Các chức Lý trưởng, Phó lý, Trương tuần, Khán thủ, Thủ lộ được phản
ánh khá tập trung trong hương ước với các thông tin về tư cách, tiêu chuẩn, thời
hạn, trách nhiệm, quyền lợi.
4.1.2.2. Bộ máy tự quản


15


Thông tin về bộ phận kỳ mục khiêm tốn hơn so với đội ngũ chức dịch.
Những chức danh được phản ánh tập trung nhất gồm Tiên chỉ, Thứ chỉ, Hương
trưởng.
4.1.3. Một số thiết chế tự quản
4.1.3.1. Giáp
Giáp là tổ chức xã hội quen thuộc nhưng không kém phần phức tạp, đa
dạng. Các kiểu giáp khác nhau đan xen trong cộng đồng, làm cho tổ chức này
càng trở nên mờ ảo, ẩn tàng và phức tạp. Giáp có lệ riêng, có chức năng canh
phịng, lễ lạt, chia ruộng, đóng góp sưu thuế..., chào đón đinh nam đến với cộng
đồng và tiễn biệt con người về thế giới bên kia, trong đó tế tự và tang ma là
những chức năng nổi bật.
4.1.3.2. Hội Tư văn
Tổ chức tư văn tập hợp những người có học hành, đỗ đạt, thậm chí cả
những người có tiền bỏ ra để mua chân tư văn, là một hệ thống dọc với tư văn
thôn, phường, trại, Văn hội của tổng, của huyện. Chức năng chính của Hội thể
hiện trong việc tế tự, lễ nghi của cộng đồng, được vận hành dựa trên quỹ ruộng
đất do quyên góp, cúng tiến, hay thôn, phường, trại giao cho.
4.1.4. Quản lý nếp sống
Hương ước có một số quy định về khía cạnh giữ gìn mơi trường vật chất
và lối sống lành mạnh của cư dân Thăng Long-Hà Nội như vấn đề vệ sinh, việc
cờ bạc, hút thuốc phiện.
4.1.5. Quản lý trật tự trị an
Việc tuần phịng bảo vệ đồng điền, trơng coi trộm cắp trong thôn,
phường, trại,… được phản ánh qua những khía cạnh lứa tuổi, tên gọi, quyền
lợi, trách nhiệm của người đi tuần.
4.2. Một số khía cạnh của đời sống kinh tế
4.2.1. Tình hình đất đai

4.2.1.1. Các số liệu tổng quát
Ruộng đất được phản ánh tương đối phổ biến với 134 điều khoản quy định
riêng trong 42/59 văn bản hương ước, tương đương với trên 2/3 hương ước có từ
1 đến hàng chục điều khoản quy định riêng về ruộng đất; 224 điều khoản bao
gồm cả quy định về các mặt khác của cộng đồng chủ thể, trong 43 hương ước.
4.2.1.2. Cách thức sử dụng ruộng đất công
Các cộng đồng làng, thơn, phường, trại ở Thăng Long-Hà Nội có diện
tích nhỏ, đất chật, người đơng, ruộng đất cơng nếu có cũng rất ít. Mỗi cộng
16


đồng lại có những cách thức sử dụng riêng, tạo nên một bức tranh sử dụng
ruộng đất đa dạng, kết hợp nhiều cách thức khác nhau, trong đó phần lớn là
dành cho hoạt động tế tự và đấu giá hay cho thuê để công dùng.
4.2.2. Kết cấu kinh tế
4.2.2.1. Nông nghiệp
Hiện lên rất mờ nhạt, chủ yếu thông qua những quy định về sự vệ nơng,
canh phịng, đắp đường khuyến nông, trong các hương ước cải lương. Đáng chú
ý là một số trường hợp làng chuyên nghề chài lưới hoặc trồng rau, nuôi tằm.
4.2.2.2. Các nghề thủ công nghiệp
Cụm làng nghề giấy vùng ven Hồ Tây, nghề làm vàng bạc ở phố Hàng
Bạc... phản ánh được phần nào đặc trưng tiêu biểu của Thăng Long - Hà Nội: sự
xuất hiện của những làng nghề, phố nghề thủ công nghiệp.
4.2.2.3. Thương nghiệp
Ít thơng tin, được đề cập trong hương ước một số làng nghề, phản ánh
mối quan hệ giữa nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp ở Việt Nam
truyền thống.
4.3. Vài nét về đời sống văn hóa-tín ngưỡng
4.3.1. Phong tục tập quán
4.3.1.1. Cheo cưới

Hương ước quy định thủ tục cưới xin cũng như trách nhiệm của gia đình
hơn chủ đối với cộng đồng, nhất là vấn đề nộp cheo. Hình thức cheo lệ có sự
khác biệt mang tính đồng đại và lịch đại.
4.3.1.2. Tang ma
Những quy ước ràng buộc hai chiều giữa gia đình tang chủ với cộng đồng
là khía cạnh chủ yếu của đời sống tang ma được phản ánh trong hương ước. Ở
đây có sự đa dạng trong tang lệ, trong thủ tục… giữa các cộng đồng, phản ánh
đời sống xã hội Thăng Long-Hà Nội một cách sinh động.
4.3.2. Tín ngưỡng
4.3.2.1. Cơ sở thờ tự
Kết nối các đền, chùa, đình, miếu… được đề cập giúp hình dung về một
hệ thống cơ sở vật chất phục vụ hoạt động tế tự tại đô thị Thăng Long - Hà Nội
với đa dạng các loại hình miếu vũ cũng như mật độ khá dày đặc ở những cộng
đồng đất chật người đông này.
4.3.2.2. Các lễ tiết
Hệ thống lễ tiết dày đặc, trong đó những lễ tiết có mật độ cộng đồng
thực hiện cao mang tính phổ biến trong đời sống người nông dân Việt ở đồng
17


bằng Bắc Bộ, nhưng việc thời gian tổ chức xê dịch lớn, thậm chí nhiều tháng
trời, cùng với mật độ không hẳn lớn so với những lễ tiết khác phản ánh cái gốc
gác, cái căn tính nơng dân vẫn cịn đậm nét trong cư dân đô thị. Những lễ tiết
khác có tên và khơng rõ tên gọi, dù mật độ tập trung thấp hơn song lại biểu
hiện cho sự đa dạng, riêng biệt của đời sống tín ngưỡng cư dân đơ thị Thăng
Long - Hà Nội.
4.3.2.3. Chi phí
Chi phí cho việc tế tự được lấy từ nhiều nguồn, trong đó tiền cơng và
đóng góp là hai hình thức phổ biến nhất.
4.3.3. Giáo dục

Khía cạnh giáo dục hiện lên qua những quy ước khuyến học, từ miễn trừ
tạp dịch, tuần phòng… cho học trò, kẻ sĩ, tới lệ mừng, khao vọng đối với người
đỗ đạt. Một số nơi có riêng qũy khuyến học gồm ruộng đất, tiền bạc.
Tiểu kết chương 4
Chắt lọc từ những thông tin chi tiết, đa dạng, sinh động mà cũng tản mạn,
thậm chí rời rạc của hương ước Thăng Long-Hà Nội, một bức phác họa đời
sống xã hội Thăng Long - Hà Nội hiện lên với những nét đậm nhạt, ẩn hiện
khác nhau bởi hương ước phản ánh mọi mặt của đời sống xã hội nhưng ở mỗi
mặt lại chỉ tập trung thông tin ở một vài khía cạnh nhất định.
Tục kết chạ, các mối giao lưu về mặt văn hóa tín ngưỡng, những luồng di
cư và nhập cư làm cho Thăng Long-Hà Nội có một kết cấu dân cư đa dạng về
nguồn gốc, ngành nghề, thân phận. Trong một xã hội tương đối mở ấy, hình ảnh
người nông dân tương đối mờ nhạt so với thị dân, đồng thời những người nhập
cư khá nổi bật. Các cộng đồng quản lý chặt chẽ đối tượng này với yêu cầu về
phẩm chất, nghề nghiệp và trách nhiệm của người cho thuê hay giới thiệu, trong
đó có sự phân biệt giữa những người tới trú ngụ lâu dài với những người thuê
ngụ tạm thời để làm việc, bán buôn... Bên cạnh đó, các cộng đồng cũng đưa ra
những quy định quản lý nếp sống như vấn đề vệ sinh, cờ bạc, hút sách, la cà
hàng quán và bảo vệ đồng điền cũng như tuần phịng trong thơn, phường, trại.
Trong xã hội ấy, bộ máy quản lý không khác với khu vực nông thôn là
mấy, song do công việc nặng nề, phức tạp ở nơi dân cư tương đối hỗn tạp nên
nhiều nơi có sự khuyến khích đối với người đứng ra gánh trách nhiệm lâu dài,
đồng thời cũng yêu cầu cao hơn đối với những chức vụ đó. Một số tổ chức xã
hội như giáp, hội đan xen, mang sắc màu riêng của từng thơn, phường, trại,
thậm chí chuyển hóa lẫn nhau gợi lên một lịch sử quanh co, phức tạp trong đời
sống hành chính, chính trị ở cấp độ vi mô của Thăng Long - Hà Nội.
18


Phần lớn thôn, phường, trại đất chật lại đông người, đất công về cơ bản

đem chia cho các thành viên làm nhà ở, ở khu vực phố phường buôn bán dành
một phần cho thuê làm cửa hàng cửa hiệu lấy tiền sung cơng. Ruộng cơng nếu
có cũng khơng đáng kể trừ một vài nơi thuộc vùng ven phía nam Thăng LongHà Nội lại chia sẻ cho nhiều mục đích dưới nhiều hình thức sử dụng khác nhau,
từ trả lương chức dịch, chia cho các tổ chức xã hội, đấu giá, cho thuê, cấy lượt,
để làm ruộng thờ và một phần đem quân cấp làm ruộng khẩu phần. Chính bởi
vậy, ruộng đất ở đây không đủ để đảm bảo nguồn sống cho các thành viên, mà
để bù đắp họ phải làm các mặt hàng thủ công, buôn bán... Nghề nông nghiệp,
các tục lệ liên quan đến hoạt động sản xuất nông nghiệp mờ nhạt trong khi
thông tin về làng nghề, phố nghề dù chỉ là vài nét chấm phá nhưng cũng khá ấn
tượng so với hương ước của các làng xã Bắc Bộ thuần nông.
Phong tục tập quán trong cheo cưới, tang ma; các quy định khuyến học
cùng những thông tin đa dạng về hệ thống cơ sở thờ tự, đối tượng thờ cúng, chi
phí tế tự của Thăng Long-Hà Nội cũng hiện lên tương đối rõ ràng.
Nhìn một cách khái quát, đời sống xã hội của Thăng Long - Hà Nội có sự
tương đồng, nằm trong mối liên hệ tương tác, và chịu ảnh hưởng của đời sống
xã hội ở làng xã Việt Nam đương thời. Tuy nhiên, cạnh sự tương đồng về cơ
bản vẫn có sự “dị biệt”, mang sắc thái đô thị, phản ánh đặc trưng của đô thị đất
chật người đông, nơi tụ hội và lan tỏa của dân cư, của văn hóa, bởi vậy ở đâu
cũng tốt lên tính đa dạng rất cao, một mặt câu nệ, đa lễ nghĩa, phiền phức, cầu
kỳ, mặt khác lại có phần phóng khống, cởi mở. Nói cách khác, đời sống xã hội
Thăng Long-Hà Nội có nét khác biệt so với làng xã Bắc Bộ nói chung, song cái
sắc thái đô thị ấy không thật rõ ràng. Thăng Long-Hà Nội vẫn mang đậm tính
chất làng xã, bị níu kéo bởi làng xã, chưa đủ sức vươn lên thành một “đô thị”
theo đúng nghĩa của từ này.

19


KẾT LUẬN
1. Hương ước là một nguồn sử liệu quan trọng trong nghiên cứu về mọi

mặt của xã hội Việt Nam truyền thống, cả ở nông thôn và thành thị. Hiện nay
Việt Nam vẫn đang tiếp tục xây dựng hương ước mới, bởi xét trên nhiều ý
nghĩa, cả hiện tại và tương lai, hương ước vẫn có tác dụng hỗ trợ quản lý hành
chính giải quyết nhiều vấn đề xã hội bằng tập tục, bằng truyền thống với sự
đồng thuận của cả cộng đồng. Nghiên cứu về hương ước, bởi vậy cịn có ý
nghĩa thực tiễn, từ kinh nghiệm biên soạn và thực thi hương ước xưa mà giúp
xây dựng hương ước, qui ước mới có khả năng phát huy hiệu quả quản lý xã hội
trong tình hình hiện tại.
2. Hương ước trải qua một lịch sử nhiều thế kỷ với những giai đoạn hình
thành và phát triển hương ước cổ, hương ước cận đại và hương ước mới. Việc
làm rõ quá trình hình thành và biến đổi của hương ước trước năm 1945 là rất
quan trọng.
Hương ước cổ là “văn bản hóa tục lệ” được nhà nước thừa nhận với điều
kiện không được trái luật pháp của nhà nước, nhằm giải quyết những vấn đề mà
luật pháp chưa với tới hoặc chưa chế định đầy đủ, là công cụ hữu hiệu hỗ trợ
luật pháp, góp phần ổn định xã hội.
Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, nhận thấy hiệu quả của hương ước
trong việc giữ vững trật tự an ninh, nề nếp, ổn định nông thôn đã chủ trương sử
dụng hương ước để hỗ trợ quản lý xã hội. Ngay khi bắt đầu tiến hành cải lương
hương chính ở Nam Kỳ, chính quyền thực dân cũng bắt tay vào từng bước thử
nghiệm cải lương hương chính, can thiệp vào đời sống xã hội ở tận cấp cơ sở ở
Bắc Kỳ (khoảng năm 1906-trước tháng 8 năm 1921). Dưới tác động của những
chủ trương, chính sách của Pháp, hương ước ở một số tỉnh thời kỳ này như Bắc
Ninh, Phúc n, Hà Đơng, Thái Bình... có sự thay đổi dần cả về hình thức và
nội dung. Đây là một giai đoạn đặc biệt trong lịch sử hương ước Việt Nam (có
thể gọi là giai đoạn hương ước chuyển tiếp), khi hương ước cổ vẫn tồn tại,
nhưng những yếu tố mới của hương ước cải lương đã xuất hiện, với hàng loạt
hương ước được biên soạn theo mẫu không khác mấy với mẫu hương ước sau
12-8-1921 ở Bắc Kỳ. Tất nhiên, để nhận diện đầy đủ và sâu sắc về giai đoạn
này địi hỏi phải có sự nghiên cứu thêm trên cơ sở tư liệu dầy dặn và toàn diện,

trên phạm vi mở rộng hơn.
Kể từ khi cải lương hương chính được chính thức triển khai ở Bắc Kỳ,
hương ước bước vào một giai đoạn mới: hương ước cải lương. Ở đây, hương
ước được đưa vào một mẫu chung, được biên soạn đồng loạt, trở thành những
văn bản “luật pháp hóa tục lệ”.
20


Như vậy, một đặc điểm lớn của hương ước Việt Nam là có sự thay đổi
liên tục. Điều này khơng chỉ thể hiện thơng qua q trình tự sửa đổi, điều chỉnh
của các cộng đồng với những bản hương ước tục biên ở cả hai giai đoạn hương
ước cổ lẫn hương ước cải lương, mà ngay ở bước chuyển tiếp từ hương ước cổ
sang hương ước cải lương vốn xưa nay vẫn thường được nhìn nhận như hai giai
đoạn tách biệt. Hơn nữa, cũng đến lúc phải nhìn nhận lại cách thức tiến hành cải
lương hương chính ở Bắc Kỳ, cũng như đánh giá một cách đầy đủ hơn về cải
lương hương chính ở Bắc Kỳ hồi đầu thế kỷ XX, nhất là trước năm 1921 - một
giai đoạn mới bắt đầu được quan tâm nhiều ở những năm gần đây nhưng vẫn
gặp nhiều khó khăn bởi thiếu vắng nguồn tài liệu.
Hương ước Thăng Long-Hà Nội cũng mang nét chung của lịch sử hương
ước Việt Nam, song cũng có nét khác biệt, mang tính đặc thù của địa phương
này. Ở Thăng Long - Hà Nội, đặc điểm dân cư thiếu sự gắn kết theo kiểu làng
xã, ban đầu không thúc đẩy, thậm chí là cản trở sự xuất hiện của hương ước.
Nhưng rồi, những cư dân “tứ chiếng”, vì nhiều lý do mà “tụ hội” về đây lại phải
xích lại với nhau trong những cộng đồng, tổ chức xã hội mang đặc trưng đơ thị
(phường, hội, thơn, trại mới...). Đó chính là lực đẩy nâng đỡ sự hình thành và
phát triển của hương ước ở Thăng Long - Hà Nội. Đây là lý do dẫn đến việc
hương ước Thăng Long - Hà Nội xuất hiện muộn, với mật độ thưa, khơng đồng
nhịp với q trình phát triển của hương ước làng xã Việt Nam nói chung cũng
như quy định tính trội của loại hình khốn ước trong thời kỳ đầu của hương ước
Thăng Long - Hà Nội. Như vậy, vẫn là ba yếu tố điều kiện hình thành hương

ước xưa nay đã được chỉ ra, nhưng yếu tố nội tại, nói cách khác là nhu cầu tự
thân của các cộng đồng đô thị lại mang đặc điểm khác biệt so với các cộng
đồng ở khu vực nông thôn, và điều này cho thấy đặc điểm dân cư có ý nghĩa
quyết định tới việc hình thành nên hương ước riêng của Thăng Long - Hà Nội
trong so sánh với hương ước nông thôn.
Đầu thế kỷ XX, dưới thời thuộc Pháp, một phần đất Thăng Long - Hà Nội
trở thành khu nhượng địa của người Pháp, trong khi phần khác được sáp nhập
vào tỉnh Hà Đông, một tỉnh trọng yếu nằm ở cửa ngõ của trung tâm hành chính
- chính trị - văn hóa của chính quyền thực dân. Đây là một trong những địa bàn
thực dân Pháp chọn để tiến hành thí điểm cải lương hương chính nên có giai
đoạn hương ước chuyển tiếp, dù diễn ra chậm hơn, nhưng lại bước chắc chắn
đến cái kết thành công của thử nghiệm.
Trong dòng chung của hương ước Việt Nam, hương ước mỗi vùng vừa
góp phần làm rõ nét chung lại vừa mang đặc trưng “dòng riêng” của lịch sử
21


hương ước Việt Nam. Hương ước Thăng Long-Hà Nội là thế, mà hương ước
của các vùng khác cũng vậy.
3. Mục đích của hương ước, dù ở giai đoạn nào, cũng đều nhằm góp phần
quản lý xã hội ở cấp cơ sở. Được biên soạn dựa trên tục lệ, hương ước luôn là
kết quả gặp gỡ giữa một bên là nhu cầu tự quản của cộng đồng và bên kia là can
thiệp của nhà nước. Tuy nhiên, mỗi thời kỳ hương ước lại mang những đặc
điểm riêng về hình thức và nội dung.
Hương ước cổ là tục lệ địa phương được văn bản hóa trên cơ sở nhu cầu
tự quản của cộng đồng, có sự xác nhận của nhà nước. Ở đây khơng phải cộng
đồng nào cũng có hương ước, nội dung và hình thức của hương ước mang tính
đa dạng cao, phản ánh đặc trưng riêng của địa phương, và yếu tố can thiệp của
Nhà nước vào nội dung hương ước khơng rõ ràng. Bởi vậy, nhà nghiên cứu có
khả năng khai thác được những thông tin chi tiết, mang tính riêng biệt của từng

cộng đồng chủ thể hương ước. Tuy vậy, về cơ bản thông tin phản ánh của
hương ước giai đoạn này đều tập trung ở các khía cạnh tế tự và xã hội, mang
nặng tính tơn ti trật tự, chịu ảnh hưởng của giáo lý Nho giáo.
Trong khi đó, xuất phát từ nhu cầu đảm bảo sự ổn định xã hội để khai
thác thuộc địa, chính quyền thực dân đã cho biên soạn hương ước cải lương (từ
12-8-1921 trở đi). Để phục vụ nhu cầu quản lý nhà nước cần phải đưa hương
ước vào một khuôn mẫu chung, với những điều khoản quy định bao trùm mọi
khía cạnh của đời sống xã hội, trong đó đan cài những quy định, chính sách của
nhà nước về thiết chế chính trị cấp cơ sở, về ngân sách làng xã. Khuôn mẫu phổ
biến này một mặt gạt bỏ những sự khác biệt mang tính tục lệ, mặt khác lại đưa
vào nhiều mục khiên cưỡng, khiến cho nhiều cộng đồng chỉ kê khai mang tính
đối phó, đưa đến những văn bản hương ước nhạt nhịa, khơ cứng, thậm chí là
những “văn bản chết”.
Giai đoạn 1906 đến đầu năm 1921 là một giai đoạn chuyển tiếp, có những
thay đổi, đi từ chỗ đa dạng, sinh động, riêng biệt tới chỗ hình thành một khn
mẫu riêng. Vì là giai đoạn q độ, nên mối quan hệ giữa nhu cầu tự thân của
chủ thể hương ước và nhu cầu quản lý của nhà nước cũng có sự chuyển biến
theo hướng vai trị can thiệp của nhà nước ngày càng mạnh mẽ.
Với việc Nhà nước ngày càng can thiệp sâu vào việc biên soạn, hương
ước chuyển từ chỗ phản ánh nhu cầu nội tại của từng cộng đồng, và đến lượt nó
lại phản ánh đặc trưng kinh tế, văn hóa, xã hội của chính cộng đồng ấy sang chỗ
giảm bớt tính đặc trưng, đặc thù của từng cộng đồng chủ thể hương ước. Ở góc
độ khác, một số nội dung bắt buộc được đưa vào như ruộng đất,... lại là nguồn
22


thông tin mới, phục vụ nhận thức của nhà nghiên cứu. Đặc điểm hình thức và
nội dung của hương ước chuyển từ chỗ phản ánh nhu cầu của từng cộng đồng
sang nhu cầu của nhà nước, phản ánh những thứ nhà nước thuộc địa quan tâm.
Khi nghiên cứu về một cộng đồng, có thể những thơng tin về bản thân cộng

đồng đó sẽ nhạt hơn ở các hương ước cải lương, song với tư cách một nguồn sử
liệu, hương ước cải lương có giá trị riêng. Những yếu tố được “cấy” vào theo ý
muốn từ bên ngoài/bên trên lại làm dầy thêm các nội dung phản ánh của hương
ước, phản ánh nhiều lĩnh vực hơn của cuộc sống cộng đồng. Đối với giai đoạn
hương ước cải lương, nhà nghiên cứu có thể trơng đợi thơng tin đa dạng hơn, ở
một phổ rộng hơn các lĩnh vực phản ánh so với hương ước trước đó.
4. Với Thăng Long-Hà Nội, nguồn sử liệu hương ước có nhiều giá trị
nghiên cứu.
4.1. Hương ước là một trong các nguồn sử liệu quan trọng trong nghiên
cứu về Thăng Long-Hà Nội. Dù có mật độ, tỷ lệ, khung thời gian khiêm tốn so
với các loại hình sử liệu văn bản khác như địa bạ, văn bia..., nhưng với đặc
điểm phản ánh phong tục tập quán riêng của từng cộng đồng, thì đây là nguồn
bổ sung, thậm chí có trường hợp là duy nhất, thơng tin mà những nguồn khác
khơng có được.
4.2. Hương ước giúp nhận diện rõ hơn về đặc điểm của Thăng Long-Hà
Nội, rộng ra là của đơ thị Việt Nam truyền thống. Đó là nơi có sự đan xen về
mặt lãnh thổ, có sự tác động qua lại giữa nông thôn và thành thị, trong đó xu
hướng nơng thơn hóa mạnh hơn đơ thị hóa. Ngay cả khi bước vào q trình “đơ
thị hóa” thời kỳ cận đại, trên phương diện thiết chế quản lý, phong tục tập quán,
vẫn có “độ trễ”, có sự níu kéo của làng xã. Bản thân sự hiện diện của hương
ước ở Thăng Long-Hà Nội cho thấy, về mặt quản lý xã hội, khơng hình thành
nên những văn bản quản lý kiểu tự trị của đô thị mà vẫn phải mang vỏ làng xã,
vay mượn, mô phỏng thiết chế quản lý xã hội nông thôn. Tuy nhiên, ở giữa đô
thị và vốn là đô thị, nhiều yếu tố của đô thị được mang vào hương ước dẫn tới
việc một số khía cạnh của đời sống xã hội Thăng Long-Hà Nội trên các phương
diện thiết chế chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa tín ngưỡng được phản ánh qua
hương ước ít nhiều có sự khác biệt với làng xã Bắc Bộ nói chung. Mặc dù vậy,
tương đồng là chủ yếu, khác biệt chưa nhiều, chưa đủ để làm nên một sắc thái
đơ thị thật rõ ràng. Nói cách khác, hệ thống văn bản hương ước cũng như đặc
điểm hình thức và nội dung của chúng là minh chứng cho tính chất “đơ thị yếu”

hay tính chất “đơ thị khơng triệt để” của Thăng Long - Hà Nội, và mở rộng ra là
của đô thị Việt Nam thời cận đại. Khơng những thế, thơng qua hương ước cịn
23


thấy một q trình “nơng thơn hóa đơ thị”, một bước thụt lùi so với tiến trình
phát triển đơ thị trên thế giới mà Hà Nội-Thăng Long trước năm 1945 là một thí
dụ điển hình.
5. Từ nghiên cứu trường hợp hương ước Thăng Long-Hà Nội, luận án có
một số khuyến nghị trong việc khai thác, sử dụng hương ước trong nghiên cứu
lịch sử:
Việc sử dụng hương ước như là một nguồn sử liệu cho đến nay đã quá
quen thuộc, nhưng còn nhiều hạn chế. Việc khai thác hương ước trong nghiên
cứu, dù đã được thực hiện từ lâu, song tiềm năng của nguồn mới chỉ được khai
thác một phần. Trữ lượng hương ước Việt Nam là rất lớn, song đứng trước nó
nhà nghiên cứu vẫn cịn nhiều e ngại. Hương ước cổ được ưa chuộng bởi tính cá
biệt của mỗi văn bản, song vì phần lớn viết bằng chữ Hán Nôm nên số người sử
dụng hạn chế. Gần đây, nhiều cơng trình sưu tầm, tuyển dịch hương ước được
cơng bố đã giúp nhà nghiên cứu tiếp cận rộng rãi hơn với hương ước, song cần
phải đẩy mạnh hơn nữa hoạt động này nhằm đáp ứng nhu cầu nghiên cứu. Các
công trình này cần tơn trọng tính ngun bản, trọn vẹn trong ngun tác, cũng
như địi hỏi những chú thích, chỉ dẫn cụ thể về mặt văn bản học để người
nghiên cứu không chỉ nắm được nội dung của hương ước, mà cịn có thể “đọc”
được q trình biên soạn, sao chép hương ước, xa hơn là về điều kiện kinh tế,
văn hóa, xã hội, chính trị của chính cộng đồng chủ thể hương ước, mở rộng ra
là của thời đại lịch sử đã sản sinh ra nguồn tài liệu đó.
Mặc dù khối lượng hương ước chữ Hán Nôm thời cận đại khơng phải là
ít, nhưng tâm lý e dè hoặc xem nhẹ những bản hương ước cải lương “nghèo
nàn”, “xơ cứng”, thậm chí như là “văn bản chết” mới là nguyên nhân lớn nhất
khiến hương ước giai đoạn này chưa được sử dụng nhiều và hiệu quả. Các nhà

nghiên cứu cần có thái độ sử dụng hương ước một cách tích cực và rộng rãi
hơn nữa.
Cho đến nay, xu hướng phổ biến vẫn là nghiên cứu sử dụng hương ước
đơn lẻ để góp phần tìm hiểu đời sống xã hội làng xã cụ thể. Việc nghiên cứu
một tập hợp hương ước của một vùng đã được tiến hành, nhưng mới chỉ triển
khai ở một số địa phương. Trong khi việc nghiên cứu ngay một lúc tất cả khối
hương ước Việt Nam là không thể, cần tiếp tục nghiên cứu tập hợp hương ước
ở các vùng, trong đó vừa đi vào tính chung của hương ước Việt Nam, vừa lưu ý
đặc tính “vùng” của tập hợp đó.
Đối với việc trích xuất thông tin từ hương ước, kết hợp với các nguồn
khác để tìm hiểu về đời sống xã hội của một làng cụ thể - xu hướng phổ biến trong sử dụng hương ước, nhà nghiên cứu cần chú trọng đến tính trọn vẹn, tổng
24


thể của hương ước, lưu ý đến đặc điểm hình thức, nội dung của loại hương ước,
đối sánh với các nguồn khác để giám định độ tin cậy của thông tin từ sử liệu.
Hơn nữa, cần phải phân biệt rạch ròi giữa các quy ước “trên giấy” với việc thực
thi hương ước cũng như hiệu quả của hương ước trong thực tiễn quản lý xã hội.
Cho đến nay, đánh giá việc tuân thủ quy ước thành văn của các cộng đồng hầu
như là việc rất khó khăn bởi thiếu vắng nguồn tư liệu. Hiện nay, nhiều nghiên
cứu đồng nhất quy định trong hương ước với thực tế lịch sử. Trong khi chưa có
thêm tư liệu giúp đo đếm một cách cụ thể tác động của các quy ước trong thực
tiễn, việc so sánh với các nguồn khác là điều bắt buộc đối với các nghiên cứu.
5.2. Đối với việc xây dựng và thực thi hương ước, quy ước hiện nay:
Xây dựng và thực thi hương ước, qui ước ở Việt Nam hiện nay là một chủ
trương đúng đắn, bởi vì đây là phương thức quản lý xã hội hiệu quả, có truyền
thống lâu đời và trên nhiều khía cạnh vẫn phù hợp với xã hội Việt Nam hiện tại
và tương lai.
Vấn đề đặt ra là phải xây dựng hương ước mới như thế nào để chúng có
sức sống và hiệu quả thực tế. Quan niệm của các nhà quản lý hiện nay về vấn

đề này vẫn chưa đạt được sự thống nhất. Có người xem hương ước xưa (từ năm
1945 trở về trước) là tinh hoa, thậm chí muốn khơi phục nguyên xi văn bản của
đời trước. Có người lại đem pháp luật của nhà nước biến thành những điều
khoản quy định trong hương ước. Cả hai cách làm đó đều cực đoan và thực tế
việc xây dựng và thực thi hương ước, qui ước hiện vẫn đang gặp lúng túng.
Hương ước đã tồn tại lâu dài, và việc quản lý xã hội bằng hương ước đã
đạt được những hiệu quả quan trọng trong thực tiễn. Việc biên soạn, xây dựng
và triển khai hương ước, quy ước hiện nay phải trên cơ sở kế thừa và phát huy
những nét tích cực, hạn chế tính tiêu cực của hương ước xưa, đồng thời phải
phù hợp với điều kiện của cuộc sống hiện đại. Không khai thác được triệt để
các giá trị truyền thống thì hương ước mới sẽ khó thực hiện. Không loại bỏ
những tiêu cực trong hương ước cũ, không phải ánh được đời sống hiện đại thì
hương ước cũng sẽ trở nên vô nghĩa.
Việc xây dựng và thực thi quy ước, hương ước hiện nay mặc dù xuất phát
từ các cộng đồng, nhưng cũng là chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà
nước, xuất phát từ nhu cầu quản lý xã hội. Từ việc nghiên cứu hương ước
Thăng Long - Hà Nội cho thấy, khi điều chỉnh được mối quan hệ giữa hai yếu
tố nhu cầu tự trị/nội sinh/từ bên dưới với nhu cầu quản lý của nhà nước/bên
ngoài/từ bên trên một cách hợp lý, Nhà nước sẽ phát huy được hiệu quả trong
việc sử dụng hương ước quản lý các cộng đồng cơ sở, đồng thời các cộng đồng
25


×